BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HUYỀN TRÂN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh, 2010
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực học hỏi, nghiên cứu của bản thân, còn nhờ có sự
chỉ bảo, giúp đỡ, động viên tận tình của quý thầy cô, gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến PGS-TS Dư Ngọc Ngân, người
đã tận tâm hướng dẫn khoa học, giúp tôi giải quyết các vấn đề trong đề tài, định hướng, gợi mở,
truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm
TPHCM đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TPHCM; Thư viện Khoa
học Tổng hợp; Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM đã tạo điều kiện để
tôi hoàn thành và bảo vệ luận văn này.
Xin cảm ơn Ban Giám hiệu, tổ Ngữ văn trường THPT Điểu Cải, huyện Định Quán, tỉnh Đồng
Nai đã tạo mọi thuận lợi trong công tác.
Sau cùng xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
BẢNG TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Chủ thể:
S1
Đại học Quốc gia: ĐHQG
Động từ biểu thị nội dung mệnh đề: Vp
Động từ ngôn hành: Vnh
Hành động A: A
Hành động tại lời gián tiếp: HĐTLGT
Hành động tại lời trực tiếp HĐTLTT
Hành động tại lời: HĐTL
Nội dung mệnh đề: p
Người đáp lời SP2
Người nghe: H
Người nói: S
Đối thể: S2
Người trao lời: SP1
Nhà xuất bàn : NXB
Noun phrases (cụm danh từ): NP
Sự vật, hiện tượng hoặc sự kiện: X
Tiền giả định: TGĐ
Từ chối gián tiếp: TCGT
Từ chối trực tiếp: TCTT
Verb phrases (cụm động từ): VP
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ca dao Việt Nam được xem là tấm gương phản ánh trung thực hình ảnh thiên nhiên, đất
nước, con người Việt Nam. Đó là kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Lời ca dao cũng chính là tình cảm chân thành,
sâu sắc của người bình dân xưa đối với quê hương đất nước, với ông bà cha mẹ, với bạn bè, người
yêu… Cũng chính nhờ vào cách thể hiện tình cảm ý nhị tinh tế và sâu sắc mà ca dao có một sức hấp
dẫn lạ lùng đối với người đọc qua nhiều thế hệ. Đặc sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu với lối hát
đối đáp giao duyên thể hiện tình yêu đôi lứa trong lao động, trong hội hè đình đám của các chàng
trai, cô gái. Nội dung của các câu ca dao này phản ánh mọi biểu hiện sắc thái cung bậc tình yêu. Đó
là những tình cảm thắm thiết, những niềm mơ ước, những nỗi nhớ nhung da diết trong hoàn cảnh
may mắn, hạnh phúc hay những cảm xúc, lời than thở, oán trách nảy sinh trước những tình huống
rủi ro, ngang trái đau khổ. Do đó, nghiên cứu ca dao cũng là hành trình tìm hiểu tâm hồn, văn hoá
dân tộc.
Ngôn ngữ là công cụ không thể thiếu trong quá trình giao tiếp của loài người. Con người sử
dụng ngôn ngữ để thể hiện nhận thức về sự vật, hiện tượng và trao đổi tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, vì thế bản sắc dân tộc luôn được thể hiện qua ngôn ngữ. Ca dao, thông qua những tín hiệu
ngôn ngữ, đã thể hiện phong phú và linh hoạt những hình tượng thẩm mỹ văn học, phản ánh mọi
mặt của cuộc sống sinh hoạt, những suy tư và diễn biến tình cảm của con người. Ca dao đối đáp
giao duyên được sản sinh ra từ trong môi trường diễn xướng. Qua những buổi lao động sinh hoạt
văn hóa cộng đồng trên đồng ruộng, bãi lúa, ven sông, những buổi hội làng, các chàng trai cô gái đã
sử dụng các tín hiệu ngôn ngữ thực hiện các cuộc đối thoại bằng những câu thơ, điệu hát như:
Chàng trai bày tỏ tình cảm bằng câu hỏi lịch thiệp, tế nhị:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng?
Cô gái chấp nhận tình cảm của chàng trai bằng lời đáp mang hình thức hỏi:
Đan sàng thiếp cũng xin vân,
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
Hoặc, cô gái từ chối tình cảm và trách chàng trai đã quá vội vàng:
Chàng hỏi thì thiếp xin thưa,
Tre non đủ lá đan chưa được sàng.
Ngoài chợ có thiếu gì giang,
Mà chàng lại nỡ đan sàng tre non.
Nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp hiện nay đang được các nhà ngôn ngữ học
quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu ca dao từ góc độ dụng học cũng là một hướng nghiên cứu khá
mới mẻ. Hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu ca dao theo hướng này. Việc tìm hiểu ngữ dụng
của ca dao đối đáp giao duyên cũng là cách thể hiện sự trân trọng với các giá trị văn hoá cổ truyền
dân tộc, trân trọng cách tư duy, cách biểu hiện tình cảm ý nhị sâu sắc của người dân lao động, bên
cạnh đó là góp một phần đóng góp nhỏ cho khoa học chuyên ngành.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Trước đây, việc tìm hiểu ca dao nói chung và ca dao đối đáp giao duyên nói riêng chỉ tập
trung chủ yếu vào việc sưu tầm ca dao và miêu tả những hình thức sinh hoạt ca hát dân gian. Các
nhà nho biên soạn ca dao với mục đích cung cấp tài liệu cho việc nghiên cứu lịch sử thơ ca dân gian
như Vương Trịnh Duy (1903) soạn Thanh Hoá quan phong; Nguyễn Văn Mại (1914) soạn Việt
Nam phong sử; Vũ Công Thành (1925) soạn Nam âm sự loại…Các nhà trí thức Tây học, với ý thức
giữ gìn di sản văn hoá dân tộc đã quan tâm đến việc sưu tầm, miêu tả ca dao như Nguyễn Văn
Huyên (1934) với công trình có giá trị về mặt phương pháp luận là Hát đối của nam nữ thanh niên
Việt Nam; Nguyễn Văn Ngọc (1928) với Tục ngữ phong dao có giá trị cao về mặt sưu tầm tuyển
chọn; Nguyễn Can Mộng (1936) với Ngạn ngữ phong dao…
Những năm gần đây, việc nghiên cứu ca dao đã có bước phát triển vượt bậc. Các nhà nghiên
cứu đã chú ý đến nhiều lĩnh vực của ca dao như thi pháp, thể thơ, kết cấu, lời, thời gian không gian
nghệ thuật, hình ảnh biểu tượng, đặc điểm ngôn ngữ…, đặc biệt là các biện pháp tu từ ẩn dụ, so
sánh với những hình tượng mang tính biểu trưng như cái cầu, con cò, con bống, hoa mai, hoa
nhài… Nhiều công trình có giá trị ra đời như Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan; Kho tàng
ca dao người Việt của Vũ Xuân Kính, Phan Đang Nhật (chủ biên); Thi pháp ca dao của Nguyễn
Xuân Kính; Bình giảng ca dao của Hoàng Tiến Tựu; Tục ngữ ca dao Việt Nam của Mã Giang Lân;
Những thế giới nghệ thuật ca dao của Phạm Thu Yến…
Nhìn chung, công trình nghiên cứu ca dao có khá nhiều. Tuy nhiên, phần lớn chỉ nghiên cứu
ca dao ở góc độ văn học còn về góc độ ngôn ngữ học thì còn rất hạn chế. Tuy các công trình nghiên
cứu ca dao nhìn từ góc độ văn học ít nhiều có đề cập đến đặc điểm ngôn ngữ ca dao nhưng chỉ mang
tính khái quát, không đi sâu vào nghiên cứu chuyên biệt.
Tìm hiểu ca dao dưới góc độ ngôn ngữ học, luận văn chỉ tìm thấy có một số bài viết và công
trình nghiên cứu sau:
Bài “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam” của Mai Ngọc Chừ, đăng trên tạp chí Văn học số 2,1991.
Bài viết đã có cái nhìn khái quát về ngôn ngữ ca dao. Tác giả cho rằng “Ngôn ngữ ca dao đã kết tụ
những đặc điểm nghệ thuật tuyệt vời nhất của tiếng Việt: nó có cả những đặc điểm tinh tuý của
ngôn ngữ văn học đồng thời nó còn là sự vận dụng linh hoạt, tài tình có hiệu quả của ngôn ngữ
chung, ngôn ngữ hội thoại vào một loại ngôn ngữ truyền miệng. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ
nói, ngôn ngữ hội thoại với ngôn ngữ văn học tạo nên những đặc điểm riêng biệt độc đáo của ca
dao.”. Cách thức mà ca dao dân ca sử dụng để tạo nên vẻ riêng biệt, độc đáo là sử dụng các biện
pháp tu từ.
Bài “Ngôn ngữ của người Nam Bộ trong ca dao-dân ca”, tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số
6,1999 của Nguyễn Thế Truyền và “Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao dân ca Nam Bộ”, tạp chí
Ngôn ngữ số 1,1984 của Bùi Mạnh Nhị đã cho người đọc cái nhìn tổng quan về ngôn ngữ ca dao-
dân ca Nam Bộ. Đây có thể xem là những thành tựu ban đầu về nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ địa
phương qua ngôn ngữ ca dao.
Trong công trình nghiên cứu Thi pháp ca dao (1993), Nguyễn Xuân Kính dành một phần
nghiên cứu sâu về các từ chỉ tên đất, tên người và cách dùng số từ trong ca dao. Tác giả chỉ ra xu
hướng dân gian và xu hướng thuần Việt trong cách sử dụng lớp từ đó.
Trong bài viết “Bài ca dao Tát nước đầu đình từ góc nhìn ngữ dụng học” đăng trên tạp chí
Ngôn ngữ và đời sống, số 7,2004, Đỗ Thị Kim Liên đã vận dụng lí thuyết hành động ngôn ngữ và lí
thuyết chiếu vật và chỉ xuất để xác định các hành động nói và vai giao tiếp, thời gian và không gian
trong một bài ca dao từ góc độ tiếp cận văn bản.
Lê Đức Luận (2005), trong luận án tiến sĩ ngữ văn với đề tài: Cấu trúc ca dao trữ tình người
Việt, đã vận dụng lí thuyết cấu trúc hệ thống ngôn ngữ, chỉ ra đặc trưng cơ bản về cấu trúc hình thức
và nội dung của hệ thống các cấp độ ngôn ngữ ca dao người Việt.
Hoàng Kim Ngọc (2009) với công trình nghiên cứu So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình -
dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học, đã tiếp cận ca dao từ góc nhìn của lí thuyết giao tiếp bằng
ngôn ngữ và phân tích diễn ngôn; xem lối đối đáp giao duyên là một hình thái đặc biệt của giao tiếp
bằng ngôn ngữ, từ đó vận dụng các lí thuyết về so sánh và ẩn dụ của ngôn ngữ học để nghiên cứu ẩn
dụ và so sánh trong ca dao.
Liên quan đến đề tài còn có một số công trình nghiên cứu về lí thuyết ngữ dụng học và ứng
dụng lí thuyết ngữ dụng học vào phân tích hội thoại tiếng Việt:
Trước hết phải kể đến các công trình về ngữ dụng học: “How to do things with words” của
John Austin (1962) với lí thuyết hành động ngôn ngữ đã đi sâu vào nghiên cứu mặt ngữ dụng của
ngôn ngữ một cách có hệ thống. Phát triển lí thuyết hành động nói của Austin, Searle (1969) với
Speech acts, xem hành động nói là đơn vị cơ bản của giao tiếp và tập trung xem xét đến ý nghĩa của
phát ngôn như là các hành động chứa nội dung giao tiếp. Paul Grice (1975), trong Logic and
Conversation, đã đề ra nguyên tắc cộng tác hội thoại và tìm hiểu nghĩa ngôn ngữ trong hội thoại,
đặc biệt là nghĩa hàm ẩn. George Yule (1997), Dụng học- Một số dẫn luận nghiên cứu đã xem ngữ
dụng học tập trung vào nghiên cứu ý nghĩa thuộc về người nói, ý nghĩa của ngữ cảnh, những cách
giúp thông báo được nhiều hơn những gì nói ra bằng lời, thể hiện khoảng cách tương đối.
Ở Việt Nam, ngữ dụng học và dụng học Việt ngữ được quan tâm nghiên cứu từ những năm
80 của thế kỉ XX: Hoàng Phê với công trình Logic ngôn ngữ học (1989), đã tiến hành nghiên cứu
nghĩa ngôn ngữ trên bình diện ngữ dụng, cụ thể là nghĩa của từ và nghĩa của lời trong quá trình giao
tiếp. Tiếp theo là Cao Xuân Hạo với Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991), đã nghiên cứu
về cấu trúc câu trong văn bản và phân loại câu theo lực ngôn trung và nghĩa biểu hiện. Với các công
trình Đại cương ngôn ngữ học- Ngữ dụng học (1993) của Đỗ Hữu Châu và Ngữ dụng học (2001)
của Nguyễn Đức Dân, Dụng học Việt ngữ (2000) của Nguyễn Thiện Giáp, lần đầu tiên các vấn đề
cơ bản của ngữ dụng học như: chiếu vật, chỉ xuất, lí thuyết hành động ngôn ngữ, lí thuyết lập luận,
lí thuyết hội thoại, nghĩa tường minh, hàm ẩn được trình bày một cách có hệ thống trên ngữ liệu
tiếng Việt. Từ đó đến nay, có rất nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học đã vận dụng các lí thuyết ngữ
dụng học vào tìm hiểu nhiều khía cạnh của tiếng Việt, đã có những thành công như: Hoàng Tuệ
(1991), với bài viết “Hiển ngôn và hàm ngôn”, Lê Đông, Phạm Hùng Việt (1995), với bài viết
“Nhấn mạnh như một hiện tượng ngữ dụng và đặc trưng ngữ nghĩa ngữ dụng của một số trợ từ nhấn
mạnh trong tiếng Việt”; Chu Thị Thanh Tâm (1995), với bài “Sự cộng tác hội thoại để hình thành đề
tài diễn ngôn và các hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn”, Nguyễn Văn Hiệp (2007), với công trình
Cơ sở phân tích ngữ nghĩa cú pháp …
Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên
tiếng Việt một cách chuyên biệt. Vì vậy, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu vấn đề này. Trong luận văn
của chúng tôi, những công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là những cơ sở lí thuyết, lí luận quan trọng.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Luận văn tìm hiểu đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên với mong muốn có cái
nhìn đầy đủ hơn về ngữ nghĩa của lời ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt trong hoạt động giao
tiếp; vị trí, chức năng của ca dao trong đời sống văn hoá cộng đồng. Bên cạnh đó, luận văn còn có
thể làm rõ thêm về đặc trưng văn hoá Việt Nam biểu hiện qua lời ca dao. Trong quá trình đối đáp,
lời trao đáp không chỉ nhằm trao đổi thông tin mà còn tạo lập các mối quan hệ tình cảm giữa người
và người, nên luận văn cũng góp phần làm rõ một số khía cạnh của đời sống tâm hồn của người
Việt.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Khảo sát vấn đề ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên, luận văn tập trung vào những vấn
đề sau:
Theo quan niệm dụng học thì ngữ nghĩa của phát ngôn là một thể hợp nhất giữa hiệu lực tại
lời và nội dung mệnh đề. Quan niệm truyền thống chỉ quan tâm đến nội dung mệnh đề (nội dung sự
tình). Nghiên cứu ca dao theo hướng ngữ dụng, luận văn sẽ tìm hiểu sâu các hành động ngôn từ dựa
trên sự thống nhất giữa hiệu lực tại lời và nội dung mệnh đề có trong ca dao đối đáp giao duyên
tiếng Việt.
Nghĩa của phát ngôn không chỉ được nói ra nhờ các yếu tố ngôn ngữ mà còn được thể hiện
thông qua ngữ cảnh, ngôn cảnh, các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển hội thoại…; do
đó, luận văn đi sâu vào tìm hiểu vấn đề hàm ngôn và các phương thức, phương tiện biểu hiện hàm
ngôn thuộc bình diện dụng học của ca dao đối đáp.
Các ngữ liệu khảo sát là những lời ca dao đối đáp giao duyên nam, nữ người Việt ( lời của cô
gái/chàng trai nói với một hoặc vài chàng trai/cô gái nào đó, lời của đôi bạn đang nói với nhau)
được rút ra từ các công trình sưu tầm và tuyển chọn ca dao của các nhà nghiên cứu văn học dân gian
như: Vũ Ngọc Phan, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, Vương Trung Hiếu.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
5.1 Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung, luận
văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích ngữ dụng học: chúng tôi tiến hành phân tích các đơn vị ca dao để
làm rõ hiệu lực tại lời của chúng. Để lí giải được đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của các đơn vị ca
dao, phương pháp phân tích luôn bám vào các nhân tố ngữ cảnh, văn cảnh như ngữ cảnh tình huống,
ngữ cảnh văn hóa, mục đích giao tiếp…
- Phương pháp miêu tả - phân loại và hệ thống hoá: phương pháp này dùng để xác định tập
hợp các đặc trưng khu biệt của từng hành động ngôn từ và phân chia các hành động ngôn từ thành
từng nhóm, từng tiểu loại.
- Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: phương pháp này được sử dụng để xử lí khối ngữ liệu
như: thu thập ngữ liệu, thống kê ngữ liệu, tính tần số để phân loại, xếp hạng, đánh giá.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: luân văn vận dụng những thành tựu của các ngành
khoa học khác như: văn học, văn hóa học, xã hội học, tâm lí học…để tìm hiểu những vấn đề liên
quan đến đề tài.
5.2 Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu về ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt được chọn lọc từ:
Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1994), Ca dao trữ tình Việt Nam, NXB Giáo dục.
Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao dân ca
Nam Bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Vương Trung Hiếu (2006), Ca dao Việt Nam, ca dao tình yêu, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
Vũ Ngọc Phan (2007), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học.
Viện Nghiên cứu văn hóa, Ca dao (quyển 9), NXB KHXH, 2009.
Website: www.e-cadao.com
Luận văn sẽ khảo sát 1514 câu ca dao đối đáp giao duyên lựa chọn từ nguồn trích dẫn trên và
chia thành 2 nhóm: nhóm ca dao có một lượt lời và nhóm có hai lượt lời.
6. GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN
- Về lí thuyết
Ngữ dụng học là một lĩnh vực quan trọng của ngôn ngữ học. Tìm hiểu ca dao đối đáp giao
duyên từ góc độ lí thuyết ngữ dụng học sẽ góp thêm một công trình vận dụng ngữ dụng học vào
nghiên cứu ngôn ngữ. Đề tài có thể góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về lí thuyết hành động
ngôn từ, lí thuyết hội thoại và hàm ngôn... Ngoài ra, đề tài còn chỉ ra có mối liên hệ giữa ngôn ngữ
và văn hoá, ngôn ngữ và tâm lí…
Thực hiện đề tài người viết mong muốn có sự lí giải xác đáng ngữ nghĩa của lời ca dao đối
đáp giao duyên theo hướng ngữ dụng một cách thuyết phục, góp phần làm sáng rõ giá trị to lớn của
kho tàng ca dao Việt Nam
- Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể ứng dụng vào giảng dạy văn học dân gian phần ca dao
cho học sinh phổ thông và là tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành ngữ văn.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
Trong chương một, luận văn trình bày khái niệm ca dao đối đáp giao duyên và khái quát các
vấn đề cơ bản của ngữ dụng học như: ngữ cảnh, lí thuyết hành động ngôn từ, lí thuyết hội thoại, lí
thuyết lập luận, nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn.
Chương 2: Hành động tại lời trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt
Trong chương hai, luận văn đi vào phân tích những đặc điểm cấu trúc hội thoại ngữ cảnh của
ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt và phân loại, miêu tả các nhóm hành động tại lời thường gặp
trong ca dao đối đáp giao duyên như: hành động hỏi, cầu khiến, trần thuật, biểu cảm…
Chương 3: Một số phương thức tạo hàm ngôn trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt
Trong chương ba, luận văn sẽ tìm hiểu vấn đề hàm ngôn và miêu tả một số cơ chế tạo hàm
ngôn thường gặp ở ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt.
CHƯƠNG MỘT
NHỮNG CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 Khái niệm ca dao và ca dao đối đáp giao duyên
1.1.1 Ca dao
Tên gọi “ca dao” không bắt nguồn từ truyền thống văn học dân gian, mà là do các nhà sưu
tầm và soạn sách thơ ca dân gian mượn từ sách Hán thi. Minh Hiệu cho rằng: “ở nước ta ca dao vốn
là một từ Hán Việt được dùng rất muộn- có thể muộn đến hàng ngàn năm, so với thời gian đã có
những câu ví, câu hát”. [31-7] Về điểm này, trong Văn học dân gian, Đinh Gia Khánh có chú thích
như sau: “Trong Kinh Thi, phần Nguỵ phong, bài Viên hữu đào có câu: “Tâm chi ưu hĩ, ngã ca thả
dao” (lòng ta buồn, ta ca và dao). Sách Mao truyện viết: “Khúc hợp nhạc viết ca, đồ ca viết dao”
(nghĩa là: khúc hát có nhạc đệm theo thì gọi là ca, còn hát trơn thì gọi là dao). Trong sách Cổ dao
ngạn, bài Phàm lệ lại có phân biệt thêm: ca và dao khác nhau ở chỗ dao có thể là lời của nhiều bài
ca.[40-436] Như vậy, có thể nói, từ việc mượn thuật ngữ ta đã mượn luôn cách hiểu về thuật ngữ
như: ca dao là thơ ca dân gian truyền miệng dưới hình thức những câu hát, không theo một điệu nhất định”1. Tuy nhiên, với các nhà nghiên cứu văn học dân gian, việc định nghĩa thế nào là ca dao
và phân loại các hình thức ca hát sinh hoạt dân gian là vấn đề khó khăn, phức tạp cần phải nghiên
cứu sâu mới có thể làm sáng rõ.
Để xác định khái niệm ca dao, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đều đặt ca dao trong mối
quan hệ với dân ca. Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên cho rằng: “Theo cách hiểu thông thường thì
ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy…hoặc ngược lại, là
những câu thơ có thể bè thành những làn điệu dân ca.” Từ cách hiểu đó, ông khẳng định: “Giữa ca
dao và dân ca như vậy là không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ ở chỗ, khi
nói đến ca dao người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn khi nói đến dân ca người ta
nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định.”; “…Và ca dao trở thành thuật ngữ dùng
để chỉ một thể thơ dân gian… Ca dao có thể là thơ tự sự nhưng đại bộ phận là thơ trữ tình. [40-
436,437] Vũ Ngọc Phan, trong công trình nổi tiếng Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, còn nói rõ hơn
“Theo ý kiến của tôi, ca dao của ta có những câu bốn năm chữ, sáu tám hay hai bẩy sáu tám, đều có
thể ngâm được nguyên câu, không cần tiếng đệm như người ta ngâm thơ vậy. Còn dùng bài ca dao
để hát thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca… Vậy ca dao là một loại thơ dân gian”.[66-24] Thống
nhất với những ý kiến trên, Cao Huy Đỉnh viết: “Ngày xưa phần lớn ca dao trữ tình làm ra để hát.
Rồi từ những bài hát có những câu tách ra thành ca dao. Ca dao sinh ra, còn lại, truyền đi và biến
đổi chủ yếu là thông qua sinh hoạt dân ca.”[22-39] Bên cạnh đó, các tác giả còn đặt ca dao trong
1 Hoàng Phê, Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, 2006
mối quan hệ với tục ngữ, văn vần và thơ nói chung để làm rõ sự khác nhau giữa ca dao và các thể
loại này. Chẳng hạn, Minh Hiệu viết: “Có nhiều bài ca dao mới gần đây, tuy hình thức giống ca dao
cổ truyền, nhưng đó mới chỉ là những câu văn vần chứ chưa thực sự là ca dao” hoặc “Ca dao là thơ
dân gian; thơ để ví von, đối đáp, truyền miệng, khác với thơ của dòng văn học viết.”[31-10-27] Từ
những quan niệm trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: ca dao là một loại thơ dân gian truyền miệng
dưới hình thức là những câu hát.
1.1.2 Ca dao đối đáp giao duyên
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2006) định nghĩa: giao duyên là động từ chỉ sự trao đổi
tình cảm giữa hai bên trai gái trong ngày hội truyền thống. Đây là một hình thức sinh hoạt dân gian.
Tuy nhiên, để hiểu thế nào là ca dao đối đáp giao duyên, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm ca dao trữ
tình. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng phần lớn ca dao là thơ trữ tình. Trữ tình được hiểu là biểu
hiện nội tâm, cảm xúc của tác giả trước ngoại cảnh. Nguyễn Ngọc Phan viết: “Ca dao xưa có tình và
có cảnh, cảnh tình gắn bó với nhau mật thiết, cảnh sinh tình và tác giả mượn cảnh để nói lên nội tâm
mình.”[65-38]. Ông còn cho rằng muốn hiểu biết về tình cảm của nhân dân Việt Nam tha thiết, sâu
sắc như thế nào thì phải nghiên cứu ca dao Việt Nam. Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ. Tình
cảm của người lao động Việt Nam biểu hiện trong ca dao ở nhiều mặt: tình yêu nam nữ, tình yêu gia
đình, yêu làng xóm, yêu đất nước... , nhưng những bài về tình yêu nam nữ là nhiều hơn cả.[66-32]
Và Cao Huy Đỉnh khi nghiên cứu về lối đối đáp trong ca dao trữ tình đã nhận xét: “Ngày xưa phần
lớn ca dao trữ tình làm ra là để hát”. Hát ở đây là hát đối đáp, do các kiểu hát tập thể như ghẹo, ví,
trống quân, quan họ… mà hình thành. “Đối đáp là nói chuyện bằng thơ giữa đôi trai gái, hai họ, hai
phường… Nói chuyện thực sự chứ không chỉ là “thổ lộ tâm tình” theo nghĩa rộng của thơ trữ
tình.”.[22-39] Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên cũng cho rằng: “Trong ca dao trữ tình về tình yêu
nam nữ, chúng ta thấy đa số các câu hát, các bài ca của “chàng trai” và “cô gái” được kết cấu theo
lối đối thoại giữa hai nhân vật ấy…là hình thức trao đổi tình cảm giữa nam và nữ, từ những lời ướm
hỏi nhau rồi thề nguyền gắn bó với nhau, tới những lời than thở, nhớ nhung, trách móc nhau…” [40-
485] Đồng quan điểm với các tác giả trên, Mã Giang Lân khi viết về tính trữ tình của ca dao Việt
Nam cũng nói : “Phong phú nhất, sâu sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu nam nữ. Trai gái gặp gỡ
tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong lao động, hội hè đình đám, vui xuân. Họ có thể thổ lộ
tình cảm với nhau bằng câu ví, bằng hình thức giao duyên trong những cuộc hát đối đáp nam nữ.
Nội dung của những câu ca dao này phản ánh được mọi biểu hiện sắc thái, cung bậc của tình
yêu”.[46-19] Đúc kết từ những nghiên cứu trên, chúng tôi có thể đi đến kết luận: ca dao trữ tình là
lời thơ trữ tình dân gian diễn tả đời sống tình cảm của người dân lao động. Trong ca dao trữ tình có
những bài ca dao diễn tả tình cảm nam nữ, gọi là ca dao giao duyên, và có những bài ca dao diễn tả
những tình cảm khác như bạn bè, vợ chồng, mẹ con, quê hương… Và như vậy, ca dao đối đáp giao
duyên là ca dao trữ tình, được dùng để đối đáp, để nói chuyện về tình duyên giữa nam nữ với nhau.
Biểu hiện của lối đối đáp trong ca dao giao duyên là qua lời ca dao trữ tình thường có bóng
dáng của hai nhân vật (chàng trai-cô gái) đang nói chuyện tâm tình với nhau:
+ Cô gái nói với một hay nhiều chàng trai nào đó:
Ai về cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
+ Chàng trai nói với một cô gái nào đó:
Áo anh rách lỗ bằng sàng
Mẹ anh già yếu, cậy nàng vá may.
+ Đôi nam nữ đang nói với nhau:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
Tóm lại, trong ca dao trữ tình có những bài đối đáp giao duyên và những bài diễn tả tình cảm
khác. Trong đó, những bài đối đáp giao duyên chiếm số lượng nhiều hơn cả.
1.2 Lí thuyết ngữ dụng học
1.2.1 Ngữ dụng học
Miêu tả một ngôn ngữ không thể không tính đến việc con người sử dụng nó trong đời sống
như thế nào. Tuy nhiên, để làm được điều tưởng như đơn giản này không biết bao nhiêu thế hệ các
nhà ngôn ngữ học phải tìm kiếm và trả lời cho câu hỏi về đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Nhìn lại các khuynh hướng nghiên cứu về ngôn ngữ học, từ Ngôn ngữ học đại cương của Leibniz,
Harris, Gébelin, Ngôn ngữ học lịch sử của Humbolt, Schleicher, Ngôn ngữ học cấu trúc của
Bloomfield, Hjelmslev đến Ngôn ngữ học tạo sinh của Chomsky… đều chưa tìm được câu trả lời.
Luận điểm của F.Saussure đã giúp ngôn ngữ học xác lập được đối tượng nghiên cứu của mình và
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm khai thác vận dụng. Tuy phân biệt và chỉ ra được mối quan hệ
biện chứng giữa ngôn ngữ và lời nói nhưng F. Saussure lại đi đến một khẳng định chưa thật sự
thuyết phục hoàn toàn là chỉ có ngôn ngữ mới là cái đáng quan tâm nghiên cứu và ông chủ trương
nghiên cứu ngôn ngữ “cho nó và vì nó”. Phải đến những năm 30 của thế kỉ XX, khi các lí thuyết về
kí hiệu học phát triển mạnh mẽ và ngữ dụng học ra đời thì vấn đề sử dụng ngôn ngữ mới được giải
quyết thoả đáng. Người ta đánh dấu mốc ra đời ngành ngữ dụng học là năm 1938 với công trình
“Những cơ sở lí thuyết kí hiệu” (The Foundation of Semiotics) của Charles. W.Morris. Kí hiệu học
bao gồm ba bộ phận: kết học (syntax), nghĩa học (semantics) và dụng học (pragmatics). Kết học
nghiên cứu thuộc tính hình thức của các cấu trúc kí hiệu. Nghĩa học nghiên cứu mối quan hệ giữa kí
hiệu với thế giới hiện thưc, nghĩa là giữa kí hiệu và cái được biểu đạt. Dụng học nghiên cứu mối
quan hệ giữa các kí hiệu và sự giải thích chúng, sự giải thích về ý nghĩa mà kí hiệu đã được dùng.
Có thể nói đây là khái niệm đầu tiên về ngữ dụng học. Tuy nhiên, áp dụng mô hình tam phân của
Morris vào hoạt động ngôn ngữ không còn ranh giới rõ ràng. Vì vậy, xuất hiện khuynh hướng
thống hợp ba lĩnh vực trên, nghĩa là trong kết học, nghĩa học có sự chi phối của các quy tắc ngữ
dụng và các quy tắc ngữ dụng phải dựa vào các quy tắc của kết học, nghĩa học mà biểu hiện ra, mà
phát huy tác dụng. Cũng chính vì điều này mà đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về ngữ dụng
học:
“Ngữ dụng học nghiên cứu những quan hệ ngôn ngữ và ngữ cảnh đã được ngữ pháp hoá hoặc
mã hoá trong cấu trúc của ngôn ngữ” [Levinson, 1983-9. dẫn theo 11]. Định nghĩa này cho thấy ngữ
dụng có mối quan hệ với cú pháp.
“Ngữ nghĩa học có đối tượng nghiên cứu là ngữ nghĩa của phát ngôn không thể lí giải được
bằng quan hệ trực tiếp với những điều kiện đúng-sai của câu được nói ra. Nói một cách sơ giản thì:
ngữ dụng học = ngữ nghĩa trừ đi các điều kiện đúng-sai.” [Gazda,1979-12. dẫn theo 7] Rõ ràng
dụng học có quan hệ với nghĩa học.
“Ngữ dụng học nghiên cứu việc dùng ngôn ngữ trong diễn từ và các chỉ hiệu đặc thù trong
ngôn ngữ, những cái làm nên cách thức nói năng”. [A.M.Diller – F.Récanati, 1979. dẫn theo 11]
Định nghĩa này nhấn mạnh sự quan tâm của ngữ dụng là quá trình tạo ra diễn từ và kết quả của
chúng chứ không chỉ là ngôn ngữ. Nói cách khác, một kí hiệu nói chung hay một phát ngôn nói
riêng có thể được giải thích khác nhau tuỳ theo tình huống (ngữ cảnh) của kí hiệu.
“Ngữ dụng học nghiên cứu ý nghĩa của người nói, ý nghĩa của ngữ cảnh, nghiên cứu việc
người ta có thể thông báo nhiều hơn điều được nói như thế nào, nghiên cứu những biểu hiện của
những khoảng cách tương đối.” [G.Yule, 1996. dẫn theo 7] “Ngữ dụng học nghiên cứu sự giao tiếp
bằng ngôn ngữ, nghiên cứu cách dùng ngôn ngữ thực sự trong những ngữ cảnh chuyên biệt”
[Nofsinger,1991.dẫn theo 7] “Ngữ dụng học là ngành nghiên cứu ngôn ngữ từ phía người dùng”
[Kasper,1997]…
Nhìn chung, tất cả các định nghĩa trên cho thấy ngữ dụng nghiên cứu ngữ nghĩa trong mối
quan hệ với ngữ cảnh. Do đó, quan niệm ngữ dụng học nghiên cứu cách ngôn ngữ được dùng như
thế nào và ý nghĩa của nó trong quan hệ giao tiếp trong phạm vi ngữ cảnh là phổ biến nhất.
1.2.2 Ngữ cảnh
Ngữ cảnh là một khái niệm quan trọng trong ngữ dụng học,“là một nhân tố trong việc xác
định nội dung mệnh đề cho hiện dạng của những phát ngôn thành phẩm cụ thể, trong những tình
huống phát ngôn khác nhau.” [38-277] Nói cách khác, ngữ cảnh được hiểu là bối cảnh ngôn ngữ
làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ và tạo lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để hiểu thấu đáo lời nói.
Tuy là nhân tố có mặt trong cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Chẳng hạn, khi phân tích
một phát ngôn rất cần thông tin ngữ cảnh để giải thuyết các từ chỉ xuất như bây giờ, ai, tôi, anh,
này, kia… Để giải thuyết các thành tố này ít nhất cần phải biết ai là người nói, người nghe và không
gian, thời gian tạo ra phát ngôn. Hay, nếu không có tri thức về văn hoá, phong tục của người Việt
thì không thể hiểu được câu ca dao: Anh về cuốc đất trồng cau; Để em trồng ké dây trầu một bên có
nghĩa là cô gái đang bày tỏ ý muốn kết duyên vợ chồng với chàng trai. Yếu tố ngữ cảnh giúp người
nghe giải mã chính xác hàm ý câu nói là: trong văn hoá người Việt, trầu cau là lễ vật dùng để cưới
xin. Hoặc, với câu nói Lúc nãy thằng Nam có đến đây, thông thường thì đây được xem là lời thông
báo: người nói thông báo với người nghe về sự việc một người tên Nam đã đến thăm. Nhưng, nếu
trường hợp người tên Nam là chủ nợ của người nghe đã đến đòi nợ nhiều lần mà người nghe không
có khả năng trả nợ thì đây có thể là lời cảnh báo.
Như vậy, tuỳ vào ngữ cảnh mà câu nói được hiểu theo nghĩa nào, hiệu quả tác động đến
người nghe ra sao, đồng thời ngữ cảnh sẽ quy định giải mã câu nói.
1.2.3 Các vấn đề cơ bản của ngữ dụng học
Ngữ dụng học nghiên cứu nhiều lĩnh vực của việc sử dụng ngôn ngữ trong cuộc sống. F.
Armengaud đã nêu ra những vấn đề chủ yếu mà ngữ dụng học nghiên cứu. Sau đây, luận văn sẽ
trình bày khái quát các vấn đề này.
1.2.3.1 Chiếu vật và chỉ xuất
Chiếu vật (reference) là vấn đề thứ nhất của ngữ dụng học. Chiếu vật là sự tương ứng của các
yếu tố ngôn ngữ trong diễn ngôn với sự vật, hiện tượng được nói tới trong một ngữ cảnh nhất định.
Tự bản thân mình, từ ngữ không hề chiếu vật. Chỉ có con người mới thực hiện hành vi chiếu vật.
Bằng hành vi chiếu vật người nói đưa sự vật mình định nói tới vào diễn ngôn của mình bằng các từ
ngữ, bằng câu. Chiếu vật là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ giữa ngữ cảnh với diễn ngôn. Có ba
phương thức dùng để chiếu vật là: dùng tên riêng (Hà Nội, Biên Hoà, Trà, My…); dùng miêu tả xác
định (cái lò gạch bỏ không, com mèo đen nhà ông Năm…); dùng chỉ xuất.
Chỉ xuất (deictic) là phương thức chiếu vật bằng ngôn ngữ dựa trên hành động chỉ trỏ. Tất cả
các ngôn ngữ đều có hệ thống từ chuyên chỉ xuất. Đó là các từ chỉ xuất thuộc các từ ngữ như đại từ
(này, kia, ấy, nọ, đó, đây, mày, tao, hắn…), danh ngữ (hôm nay, bây giờ, năm ngoái, lần sau…)…
Tổ hợp có từ chỉ xuất gọi là một biểu thức chỉ xuất. Ba phạm trù chỉ xuất trong ngôn ngữ là phạm
trù chỉ ngôi (nhân xưng), phạm trù chỉ xuất thời gian, phạm trù chỉ xuất không gian.
1.2.3.2 Lí thuyết hành động ngôn từ
Người xây dựng nền móng cho lí thuyết hành động ngôn từ là nhà triết học, ngôn ngữ học
người Anh J. Austin, với công trình “How to do things with words”. Nội dung chủ yếu của lí thuyết
này là: khi con người nói năng, ngôn ngữ mà họ dùng không chỉ là để thông báo hay miêu tả một cái
gì đó mà còn có thể làm cái gì đó, tức là thực hiện một hành động nào đó. Chẳng hạn, khi bác sĩ nói
với bệnh nhân Anh không được hút thuốc nữa, nghĩa là bác sĩ đang dùng ngôn từ để thực hiện một
hành động ngăn cấm. Do đó, có thể dùng lời nói để trần thuật, cầu xin, đề xuất, ra lệnh, doạ nạt,
khuyên, xin lỗi, cảm ơn, chúc mừng…
J.R.Searle, người phát triển lí thuyết hành động ngôn từ của Austin, cho rằng: Trong bản thân
lời nói đã có nghĩa, cho nên khi xét hành động ngôn từ phải xét trên hai bình diện: ý nghĩa và hành
động.
+Bình diện ý nghĩa: xét lời nói độc lập với ngữ cảnh gọi là ý nghĩa của câu. Ngoài ý nghĩa
của câu, lời nói còn có ý nghĩa khác, đó là ý nghĩa tại lời. Ông cho rằng nghĩa của câu có ảnh hưởng
đến sự hình thành nghĩa của lời. (không tách rời nghĩa miêu tả và nghĩa ngữ dụng)
+Bình diện hành động: khi thực hiện hành động ngôn từ là tuân thủ các quy tắc cấu thành của
hành động tại lời.
Theo J. Austin, hành động ngôn từ có ba loại lớn: hành động tạo lời (locutionary act), hành
động tại lời (illocutionary act) và hành động mượn lời (perlocutionary act).
a. Hành động tạo lời là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp tạo ra một phát ngôn hoặc câu miêu tả điều mà người phát ngôn nói. Mỗi hành động tạo lời sẽ
tạo ra một mệnh đề có một ý nghĩa xác định.
b. Hành động tại lời (HĐTL), còn gọi là hành động ở lời, là hành động mà người nói thực
hiện đồng thời với lời nói. Gọi là tại lời vì nó nằm ngay trong hành động tạo lời. HĐTL thực hiện
nhờ hiệu lực giao tiếp của phát ngôn. Hiệu lực ấy được gọi là hiệu lực tại lời của phát ngôn. Hiệu
lực tại lời thuộc về ngôn ngữ, nghĩa là nó gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với nó ở người
nhận. Ví dụ: khi thực hiện hành động tạo lời “Tôi xin lỗi anh” thì đồng thời với việc nói ra câu nói
ấy, người thực hiện hành động tạo lời đã thực hiện HĐTL “xin lỗi” và buộc người tiếp nhận phải có
phản ứng bằng “hành động đáp lại”. Hay khi người nói hỏi người tiếp nhận một điều gì đó thì người
tiếp nhận phải có nhiệm vụ trả lời câu hỏi dù trả lời là biết hay không. Không đáp lại sẽ bị xem là
không lịch sự. HĐTL có thể thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại. Chúng đặt người nói,
người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng trước khi thực hiện HĐTL. Khi
thực hiện hành động “hứa” thì người hứa bị ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện lời hứa còn người
nghe có quyền chờ đợi và thụ hưởng kết quả của lời hứa. Trong giao tiếp có những hành động thể
hiện ngay trong lời nói như hỏi, chào, ra lệnh, yêu cầu, cam kết, hứa… Đỗ Hữu Châu viết: “hành vi
ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay trong khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những
hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng ở người
nhận”. [7-89]
c. Hành động mượn lời là hành động “mượn” phương tiện ngôn ngữ (phát ngôn) để gây ra
một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe. Chẳng hạn, giáo viên có thể dùng một thông báo
“Năm ngoái tỉ lệ đậu tốt nghiệp ở trường ta là 50%”, để gây một tâm lí lo sợ và khích lệ sự cố gắng
ở học sinh. Tuy nhiên, có thể đối với những học sinh không quan tâm đến việc học thì hiệu quả này
không xảy ra. Như vậy, hiệu quả mượn lời rất phân tán, không thể tính toán và không có tính quy
ước.
Thực tế nghiên cứu cho thấy: hành động tạo lời thuộc về nghiên cứu của các chuyên ngành
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp học; hành động mượn lời không có quy luật nghiên cứu, nên không
chuyên biệt ở một ngành khoa học ngôn ngữ nào; HĐTL là hành động có tính quy ước mà quy tắc
vận hành chúng được mọi người trong cộng đồng tuân theo nên nó là đối tượng mà Ngữ dụng học
quan tâm nghiên cứu. Tác giả Đỗ Hữu Châu chỉ ra rằng “nắm được ngôn ngữ không chỉ có nghĩa là
nắm được âm, từ ngữ, câu v.v… của ngôn ngữ đó mà còn là nắm được các quy tắc điều khiển các
hành vi ở lời trong ngôn ngữ đó, có nghĩa là biết các quy tắc để “hỏi”, “hứa hẹn”, “yêu cầu”,
“mời”v.v… sao cho đúng lúc, đúng chỗ cho thích hợp với ngữ cảnh, với người được hỏi v.v.”.[7-
89] Do vậy, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề liên quan đến HĐTL.
d. Phân loại hành động tại lời: Trước J. Austin, nhà triết học Wittgenstein đã liệt kê hàng loạt
các hành động ngôn từ và gọi nó là các trò chơi ngôn ngữ, đã cho rằng không thể phân loại. Austin
dựa vào những động từ ngôn hành tiếng Anh như: deny, confess, order, forbid, warn, suggest,
promise, vow, apologize, thank… (từ chối, thú tội, ra lệnh, cấm, cảnh báo, đề nghị, hứa, thề, xin lỗi,
cám ơn..), thử nghiệm phân loại nhưng không thành công vì kết quả phân loại chồng chéo lên nhau.
J.R.Searle, trong quá trình nghiên cứu, đã nhận thấy rằng có mối quan hệ gần gũi giữa một số
HĐTL. Chẳng hạn, hành động “hứa” giống với hành động “thề hẹn” hơn hành động “yêu cầu”. Và
ông đã xác lập tiêu chí phân loại, phân lập các hành động ngôn ngữ thành những loại có thể tóm tắt
thành bảng sau:
Tiêu chí phân loại
Trạng thái tâm lí Đích ở lời Hướng khớp ghép
được biểu hiện giữa hiện thực -lời
Các kiểu HĐTL
Tái hiện Miêu tả X Từ hiện thực tới lời S tin X xác tín
(Representative) nói
Điều khiển H có trách nhiệm Từ lời nói tới hiện S mong muốn X
(Directive) thực hiện X thực
Cam kết S có trách nhiệm Từ lời nói tới hiện S có ý định thực
(Commissive) thực hiện X thực hiện X
Không có tiêu chí Thay đổi tuỳ theo Biểu cảm S biểu thị trạng
thích đáng X (Expressive) thái tâm lí phù
hợp X
Tuyên bố Gây ra sự thay Vừa từ lời tới thực Không có đặc
(Declaration) đổi từ X tại và ngược lại trưng khái quát
(Ghi chú: X: sự việc; S: người nói; H: người nghe)
Khi nghiên cứu HĐTL, các nhà ngôn ngữ học nhận thấy: một phát ngôn không chỉ có một đích ở lời
mà đại đa số phát ngôn đồng thời thực hiện một số hành động.
Xét các phát ngôn sau:
(1) a. Tiến bộ lắm rồi!
b. Bạn có mang bút chì không?
Phát ngôn 1.a có hình thức là một lời khen. Tuy nhiên, nếu đặt nó trong ngữ cảnh: có một cô
bé là học sinh cấp 2 mà quen bạn trai, bố mẹ cô bé biết được và nói với cô bé như thế, thì phát ngôn
trên không phải là lời khen mà là lời trách mắng. Nhưng nếu đặt trong trường hợp một đứa trẻ đang
luyện viết chữ đẹp, mang tập vừa viết cho cô giáo xem, cô giáo nói “Tiến bộ lắm rồi”, thì phát ngôn
có HĐTL là khen ngợi. Phát ngôn 1.b có hình thức hỏi, song nếu là của cô giáo hỏi học sinh khi
chuẩn bị làm bài trắc nghiệm, thì có hiệu lực hỏi trực tiếp, còn nếu cô giáo hỏi khi học sinh đang
làm bài trắc nghiệm thì có thể không phải để hỏi mà là yêu cầu học sinh dùng bút chì làm bài.
Từ thực tế này, Austin và Searle đã đi đến việc phân loại HĐTL thành hai loại: hành động tại
lời trực tiếp (HĐTLTT) và hành động tại lời gián tiếp (HĐTLGT).
- HĐTLTT là hành động tại lời được chỉ định một cách trực tiếp bằng sự biểu thị của từ ngữ
về ý nghĩa tường minh trên cơ sở một dạng thức ngữ pháp nhất định. Ví dụ: “Mời anh vào nhà”,
hành động mời được nhận diện một cách trực tiếp trên bề mặt câu chữ, hoặc ở 1.a, trường hợp cô
giáo khen học sinh “Tiến bộ lắm rồi!”.
- HĐTLGT được thực hiện khi người giao tiếp sử dụng trên bề mặt HĐTL này nhưng lại
nhằm hiệu lực tại lời của một HĐTL khác. J. Searle định nghĩa: Một HĐTL được thực hiện gián tiếp
qua một HĐTL khác sẽ được gọi là một HĐTLGT.
Ví dụ: (2)
a. Anh đồ ơi hỡi anh đồ
Có cơm ăn tấm trộn ngô thì vào?
b. Anh đã có vợ con rồi
Sao anh còn ước hoa hồi cầm tay?
HĐTLTT trong hai phát ngôn (2) đều là hành động hỏi. Ở (2a), mục đích chính của người
phát ngôn không phải là hỏi mà ngầm thực hiện hành động mời và bày tỏ tình cảm, còn ở phát ngôn
(2b) là thực hiện hành động trách cứ. Các hành động “mời”, “bày tỏ”, “trách cứ” đều được xem là
HĐTLGT. Qua ví dụ cũng cho thấy, một HĐTLTT có thể thể hiện một số HĐTLGT. Ngược lại một
HĐTLGT được thông qua các HĐTLTT khác nhau.
Muốn nhận biết được hiệu lực tại lời của HĐTLGT phải nhận biết hiệu lực tại lời của tất cả
các HĐTL. Hiệu lực tại lời được xác định thông qua biểu thức ngôn hành được đánh dấu bằng các
phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời: các kiểu kết cấu, quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc, các
nhân tố ngữ cảnh, các từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức ngôn hành. Vấn đề xác định HĐTLGT sẽ
được tiếp tục bàn luận ở chương II.
1.2.3.3 Lí thuyết hội thoại
Các nhà ngữ dụng học đặc biệt quan tâm đến vấn đề hội thoại (conversation) vì hoạt động
giao tiếp phổ biến, cơ bản nhất của con người là hội thoại. Hội thoại “là giao tiếp hai chiều, có sự
tương tác qua lại giữa người nói và người nghe và sự luân phiên lượt lời.”[25-64] Hội thoại gồm có
các dạng cơ bản như: song thoại (dialogue) là một cuộc thoại chỉ gồm có hai nhân vật đối đáp với
nhau; tam thoại (trilogue) là hội thoại có ba người và khi có nhiều người tham gia là đa thoại.
Trong phân tích hội thoại cần xác định rõ những vấn đề cơ bản sau:
a. Cuộc thoại (talk) là một lần trao đổi giữa các cá nhân trong một hoàn cảnh giao tiếp xã
hội nào đó. “Để có một cuộc thoại và chỉ có một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm
nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong một khung thời gian – không gian có thể
thay đổi nhưng không đứt quãng, nói về một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt quãng.”. [7-
298]
Ví dụ: (3) A – Sao bây giờ mới bảo tôi?
B - Thì anh có để tôi nói đâu.
A - Thạc bị giết bằng gì?
B - Bằng một con dao một lưỡi, thứ dao gấp bỏ túi như vẫn bán ở các cửa
hàng.
A – Đâm ở ngực?
B – Không, ở vai…
(Thế Lữ - Gói thuốc lá)
b. Cấu trúc hội thoại
Trong cuộc thoại, mỗi lần nói của một người là một lượt lời. Lượt lời là đơn vị cơ bản của
hội thoại. Trong một lượt lời có thể gồm một hoặc nhiều phát ngôn với chức năng và mục đích khác
nhau và có liên kết chặt chẽ với nhau. Mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước
đó. Vậy là có sự luân phiên lượt lời và nghĩa là cấu trúc của một cuộc thoại là a1b1a2b2a3b3…Cơ chế
của sự luân phiên lượt lời bị chi phối bởi những quy ước đối với việc trao lời, giành lời, nhường lời,
gối lời… Hai lượt lời có liên quan trực tiếp với nhau và đứng kề nhau làm nên một cặp thoại. Trong
một cặp thoại, lượt lời thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời thứ hai. Nói cách khác khi nói
một điều, người ta dự đoán, chờ đợi một điều khác sẽ xảy ra; khi thực hiện một hành động ngôn
ngữ, người ta chờ đợi một hành động ngôn ngữ đáp ứng. Nghĩa là có sự tác động của hiệu lực tại lời
của hành động ngôn ngữ ở lượt lời thứ nhất lên lượt lời thứ hai.
Ví dụ: (4)
Con: Hôm nay, mẹ có đi chợ không? (hỏi)
Me: Có. (đáp)
Trường hợp mà lượt trao lời của Sp1 phát ra nhưng không có lượt lời đáp lại của Sp2 thì cuộc
thoại đó khó thành. Bởi lẽ, tất cả các hành động ngôn ngữ đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có thể
thực hiện bằng lời hoặc phi lời như những tác động vật lí của nhân vật hội thoại: gật đầu, khoát tay,
đi thẳng… Sự hồi đáp bằng các hành động ngôn ngữ tương thích với hành động dẫn nhập (trao lời)
tạo thành những cặp hành động ngôn từ như: hỏi - trả lời; chào – chào; đề nghị - đáp ứng; mệnh
lệnh – tuân theo…Mối quan hệ giữa lượt lời dẫn nhập và hồi đáp trong cặp thoại là mối quan hệ
thống nhất chặt chẽ. Cặp thoại được xem là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu, cơ sở của hội thoại.
Mỗi cuộc thoại bao giờ cũng có bắt đầu và kết thúc, chúng làm nên ranh giới của cuộc thoại.
Cuộc thoại có thể chứa nhiều chủ đề. Một chủ đề lại có nhiều vấn đề. Tập hợp các lượt lời trao đổi
về một vấn đề sẽ làm thành một đoạn thoại. Do vậy, cấu trúc hội thoại bao gồm các đơn vị như cuộc
thoại, đoạn thoại, cặp thoại .
c. Nguyên tắc hội thoại
Trong hội thoại có những quy tắc nhất định, tuy không được nói ra thành lời nhưng người
tham gia hội thoại cần phải tuân thủ để quá trình giao tiếp đạt hiệu quả. Hầu hết chúng ta khi giao
tiếp đều có khả năng nhận biết khi nào, chỗ nào, quy tắc nào bị vi phạm.
C.K Orecchioni đã chia quy tắc hội thoại thành ba nhóm:
- Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời
- Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại
- Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại
Về nguyên tắc hội thoại, có hai luận điểm rất đáng quan tâm đó là nguyên tắc cộng tác hội
thoại (co-operative principle) và nguyên tắc lịch sự (principle of politeness).
Trong một cuộc hội thoại, vấn đề là làm sao để người nghe lĩnh hội được ý của người nói.
P.Grice tin rằng phải có một cơ chế chi phối việc sáng tạo và lĩnh hội những phát ngôn ấy. Đó là cái
được gọi là nguyên tắc hợp tác. Nguyên tắc này được ông phát biểu trong công trình “Logic và sự
hội thoại” (1975) như sau:
Hãy làm cho phần đóng góp của mình ở giai đoạn mà cuộc hội thoại được xem xét đúng như
mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi và mình đã chấp nhận tham gia. [dẫn theo 11 -
130]
Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành bốn phương châm cơ bản
- Phương châm về chất (the maxim of quality)
+ Đừng nói những điều mà mình tin là sai.
+ Đừng nói những điều mà mình không có bằng chứng chính xác.
- Phương châm về lượng (the maxim of quantity)
+ Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như nó được đòi hỏi cho mục đích
của cuộc thoại.
+ Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà cuộc thoại đòi hỏi.
- Phương châm quan hệ (the maxim of relevance)
Hãy đóng góp những điều có liên quan, nghĩa là hãy nói vào đề.
- Phương châm cách thức (the maxim of manner)
Hãy nói cho rõ ràng, đặc biệt là:
+ Tránh tối nghĩa
+ Tránh mơ hồ
+ Nói ngắn gọn
+ Có trật tự, mạch lạc
Những phương châm này, tuy không nói ra lời nhưng được mọi người thừa nhận trong quá
trình giao tiếp. Việc tuân thủ các phương châm hội thoại chính là thể hiện tinh thần cộng tác hội
thoại. Cuộc thoại nào cũng đòi hỏi phải có sự cộng tác cho dù đó là cuộc cãi lộn, gây sự, chửi bới
nhau. Song trong thực tế, người ta luôn có sự vi phạm các phương châm vừa nêu. Người ta có thể
không tuân thủ các phương châm do thiếu văn hoá giao tiếp; do giữ phép lịch sự; do cố ý để người
nghe hiểu theo hàm ý nào đó…
Lịch sự là một nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến các phát ngôn trong quá trình giao tiếp và
hiệu quả giao tiếp. Do vậy, nhiều nhà ngôn ngữ học đã xem lịch sự là một nguyên tắc hội thoại quan
trọng.
Lịch sự, theo quan niệm của các nhà văn hoá, là môt chuẩn mực xã hội, tức là, hành vi xã hội
có lễ độ hay phép xã giao trong phạm vi văn hoá. Trong giao tiếp, con người phải nói năng sao cho
phù hợp với vị thế xã hội, hoàn cảnh giao tiếp. Các nhà nghiên cứu ngữ dụng học nhìn nhận lịch sự
dưới góc độ của sự cộng tác hội thoại, như một phương châm hội thoại, một hành động giữ gìn thể
diện trong hội thoại. Hiện nay, nói đến nguyên tắc lịch sự là nói tới khái niệm “thể diện” và “giữ thể
diện” trong hội thoại. Khái niệm này được Brown và Levinson định nghĩa là: hình ảnh bản thân
trước công chúng của một cá nhân mà mỗi cá nhân muốn mình có được. (“Face” the public self-
image that every number wants to claim for himself). Theo G.Yule: “Bên trong một cuộc tương tác,
lịch sự được định nghĩa như là phương diện dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện của
người khác.” [101-119] Còn Nguyễn Thiện Giáp viết: “Thể diện là hình ảnh bản thân trước công
chúng của một cá nhân, nó liên quan đến ý thức xã hội và tình cảm mà mỗi cá nhân có và mong
muốn người khác tri nhận.” [25-104] Theo nghĩa này, lịch sự được hiểu là người nói phải có giải
pháp sử dụng ngôn từ để bảo toàn được thể diện của những người tham gia giao tiếp.
Thể diện (face) được Brown và Levinson phân biệt thành hai phương diện: thể diện âm tính
(negative face) và thể diện dương tính (positive face).
Thể diện dương tính là những điều mà mỗi người muốn mình được khẳng định, được người
khác ưa thích, tôn trọng, tán thưởng, đánh giá cao.
Thể diện âm tính là những điều mà mỗi người muốn mình không bị ai cản trở trong hành
động, muốn được tự do hành động theo cách mình lựa chọn. Vậy là, mỗi người có một không gian
cá nhân, bao gồm cả thể xác và tâm hồn, không ai được xâm phạm như cơ thể, những vật dụng riêng
tư, niềm tin, suy nghĩ, sự yêu thích… Thể diện âm tính tương ứng với thuật ngữ “lãnh địa” của
Goffman.
Như vậy, lịch sự trong hội thoại có thể được hiểu là những phương thức dùng để tỏ ra rằng
thể diện của người đối thoại được mình thừa nhận và tôn trọng.
Trong giao tiếp, nếu một người nói ra cái gì đó có dấu hiệu làm tổn hại về mặt thể diện của
người đối thoại hoặc chính mình thì đó là hành động đe doạ thể diện. Ngược lại, nếu nói thế nào
làm giảm khả năng đe doạ thể diện hoặc đề cao thể diện thì đó là hành động giữ gìn thể diện.
Ví dụ: (5) Quan sát cặp thoại sau:
Chàng trai: Gánh nặng mà đi đường dài,
Để anh gánh đỡ một vai nên chồng.
Cô gái: Gánh nặng thì chị trả công,
Mặt em chẳng đáng làm chồng chị đâu.
Trong câu nói của mình, chàng trai đã đưa ra hai yêu cầu “gánh giúp” và “làm chồng”. Nghĩa
là, chàng trai muốn can thiệp vào sự tự do hành động của cô gái, cho rằng cô gái không có khả năng
thực hiện hành động và thể hiện sự yêu thương đối với cô gái. Như vậy, chàng trai đã đồng thời vừa
thực hiện hành động đe doạ thể diện cô gái vừa giữ gìn thể diện của mình (chàng trai đề cao mình).
Tương tự câu nói của chàng trai, câu trả lời của cô gái là sự từ chối việc “làm chồng” và đề
nghị trả công việc “gánh giúp”, nghĩa là thực hiện hành động đe doạ thể diện chàng trai và khẳng
định thể diện của mình.
Tóm lại, lịch sự trong giao tiếp nghĩa là cách ứng xử bằng ngôn ngữ một cách khéo léo, có
chiến lược nhằm giữ thể diện và tránh đe doạ thể diện của người tham gia giao tiếp và đảm bảo
được tính văn hoá. Quy tắc lịch sự đề cập đến quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
1.2.3.4 Lí thuyết lập luận
Trong đời sống, con người luôn cần tới lập luận để chứng minh, giải thích, bác bỏ một vấn đề
nào đó hoặc thuyết phục người khác tin một điều gì đó. Do đó, ngay từ thời cổ đại, lập luận đã được
các học giả nghiên cứu, xem nó là một lĩnh vực của “thuật hùng biện” - một nghệ thuật nói năng.
Trong những công trình nghiên cứu về lập luận từ trước đến nay, đáng chú ý là công trình của hai
tác giả người Pháp J.Anscombre và O.Ducrot bàn về lí thuyết lập luận trong ngôn ngữ học. Có thể
nói lập luận là một vấn đề quan trọng trong hoạt động giao tiếp.
a. Khái niệm
Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ
nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp
nhận một (/một số) kết luận nào đó. [11 -165] Ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các phát ngôn
trong lập luận là p (lí lẽ) r (kết luận). Chẳng hạn, Chiếc xe máy này là hàng Trung Quốc đấy (p)
Đừng mua nó (r).
Trong hoạt động ngôn từ, có những biểu thức ngôn ngữ định hướng cho một kết luận nào đó.
Nghĩa là ngoài nghĩa văn bản ngôn ngữ còn có tiềm năng ngữ nghĩa tạo ra chuỗi liên kết trong phát
ngôn.
Ví dụ: (6)
Vợ anh như ngọc như ngà,
Anh còn chẳng chuộng nữa là thân tôi.
Từ câu nói ví dụ (6), ta đi đến lập luận: Vợ anh giàu đẹp như vậy mà anh còn không yêu. Tôi
không bằng vợ anh thì làm sao anh yêu tôi được. Ta có được lập luận này nhờ vào biểu thức ngôn
ngữ “A còn chẳng x nữa là B”. Như vậy, biểu thức trên cho phép ta tạo ra lập luận “A đã chẳng
được x thì B cũng chẳng được x”.
Lập luận còn có thể được định nghĩa là “một hoạt động - một thao tác – ngôn ngữ, qua đó
người nói đưa ra một hay một số phát ngôn làm luận cứ mà cấu trúc ngôn ngữ và nội dung của
chúng đưa người nghe tới những chuỗi liên kết dẫn tới một kết luận nào đó”. [11 – 167]
b. Một số khái niệm quan trọng trong lập luận
b.1) Luận cứ (lí lẽ) là các dữ kiện xuất phát làm căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra kết luận.
Luận cứ có thể là một thông tin miêu tả, một định luật, một nguyên tắc ứng xử đời thường…
Ví dụ: (7)
Chiếc xe máy này hàng Trung Quốc đấy (p1) mà hàng Trung Quốc không tốt (p2) Anh
đừng mua nó (r).
Ở ví dụ (7), ta có (p1) là thông tin miêu tả, (p2) là nguyên tắc ứng xử đời thường.
b.2) Tác tử lập luận là những yếu tố tác động vào phát ngôn sẽ tạo ra một định hướng nghĩa
làm thay đổi tiềm năng lập luận của phát ngôn, độc lập với thông tin miêu tả vốn có của phát ngôn.
Ví dụ: (8) ta có thông tin miêu tả:
Chiếc áo này giá hai trăm ngàn đồng.
Nếu ta đưa tác tử những…đấy hoặc chỉ vào thì sẽ có:
(8a) Chiếc áo này giá những hai trăm ngàn đồng đấy.
(8b) Chiếc áo này giá chỉ hai trăm ngàn đồng.
Câu (8a) sẽ định hướng kết luận là “không nên mua”. Do từ “những” thể hiện thái độ đánh
giá của người nói là “cao”, “đắt” và có thể làm luận cứ cho lập luận “không ai muốn mua đắt một
vật gì”. Ngược lại câu 8.b sẽ dẫn đến kết luận “nên mua”.
b.3) Kết tử lập luận là những yếu tố (liên từ, tình thái từ, từ biểu hiện quan hệ mục đích, trạng
từ, trạng ngữ…) tác động vào một hoặc nhiều phát ngôn làm thành một lập luận. Nhờ kết tử mà các
phát ngôn trở thành luận cứ hay kết luận của lập luận.
Ví dụ: (9)
(9a) Chiếc áo này giá chỉ hai trăm ngàn nên tôi mua nó.
(9b) Anh giơ súng bắn và con gấu ngã gục.
(9c) Vì em nhan sắc nên lòng anh thương.
Các từ nên, và, vì..nên trong ví dụ 9 là các kết tử lập luận nối liền luận cứ với kết luận.
Cần lưu ý là có những lập luận vắng kết tử mà luận cứ và kết luận vẫn có thể liên kết với
nhau. Chính quan hệ logic ngữ nghĩa giữa hai câu làm nên liên kết. điều này thể hiện ở cách tổ chức
những hành động ngôn ngữ kèm theo lập luận. Chẳng hạn, Mống đông, vồng tây, chẳng mưa dây
cũng bão giật.
c. Đặc tính của quan hệ lập luận
Trong lập luận có quan hệ giữa luận cứ với luận cứ, giữa luận cứ với lập luận. Quan hệ giữa
các luận cứ có thể là đồng hướng hoặc nghịch hướng với nhau. Quan hệ đồng hướng xảy ra khi các
luận cứ cùng dẫn đến một kết chung. Ngược lại, khi luận cứ này hướng đến kết luận này mà luận cứ
kia lại hướng tới phủ định kết luận trên thì chúng là quan hệ nghịch hướng lập luận. Luận cứ có hiệu
lực lập luận khác nhau. Kết luận trong lập luận sẽ do luận cứ có hiệu lực mạnh nhất quyết định.
Hiệu lực của luận cứ không chỉ phụ thuộc vào nội dung luận cứ mà còn phụ thuộc vào vị trí của
luận cứ trong lập luận.
Ví dụ:
Chiếc xe này rẻ, anh vừa mới lãnh lương mua đi. (đồng hướng)
Chiếc xe này rẻ nhưng anh không có tiền đừng mua. (nghịch hướng)
Anh không có tiền nhưng chiếc xe này rẻ mua đi. (nghịch hướng)
d. Lập luận là một hành động tại lời
O.Ducrot đã khẳng định: lập luận là một HĐTL. Hành động lập luận làm thay đổi tư cách
pháp nhân của người lập luận và người tiếp nhận lập luận. Khi đưa ra một lập luận, người lập luận
phải tin và chịu trách nhiệm về các luận cứ và kết luận mà mình đưa ra. Người tiếp nhận đang ở
trạng thái vô can chờ kết luận. Khi nói ra một phát ngôn, người nói ít khi dừng lại ở mức miêu tả chỉ
để miêu tả mà bao giờ cũng đi đến một cái gì khác nữa, để đi tới một kết luận. Nói ra một phát ngôn
mà không đi tới kết luận sẽ dẫn đến người nói và người tiếp nhận không thoả mãn, có khi không nén
được họ lại đặt ra câu hỏi. Việc đặt câu hỏi như thế khiến cho người nói và người nghe có sự thay
đổi tư cách pháp nhân. Ví dụ trước câu nói của chàng trai trong ca dao:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin.
Cô gái có thể hỏi chàng trai: Anh muốn gì đây? nếu cô ta khó chịu, hay Anh muốn nói gì với
em nè? nếu cô ta có cảm tình. Rõ ràng lập luận có thể gây một phản ứng ngôn ngữ ở người nhận.
1.2.3.5 Nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn
a. Định nghĩa
Hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng nghĩa hiển ngôn là nghĩa hiện rõ từ hình thức bề
mặt của phát ngôn, còn nghĩa hàm ẩn là nghĩa không hiện ra ngay trên bề mặt phát ngôn.
P.Grice, nhà nghiên cứu đã xây dựng những cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc nghiên cứu
nghĩa hàm ẩn nói: nói một cách hiển ngôn là “nói một điều gì đó”, nói một cách hàm ẩn là “làm cho
ai đó nghĩ đến một điều gì đó” hay “những ý định thông báo cho người đối thoại biết mà vì lí do nào
đó không nói ra một cách tường minh”. Theo đó, ông còn phân biệt hai loại ý nghĩa hàm ẩn là nghĩa
hàm ẩn tự nhiên và nghĩa hàm ẩn không tự nhiên giúp loại bỏ những nghĩa hàm ẩn ngẫu nhiên
không nằm trong ý định của người nói.
Cao xuân Hạo cũng cho rằng: “Mỗi câu nói đều truyền đạt đến người nghe một thông báo
nhất định. Thông báo này gồm hai phần. Phần thứ nhất là những gì người nghe có thể trực tiếp nhận
ra nhờ nghĩa nguyên văn (gồm có nghĩa đen và một số nghĩa bóng quen thuộc) của những từ ngữ có
mặt trong câu và nhờ những mối quan hệ cú pháp giữa những từ ngữ ấy: đó là nghĩa hiển ngôn của
câu nói. Phần thứ hai là những gì không có sẵn trong nghĩa nguyên văn của các từ ngữ và trong
những mối quan hệ cú pháp ấy, nhưng vẫn thấu đến người nghe thông qua một sự suy diễn: đó là
nghĩa hàm ẩn của câu nói.” [29-468]
Đỗ Hữu Châu thì dùng thuật ngữ nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Nghĩa tường minh, còn
gọi là hiển ngôn hay nghĩa theo câu chữ của phát ngôn, là ý nghĩa được nói ra trực tiếp nhờ các yếu
tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, kết cấu cú pháp. Nghĩa hàm ẩn là các ý nghĩa mà chúng ta phải
dùng thao tác suy ý dựa vào ngữ cảnh, ngôn cảnh và các quy tắc điều hành hành vi ngôn ngữ, điều
khiển lập luận… mới có được. [7-359]
Như vậy, có thể nói nghĩa hàm ẩn là đối tượng nghiên cứu của dụng học. Tuy nhiên, chúng ta
không thể nghiên cứu hết tất cả những nghĩa có được từ thao tác suy ý nên cần phải có sự phân loại.
b. Phân loại ý nghĩa hàm ẩn
P.Grice phân chia các ý nghĩa hàm ẩn thành hai loại: hàm ẩn quy ước và hàm ẩn hội thoại.
Hàm ẩn quy ước là những nghĩa hàm ẩn được diễn đạt bởi các tín hiệu quy ước - tức các yếu
tố thuộc cấu trúc hình thức của ngôn ngữ. Để nắm bắt được, người nghe phải suy ý từ ý nghĩa của
các phương tiện ngôn ngữ này đó chính là các từ, các ngữ hoặc do cấu trúc câu.
Hàm ẩn hội thoại thì không được gợi ra do các yếu tố quy ước mà do cách vận dụng nguyên
tắc cộng tác hội thoại và các phương châm hội thoại. Từ hàm ẩn hội thoại, Grice lại chia thành hai
kiểu: hàm ẩn khái quát và hàm ẩn đặc thù.
Hàm ẩn khái quát là nghĩa hàm ẩn không bị chi phối bởi ngữ cảnh giao tiếp; người nói vẫn
tôn trọng phương châm và các nguyên tắc cộng tác hội thoại.
Hàm ẩn đặc thù là nghĩa hàm ẩn mà người nói cố tình vi phạm một hoặc một số phương
châm hội thoại để tạo ra chúng; người nói buộc người nghe phải vận dụng các thao tác suy ý để đạt
tới một ý nghĩa nào đó.
Kế thừa thành tựu của các nhà ngôn ngữ học, đặc biệt là Grice, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra tiêu
chí phân loại và tiến hành phân loại.
Hai tiêu chí phân loại là:
(1)- Bản chất của chúng (ngữ nghĩa hay ngữ dụng)
(2) - Chức năng của chúng trong diễn ngôn (là đối tượng hay không phải đối tượng của diễn
ngôn)
Xét theo (1) nghĩa hàm ẩn được chia thành: ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn
dụng học.
Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học là ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với nội dung mệnh đề đó. Ý nghĩa
này chỉ có quan hệ với các nhân tố ngôn ngữ biểu thị nội dung mệnh đề.
Ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng là những ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với các quy tắc ngữ dụng học
như các quy tắc chiếu vật, quy tắc lập luận, các hành vi ngôn ngữ, các quy tắc hội thoại…
Trong số những ý nghĩa hàm ẩn (nghĩa học và dụng học) có thể tách thành hai loại: tiền giả
định và hàm ngôn.
Xét theo (2), tương tự như Grice, ý nghĩa hàm ẩn được phân biệt thành: ý nghĩa hàm ẩn tự
nhiên và ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên. Grice xác định ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (KTN) là
nó phải nằm trong ý định của người nói và cái ý định đó phải được người nghe nhận biết.
c. Cơ chế tạo ra các nghĩa hàm ẩn
Nghĩa hàm ẩn là các ý nghĩa mà chúng ta phải dùng thao tác suy ý dựa vào các quy tắc ngữ
dụng. Nếu ta áp dụng các quy tắc này chuẩn mực thì chỉ tạo ra nghĩa tường minh. Muốn tạo ra được
nghĩa hàm ẩn, người nói một mặt phải tôn trọng các quy tắc này và giả định người nghe cũng hiểu
chúng. Một mặt lại cố tình vi phạm chúng và giả định rằng người nghe cũng ý thức được chỗ vi
phạm đó.
Ví dụ: (10)
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim ăn ghém thì mình lấy ta.
Người nói cố tình vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại, cụ thể vi phạm phương châm về
chất, để tạo hàm ý.
d. Vấn đề tiền giả định và hàm ngôn (hàm ý)
Theo Cao Xuân Hạo, tiền giả định của một câu nói là một điều gì phải được giả định là đã có
trước khi nói câu đó, vì nếu không có điều này thì không thể nói câu đó được (câu nói đó sẽ trở
thành phi lí hoặc không thể hiểu được). Còn hàm ý là một điều gì đó mà khi nghe câu đó, người
nghe phải rút ra như một hệ quả tất nhiên.
Tiền giả định và hàm ý có thể toát ra từ nghĩa nguyên văn của cả câu với sự đóng góp của
ngữ cảnh. Tuy nhiên, bên trong câu cũng có những từ mà nghĩa của chúng chứa đựng tiền giả định
và hàm ý.
Đỗ Hữu Châu bước đầu phân biệt tiền giả định và hàm ngôn như sau: tiền giả định là những
căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình. Hàm ngôn là tất
cả những nội dung có thể suy ra từ một phát ngôn cụ thể nào đó; từ ý nghĩa tường minh cùng với
tiền giả định của nó.
Theo đó, ta có ví dụ: (11)
- Thằng Nam là con của cô Mai đấy.
Phát ngôn này có:
Ý nghĩa tường minh: Thằng Nam là con cô Mai.
Ý nghĩa hàm ẩn, trong đó:
Tiền giả định: Có một người tên Mai
Có một thằng nhóc.
Cô Mai có con.
Hàm ngôn: (tuỳ theo ngữ cảnh, tuỳ theo ý định của người nói):
- Mẹ nó là hiệu trưởng nhà trường đó, đừng có gây sự với nó. (hai học sinh nói với nhau)
- Nam nhiều tiền lắm, để nó trả đi. (trong quán ăn, học sinh tên Nam giành nhau trả tiền
với bạn, học sinh thứ ba nói xen vào; cô Mai rất giàu).
Các nhà ngôn ngữ khác như P.Grice, G.Yule, Hoàng Phê, Hồ Lê, Nguyễn Đức Dân… đều có
chung quan niệm: tiền giả định là một loại nghĩa hàm ẩn nhưng là nghĩa hàm ẩn không có giá trị
thông báo. Tiền giả định được phân biệt với một loại ý nghĩa hàm ẩn khác đó là hàm ngôn.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu tiền giả định là những căn cứ hiểu biết cần thiết được các nhân
vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào đó mà người ta tạo ra nghĩa tường minh. Hàm ngôn là
tất cả những nội dung suy ra từ nghĩa tường minh và tiền giả định. Hàm ngôn lệ thuộc vào ngữ cảnh
giao tiếp.
Đồng quan điểm với P.Grice, Đỗ Hữu Châu chia tiền giả định và hàm ngôn thành những loại
sau:
Tiền giả định nghĩa học là tiền giả định có quan hệ với tổ chức hình thức ngôn ngữ diễn đạt
nội dung miêu tả tường minh của phát ngôn.
Tiền giả định dụng học là những nhân tố quy tắc dụng học làm tiền đề cho một phát ngôn cụ
thể nào đó.
Hàm ngôn ngữ nghĩa là hàm ngôn suy ra từ nội dung ngữ nghĩa tường minh của phát ngôn,
nghĩa là từ các luận cứ hoặc kết luận không được nói ra một cách tường minh, để cho người nghe
dựa vào quan hệ lập luận mà rút ra.
Hàm ngôn ngữ dụng là hàm ngôn do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng mà có.
Ví dụ: (11)
Trên rừng ba mươi sáu thứ chim
Thiếu gì loan phượng (mà lại) đi tìm quạ khoang.
Tiền giả định nghĩa học: rừng có nhiều loài chim, có loài chim đẹp, quý như loan phượng và
loài chim xấu, tầm thường như quạ khoang; có nhiều loài chim quý hơn; có người đã tìm loài chim
tầm thường.
Tiền giả định dụng học: lẽ thường: người ta chỉ thích tìm loài chim đẹp, quý.
Hàm ngôn nghĩa học: nên tìm loại chim đẹp, quý, không nên đi tìm loài chim tầm thường.
Hàm ngôn dụng học: chê trách sự kém cỏi của con. (mẹ nói với con khi thấy con chọn người
vợ vừa nghèo vừa xấu)
Lời từ chối, hồi đáp cho lời tỏ tình. Cô gái chất vấn chàng trai tại sao nhiều người đẹp, giàu
anh không chọn lại chọn người nghèo, xấu như em. Chất vấn để bác bỏ.
Từ quan điểm trên, chúng ta có thể khẳng định hàm ngôn ngữ nghĩa ít lệ thuộc vào hoàn cảnh
giao tiếp. Do đó, có thể gọi là hàm ngôn lập luận hay hàm ngôn mệnh đề được diễn đạt tường minh.
Hàm ngôn ngữ dụng hình thành do vi phạm các quy tắc ngữ dụng và phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh
giao tiếp.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và đa dạng của hàm ngôn nên còn có rất nhiều xu hướng
phân loại khác.
1.3 Một số đặc trưng cơ bản về ngôn ngữ văn hóa tiếng Việt
Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng giữa ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ.
Văn hoá dân tộc không tồn tại ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một trong những thành tố đặc trưng
nhất của bất cứ nền văn hoá của dân tộc nào. Chính trong ngôn ngữ đặc điểm của văn hoá dân tộc
được lưu giữ rõ ràng nhất. Vì vậy, nghiên cứu ca dao dưới góc độ ngữ dụng không thể không tìm
hiểu đặc trưng văn hoá.
1.3.1. Khái niệm văn hóa
Văn hoá theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) là: 1. Tổng thể nói chung những giá trị
vật chất tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sự; 2.Những hoạt động của con
người nhằm thoả mãn đời sống tin thần (nói tổng quát).; 3. Tri thức kiến thức khoa học (nói khái
quát); 4.Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh; 5. Nền văn hoá của thời kì lịch
sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm
giống nhau.
Từ văn hoá có nhiều nghĩa, cho nên có rất nhiều học giả đưa ra quan niệm riêng của mình. Để
làm cơ sở cho việc nghiên cứu của mình, luận văn chấp nhận định nghĩa sau:
“Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội.” [84-105]
1.3.2 Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa Việt
Trải qua nhiều biến động nhưng văn hoá Việt Nam vẫn mang một bản sắc riêng. Nhìn chung
văn hoá Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau:
Văn hoá gắn với văn minh nông nghiệp, gắn với nghề nông trồng lúa nước. Do đó, ngôn ngữ
Việt Nam có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, ca dao, những câu nói liên quan đến nông nghiệp như:
Ước gì sông rộng một gang/ bắc cầu dãi yếm để chàng sang chơi. Hỡi cô cắt cỏ một mình/ cho anh
cắt với chung tình làm đôi. Hỡi cô đang gặt dưới đồng…
Văn hoá Việt Nam thể hiện tính dân chủ, tôn ti, đoàn kết, linh hoạt và hài hoà. Do phải thường
xuyên đối đầu với thiên tai địch hoạ, với các thế lực ngoại xâm nên người Việt Nam không có khát
vọng hướng đến sự sáng tạo lớn mà nhạy cảm, khôn khéo gỡ các thế khó khăn, tìm sự bình ổn. Biểu
hiện của đặc trưng này trong giao tiếp là người Việt ưa lối nói hài hoà, cân xứng, lối nói tế nhị, bóng
gió xa xôi, ứng xử một cách linh hoạt khéo léo, rất coi trọng tình cảm… Điều này cũng thể hiện rất
rõ trong ca dao. tục ngữ , thành ngữ…
Những vấn đề về văn hoá đã trình bày trên đây, chúng tôi nghĩ nó rất cần thiết và có ích khi
tìm hiểu, lí giải ý nghĩa ngữ dụng trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt.
1.4 Tiểu kết
Từ cách hiểu ca dao đối đáp giao duyên là ca dao trữ tình dùng để đối đáp, trao đổi tình cảm
giữa nam và nữ, chúng ta có thể nói rằng đây chính là một hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngữ
dụng học nghiên cứu cách ngôn ngữ được dùng như thế nào và ý nghĩa của nó trong giao tiếp, do đó
những quan điểm của ngữ dụng học như quan điểm về hành động ngôn từ, về ngữ cảnh, về lập luận,
hội thoại, hàm ngôn cùng với những nguyên tắc, điều kiện của nó rất có ích trong nghiên cứu ca dao
đối đáp giao duyên tiếng Việt.
Bên trên luận văn đã đề cập đến những tiền đề lí thuyết cơ bản liên quan. Tuy đối tượng
nghiên cứu của luận văn không phải là bản thân các khái niệm, các quy tắc nêu trên nhưng những
điều trình bày đó được vận dụng trong miêu tả, phân tích đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp
giao duyên tiếng Việt, nhằm bước đầu có thể miêu tả phân loại các hành động ngôn từ, các phương
thức tạo hàm ngôn trong ca dao đối đáp, góp phần vào nghiên cứu văn hoá giao tiếp của người Việt.
CHƯƠNG HAI
HÀNH ĐỘNG TẠI LỜI TRONG CA DAO ĐỐI ĐÁP GIAO DUYÊN
TIẾNG VIỆT
2.1 Lý thuyết chung
2.1.1 Định hướng phân loại và miêu tả
Để miêu tả và phân loại các HĐTL, luận văn căn cứ vào hai tiêu chí tạm cho là hình thức:
biểu thức ngôn hành và các động từ nói năng. Bắt đầu từ các động từ nói năng (động từ chỉ hành
động ngôn từ) kết hợp với việc thống kê, miêu tả các biểu thức ngôn hành thường đi với chúng, ta
có thể bước đầu nghiên cứu và phân loại được các HĐTL. Sau đó, dựa vào những tiêu chí khác,
phân chia các động từ này thành từng nhóm lớn và những loại nhỏ như đã trình bày ở chương 1. Sau
khi tập hợp được những HĐTL được gọi tên từ các động từ nói năng, luận văn sẽ tìm ra những
HĐTL mà không có chứa động từ nói năng tương ứng.
Biểu thức ngôn hành (biểu thức ngữ vi) là một khái niệm có liên quan đến khái niệm “phát
ngôn ngôn hành” (phát ngôn ngữ vi). “Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn - sản phẩm của một hành vi ở
lời nào đó khi hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp, chân thực”. [7-91] Có nghĩa là phát
ngôn ngôn hành là phương tiện, là hình thức thể hiện hành động tại lời còn hành động tại lời là nội
dung nằm trong phát ngôn ngôn hành đó. Phát ngôn ngôn hành bao gồm biểu thức ngôn hành và các
thành phần mở rộng như lời rào đón, từ tình thái để tạo nên giá trị biểu cảm của câu…Như vậy, có
thể nói biểu thức ngôn hành là dấu hiệu ngữ pháp- ngữ nghĩa của các hành động tại lời, là những thể
thức nói đặc trưng cho một hành động tại lời. Một biểu thức ngôn hành được đánh dấu bằng các dấu
hiệu chỉ dẫn. Searle gọi các dấu hiệu này là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời (IFIDs). Các
IFIDs có thể là:
Các kiểu kết cấu
Các từ ngữ chuyên dùng trong các kết cấu
Ngữ điệu
Quan hệ giữa các thành tố trong biểu thức ngôn hành và ngữ cảnh
Động từ ngôn hành
Ví dụ: (1) Tôi hứa với anh là tôi sẽ xem xét lại chuyện này.
Phát ngôn (1) là hành động hứa hẹn; có kiểu kết cấu: S hứa với H, S sẽ + V; từ ngữ chuyên
dùng trong kết cấu: “sẽ” và động từ ngôn hành “hứa”. Nhưng, đây cũng có thể là hành động đe doạ
nếu nó được xác định trong hoàn cảnh cụ thể và có kèm theo ngữ điệu của người phát ngôn.
Một biểu thức ngôn hành có thể chứa đựng nhiều HĐTL và ngược lại một HĐTL có nhiều
cách thể hiện. Vì vậy, xác định một biểu thức ngôn hành thuộc HĐTL nào thì người tiếp nhận phải
có cảm nhận tinh tế trong từng tình huống cụ thể.
HĐTL có được là nhờ lực tại lời (đích ở lời). Tuy nhiên, có những phát ngôn không chỉ một
lực tại lời mà là có nhiều lực tại lời: hiệu lực tại lời trực tiếp và hiệu lực tại lời gián tiếp. Theo đó, có
HĐTLTT và HĐTLGT. Vậy, muốn nhận biết được tất cả các HĐTL, chúng ta phải biết tất cả các
biểu thức ngôn hành (bao gồm các biểu thức ngôn hành tường minh và biểu thức ngôn hành hàm
ẩn) và hiệu lực tại lời của các HĐTL.
HĐTL không bao giờ tách khỏi ngữ cảnh, tách khỏi hoạt động hội thoại. Do đó, xem xét
HĐTL cần xem xét sự tác động qua lại giữa người tham gia giao tiếp và các hành động ngôn từ;
giữa các HĐTL được tạo nên trong hội thoại.
Phần dưới đây, chúng tôi sẽ tiến hành phân loại và miêu tả cách HĐTL thường gặp trong ca
dao đối đáp theo cách hiểu trên.
2.1.2 Đặc điểm cấu trúc hội thoại và ngữ cảnh của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt
Ca dao đối đáp giao duyên là thơ dân gian, dùng để hát đối đáp, nói chuyện về tình yêu. Do
là thơ dân gian nên ngôn ngữ dùng để tạo ra lời nói không phải chỉ là ngôn ngữ hằng ngày mà còn
mang dấu ấn của ngôn ngữ nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu văn học, phong cách học và cả những
nhà ngôn ngữ học đều thống nhất xem ngôn ngữ trong ca dao là ngôn ngữ nghệ thuật. Từ góc độ
giao tiếp ngôn ngữ, Hữu Đạt đi tìm “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao” cho rằng:
ca dao là văn bản nghệ thuật có tổ chức theo kiểu lắp ghép liên hành động, có khả năng dự đoán
trước, có độ lặp cao về mô hình kiến trúc và dễ tạo thành các dị bản.
Ví dụ: (2) Ca dao là văn bản nghệ thuật có kết cấu theo kiểu lắp ghép liên hành động.
SP1 - Nghe em phân như dần khúc ruột
Gần nhau chưa được lại nói cuộc chia xa.
Thế nào cũng ráng chờ qua,
Tiền lo không kịp, qua sẽ bán nhà cưới em.
Hỏi thử anh cho biết đường nhơn ngãi, SP2 -
Em đâu có ngại sự đợi chờ.
Một lời hứa đạo tóc tơ
Trăm năm cũng chẳng hững hờ dạ riêng.
Bài ca dao có hai lượt lời, gồm 8 dòng. Theo trình tự của bài ca dao, chúng tôi thấy có các
hành động nói sau:
Trong lượt trao lời của SP1:
Hành động 1 (dòng 1,2): Nghe em phân như dần khúc ruột … chia xa là hành động bày tỏ.
Chàng trai bày tỏ tâm trạng xót xa của mình trước sự chia ly.
Hành động 2 (dòng 3): Thế nào cũng ráng chờ qua thuộc hành động thỉnh cầu. Chàng trai
mong muốn cô gái chờ mình.
Hành động 3 (dòng 4): Tiền lo không kịp, qua sẽ bán nhà cưới em thuộc hành động hứa hẹn.
Chàng trai hứa hẹn sẽ kiếm tiền cưới cô gái bằng mọi giá cho dù phải bán nhà.
Trong lượt đáp lời của SP2:
Hành động 1 (dòng 4): Hỏi thử anh cho biết đường nhơn ngãi thuộc hành động trần thuật. Cô
gái giải thích lí do thực hiện hành động hỏi của mình trước đây.
Hành động 2 (dòng 5): Em đâu có ngại đợi chờ thuộc hành động chấp nhận gián tiếp. Cô gái
chấp nhận lời thỉnh cầu.
Hành động 3 (dòng 6,7): Một lời hứa … dạ riêng thuộc hành động hứa hẹn. Cô gái hứa hẹn
sẽ đợi chờ.
Tất cả các hành động trên đều là HĐTL. Những hành động này gây ra một hiệu lực ở ngay
trong lời nói, đưa người nói và người nghe vào những ràng buộc nhất định.
Ngôn ngữ của ca dao là ngôn ngữ của quần chúng nhân dân, nhưng được sử dụng theo
phương thức trữ tình của thơ ca nên nó vừa giống với ngôn ngữ hàng ngày vừa giống với ngôn ngữ
nghệ thuật. Do đó, để xác định hiệu lực tại lời trong lời ca dao đối đáp, chúng ta không chỉ xác định
nghĩa của từ ngữ theo nghĩa thông dụng mà còn phải chú ý nghĩa ngôn từ nghệ thuật.
Những lời ca dao đối đáp giao duyên được hình thành trong các cuộc hát đối đáp như hát
quan họ, hát ghẹo, hát ví, hát phường vải… Các cuộc hát đối đáp này gồm nhiều chặng, thứ tự mỗi
chặng là các bước phát triển của một tình duyên ước lệ. Lời ca dao chính là những lời thoại trong
cuộc thoại, một cuộc hội thoại có người nói và người nghe trong một hoàn cảnh nhất định. Theo lí
thuyết hội thoại, một cuộc thoại ngắn nhất phải có đầy đủ hai vế đối thoại: phần trao lời và phần đáp
lời. Cặp thoại được xem là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu. Tuy nhiên, khảo sát các công trình biên soạn
ca dao từ xưa đến nay đều thấy số lượng bài ca dao có đầy đủ hai vế đối thoại rất ít, đa số chỉ có một
vế trao lời hoặc đáp lời. Số lượng ca dao đối đáp trên một lượt lời là không nhiều. Trong 1514 đơn
vị ca dao giao duyên mà chúng tôi khảo sát, chỉ có 313 đơn vị có đầy đủ hai vế đối thoại (hai lượt
lời trở lên), còn lại chỉ có một vế (một lượt lời). Tương tự, tác giả Nguyễn Đức Luận, trong bài
nghiên cứu “Mảnh vỡ hội thoại trong ca dao dân ca Việt Nam” đã thống kê trong 11.825 đơn vị ca
dao từ “Kho tàng ca dao người Việt” chỉ có 539 đơn vị có hai vế đối đáp, 3473 chỉ có một vế. Về
nguyên nhân, theo Nguyễn Đức Luận, một mặt do người sưu tầm biên soạn đã tách các lượt lời
trong cuộc hội thoại thành hai lượt lời riêng biệt hoặc xé nhỏ các lời thoại dài; mặt khác do đặc
trưng sáng tác của ca dao dân ca, trong quá trình đối đáp có khi người nghe không trả lời: lời hỏi
quá khó không thể trả lời, lời hỏi thô tục không muốn trả lời hoặc có thể là hỏi vấn đề tế nhị nên
chưa trả lời (cũng có thể người nghe đáp lời bằng hành động phi lời)… Do đó, khi phân loại và
miêu tả các HĐTL trong ca dao đối đáp giao duyên, chúng ta phải cố gắng hình dung ra cuộc trò
chuyện, người đang trò chuyện và nội dung trò chuyện của các câu ca dao có một lượt lời. Có một
điểm đáng chú ý là việc xác định đặc điểm người nói của các lượt lời, trong một số trường hợp rất
khó khăn. Chẳng hạn, khó xác định hai lượt của bài ca dao sau đây, lượt lời nào của nam, lượt lời
nào của nữ, bởi vì có thể người trao lời là chàng trai, xưng anh, và cũng có thể hiểu là cô gái, xưng
em:
Lượt trao lời: Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em đã có chồng em trả yếm lại anh.
Lượt đáp lời: Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh,
Yếm em em mặc, yếm anh sao anh đòi.
Trong ca dao đối đáp giao duyên, nhân vật giao tiếp là các chàng trai và cô gái (cá nhân hoặc
tập thể). Hai nhân vật này có mối quan hệ gần gũi, thân tình với nhau, có thể là bạn, là người yêu.
Về thứ bậc, tuổi tác, thường vai nữ sẽ nhỏ hơn vai nam, nhưng cũng có thể là ngang bằng. Vai giao
tiếp nữ thường được gọi là “cô”, “cô hai”, “cô ba”, “cô kia”, “cô ấy”, “chị hai”, “thục nữ”,
“em”, “nàng”, “bậu”, “mình”, “người”, “ai”, “đó”… và thường tự xưng là “em”, “thiếp”, “tôi
(tui)”… Vai giao tiếp nam thường được gọi là “anh”, “mình”, “qua”, “chàng”, “người nghĩa”,
“phu quân”, “bạn”, “anh ba”, “anh hai”, “anh kia”, “anh đồ”, “ai”… và tự xưng là “anh”, “ta”,
“qua”, “tôi/tui”, “đây”… Các từ xưng hô này phần lớn được phân ra ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai
rõ ràng tạo thành cặp đối xứng như: anh – em; chàng - thiếp; qua - bậu; mình – ta… Nhưng có
nhiều trường hợp, những người đang trực tiếp nói trò chuyện lại dùng đại từ chỉ ngôi thứ ba như cô
ấy, anh ấy, ai kia, đại từ phiếm chỉ ai, tưởng như họ đang nói về một người nào đó không có mặt
trong cuộc thoại nhưng kì thực họ đang nói về chính mình và đối tượng tham gia cuộc thoại với
mình.
Ví dụ: (3) Trong bài ca dao “Tát nước đầu đình” có câu:
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Vận dụng lí thuyết chiếu vật và chỉ xuất để xác định: ai thực hiện hành động nói? nói với ai?,
bao giờ vai nói cũng đặt mình trong sự tương tác với vai nghe, ta có thể xác định: người nói - người
con trai xưng là anh và gọi người nghe - người con gái là em, là cô ấy.
Ai đưa em đến chốn này,
Bên kia là núi bên này là sông.
Từ ai trong câu ca dao trên có sự quy chiếu đến chủ thể của hành động “đưa đến chốn này”
gây tổn thất cho người nói nên người nói có hàm ý trách móc, tức là ai chỉ ngôi thứ hai - người
nghe. Còn trong ví dụ sau:
Ai1 mà nói dối với ai2.
Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng.
Ai1 chỉ ngôi thứ nhất - người thực hiện hành động thề nguyền. Ai2 chỉ ngôi thứ hai, người nói
dùng để gọi người nghe.
Có trường hợp, ta không thể phân biệt rạch ròi vai giao tiếp nam và vai giao tiếp nữ, nghĩa là
không phân biệt được giới tính. Đó là các trường hợp vai giao tiếp dùng các từ xưng hô như mình –
ta; đây – đó; đấy – đây; người – tôi … chẳng hạn:
Mình ơi ta hỏi thực mình
Còn không hay đã chung tình với ai?
Ngoài ra, còn có trường hợp nhân vật giao tiếp, bằng phương thức ẩn dụ, hoán dụ đã mượn
các biểu tượng để xưng gọi, để bộc lộ tâm trạng, sắc thái tình cảm của mình. Các biểu tượng này
thường tương đẳng với nhau về thuộc tính ngữ pháp - ngữ nghĩa và được biểu trưng hoá đồng
hướng. [61-188]
Ví dụ: (4)
a. Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
b. Thuyền về có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Ở ví dụ 4, qua cách liên tưởng về thuộc tính của các hình ảnh biểu tượng, người Việt dễ dàng
nhận thấy “mận, thuyền” chính là cách xưng gọi của vai giao tiếp nam, còn “đào, bến” là vai giao
tiếp nữ.
Nhìn chung, những đại từ nhân xưng này được sử dụng rất linh hoạt và độc đáo phản ánh
được mối quan hệ xã hội cũng như trạng thái tâm hồn của chàng trai, cô gái.
Bối cảnh gặp gỡ (thoại trường) của các chàng trai cô gái trong ca dao đối đáp giao duyên là
bức tranh sinh hoạt hàng ngày gắn với đời sống nhân dân lao động: lễ hội, sân đình, đường làng, bờ
sông, bến sông, bờ ao, chợ, đêm trăng, trên đồng dưới ruộng, cửa ngõ… Bối cảnh giao tiếp này tuy
có thực nhưng ở đây nó thường tập trung cho mục đích biểu trưng hoá nghệ thuật. Nó là bối cảnh
mang tính ước lệ, biểu trưng gắn liền với cách thức diễn tả tình ý mang tính đặc trưng của thể loại.
Ví dụ: núi cao, biển sâu biểu trưng cho những thử thách, gian khổ; đêm trăng, vườn hồng, sân đình
biểu trưng cho không gian gặp gỡ… Thời gian (hôm qua, bây giờ, đêm qua) xuất hiện trong lời trần
thuật cũng thiếu tính cụ thể, mang tính phiếm chỉ.
Những vấn đề nêu trong mục 2.1.2 cũng là những vấn đề cơ bản của ngữ dụng học. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của luận văn nói chung và chương 2 nói riêng, thì đây không phải là đối
tượng khảo sát chủ yếu. Do đó, chúng tôi chỉ giới thiệu một cách khái quát nhằm tạo ra những tiền
đề cần thiết để miêu tả các HĐTL được trình bày ở phần tiếp theo.
2.2 Phân loại và miêu tả các hành động tại lời của ca dao đối đáp giao duyên
Đến với lời ca dao giao duyên là đến với một khu vườn tình ái đầy hương sắc, nhiều cung
bậc. Bằng chất liệu ngôn từ, những chàng trai cô gái bình dân đã thực hiện những hành động nói
chuyện tình yêu. Họ trao – đáp cho nhau những thông tin chân thành nhằm mục đích tìm hiểu, trao
gửi tình cảm, hay những lời bày tỏ nỗi lòng thương nhớ, cảm xúc giận hờn tiếc nuối, những lời trách
cứ, lời từ chối nhẹ nhàng… Vận dụng lí thuyết ngữ dụng học, chúng tôi thử miêu tả những hành
động được thực hiện ngay khi nói năng ở những đơn vị ca dao có cấu trúc đối đáp.
2.2.1 Hành động hỏi (Question)
Hỏi là một HĐTL. Theo Searle, mỗi HĐTL đều đòi hỏi phải có những điều kiện để cho việc
thực hiện nó đạt hiệu quả đúng với đích của nó. Vậy, để hành động hỏi được thực hiện một cách
chân thành và đạt hiệu quả, cần thoả mãn một số điều kiện sau: [7-119]
Điều kiện nội dung mệnh đề: tất cả các mệnh đề p hay hàm mệnh đề.
Điều kiện chuẩn bị:
1) Người nói (S) không biết lời giải đáp điều mình hỏi.
2) Cả đối với người nói, người nghe (H) không chắc rằng bất cứ lúc nào người nghe
cũng cung cấp thông tin ngay lúc trò chuyện nếu người nói không hỏi.
Điều kiện chân thành: người nói mong muốn có được thông tin đó.
Điều kiện căn bản: người nói nhằm cố gắng nhận được thông tin từ người nghe.
Đây là những quy tắc thực hiện hành động hỏi. Nếu người nói cố tình vi phạm điều kiện trên
khi đặt câu hỏi tức là người nói đã lạm dụng hành động hỏi, dùng chúng để thực hiện một cách gián
tiếp hành động tại lời khác. Cụ thể người nói dùng hành động hỏi khi:
Đã biết lời giải đáp cho nội dung câu hỏi
Biết chắc người nghe không thể giải đáp được nội dung câu hỏi
Việc sử dụng hành động hỏi nhằm mục đích giải đáp điều mình hỏi là hành động hỏi trực
tiếp. Nếu nhằm thực hiện hành động khác thì đó là hành động hỏi gián tiếp.
Khảo sát 1514 câu ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt, kết quả thu được 481 phát ngôn
chứa hành động hỏi. Trong đó, 227 câu là hỏi trực tiếp và 254 câu hỏi gián tiếp. Chúng ta có thể
thấy hành động hỏi có tần số xuất hiện khá cao.
a) Hành động hỏi trực tiếp
a.1) Hành động hỏi tổng quát được cấu tạo theo khuôn hỏi kiểu: có… không?; đã …chưa?;
có …chăng? (có) ….phải không?; (có)… chưa?;…
Ở kiểu hỏi này, người nói dự đoán hai khả năng xảy ra của hành động hoặc sự kiện A. Tuy
nhiên, có hai trường hợp xảy ra: thứ nhất S nghiêng về dự đoán khả năng “có” nhưng không chắc
chắn nên đưa ra câu hỏi nhằm xác minh dự đoán của mình là đúng; thứ hai A có thể tồn tại hoặc
không tồn tại trong hiện thực và S rơi vào trạng thái dao động giữa hai khả năng đó. Đồng thời,
cũng có sự khác nhau giữa cấu trúc hỏi có … không? (1), đã …chưa? (2). (1) S giả định khả năng p
có thể xảy ra ở tại điểm mốc thời gian t, không gian mà S xác định cụ thể. S mong muốn H cho biết
cụ thể p tồn tại hay không tồn tại. (2) S muốn biết p tồn tại hay không tồn tại ở một thời điểm nào
đó trước t.
Ví dụ: (5)
a. Anh đã có vợ con chưa,
Mà anh ăn nói đẩy đưa ngọt ngào?
b. Gặp đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?
c. Ngủ quên một giấc hừng đông,
Hẹn thời lỡ hẹn, mình trông không mình?
d. Em đà thuận lấy anh chưa,
Để anh đốn gỗ rừng nưa đóng thuyền?
e. Gặp nhau đây đâu phải điều trăng gió
Xin hỏi một lời đã có chồng chưa?
Xin hỏi cô một lời cô cứ thật phân qua.
Trong ví dụ 5, giả định ngữ cảnh của phát ngôn 5.a là: chàng trai và cô gái chưa từng biết
nhau và họ gặp nhau trong một dịp nào đó; chàng trai tỏ ra là người lịch thiệp trong lối trò chuyện,
tán tỉnh cô gái. Cô gái căn cứ vào dấu hiệu “ăn nói ngọt ngào” của chàng trai khi anh ta buông lời
tán tỉnh, đoán định có thể chàng trai đã có vợ. Hoặc, cô gái nhận thấy chàng trai nói chuyện rất có
duyên, muốn trao gửi tình cảm nhưng trong lòng phân vân không biết chàng trai đã có vợ hay chưa.
Cô gái thực hiện hành động hỏi với mong muốn biết trong quá khứ việc chàng trai có vợ có tồn tại
hay không. Ở phát ngôn 5.c chàng trai đoán định là cô gái đang nhớ mong mình, muốn xác minh
điều mình đoán định là đúng. Bởi lẽ chàng trai cũng nhớ mong cô gái, chuyện ngủ quên chỉ là cái cớ
giải thích nguyên nhân lỡ hẹn mà thôi. Trong câu này yếu tố “có” bị tỉnh lược.
a.2) Hành động hỏi lựa chọn được cấu tạo với các từ lựa chọn: hay; hay là…
Thứ nhất, hỏi lựa chọn có khuôn hỏi “có … hay không?; hay?; đã… hay chưa?”, S đặt H
trước một sự lựa chọn giữa hai khả năng trả lời. S giả định một trong hai khả năng ấy là đúng với
hiện thực. Xét về thực chất, câu hỏi này không khác câu hỏi có ...không? Điểm khác ở đây là khi
dùng cấu trúc hỏi này, S có dụng ý buộc H phải bày tỏ quan điểm một cách dứt khoát, rõ ràng nội
dung mà câu hỏi đưa ra.
Ví dụ: (6)
a. Gặp đây anh hỏi thực nàng,
Còn không hay đã đá vàng cùng ai?
b. Dao vàng bỏ đãy kim nhung
Hỡi người quân tử có dùng hay không?
c. Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Anh mảng thương nàng biết được hay không?
d. Anh chào nàng rồi lại hỏi nàng:
Phụ mẫu nhà đã định đức đông sàng hay chưa?
e. SP1 - Cô kia má đỏ hồng hồng
Dừng tay tôi hỏi có chồng hay chưa?
SP2 - Có chồng năm ngoái năm xưa
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng.
Khi thiết lập nội dung mệnh đề hỏi, chàng trai hoặc cô gái đưa ra hai lựa chọn và mong muốn
người đối thoại định rõ phần lựa chọn. Chẳng hạn, ở ví dụ 6.a, chàng trai đưa ra hai lựa chọn: “còn
không” là chưa chồng, chưa bị ràng buộc và đã thề hẹn đá vàng, đã ràng buộc với ai đó. Chàng trai
muốn cô gái xác định dứt khoát một trong hai lựa chọn đó: có hay chưa có chồng. Về hình thức,
cách nói có vẻ bóng gió xa xôi nhưng nội dung thì rất cụ thể xác thực đã phản ánh được sự chân
chất, tế nhị của người lao động.
Thứ hai, cũng là hình thức hỏi lựa chọn nhưng S không dùng khuôn hỏi “có…hay không?”
mà biểu thức ngôn hành biểu thị hành động hỏi trong trường hợp này là: S- V - bên nào?. (S: chủ
thể, V: động từ)
Ví dụ: (7)
a. SP1 - Một bên đèn sách văn chương,
Một bên bị gậy, em thương bên nào?
SP2- Bên đèn sách em cũng vì,
Bên bị gậy em thì cũng thương.
b. SP1- Một bên quần rộng áo dài
Một bên cày cấy lấy khoai đổ bồ
Hai bên em chuộng bên mô?
SP2 –Hai bên em chuộng bên bồ khoai lang.
Thứ ba, hỏi lựa chọn có kết cấu “hay là….?”: cũng hỏi lựa chọn nhưng thiên về đoán định. S
cho rằng điều đoán định của mình là đúng nhưng còn hoài nghi khả năng hiện thực của nội dung.
Tuy mang tính chủ quan nhưng người hỏi không dồn ép, áp đặt mà để người người nghe lựa chọn
câu trả lời. Tuy nhiên, do S nghĩ rằng điều mình đoán định là đúng nhưng không chắc chắn và nhận
thấy thông tin đưa ra có khả năng đe doạ thể diện người nghe nên sử dụng một số tác tử thông tin
ngữ dụng bổ trợ gắn với hành động hỏi.
Ví dụ: (8)
Gặp nhau ghé nón không chào,
Hay là em đã có người nào hơn anh?
Thông tin ngữ dụng “gặp…không chào” dẫn đến hành động đoán định “đã có người (khác)”.
Ta hình dung ra ngữ cảnh của phát ngôn: chàng trai và cô gái từng có quan hệ yêu thương. Hiện tại
cô gái biểu hiện thái độ thờ ơ với mối quan hệ đó bằng hành động “không chào”. Căn cứ biểu hiện
của cô gái mà chàng trai đoán cô gái đã có người khác. Chàng trai thực sự mong muốn nhận được
thông tin. Với câu hỏi này, câu trả lời của cô gái có thể là: đã có bạn trai khác; đã có chồng; chưa có
người khác hoặc nêu lí do kèm theo lời giải thích.
a.3) Hành động hỏi chuyên biệt được cấu tạo bằng các đại từ nghi vấn: ai, đâu, sao, nào, bao
nhiêu…
- Hỏi về nguyên nhân: sao/ thế nào, cớ chi?
Hỏi về nguyên nhân thường xuất hiện hai trường hợp. Thứ nhất, S muốn truy tìm nguyên
nhân của sự kiện, hiện tượng. Tức là, S muốn tìm lời giải đáp cho một sự kiện, hiện tượng mà bản
thân không tự giải thích được.
Ví dụ (9)
a. SP1 – Anh cầm cổ tay, anh chỉ cổ tay
Ngày xưa em trắng sao rày em đen?
SP2 – Vì chưng em lấy chồng hèn
Mò cua bắt ốc em đen thế này.
Hoặc
b. Anh thương em chỉ nói bên ngoài
Sao anh không nói tận tay mẹ thầy?
Có thể hình dung ngữ cảnh của câu ca dao trong ví dụ 9.b: chàng trai và cô gái quen nhau đã
lâu, bạn bè xung quanh ai cũng biết. Cô gái muốn có cuộc hôn nhân, muốn chàng trai đến nhà xin
phép bố mẹ “nói tận tay mẹ thầy”, nhưng chàng trai ví lí do nào đó nên không thực hiện mong muốn
của cô gái. Hành động hỏi của cô gái là muốn làm rõ nguyên nhân đó. Trường hợp này cũng có thể
xem là hỏi gián tiếp vì đây có thể là lời thỉnh cầu hay trách cứ. Cô gái trong câu ca dao là người
đoan chính, có lễ giáo, trước khi trao gửi tình cảm muốn chàng trai đến xin phép cha mẹ của mình
hoặc trách chàng trai không thật lòng: chỉ yêu chơi ngoài đường.
Thứ hai, S đứng trước một tình trạng mâu thuẫn: S giả định và chờ đợi như thế này nhưng
thực tế xảy ra như thế khác.
Ví dụ: (10)
Tay em tay bạc tay vàng
Sao anh không chuộng, chuộng nàng tay không?
Theo lẽ thường, nếu được lựa chọn giữa một nơi có nhiều tiền của và một nơi không có gì thì
người ta sẽ lựa chọn nơi lắm bạc nhiều vàng. Chàng trai đã làm điều ngược lại với lẽ thường và như
vậy đã nằm ngoài dự đoán của cô gái. Chàng trai đã chọn người con gái không có tiền của khiến cô
gái muốn tìm hiểu nguyên nhân đó.
- Hỏi về đặc trưng: sao, thế nào, làm sao, là sao?
Ví dụ: (11)
a. SP1- Nếp ngâm mà đậu chưa chà,
Lòng em nói rứa, còn mẹ già nói sao?
SP2 - Nếp ngâm thì đậu cũng xay
Lòng em nói rứa mẹ thầy cũng ưng.
b. Gặp đây anh nắm cổ tay,
Hỏi rằng duyên ấy tình này là sao?
Câu hỏi kiểu này cho thấy, S hỏi về tình trạng, trạng thái của đối tượng. S muốn H cung cấp
thông tin làm sáng rõ điều mà S chưa sáng rõ, chưa chắc chắn. Nội dung câu nói của SP1 trong ví dụ
11.a: hình ảnh nếp - đậu là hình ảnh ẩn dụ biểu thị mối quan hệ giữa cô gái và cha mẹ của cô gái với
chuyện tình cảm của cô gái và chàng trai. Đối với chàng trai, cô gái cũng như nếp ngâm, nghĩa là đã
chấp nhận tình yêu của chàng, chấp nhận chàng trai làm chồng. Còn cha mẹ cô gái giống như đậu
chưa chà, tức là chưa chấp nhận. Câu hỏi của chàng trai là muốn cô gái cho biết thái độ của cha mẹ
cô gái đối với mình. Ví dụ 11.b, chàng trai hỏi tường minh tình trạng tình duyên “duyên ấy tình
này” giữa mình và cô gái.
- Hỏi về sự tồn tại: …đâu?
Ví du: (12)
Hỏi chồng bậu nói rằng không,
Con đâu bậu ẵm, bậu bồng trên tay?
Chàng trai hỏi về sự có mặt của đứa bé mà cô gái đang bồng trên tay, mong muốn cô gái
cung cấp thông tin về nguồn gốc đứa bé. Chàng trai đã có thông tin cô gái chưa lấy chồng, vậy đứa
bé là con ai? Chàng trai không biết nhưng đoán chắc cô gái biết. Do thông tin nói ra là tế nhị, dễ làm
mất thể diện nên chàng trai tạo sự cảm thông bằng lời rào đón về nguyên nhân “hỏi chồng bậu nói
rằng không”. Nếu theo cách hiểu này thì đây là câu hỏi trực tiếp, hỏi về sự tồn tại của sự việc. Tuy
nhiên câu ca dao còn có cách hiểu thứ hai là chàng trai đã xác định đứa bé trên đích thực là con của
cô gái. Câu hỏi của chàng trai là gián tiếp trách móc cô gái đã nói dối.
- Hỏi về địa điểm, nơi chốn: ở đâu, nơi nào, đâu, nơi đâu?
Ví dụ: (13)
a. SP1 - Hỏi chàng quê quán nơi đâu,
Mà chàng thả lưới buông câu chốn này?
SP2 - Quê anh ở phủ Hưng Nguyên
Phú long là tổng, Liệu xuyên là làng.
b. Tiện đây ăn một miếng trầu,
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là?
c. SP1- Bữa ni chàng mới tới nhà
Hỏi chàng coi thử ở xa hay gần?
SP2 - Trước Lam Thuỷ, sau Hồng Sơn,
Nhà nào đọc sách gảy đờn nhà anh.
d. SP1 - Gặp nhau anh muốn tỏ tường
Xin nàng cho biết quê hương nơi nào?
SP2 - Chàng hỏi em phải nói ra
Bắc Ninh là tỉnh huyện nhà không sai.
Với hành động hỏi trực tiếp nơi chốn, phần lớn các cô gái, chàng trai muốn biết quê quán của
nhau, vì cuộc đối đáp thường diễn ra trong ngày hội làng, trai gái nhiều vùng khác nhau kéo đến.
Điều này phù hợp với tính cách người Việt: trước khi trao gửi tình yêu, người ta cần xác định nguồn
gốc, gia cảnh hai bên. Ở ví dụ 13.c, từ câu trả lời của SP2 là nêu địa điểm nơi ở của mình, cho thấy
từ để hỏi “ở gần hay xa” của SP1 là hỏi về nơi chốn. Các câu “bữa ni chàng mời tới nhà, gặp nhau
anh muốn tỏ tường xin nàng cho biết” chỉ là những lời rào đón do phép lịch sự quy định nhằm tránh
gây tổn hại đến thể diện.
- Hỏi về thời gian: mấy, bao giờ?
Đường dài ngựa chạy cát bay,
Chàng về chốn cũ mấy ngày đến nơi?
- Hỏi về thứ tự, số lượng: mấy, bao nhiêu?
Ví dụ: (14)
a. Chàng là con thứ mấy trong nhà,
Mà chàng ăn nói mặn mà có duyên?
......
Để em làm vợ, em trông cậy nhờ.
b. Trăng lên khỏi núi trăng tròn,
Em bao nhiêu tuổi mà giòn thế em?
Trong quan niệm của người Việt, thứ bậc của người con trai trong gia đình có ý nghĩa quan
trọng trong lựa chọn người yêu của người con gái. Thông thường người con trai cả phải gánh vác
nhiều trách nhiệm đối với gia đình, người con trai út thường được hưởng nhiều ưu đãi. Nhiều cô gái
lo ngại trách nhiệm gia đình, không muốn chọn người phải gánh vác gia đình. Người con trai
thường không quan tâm đến thứ bậc của cô gái nhưng lại quan tâm nhiều đến tuổi: tuổi được lấy
chồng, già hay trẻ...
- Hỏi xác định nhân vật thứ ba: ai...?
Ví dụ: (15)
a. Áo anh ai cắt ai may,
Dường tà ai đột, cửa tay ai viền?
b. SP1 - Hỏi anh chìa khoá ai cầm
Giang sơn ai giữ, việc tảo tần ai lo?
SP2 - Chìa khoá đã có mẹ anh cầm
Giang sơn anh giữ, việc tảo tần em lo.
Trường ví dụ 15, S hỏi về một nhân vật thứ ba nào đó vắng mặt trong cuộc thoại mà S chưa
biết, mong muốn H cung cấp thông tin về nhân vật đó. Có khi nhân vật thứ ba đó cũng chính là S và
H nhưng S chưa thực sự xác định được. Ví dụ 15.a. cô gái không biết người đã may áo cho chàng
trai là ai, có thể là vợ cũng có thể là mẹ. Hỏi về nhân vật thứ ba này, cô gái trong câu ca dao trên
muốn xác định “ai” có phải là người yêu của đối tượng không. Ở 15.b, SP1 muốn SP2 xác định danh
tính người đảm nhận những công việc nêu ra.
a.4) Hành động hỏi đố
Xuất hiện khá nhiều trong ca dao đối đáp giao duyên là hình thức hỏi đố. Hỏi đố được xem là
chặng thách thức thử tài trước khi quyết định phát triển quan hệ tình cảm nam nữ. Các chàng trai, cô
gái có thể nhận biết được sự hiểu biết, tình nghĩa của người đang đối đáp với mình qua nội dung hỏi
đố. Trong cấu trúc hỏi đố, ngoài hành động hỏi còn kèm theo các hành động khác như thách thức,
hứa hẹn … Thường hỏi đố dùng cấu trúc hỏi chuyên biệt về người, vật: cái gì? con chi? mấy người
?, tên người – V?
Ví dụ: (16)
Lạ lùng bắt gặp chàng đây,
Có mấy câu này em đoán chưa ra.
Nếu mà anh giảng cho ra,
Thì em kết nghĩa giao hoà cùng anh.
Cái gì trong trắng ngoài xanh,
Cái gì soi tỏ mặt anh mặt nàng,
…. ?
Trên đây, được xem là hỏi trực tiếp bởi chúng đảm bảo 4 điều kiện thoả mãn mà Searle đã
nêu ra. Trong đối đáp giao duyên, việc sử dụng hành động hỏi trực tiếp về các vấn đề tình cảm phần
nào phản ánh được tính cách bộc trực, thẳng thắn của người bình dân.
b) Hành động hỏi gián tiếp
Trong ca dao đối đáp giao duyên, dưới sự tác động của ngữ cảnh, tình huống hành động hỏi
còn được sử dụng với chức năng gián tiếp là: từ chối, bác bỏ, bày tỏ, khuyên, thỉnh cầu, chấp nhận,
trách cứ …
b.1) Hành động hỏi có hiệu lực là từ chối
Ví dụ: (17)
a. SP1 - Tiện đây đưa một miếng trầu
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.
SP2 - Miếng trầu đã nặng như chì,
Ăn thì đã vậy, lấy gì trả ơn?
b. SP1 - Trước đây mỗi đứa mỗi nơi,
Bây giờ giáp mặt hỏi người tính sao?
SP2 - Mẹ cha anh chẳng phải giàu
Thân anh làm mướn, tiền đâu cưới nàng?
Từ chối là hành động ngôn từ liên quan đến một số hành động ngôn từ khác. Tuỳ thuộc vào
loại hành động trao lời mà ta có chiến lược đáp lời từ chối khác nhau. Trong mối quan hệ với hành
động thỉnh cầu, khen, chúc tụng ..., từ chối là phủ định hưởng ứng các hành động diễn ra ở lượt trao
lời. Trong mối quan hệ với hành động hỏi, từ chối là phủ định sự đáp lời… [27-2]. Ở ví dụ 17.a,
Hành động trao lời của SP1 là hành động cho, tặng dưới hình thức cầu khiến và có hiệu lực như lời
bày tỏ. Thoại trường được lí giải như một sự tiện thể, không chủ định trước nên có thể gây cản trở
cho việc tiếp nhận vật cho tặng của SP2 nên SP1 đã sử dụng từ ngữ cầu khiến “cầm lấy cho” mang
sắc thái ép buộc. Để sử dụng chiến lược cho, tặng cầu khiến, SP1 phải có vị trí cao hơn SP2 và SP2
có vị trí thấp hơn, đồng thời không có quyền từ chối. Như vậy, nếu SP2 từ chối sẽ làm tổn thương
thể diện của SP1. Do đó, muốn từ chối phải sử dụng chiến lược từ chối khéo léo. Trường hợp này,
có thể hiểu người cho tặng là chàng trai, vật cho tặng là miếng trầu, người hưởng lợi là cô gái.
Miếng trầu trong giao duyên, theo văn hoá người Việt, là biểu tượng cho tình yêu và sự gắn kết lứa
đôi. Cô gái nhận thấy chưa thể tiếp nhận nó. Câu hỏi của cô gái là lời từ chối tế nhị. Nội dung câu
hỏi chính là lí do từ chối: tình cảm chàng trai quá sâu nặng “miếng trầu nặng như chì” mà cô gái
chưa có (cái) gì xứng đáng để đáp lại tình cảm đó.
b.2) Hành động hỏi có hiệu lực là bác bỏ
Ví dụ: (18)
SP1 - Khăn lông rút gốc đẹp tợ như rồng,
Anh muốn mua cho đội, sợ chồng em ghen.
SP2 - Vịt bầu đòi tắm ao sen,
Chồng tôi chưa có, mà ghen nổi gì?
Câu hỏi của SP2 là hỏi – bác bỏ, hồi đáp cho hành động trần thuật. Nhận diện được hiệu lực
bác bỏ trong câu hỏi của SP2, là do hiệu lực bác bỏ được đánh dấu bằng từ ngữ: chưa có, nổi gì.
Hành động bác bỏ được thực hiện bằng cách chất vấn về sự tồn tại của sự việc “chồng ghen”, có
mặt trong phát ngôn trần thuật của SP1. Nét nghĩa nghi vấn ban đầu của từ gì trong ví dụ trên được
thay thế bằng nghĩa bác bỏ.
b.3) Hành động hỏi có hiệu lực là bày tỏ
Bày tỏ là nói ra cho người khác rõ ý kiến, trạng thái tâm lí của mình đối với một sự kiện nào
đó. Trong ca dao đối đáp giao duyên, hành động hỏi có hiệu lực bày tỏ là hỏi nhằm bày tỏ những
cảm xúc nhớ thương, những mong ước của những chàng trai cô gái. Ví dụ như: (19)
Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.
Mình ơi! có nhớ ta chăng?
Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời.
Ở ví dụ 19, biểu tượng mặt trăng - mặt trời, sao hôm – sao mai biểu trưng cho sự tương xứng
giữa mình và ta. Mặt trăng, sao hôm biểu trưng của đêm và mặt trời, sao mai biểu trưng của ngày.
Ngày gắn với đêm thành cặp. Tuy nhiên, ngày và đêm luôn xa cách cũng như mặt trăng với mặt trời,
sao hôm với sao mai. Mình – ta có thể là chàng trai nói với cô gái hoặc cô gái nói với chàng trai.
Chàng trai – cô gái cũng giống như ngày và đêm. Như vậy, người nói cảm thấy mình với người tiếp
nhận thật đẹp đôi nhưng lại không thành đôi. Tại sao vậy? Có thể là do hoàn cảnh gia đình, hoặc do
người nói chỉ yêu đơn phương … Do đó, câu hỏi của người nói là bày tỏ tình cảm của mình với
người tiếp nhận và mong ước có được tình yêu song phương.
Ví dụ: (20)
SP1 - Gặp em giữa chốn vườn đào
Kẻ giàu, người khó làm sao nên tình?
SP2 - Thế gian chuộng của, chuộng tài
Em đây chuộng nghĩa, chẳng nài giàu sang.
Câu hỏi của chàng trai trong ví dụ 20 không nhằm muốn biết thông tin về cách thức, mà chủ
yếu là để bày tỏ sự lo lắng khi nghĩ đến khoảng cách giàu nghèo, định kiến xã hội, ngăn cách tình
yêu giữa chàng và cô gái. Từ ngữ “làm sao” không chỉ dẫn hiệu lực hỏi mà là cảm thán. Lời đáp của
cô gái là đáp lại lời bày tỏ tình cảm và cũng chính là lời an ủi với hàm ý: không phải trên thế gian ai
cũng coi trọng tiền bạc đâu anh, cũng có người coi trọng tình nghĩa hơn tiền bạc đấy, em chính là
người coi trọng tình nghĩa.
b.4) Hành động hỏi có hiệu lực là khuyên – bày tỏ
Ví dụ: (21)
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Ta có thể hình dung ra ngữ cảnh: trên cánh đồng đêm ấy, có ánh trăng chiếu xuống, dưới
nước có ánh trăng vàng lung linh. Có một chàng trai đang đi ngang qua cánh đồng. Bên đường đi có
cô gái làng đang tát nước một mình. Chàng trai yêu ánh trăng đẹp, thích người tát nước nên buông
lời hỏi “sao cô múc ánh trăng đẹp đổ đi?” Hỏi nhưng ngầm can ngăn, khuyên cô gái hãy dừng gầu
lại, đừng múc ánh trăng đẹp đổ đi. Nhưng dừng gầu lại làm gì? Thật ra là chàng trai muốn cô gái
dừng gầu lại để nói chuyện với mình.
b.5) Hành động hỏi có hiệu lực là trách cứ
Ví d ụ: (22)
SP1 - Bấy lâu anh mắc công chi
Để em nhắn gửi thư đi từ về?
SP2 - Bấy lâu anh mắc cấy cày
Trồng khoai trĩa đỗ lâu ngày nhớ em.
Trong lượt lời đáp của SP2, ta thấy dường như có yếu tố dư thừa là “lâu ngày nhớ em”, bởi lẽ
câu hỏi SP1 không đề cập đến thông tin này. Nhưng khi đọc kĩ lại, ta có thể hình dung ngữ cảnh của
câu ca dao: chàng trai và cô gái có một sự xa cách lâu về thời gian, rộng về không gian; họ chỉ đến
với nhau bằng những lá thư; khi gặp lại nhau chàng trai bằng hành động giải thích đã khẳng định có
nhớ cô gái. Như vậy, không thể có chuyện cô gái không biết lí do tại sao chàng trai không đến thăm
mình. Chỉ có thể là, cô gái cảm thấy khoảng cách thời gian chàng trai đến thăm mình giữa lần này
và lần trước là quá lâu và nghĩ rằng chàng trai không nhớ đến mình nên tỏ thái độ không bằng lòng
buông lời trách cứ kín đáo tế nhị. Từ ngữ mắc công chi kết hợp với ngữ điệu sẽ là IFIDs của hành
động trách cứ.
Hoặc: trong bài ca dao quen thuộc (23)
SP1 - Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!
SP2 - Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Đọc bài ca dao, ai cũng hiểu là cô gái không hỏi về nguyên nhân tại sao chàng trai không hỏi
cưới mình mà gián tiếp thực hiện hành động trách cứ. Hiệu lực trách cứ thể hiện rõ trong các từ ba
đồng một mớ, sao không hỏi. Chỉ cần có ba đồng (không đáng kể) là cô gái và chàng trai đã đến
được với nhau. Thế mà chàng trai đã lừng khừng, thiếu quyết đoán, để cô gái phải lấy người khác
không hạnh phúc, để rồi chàng trai lại nuối tiếc.
b.6) Hành động hỏi có hiệu lực là chấp nhận
Ví dụ: (24)
SP1 – Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng?
SP2 – Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
Câu hỏi của SP1 có hiệu lực là lời cầu hôn. SP1 dùng lối nói ẩn dụ kín đáo “đan sàng – kết
đôi” kết hợp với câu hỏi khái quát “có …được chăng?”, nghiêng về khả năng “có”, bởi lẽ tre không
còn non thì có thể đan sàng, để thực hiện hành động thỉnh cầu một cách khéo léo, giữ gìn được thể
diện. Trong lượt đáp lời, SP2 cũng khéo léo không kém, đáp lại bằng câu hỏi chất vấn tre đủ lá còn
non chăng?, biểu thị ý bác bỏ tính chất “còn non”, khẳng định với SP2 “tre không còn non”. Theo lẽ
thường, tre không còn non thì có thể đan sàng. Do đó, câu hỏi của SP2 mang ý nghĩa chấp nhận lời
cầu hôn.
Sau đây là bảng thống kê các kiểu câu hỏi trực tiếp và gián tiếp:
Kiểu hỏi Số lượng Tỉ lệ
Hỏi trực tiếp - khái quát có …. khổng ?... 65 13.51%
Hỏi trực tiếp - lựa chọn: hay, hay là… 79 16.42%
Hỏi trực tiếp - chuyên biệt: sao , thế nào, ai … 84 17.46%
Hỏi gián tiếp – bày tỏ 80 16.63%
Hỏi gián tiếp - từ chối 40 8.31%
Hỏi gián tiếp - cầu khiến 52 10.81%
Hỏi gián tiếp - trách cứ 66 13.72%
Hỏi gián tiếp - khẳng định 9 1.87%
Hỏi gián tiếp – bác bỏ 2 0.41%
Hỏi gián tiếp – chấp nhận 2 0.41%
Hỏi gián tiếp – giải thích 1 0.20%
Tổng 481 100%
Nhìn vào bảng thống kê này có thể nhận xét rằng: hai cách hỏi trực tiếp và gián tiếp được lựa
chọn tương đương. Hành động hỏi trực tiếp được sử dụng nhiều cho mở đầu cuộc giao duyên. S
muốn biết thông tin cá nhân trước khi trao gửi tình cảm, sự lựa chọn về mặt tình cảm của đối
phương. Có thể nói, hỏi trực tiếp chính là cách bày tỏ tình cảm mạnh mẽ, chân thành, thẳng thắn và
giản dị của người lao động. Hỏi gián tiếp phần lớn được dùng trong trường hợp bày tỏ tình cảm buổi
ban đầu, thăm dò tình cảm của đối phương, bày tỏ nỗi lòng khi yêu đơn phương và trong nhóm
những hành động đe doạ thể diện cao như từ chối, trách cứ, cầu khiến. Dùng hành động hỏi gián
tiếp được xem là chiến lược giảm đe doạ thể diện cả hai phía, để duy trì một cuộc thoại hài hoà. Qua
đây cũng cho thấy được tính cách dịu dàng, tế nhị của người Việt.
2.2.2 Hành động bày tỏ (Expressive)
Hành động bày tỏ trong hội thoại là S dùng lời nói để bày tỏ sự nhận xét, đánh giá hoặc trạng
thái tâm lí, xúc cảm của mình trước sự vật, hiện tượng X nào đó.
Đặc điểm của hành động bày tỏ là nó được phát ra đồng thời với sự xuất hiện của X hoặc khi
X xảy ra rồi mà S gợi nhớ lại, nhắc lại. Đặc điểm này quy định tính thời hiện của hành động bày tỏ,
tức là thời điểm phát ra hành động bày tỏ trùng với thời gian xuất hiện của X, hoặc thời gian tiếp
xúc X của S. S thực hiện hành động bày tỏ là để miêu tả trạng thái tinh thần mà X đã gây ra cho
mình. Thực hiện hành động với hiệu lực tại lời bày tỏ, S nhằm gây ra một phản ứng nào đó ở H.
Trong biểu thức biểu cảm, S là chủ thể của biểu thức đó, và là chủ thể của nội dung bày tỏ.
Nội dung bày tỏ thường là những cảm xúc, trạng thái tâm lí như: ngạc nhiên, vui, buồn, giận, ghét,
sợ, yêu thương, khó chịu, đau khổ, nhớ, mong muốn…
Các động từ ngôn hành thuộc nhóm bày tỏ gồm có: biểu cảm, cảm thán, cảm ơn, chúc mừng,
khen ngợi, phàn nàn, trách cứ .v.v.
Đối tượng khảo sát của chúng ta là ca dao đối đáp giao duyên nên có thể nói hành động bày
tỏ có tần số xuất hiện nhiều nhất. Giãi bày tình yêu là phần trọng tâm của cuộc giao duyên. Đại bộ
phận hành động thuộc nhóm bày tỏ là các hành động biểu cảm, than thở và trách cứ.
2.2.2.1 Hành động biểu cảm
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, năm 2006), biểu cảm là biểu hiện tình cảm,
cảm xúc. Dùng hành động biểu cảm, người nói bộc lộ cái tôi nội tâm vui, buồn, nhớ thương, mong
muốn… trước sự kiện X. Sự kiện X trong ca dao giao duyên chính là vấn đề tình cảm giữa hai nhân
vật đối đáp. Hành động biểu cảm có điểm khác với trách cứ ở chỗ biểu cảm hướng về người nói,
còn trách cứ hướng đến người nghe. Có nghĩa là, biểu cảm bày tỏ cảm xúc, trạng thái tâm lí của S
trước X và trạng thái tâm lí thường mang tính tích cực. Ở hành động trách cứ, S trách cứ H vì H là
người tạo ra X và X đã gây ra một hiệu quả tiêu cực tới S. Trạng thái tâm lí của S mang tính tiêu
cực.
a) Hành động biểu cảm trực tiếp
Biểu cảm trực tiếp là các cảm xúc, trạng thái tâm lí của S được biểu hiện một cách tường
minh bằng các động từ biểu hiện trạng thái tình cảm như: thương, nhớ, yêu, say, mong, muốn,
mừng, ước, tiếc, sợ, e ngại, sầu, đau xót…
Ví dụ: (25)
a. Anh thương em thương thảm thiết vô cùng,
Biết rằng cha mẹ có bằng lòng hay không?
b. Bông phù dung sớm nở tối tàn,
Em sợ anh nói gạt qua đàng bỏ em.
c. Gặp đây anh nắm cổ tay,
Anh yêu vì nết, anh say vì tình.
Các động từ thể hiện trạng thái tình cảm mà chúng tôi thống kê trong tư liệu của mình thì
thương (388 lần), nhớ thương (33 lần), yêu (30 lần), nhớ (51 lần), mừng (11 lần), say (10 lần), muốn
(48 lần), mong (12 lần), ước (28 lần), sợ (41 lần), sầu (17 lần), buồn (12 lần), tiếc (27 lần), đau xót
(4 lần), giận (1 lần). Như vậy, trạng thái tình cảm tích cực như thương, nhớ chiếm tỉ lệ cao, nổi bật
là thương. “Thương” trong giao duyên cũng chính là “yêu”. Tình yêu đôi lứa trong ca dao rất mạnh
mẽ và sâu sắc, kiên quyết, chung tình, bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Trạng thái tình cảm của
nam và nữ cũng có chút khác nhau. Chẳng hạn, nam thường bộc lộ tình cảm thương, yêu, muốn,
say, tiếc nhiều hơn nữ. Nữ bộc lộ trạng thái nhớ, sợ, ước, sầu, buồn nhiều hơn nam. Điều này cho
thấy, trong tình yêu người con gái thường chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh hơn người con trai. Biểu
hiện trực tiếp trạng thái cảm xúc của mình chính là thể hiện khát vọng được sống thật với lòng
mình, vượt qua những ràng buộc của lễ giáo.
b) Hành động biểu cảm gián tiếp
Hành động biểu cảm gián tiếp là S thông qua hành động khác để bày tỏ các trạng thái tình
cảm của mình.
b.1) Hành động biểu cảm được biểu hiện gián tiếp qua hành động hỏi
(26) Ai về phố Hội sông Cầu,
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai?
Hình thức của câu ca dao là hỏi nhưng không phải muốn biết thông tin về thực thực thể ai.
Theo phương pháp chiếu vật, có thể khẳng định ai chính là người nói. Người nói bày tỏ cảm xúc
thương, nhớ, sầu của mình khi phải chia tay.
Trong mục hỏi gián tiếp, chúng tôi cũng đã trình bày kĩ hơn về vấn đề này.
b.2) Hành động biểu cảm được thực hiện gián tiếp qua hành động cầu khiến
(27) Hỡi người gánh nước truông mây
Cho xin một gáo tưới dây tơ hồng.
Bản chất của hành động thỉnh cầu là S muốn H thực hiện hành động A. Ở đây thực chất
không phải S muốn H cho một gáo nước. Việc xin gáo nước chỉ là cái cớ. Bởi lẽ, dây tơ hồng là
một loại cây sống kí sinh không cần phải tưới, trong văn học nó là sợi chỉ đỏ mang nghĩa biểu trưng
cho tình duyên. Do đó, H nhận ra S đang bày tỏ nỗi lòng yêu thương của mình.
b.3) Hành động biểu cảm được thực hiện gián tiếp qua hành động trần thuật
+ Trần thuật - khẳng định
(28) Tai nghe em bậu chóng hồi,
Cũng bằng anh uống một nồi nhơn sâm.
Chàng trai qua hành động khẳng định, với phương thức so sánh, bày tỏ trạng thái tình cảm
mừng vui trước sự kiện người thương phục hồi sức khoẻ.
+ Trần thuật - kể
(29) Ông tơ hồng nói nhỏ anh nghe,
Để xong mùa cấy, ổng xe cho hai đứa mình.
Cô gái nhận ra lực ngôn trung của câu chuyện về lời nói của ông tơ hồng là chàng trai đang
bày tỏ tình cảm yêu thương với mình vì ông tơ hồng không tồn tại trong thực tế.
2.2.2.2 Hành động cảm thán
Cảm thán là hành động ngôn từ mà ở đó người nói bộc lộ cảm xúc của mình trước một sự
kiện nào đó có tác động đến họ, gây ra một trạng thái cảm xúc ở mức độ cao buộc họ phải nói ra.
Hành động cảm thán thường do những động từ như than, than thở, reo, trầm trồ… biểu thị. Nhưng,
những động từ này đều mang chức năng miêu tả mà không mang chức năng ngôn hành nên biểu
thức ngôn hành của hành động cảm thán thường là biểu thức ngôn hành nguyên cấp chứ không phải
biểu thức ngôn hành tường minh.
Ví dụ: (30)
Mấy khi rồng gặp mây đây,
Để rồng than thở với mây vài lời.
Nữa mai rồng ngược mây xuôi
Biết bao giờ lại nói lời rồng mây.
Thực tế, trong tiếng Việt, rất ít hành động cảm thán được biểu thị bằng các động từ nêu trên
mà các IFIDs biểu thị hành động cảm thán chính là các phụ từ chỉ mức độ, tổ hợp thán từ như: chao
ôi, trời ơi, nỡ nào, lắm, quá … đứng một mình hoặc trước và sau từ chỉ trạng thái tính chất, hoặc
trước và sau mệnh đề.
Ví dụ: (31)
- Trời ơi là trời!
- Cái áo đẹp lắm!
- Con khát nước quá!
Trong ca dao đối đáp giao duyên, do quy định của cấu trúc văn bản nghệ thuật, biểu thức
ngôn hành biểu thị hành động cảm thán không có dạng chỉ có phụ từ chỉ mức độ mà chỉ có dạng là:
p + phụ từ chỉ mức độ.
Ví dụ: (32)
a. Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi!
Nhớ chỗ chàng đứng, nhớ nơi chàng nằm.
b. Cái nón của chàng đẹp lắm chàng ơi!
Chàng cho thiếp mượn che trời nắng mưa.
Trong hoạt động giao tiếp thông thường, hành động cảm thán chủ yếu được thực hiện trực
tiếp, nhưng trong ca dao giao duyên hành động cảm thán chủ yếu được thực hiện qua hành động
hỏi, trần thuật và trách cứ.
- Hành động cảm thán được thực hiện gián tiếp bằng hành động hỏi
Ví dụ: (33)
Ao hồ cá lội trông sao,
Em có chồng rồi, anh biết liệu sao bây giờ?
Thực hiện hành động hỏi nhưng chàng trai trong ví dụ 33 không mong muốn có được thông
tin mà chỉ muốn bày tỏ sự đau khổ quá mức chịu đựng. Chàng trai nghe tin cô gái lấy chồng đã thốt
lên lời đau đớn đó. Câu hỏi này còn được gọi là câu hỏi tu từ, một hình thức hỏi để bày tỏ.
- Hành động cảm thán được thực hiện gián tiếp bằng hành động trần thuật
Ví dụ: (34)
Chờ anh em gắng sức chờ,
Chờ hồi mười bảy, bây giờ ba muơi.
Hành động trần thuật bình thường là hành động chứa đựng thông tin mà H quan tâm nhưng
không bộc lộ cảm xúc của S, còn khi nó có hiệu lực tại lời chủ yếu là bày tỏ cảm xúc bên cạnh nội
dung thông tin thì nó gián tiếp thực hiện hành động bày tỏ. Ở ví dụ 34, cô gái vừa khẳng định thời
gian chờ đợi vừa bộc lộ sự xót xa của mình trước sự chờ đợi đã lấy mất đi nhan sắc, tuổi xuân, cái
quý giá nhất của người con gái.
- Hành động cảm thán được thực hiện bằng hành động trách cứ
(35) Người ta trắng nõn trắng nà,
Mình đen thui thủi như là củi thui.
Trách bà mụ khéo trêu ngươi,
Nặn người thế ấy, nặn tui thế này.
Trong hành động trách cứ trực tiếp, đối tượng bị trách cứ là H vì H tạo ra X mà X gây ra hiệu
quả tiêu cực đến S. Nhưng ở đây, đối tượng bị trách cứ không phải H mà là một nhân vật hư cấu, do
đó S không nhằm mục đích trách cứ mà chỉ thốt ra lời cảm thương cho nỗi đau khổ bất hạnh của
mình: chỉ vì xấu xí nên không xứng với người mình thương.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong nhóm cảm thán, đa phần là những lời than thở khi
yêu tan vỡ. Có nhiều trường hợp than thở gắn liền với trách cứ:
(36) Cha mẹ biểu ưng em đừng mới phải,
Em nỡ lòng nào bạc ngãi bỏ anh
2.2.2.3 Hành động trách cứ
Hành động trách cứ được thực hiện khi S tỏ thái độ không bằng lòng với điều mà H thực
hiện. S cho rằng điều mà H thực hiện là không đúng hoặc gây bất lợi cho người nào đó, kể cả S và
H. Khi thực hiện hành động trách cứ, người nói còn mong muốn điều đó đừng xảy ra nữa. Hồi đáp
cho hành động trách cứ thường là hành động giải thích, xin lỗi hoặc bác bỏ.
a) Hành động trách cứ trực tiếp
Hành động trách cứ trực tiếp là hành động trách cứ có lực tại lời tương ứng với hình thức câu
chữ dùng để biểu thị hành động. Trong ca dao giao duyên, hành động trách cứ được biểu thị bằng
biểu thức ngôn từ hội tụ được hai điều kiện sau:
+ Có chứa động từ ngôn hành biểu thị ý trách cứ: trách
+ Chủ thể - người thực hiện hành động trách cứ phải ở ngôi thứ nhất và người bị trách cứ là
đối thể - phải ở ngôi thứ hai. Tuy nhiên, chủ thể hành động có thể vắng mặt.
So sánh hai phát ngôn sau: (37)
a. Trách ai tham phú phụ bần,
Tham xa mà bỏ ngãi gần thuở xưa.
b. Trách ai đem khoá rẽ chìa,
Vu oan giá hoạ mình lìa tôi ra.
Cả hai phát ngôn trên đều chứa động từ ngôn hành trách nhưng ở phát ngôn 37.b không phải
là hành động có hiệu lực trách cứ trực tiếp mà là gián tiếp thực hiện hành động than thở, vì đối thể
không đúng ngôi quy định.
Vậy, ta có biểu thức ngôn hành của hành động trách cứ trực tiếp là:
Trách - S2 – Vp
(S2: đối thể bị trách cứ, Vp: động từ biểu thị nội dung trách cứ)
Ngoài ra, còn có thành phần nêu lí do trách cứ.
Ví dụ: (38)
Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Hành động trách cứ trực tiếp ít được sử dụng trong ca dao đối đáp giao duyên, chỉ có 21 đơn
vị, chiếm 15.1 % trên tổng số 139 đơn vị trách cứ. Nội dung trách cứ chủ yếu là trách đối thể tham
sang phụ khó, tham vàng bỏ ngãi. Có thể nói, do hành động trách cứ là S tỏ thái độ không hài lòng
với hành động A của H và thường diễn ra khi S đang trong trạng thái không vui nên đe doạ trầm
trọng thể diện người bị trách cứ. Vì vậy, để giảm thiểu tính chất đe doạ thể diện, người nói sử dụng
chiến lược trách cứ gián tiếp nhiều hơn.
b) Hành động trách cứ gián tiếp
b.1 Hành động trách cứ được thực hiện gián tiếp qua hành động hỏi
Chiến lược trách cứ bằng hành động hỏi thường sử dụng kiểu hỏi có chứa các đại từ ai, sao,
đâu … Tiêu chí để phân biệt hỏi – trách cứ và hỏi trực tiếp (hỏi chính danh) là nội dung p của câu
hỏi. Với hỏi - trách cứ, có một sự tình được phản ánh trong nội dung p là bằng chứng cho thấy hành
động A của H chứa đựng mâu thuẫn trái với lẽ thường còn với hỏi trực tiếp là để truy tìm thông tin
về người thứ ba, nguyên nhân, về sự tồn tại của X …
Ví dụ: (39)
Ghe lên ghe xuống dầm dề,
Sao anh không gửi thư về thăm em?
Trong biểu thức hỏi, hành động không gửi thư trong hoàn cảnh thuận lợi về phương tiện (ghe
lên xuống dầm dề) là chứa đựng mâu thuẫn, trái với lẽ thường.
Trong ca dao giao duyên, trách cứ bằng biểu thức hỏi có tần số xuất hiện cao: 66/139 đơn vị,
chiếm 47.48%. Nội dung trách cứ là quên lời thề hẹn, lừa dối về quan hệ gia đình, nghe lời gièm
pha mà từ bỏ tình yêu, chàng trai dùng dằng không dứt khoát sau đó tiếc nuối, chạy theo tình yêu
mà quên nghĩa cha mẹ, sớm quên tình cũ …
b.2 Hành động trách cứ được thực hiện gián tiếp qua hành động trần thuật
Ví dụ: (40)
Ngỡi nhân bạc tợ con mèo,
Hỏi xin đồng bạc than nghèo không cho.
Người ta cho bạc cho vàng,
Ngỡi nhân của em, xin thước vải vá quàng cũng không cho.
Ở ví dụ 40, người nói nêu lên một hiện thực. Tuy nhiên, nếu đối tượng “ngỡi nhân” không
phải ở ngôi thứ hai mà là ngôi thứ ba thì phát ngôn trên có hiệu lực tại lời là trần thuật - kể, khẳng
định. Nếu “ngỡi nhân” ở ngôi thứ hai thì hiệu lực tại lời của câu không nhằm mục đích tái hiện hiện
thực khiến người ta đồng tình mà nhằm tỏ thái độ không bằng lòng, tức là gián tiếp trách cứ. Từ đặc
trưng thể loại, có thể quy chiếu “ngỡi nhân” chính là đối thể giao tiếp. Trách cứ bằng hình thức trần
thuật không được dùng nhiều trong ca dao giao duyên.
2.2.3 Hành động cầu khiến (Directive)
Hành động cầu khiến là hành động được thực hiện ngay trong lời nói. Người nói dùng ngôn
từ đưa ra một yêu cầu nào đó, mong muốn người nghe thực hiện. Theo sự phân loại của Searle,
những hành động thuộc nhóm cầu khiến gồm có: ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo, cấm đoán,
khuyếjn cáo, dặn dò, nhắn nhủ, nhờ vả, thỉnh cầu…. Để sử dụng hành động cầu khiến đạt hiệu quả
đúng với đích cầu khiến, cần thoả mãn bốn điều kiện sau:
Điều kiện nội dung mệnh đề: Hành động A trong tương lai của H.
Điều kiện chuẩn bị:
1) H có khả năng thực hiện A. S cho rằng H có khả năng thực hiện A.
2) Nếu không cầu khiến thì cả đối với S, với H đều không chắc chắn H sẽ thực hiện A
bất kể thế nào.
Điều kiện chân thành: S mong muốn H thực hiện A.
Điều kiện căn bản: Nhằm dẫn H đến việc thực hiện A.
Tuỳ theo lực tại lời mà các hành động cầu khiến có thể có những tác động tích cực (làm lợi)
hay tiêu cực (làm thiệt hại) khác nhau cho S và H. Chẳng hạn, ở hành động yêu cầu, ra lệnh, nhờ vả
… thường là S được lợi, H bị thiệt còn ở hành động khuyên, an ủi,mời… thì H được lợi. Sự tác động
tích cực hay tiêu cực này làm cho hành động cầu khiến tiềm tàng sự đe dọa thể diện cao. Do đó, để
đạt hiệu quả giao tiếp, người nói cần có chiến lược giao tiếp phù hợp.
Kết quả khảo sát cho thấy, hành động cầu khiến xuất hiện nhiều trong lời đối đáp của ca dao
giao duyên tiếng Việt. Tuy nhiên, đối với hành động cầu khiến trực tiếp, đại đa số chúng không
được thể hiện bằng những động từ ngôn hành tường minh như: yêu cầu, đề nghị, khuyên, nhờ.v.v mà
được biểu hiện bằng các yếu tố tình thái mang nghĩa cầu khiến như: nên, cần, hãy, đừng, chớ… ,
nhiều nhất là đừng. Do những hành động cầu khiến được biểu thị bằng các phụ từ, tình thái từ nên
thường có nội dung cầu khiến rất chung chung khó xác định chúng thuộc hành động cụ thể nào: yêu
cầu, đề nghị hay khuyên bảo… Muốn xác định phải dựa vào ngữ cảnh, ngữ điệu, người hưởng lợi,
địa vị của vai giao tiếp...
Ví dụ: (41)
a. Trăng lên con nước rong đầy,
Anh đừng đến nữa má rầy khổ em.
b. Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình,
Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ.
c. Anh về mắc võng nuôi con
Đừng nên tơ tưởng trái chanh non cuối mùa.
Ba câu trên đều có cấu trúc cầu khiến: đừng – Vp, tuỳ theo ngữ cảnh, ngữ điệu mà có thể
41.a biểu thị hành động thỉnh cầu, 41.b biểu thị hành động yêu cầu, 41.c biểu thị hành động khuyên
can.
Kết quả khảo sát còn cho thấy, trong ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt chỉ xuất hiện các
hành động thuộc nhóm cầu khiến là khuyên, thỉnh cầu, yêu cầu, dặn dò, nhắn nhủ, thách thức và
mời. Ở đây do giới hạn của luận văn chúng tôi chỉ trình bày khái quát ba hành động xuất hiện với
tần số cao.
yêu cầu khuyên thỉnh dặn dò / thách thức / mời nhờ tổng
nhắn nhủ khuyến cáo cầu
57 124 15 15(-thách đố) 13 6 352 122
16.19% 35.22% 34.65% 4.26% 4.26% 3.69% 1.70% 100%
Hành động khuyên: bằng ngôn ngữ S ân cần bảo H nên thực hiện hành động A nào đó trong
tương lai. S có những lí do cho rằng A có lợi cho H.
Ví dụ: (42)
Anh ra đi cay đắng như gừng,
Đường xa xôi ngàn dặm, khuyên em đừng nhớ thương.
Chàng trai trong ví dụ 42 cho rằng mình ra đi có thể không trở về nên khuyên cô gái đừng
nhớ thương và quên chàng đi mà tìm hạnh phúc cho riêng mình.
Hành động thỉnh cầu là hành động mà theo đó S cố gắng sao cho H thực hiện hành động A
trong tương lai như mình mong muốn, hành động A về cơ bản là có lợi cho S. Thỉnh cầu có thể là
người thỉnh cầu ngỏ ý với người tiếp nhận thỉnh cầu cho/không cho mình một cái gì đó (thuộc vật
chất), cho phép mình làm điều gì đó hoặc người tiếp nhận thực hiện/không thực hiện việc gì đó. Các
động từ ngôn hành có cùng chức năng biểu thị hành động thỉnh cầu gồm có xin, van, lạy, cầu xin,
cầu mong, nhờ.
Ví dụ: (43)
Hành động cầu xin:
Em như hoa đã nở rồi,
Xin chàng che lấy mặt trời cho tươi.
Hành động nhờ vả:
Áo anh rách lỗ bằng sàng,
Mẹ anh già yếu, cậy nàng vá may.
Yêu cầu là hành động mà theo đó S tỏ ý muốn H thực hiện hành động A trong tương lai. S
cho rằng H có khả năng thực hiện A và việc thực hiện A là trách nhiệm, nghĩa vụ của H.
(44) Dù anh bẻ lá vin cành
Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò.
Nhìn chung, hành động khuyên bảo và thỉnh cầu được các vai nam, nữ, đặc biệt là nữ trong
cuộc hát đối đáp giao duyên lựa chọn nhiều để bày tỏ mong muốn của mình trong các vấn đề tình
cảm. Đích cuối cùng của cuộc giao duyên là tình yêu. Tuy nhiên, lễ giáo phong kiến với những quan
điểm khắt khe về tình yêu nam nữ, do cuộc sống nghèo khó, do chế độ gia trưởng khiến cho tình
yêu của họ gặp nhiều trắc trở và làm cho người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Do đó, khi đến với
tình yêu, người phụ nữ thường mang theo mình trạng thái tâm lí sợ tan vỡ, sợ bị lừa dối và mong
muốn có được tình yêu chân thành. Thỉnh cầu trong tình yêu, người nói đề cao thể diện của người
nghe, đồng thời thể hiện thái độ mềm mỏng, thân tình và chân thành khiến cho lời cầu khiến mang
tính thuyết phục cao.
a) Hành động cầu khiến trực tiếp
Hành động cầu khiến trực tiếp là hành động được biểu hiện trực tiếp bằng các động từ ngôn
hành cầu khiến và các phương tiện đánh dấu hiệu lực cầu khiến, bộc lộ rõ mục đích cầu khiến của
mình. Dưới đây là một số phương thức biểu thị hành động cầu khiến trực tiếp thường gặp trong ca
dao đối đáp giao duyên.
a.1) Hành động cầu khiến trực tiếp có biểu thức: S1- Vnhck –S2 - (Vttck) – Vp
Trong biểu thức trên, Vnhck: động từ ngôn hành cầu khiến; S1: chủ thể của hành động được
cầu khiến; S2: người tiếp nhận hành động cầu khiến; Vttck: phương tiện ngữ pháp đánh dấu sự cầu
khiến nằm ở các phụ từ và các tình thái từ cầu khiến; Vp: động từ biểu thị nội dung cầu khiến.
(Vttck có thể có hoặc không).
Ví dụ: (45)
+ Biểu thị hành động khuyên:
Bước xuống ghe ba lần không dứt,
Khuyên em vào chỗ khuất anh lui.
+ Biểu thị hành động thỉnh cầu :
Chẳng yêu nhau được thì thôi,
Xin chàng đừng tẩy nước vôi mà nồng.
+ Biểu thị hành động dặn dò:
Ra về dặn bạn cho bền,
Dù ai xoay hướng trở nền mặc ai.
+ Biểu thị hành động mời:
Anh kia lịch sự đi đàng,
Mời anh hãy ghé vào hàng nghỉ ngơi.
Các từ khuyên, xin, dặn, mời là các động từ ngôn hành tường minh biểu thị hành động cầu
khiến. Khi nói chúng ra là người nói đã thực hiện ngay hành động tại lời mà chúng biểu thị. Chẳng
hạn, khuyên biểu thị hành động khuyên. Trong giao duyên, do tính chất tế nhị, lịch thiệp mà các
nhân vật giao tiếp không sử dụng các động từ ngôn hành mang tính áp đặt cao, dễ làm mất thể diện
người nghe như ra lệnh, đề nghị…
a.2) Hành động cầu khiến trực tiếp có biểu thức: S2 – Vttck – Vp
Các phương tiện từ vựng - ngữ pháp đánh dấu ý nghĩa cầu khiến trong mô hình này là các
phụ từ, vị từ tình thái cầu khiến: hãy đừng, chớ, nên, cho, ráng… đứng trước vị từ chỉ nội dung cầu
khiến. Hành động cầu khiến được biểu thị bằng biểu thức này chiếm số lượng rất lớn. Đây được gọi
là biểu thức ngôn hành cầu khiến nguyên cấp, tức là không dùng động từ ngôn hành cầu khiến
tường minh.
Ví dụ: (46)
Biểu thị hành động khuyên:
Chàng ơi! Chớ giận thiếp cùng
Xá cho bèo bọt anh hùng giận chi.
Biểu hiện hành động thỉnh cầu:
Đôi mình mới gặp hôm nay,
Cho hôn một chút em Hai đừng phiền.
Biểu hiện hành động yêu cầu:
Anh đừng có bỏ giọng trầm,
Đừng ham tiếng ngọt mà cầm duyên em.
Kìa kìa sao mai đã mọc
Để anh ra về đi học kẻo trưa.
Các từ đừng, chớ, cho, để là phương tiện ngữ pháp biểu thị ý nghĩa cầu khiến nguyên cấp.
Tuỳ theo ngữ cảnh, ngữ điệu mà chúng tương ứng với các hành động cầu khiến tường minh yêu
cầu, khuyên, thỉnh cầu.... Các từ đừng, chớ có nghĩa yêu cầu không thực hiện hành động nào đó;
cho biểu thị một đề nghị, mong muốn người nghe cho phép được làm điều gì đó. Ở biểu thức này,
chức năng biểu thị nghĩa cầu khiến giống như các từ đừng, chớ, cho còn có các động từ hãy, nên,
phải… Nhưng ngược lại với đừng chớ, các từ hãy, nên, phải là yêu cầu thực hiện hành động nào đó.
a.3) Hành động cầu khiến có biểu thức: S2 – Vp – Tck (Tck: các tiểu từ tình thái cuối câu
biểu thị nghĩa cầu khiến)
Ví dụ: (47)
Hành động yêu cầu:
Anh lui về mà cưới vợ con đi,
Em đây còn hải hà muôn dặm, can sự gì mà hỏi han?
Hành động thỉnh cầu:
Khoan khoan xin đó buông chèo,
Đợi đây theo với, nước bèo hiệp nhau.
Hành động khuyên:
Liệu cơm mà gắp mắm ra,
Liệu cửa liệu nhà em lấy chồng đi.
Các từ đi, với là tiểu từ tình thái biểu thị ý cầu khiến thân mật.
a.4) Hành động cầu khiến thể hiện bằng động từ có tính chất gây khiến biểu thị nội dung cầu
khiến có biểu thức: S2- Vgk (động từ gây khiến)
Nhóm động từ này là những động từ chỉ hoạt động tác động đến đối tượng để gây ra một kết
quả nào đó. Kết quả đó có thể là thay đổi trạng thái, tư thế của đối tượng.
Ví dụ: (48)
Đò đưa một chuyến năm tiền,
Bớ cô bán bột, xuống thuyền tôi đưa.
Anh về học kĩ chữ nhu,
Chín trăng em đợi, muời thu em chờ.
Do hành động cầu khiến tiềm ẩn sự đe doạ thể diện của H (nó hạn chế quyền tự do hành
động của H, động chạm đến lãnh thổ riêng tư của H) cho nên để hạn chế đe doạ thể diện, tăng tính
lịch sự, người nói thường dùng các hình thức cầu khiến có mức áp đặt thấp như khuyên, thỉnh cầu,
nhờ, có đi kèm các phụ từ tình thái và chọn hướng cầu khiến từ H thay vì từ S bằng cách đặt H ở vị
trí chủ đề hay hô ngữ. Các từ tình thái này ảnh hưởng sâu sắc đến tính lịch sự, tính mạnh hay yếu
của mức độ cầu khiến.
b) Hành động cầu khiến gián tiếp
Đây là hành động tại lời cầu khiến được thực hiện dưới hình thức của một hành động tại lời
khác. Theo khảo sát của chúng tôi, hầu hết các hành động cầu khiến trong ca dao đối đáp giao
duyên đều được thực hiện gián tiếp qua hành động hỏi - chất vấn với hàm ý bác bỏ. Hiệu lực tại lời
dễ nhận ra khi nó có hành động hồi đáp là từ chối hoặc chấp nhận.
Ví dụ: (49)
SP1 – Sông sâu nước chảy, con cá cháy giữa dòng,
Thấy anh em lại vừa lòng,
Tuổi em còn nhỏ, anh chờ đôi năm thế nào?
SP2 – Em ơi tuổi xuân một thuở hoa đào,
Phải duyên nên chồng vợ đợi ong bướm vào làm chi?
Lượt lời hồi đáp của SP2 có hiệu lực tại lời là từ chối thông qua biểu thức ngôn hành hỏi –
bác bỏ. Căn cứ vào đó, ta nhận thấy câu hỏi của SP1 chính là lời cầu khiến.
Chất vấn tạo hàm ý bác bỏ là phương thức tạo lối nói mềm mỏng, nhẹ nhàng hơn lối nói phủ
định trực tiếp.
(50) Tua rua đã xế ngang đầu
Em còn ở lại làm giàu cho cha.
Giàu thì chia bảy chia ba,
Phận em là gái được là bao nhiêu.?
Trong ví dụ 50, hành động khuyên bảo được thực hiện qua câu hỏi chất vấn về tính có lợi của
hành động. Câu chất vấn “được là bao nhiêu?” có hàm ý bác bỏ tính chất có lợi đó. Ở đây, người
nói khẳng định hành động không đi lấy chồng mà “ở lại làm giàu cho cha” của cô gái không mang
lại lợi ích. Do đó, hiệu lực tại lời của câu hỏi chất vấn là khuyên cô gái nên đi lấy chồng.
(51) Ra về chi vội bạn ơi!
Ta đang vui với bạn, bạn vội rời bỏ ta.
Để biểu thị hành động thỉnh cầu, người nói chất vấn về mục đích hành động “vội về” của
người nghe. Từ “chi vội” có ý nghĩa phủ định mục đích hành động đó. Đồng thời với việc phủ định
là khẳng định mong muốn người nghe đừng về.
(52) Nước dưới sông lững lờ
Gió đưa mây vật vờ,
Tơ duyên đã sờ sờ,
Qua đây bậu đó, còn chờ đợi chi?
Tương tự, với phát ngôn này chàng trai ngầm ý đề nghị cô gái đừng nên kén chọn nữa mà
chấp nhận lấy chàng trai.
Trong một số trường hợp, hành động cầu khiến được thực hiện gián tiếp có phần tế nhị hơn
hành động cầu khiến trực tiếp. Chẳng hạn, chàng trai gián tiếp khuyên cô gái nên lấy chồng (ví dụ
50) sẽ làm cô gái cảm thấy ít bị xúc phạm hơn là trực tiếp khuyên bảo “em lấy chồng đi”. Do đó,
hành động cầu khiến gián tiếp thường tạo ra một cuộc thoại tích cực, vị thế người đưa ra hành động
cầu khiến thường cao hơn vị thế của người tiếp nhận.
Bảng thống kê số lượng hành động cầu khiến trực tiếp và gián tiếp
Nhóm hành động số lượng tỉ lệ
Hành động cầu khiến trực tiếp 305 86.64%
Hành động cầu khiến gián tiếp 47 13.35%
Tổng 352 100%
Kết quả thống kê cho thấy ở nhóm hành động cầu khiến thì cầu khiến trực tiếp chiếm số
lượng lớn hơn nhiều so với cầu khiến gián tiếp. Bày tỏ tường minh nội dung cầu khiến đã phản ánh
được tính cách bộc trực, chân thành cũng như sự mạnh mẽ quyết liệt trong quan hệ tình cảm của
người lao động. Chủ thể của hành động cầu khiến đa phần là vai giao tiếp nữ. Điều này đã phản ánh
thái độ chủ động bày tỏ tình cảm cũng như tinh thần phản kháng, đấu tranh cho tình yêu tự do của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Cần lưu ý ranh giới giữa các hành động yêu cầu, khuyên bảo và thỉnh cầu trong ca dao đối
đáp giao duyên tỏ ra khá mờ nhạt. Để xác định cụ thể các hành động này, chúng ta xét điều kiện
chuẩn bị của hành động: địa vị xã hội, người hưởng lợi và một số đặc điểm hình thức đánh dấu lực
ngôn trung: dấu hiệu tỏ rõ tính chất bắt buộc trong yêu cầu, không bắt buộc trong khuyên bảo…
Thường đối với hành động yêu cầu và khuyên bảo, SP1 luôn ở địa vị cao hơn; với hành động thỉnh
cầu, SP1 có địa vị thấp hơn. Nhưng trong ca dao giao duyên, SP1 và SP2 là các chàng trai, cô gái có
cùng địa vị. Thường các chàng trai có vị thế cao hơn nhưng cũng có khi cô gái tự cho mình có vị thế
cao hơn. Trong hành động yêu cầu và thỉnh cầu, SP1 là người hưởng lợi còn với khuyên bảo thì SP2
là người hưởng lợi nhưng ở đây rất khó nói ai là người có lợi . Ở các trường hợp trên, nếu người nói
nói với thái độ hạ mình thì biểu thị ý nghĩa thỉnh cầu, nói với thái độ ân cần là khuyên bảo, còn nói
với thái nghiêm trang, bực bội thì đó là lời yêu cầu. Tuy nhiên, vấn đề thái độ, ngữ điệu lại không
được đề cập tường minh trong ca dao nên việc phân loại các hành động trên mang tính chất chủ
quan của người viết.
2.2.4 Hành động tái hiện (Representative)
Theo bảng phân loại của Searle, hành động tái hiện là một phạm trù lớn trong đó có nhiều
hành động nhỏ như: trần thuật, đoán định, tuyên bố, thú nhận, kết luận, từ chối, bác bỏ.v.v.. Hành
động tái hiện phải thoả mãn những điều kiện sử dụng sau:
Điều kiện nội dung mệnh đề: bất cứ mệnh đề p nào.
Điều kiện chuẩn bị:
1) S phải nói điều mình cho là đúng và phải có bằng chứng.
2) Cả S và H đều không chắc rằng H đã biết p nếu không nói ra.
Điều kiện chân thành: S tin vào điều mình nói.
Điều kiện cơ bản: p phản ánh một sự kiện có thực.
Ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt xuất hiện khá nhiều những hành động thuộc nhóm tái
hiện, tập trung nhiều nhất là trần thuật (kể, thông báo, khẳng định, đánh giá) và từ chối.
2.2.4.1 Hành động trần thuật
Hành động trần thuật là bằng ngôn ngữ S kể lại cho H một sự kiện X mà S đã chứng kiến với
giả thiết là H chưa biết về sự kiện này. Mặt khác khi kể lại X thì S giả thiết rằng X phải nằm trong
sự quan tâm của H, có khả năng gây hứng thú cho H. Thêm nữa, khi kể S phải khẳng định sự có mặt
của X và miêu tả tỉ mỉ các biểu hiện của X. Như vậy, X phải là cái có trước, là hiện thực tồn tại
trước, trong thời điểm nói. Căn cứ vào đặc điểm này có thể nói hành động trần thuật là thuật ngữ
bao hàm các hành động có tên gọi là thông báo, kể, miêu tả, khẳng định.
Để nhận diện hiệu lực tại lời của hành động trần thuật, theo Đặng Thị Hảo Tâm: [78 -54]
hành động trần thuật, tức hành động do biểu thức miêu tả / thông báo / kể / đánh giá tạo ra. Do biểu
thức ngôn hành miêu tả không có các IFIDs đặc trưng để chỉ ra các hiệu lực tại lời nên rất dễ lẫn với
các biểu thức ngữ vi nguyên cấp của các hành động không phải miêu tả tạo ra. Cụ thể hơn, hình
thức chuyên dụng để biểu thị hiệu lực tại lời của hành động trần thuật là cấu trúc chủ ngữ - vị ngữ.
Cấu trúc này xuất hiện trong nội dung p của biểu thức ngôn hành thuộc những hành động khác.
Ngoài ra có thể xuất hiện một số phụ từ tình thái đứng ở cuối câu làm tăng thêm sắc thái khẳng định
hoặc phủ định cho nội dung miêu tả như ấy, đấy, lắm, thật vậy… Tuy nhiên, các từ, tổ hợp phụ từ,
đại từ này cũng mang tính chất không chuyên dụng cho biểu thức trần thuật, vì chúng còn có thể
xuất hiện ở những biểu thức khác. Do đó, trên phương diện lí thuyết, biểu thức ngôn hành của hành
động trần thuật tồn tại ở hai dạng: 1) biểu thức ngôn hành tường minh, với hiệu lực trần thuật được
tường minh bằng các động từ ngôn hành như kể, thông báo, bảo… ; 2) biểu thức ngôn hành nguyên
cấp, tức là không có động từ ngôn hành tường minh hoá hành động trần thuật mà hiệu lực tại lời
nằm ở nội dung mệnh đề p.
Trong ca dao đối đáp giao duyên, hầu hết hành động trần thuật được biểu hiện bằng biểu thức
ngôn hành nguyên cấp. Có thể công thức hoá biểu thức ngôn hành nguyên cấp trần thuật như sau:
NP – VP
Trong đó, NP: ứng với chủ từ trong cấu trúc chủ ngữ - vị ngữ, đồng thời có thể đóng vai trò
người nói / người nghe (người nói có thể vắng mặt, người nghe có thể xuất hiện ở vị trí đề ngữ, hô
gọi); VP: cấu trúc sự kiện.
Ví dụ: (53)
Gió xuân thổi ngọn phù dung,
Lòng anh như sắt, em cũng nung cho mềm.
Đích tại lời của hành động trần thuật là làm cho người nghe ý thức được sự tồn tại cũng như
các biểu hiện của sự kiện và chấp nhận nó.
Khi lực ngôn trung của hành động trần thuật không nhằm đạt tới đích trình bày một hiện thực
với một niềm tin, mà hướng người nghe đến chỗ buộc phải hành động thì lúc đó hành động trần
thuật được dùng gián tiếp. Để tạo lực ngôn trung gián tiếp, sự kiện X phản ánh trong nội dung p vi
phạm điều kiện sử dụng, tức là S cố tình nói những điều không có thật hay những điều mà S biết
chắc H đã biết.
Ví dụ: (54)
Hôm qua anh đi chợ trời,
Thấy ông nguyệt lão đang ngồi ở trên.
Tay thì cầm bút cầm nghiên,
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành.
Biên ta rồi lại biên mình,
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta.
Chẳng tin lên hỏi ông trăng già,
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình.
Chẳng tin lên hỏi thiên đình,
Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta.
Ở ví dụ 54, người nói kể một sự kiện phi hiện thực thấy ông Nguyệt Lão đang ghi chép ta lấy
mình. Ông Nguyệt Lão chỉ là nhân vật thần thoại dân gian, làm công việc xe duyên. Điều phi hiện
thực này sẽ khiến người nghe liên tưởng đến chuyện tình duyên và hiểu dụng ý của người nói là bày
tỏ mong muốn được sánh đôi vợ chồng. Trong tư liệu của chúng tôi, hành động trần thuật có hiệu
lực là bày tỏ xuất hiện 195 lần. Ngoài ra, hành động trần thuật còn có chức năng gián tiếp trách cứ,
cam kết, từ chối.
Hành động trần thuật được sử dụng nhiều trong cuộc đối đối đáp giao duyên là trần thuật -
khẳng định và trần thuật - giải thích.
2.2.4.2 Hành động từ chối, bác bỏ
Hành động từ chối trong giao tiếp là cách ứng xử nhằm khước từ thực hiện một việc nào đó
mà người khác yêu cầu. Như vậy, từ chối là HĐTL thuộc lượt đáp lời. Đây là một hành động dễ làm
tổn thương thể diện của người tiếp nhận, chứa đựng nguy cơ phá vỡ cuộc giao tiếp. Hành động từ
chối chỉ xuất hiện trong những điều kiện nhất định như xuất hiện trong mối quan hệ với các hành
động khác: từ chối một lời đề nghị, thỉnh cầu, khen hay trả lời cho hành động hỏi… và luôn có
nguyên nhân từ chối đi kèm. Hình thức biểu hiện của hành động từ chối rất đa dạng. Chính sự đa
dạng này mà các tác giả như Nguyễn Thị Hai, Trần Mai chi đã phân loại hành động từ chối thành
những tiểu loại sau:
- Từ chối trực tiếp và từ chối gián tiếp
- Từ chối lịch sự và không lịch sự
- Từ chối tường minh và từ chối hàm ẩn
- Từ chối dứt khoát và không dứt khoát
- Từ chối nghi thức và không nghi thức
Tuy nhiên, các tác giả trên đều thống nhất rằng trong tiếng Việt có hai dạng chính đó là từ
chối trực tiếp (TCTT) và từ chối gián tiếp (TCGT). Trong hai dạng từ chối này có thể đan xen tính
lịch sự hay không lịch sự, dứt khoát hay không dứt khoát… Trong luận văn này, chúng tôi phân
loại và miêu tả hành động từ chối trong ca dao đối đáp theo cách phân loại trên.
a) Hành động từ chối trực tiếp
Hành động TCTT là người nói thể hiện trực tiếp đích từ chối của mình bằng các từ phủ định
như: không, chẳng, mặc kệ, đâu dám, không dám…
a.1) Từ chối hành động cầu khiến bằng cấu trúc: S1 - không/ không dám/ chẳng) – Vp
(55) a.
SP1 – Dâu cỏ nhỏ lá chàng ơi,
Chàng nên đi chọn những nơi dâu tàu.
SP2 – Dâu cỏ nhỏ lá mà xinh
Dâu tàu to lá mà mình không ưng.
b.
SP1 – Anh ngồi bờ cỏ xót xa,
Vô đây em trải chiếu hoa cho ngồi.
SP2 - Chiếu hoa để cha mẹ em ngồi,
Phận anh là rể không dám ngồi chiếu hoa.
- Từ chối bằng cấu trúc: NP - mặc/ mặc kệ - NP
(56) SP1 – Anh về sao được mà về
Dây giăng tứ phía tính bề ngăn anh.
SP2 – Dây giăng mặc kệ dây giăng
Ông tơ bà nguyệt đón ngăn cũng về.
Lời từ chối bằng cấu trúc phủ định này mang ý từ chối dứt khoát, không đắn đo. Các từ phủ
định không, mặc kệ chỉ rõ tính dứt khoát của hành động từ chối. Dù có kèm theo lời lí giải nhưng
vẫn thể hiện tính dứt khoát. Trong giao tiếp thông thường, cách từ chối này kết hợp với ngữ điệu
lên giọng sẽ là hành động từ chối không lịch sự. Nhưng trong lời đối đáp giao duyên, ngữ điệu lời
thoại nhẹ nhàng, êm ái kết hợp với các đại từ nhân xưng thân mật như mình, anh nên lời từ chối
mang tính chất thân mật, trung hoà về tính lịch sự. Từ chối dứt khoát có thể không nêu lí do như ở
ví dụ (56).
a.2) Từ chối trực tiếp biểu hiện bằng từ thôi
(57) Thôi thôi, đã lỡ nước cờ,
Có thương xin hãy đợi chờ kiếp sau.
“Thôi” là từ biểu thị hành động từ chối dứt khoát nhưng mức độ dứt khoát có phần giảm nhẹ,
tạo được sự thông cảm, không quá gây khó chịu ở người tiếp nhận. Ở ví dụ (57), chúng ta hình
dung được chàng trai / cô gái vì một lí do nào đó có thể cảm thông (chẳng hạn đã có vợ hoặc
chồng) từ chối chấp nhận tình cảm.
Hành động từ chối dù được thể hiện bằng hình thức nào thì cũng vẫn tiềm ẩn khả năng làm
tổn thương thể diện người tiếp nhận. Do đó, khi buộc phải từ chối tiếp nhận tình cảm hay một lời
thỉnh cầu, các chàng trai / cô gái thường ít lựa chọn hình thức TCTT, trừ khi họ cần phải nhấn
mạnh tính dứt khoát. Trong tư liệu của chúng tôi, trong tổng số 112 phát ngôn có lực tại lời từ
chối, TCTT chỉ xuất hiện 27 lần chiếm 24.1%.
b) Hành động từ chối gián tiếp
Hành động TCGT giúp người nói phần nào che đậy hành động từ chối nhằm giữ thể diện cho
người tiếp nhận. Về mặt lí thuyết, đây được xem là cách từ chối lịch sự. Người từ chối đã có sự cân
nhắc, suy xét sao cho phát ngôn của mình phù hợp với tình huống đối thoại. Tuy nhiên, thực tế
không hoàn toàn đúng như vây. Khảo sát ca dao đối đáp giao duyên cho thấy, có nhiều phương
thức biểu hiện hành động TCGT như sau:
b.1) TCGT bằng cách nêu lí do phủ định lời mời
Ví dụ: (58)
SP1 – Khách tri âm đã tới sân hoè,
Mời ngồi chiếu phượng mà nghe thiếp đàn.
SP2 - Chậm chân là kẻ đi sau,
Vườn huê đã chật lấy (chỗ) đâu mà ngồi.
Nội dung lời mời của SP1 là “mời ngồi”, SP2 nêu lí do mình là kẻ tới sau, những người đến
trước đã chật chỗ.
b.2) TCGT bằng cách dùng hình thức hỏi chất vấn với hàm ý bác bỏ nhằm mục đích từ chối.
(59) SP1 - Chờ em cho mãn kiếp chờ,
Cho rau muống vượt lên bờ trổ bông.
SP2 – Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ,
Ai biểu anh chờ, anh kể công ơn?
Trong lượt lời hồi đáp, SP2 sử dụng câu hỏi chất vấn bác bỏ Ai biểu anh chờ?, khẳng định
mình không yêu cầu chờ, để từ chối tiếp nhận tình cảm của SP1. Cách từ chối này cũng mang tính
dứt khoát, không mấy lịch sự, không hứa hẹn một cuộc thoại hoà khí.
b.3) Từ chối lời thỉnh cầu bằng hành động thỉnh cầu
(60) SP1 – Kìa kìa sao mai đã mọc,
Để anh ra về đi học kẻo trưa.
SP2 – Mù sương nhỏ đượm như mưa,
Xin anh ở lại đến trưa hãy về.
Ví dụ 60, hành động thỉnh cầu xin anh ở lại đến trưa hãy về có ý nghĩa từ chối hành động
thỉnh cầu để anh ra về của SP1 trong lượt trao lời. Đây là cách từ chối không dứt khoát, SP2 không
từ chối nội dung thỉnh cầu mà chỉ từ chối thời điểm thực hiện. SP2 không từ chối việc cho SP1 ra về
mà chỉ từ chối thời điểm thực hiện việc cho ra về. Hình thức này mang tính thuyết phục nhiều hơn
là từ chối, hứa hẹn một cuộc thoại hoà khí và có thể người từ chối bị thuyết phục.
b.4) Từ chối lời mời có đích bày tỏ bằng hành động bày tỏ
(61) SP1 - Mời anh đi quá cổng ngăn,
Để em đỡ túi, nâng khăn anh vào.
SP2 – Anh vào anh cũng muốn vào,
Anh sợ thầy mẹ cây cao lá dài.
Bày tỏ trạng thái tâm lí sợ hãi trước lời mời cũng chính là gián tiếp thực hiện hành động từ
chối.
b.5) Từ chối đáp lời cho hành động hỏi bằng hành động khẳng định.
(62) SP1 – Cau già quá lứa bán buôn,
Em già quá lứa, có buồn không em?
SP2 – Cau già quá lứa bửa phơi,
Em già quá lứa, có nơi đợi chờ.
Trong quan hệ với hành động hỏi, từ chối là phủ định sự đáp lời có liên quan đến nội dung
hỏi, tức là không đáp ứng yêu cầu thông báo mà hành động hỏi nhằm đến. Lượt đáp lời ở ví dụ 62,
SP2 không nhằm trả lời câu hỏi “có buồn không” của SP1. SP2 từ chối giải đáp bằng hành động trần
thuật - khẳng định “có nơi đợi chờ”. Ở ví dụ này, giả định câu hỏi của SP1 không phải là câu hỏi
chính danh mà là gián tiếp bày tỏ tình cảm thì lời đáp của SP2 vẫn là từ chối gián tiếp.
b.6) TCGT bằng hành động khẳng định
(63) Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
S sử dụng hình thức khẳng định để gián tiếp thực hiện hành động từ chối bằng cách vi phạm
các điều kiện thực hiện hành động khẳng định: chỉ nói mình cho là đúng và phải có bằng chứng ; p
phản ánh một sự kiện có thực. S đã khẳng định một sự việc không có thực. Đây là hình thức từ chối
dứt khoát, bởi lẽ sự tình được nói ra không có thực.
Chúng ta cần phân biệt hành động từ chối và hành động bác bỏ. Như đã nói trên, từ chối là
hành động đáp lời mang nghĩa phủ định hưởng ứng cho một số hành động cầu khiến, bày tỏ ý
mong muốn... Còn hành động bác bỏ chỉ xảy ra khi trước đó là một hành động mang nghĩa khẳng
định.
Ví dụ: (64)
SP1 – Em có chồng rồi em nói rằng chưa,
Tội riêng em đó chẳng lừa được anh.
SP2 – Không, không chưa có nơi đâu,
Con tằm xoan đang đợi nương dâu nhà người.
Mặc dù cũng sử dụng IFIDs không, chưa nhưng các từ này mang nghĩa bác bỏ phủ định hoàn
toàn lời khẳng định có chồng của SP1 trong lượt trao lời.
Tuy nhiên, hành động từ chối có thể liên quan đến hành động bác bỏ. Bởi vì khi thực hiện
hành động từ chối người nói thường nêu lí do từ chối. Lí do từ chối thường là người nói phải bác
bỏ một trong những điều kiện không thoả mãn của hành động đó.
Ví dụ: (65)
SP1 - Trước đây mỗi đứa mỗi nơi,
Bây giờ giáp mặt hỏi người tính sao?
SP2 - Mẹ cha anh chẳng phải giàu
Thân anh làm mướn, tiền đâu cưới nàng?
Ở ví dụ 65, câu hỏi của SP2 – chàng trai là hành động hỏi - từ chối, hồi đáp cho hành động
hỏi có hiệu lực gián tiếp là thỉnh cầu. Để hồi đáp cho hành động thỉnh cầu, SP2 phải sử dụng chiến
lược hỏi – bác bỏ - từ chối, nghĩa là dùng hình thức hỏi với hiệu lực bác bỏ những điều kiện không
thoả mãn hiệu lực thỉnh cầu nhưng đích cuối cùng là từ chối, vì nội dung câu hỏi chính là lí do từ
chối. Câu hỏi của SP1 – cô gái “tính sao?” có hiệu lực là lời thỉnh cầu một đám cuới. Chàng trai
đưa ra thông tin cha mẹ nghèo, bản thân làm mướn, tức không có khả năng thực hiện đám cưới
(theo lẽ thường để làm được đám cưới phải có tiền). Phó từ đâu trong câu hỏi biểu thị ý phủ định
việc có tiền và khẳng định dứt khoát không hề có tiền. Qua đó, chàng trai ngầm bác bỏ niềm tin
của cô gái cho rằng chàng trai có khả năng thực hiện đám cưới, gián tiếp từ chối hành động thỉnh
cầu của cô gái.
Có thể nói, TCGT giúp người nói che đậy phần nào hành động từ chối của mình nhằm tránh
sự hụt hẫng và giữ thể diện cho người tiếp nhận, hứa hẹn một cuộc thoại hài hoà, đồng thời góp
phần thể hiện sự vận dụng ngôn ngữ, khéo léo, tế nhị của người bình dân. TCGT có tần số xuất
hiện cao 85/112 phần nào cho thấy nét duyên dáng, lịch thiệp và thông minh của các chàng trai / cô
gái trong ca dao.
Hình thức từ chối rất phong phú. Trong thực tế, còn có nhiều cách biểu hiện hành động từ
chối hơn. Những cách trình bày trên là những cách thường xuất hiện trong ca dao đối đáp giao
duyên. Động từ ngôn hành từ chối không xuất hiện một lần nào.
2.2.5 Hành động cam kết (Commissive)
Theo Austin và Searle, cam kết là những hành động ràng buộc S vào một chuỗi những hành
động nhất định. S chịu trách nhiệm trước H về một hành động trong tương lai mà mình đã nêu trong
phát ngôn. Như vậy, cam kết cũng là một hành động tại lời, có điều kiện thực hiện như sau:
Điều kiện nội dung mệnh đề: Hành động A trong tương lai của S.
Điều kiện chuẩn bị:
1) S muốn thực hiện A. S có khả năng thực hiện A
2) H thực sự mong muốn A được thực hiện.
Điều kiện chân thành: S có ý định thực hiện A.
Điều kiện cơ bản: S chịu trách nhiệm thực hiện hành động A trước H.
Tìm hiểu về hành động cam kết, tác giả Vũ Tố Nga cho rằng: “Ở những hoàn cảnh giao tiếp
nhất định, một người nói (speaker) - trước mặt người nghe (listener) (người nghe ở đây có thể là
một người, cũng có thể là nhiều người, có thể có sự hiện diện trực tiếp mặt đối mặt, thậm chí có thể
người nghe là người không cùng thế giới hiện thực với người nói tại thời điểm nói - đưa ra một phát
ngôn nhằm tự ràng buộc trách nhiệm của mình trước người nghe về một hành động trong tương lai
mà mình nêu trong phát ngôn. Khi đó ta nói người nói đã thực hiện hành vi cam kết. Thực hiện
hành vi cam kết người nói không chỉ đặt mình vào một sự ràng buộc về trách nhiệm mà đồng thời
mang đến cho người nghe một quyền lợi nhất định.” [59– 49]
Các động từ biểu thị tường minh hành động cam kết - cũng là động từ gọi tên hành động
cam kết- gồm có cam kết, hứa, hẹn, thề, tình nguyện, cam đoan, đảm bảo, bảo lãnh, giao ước .v.v.
Cam kết thường được thể hiện tường minh bằng động từ ngôn hành. Tuy có trường hợp được thực
hiện gián tiếp qua hành động khác nhưng rất hạn chế. Trong cuộc sống, cam kết xuất hiện mọi lúc
mọi nơi và có một ví trí quan trọng. Khảo sát ca dao đối đáp giao duyên, chúng tôi nhận thấy phần
lớn hành động cam kết được biểu thị trực tiếp bằng các động từ hứa, hẹn, thề, nguyền, giao ước và
được thực hiện gián tiếp thông qua hành động trần thuật - khẳng định.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2006):
Hứa là nói với ai, với ý thức tự ràng buộc mình là sẽ làm điều gì đó mà người ấy đang quan
tâm.
Hẹn là nói nói với ai, với ý thức tự ràng buộc mình là sẽ làm việc đó trong quan hệ với nhau
theo sự thoả thuận của hai bên.
Thề là hứa một cách trịnh trọng, viện ra một vật thiêng liêng hay quý báu nhất (như danh dự,
tính mạng) để đảm bảo.
Giao ước là cam kết với nhau về những điều mà mỗi bên sẽ làm.
Nguyện là tự nhủ, cam kết sẽ làm đúng như vậy (nói về điều mà mình coi là thiêng liêng).
Như vậy, nguyện là hành động cam kết thiên về bộc bạch nỗi lòng, điều được cam kết phải là thiêng
liêng đối với người nói.
Từ những định nghĩa trên, ta thấy hứa, hẹn, giao ước là HĐTL, thể hiện mức độ cam kết ở
dạng trung hoà. Thề, nguyện là hành động cam kết bày tỏ quyết tâm cao độ của người nói với điều
mình hứa hẹn vì người nói đã mang những cái mà người ta cho là thiêng liêng ra làm đảm bảo để
người nghe tin và cảm thấy yên lòng. Trong phát ngôn cam kết có động từ thề, có trường hợp có
thêm phần nêu điều kiện ràng buộc trách nhiệm gây thiệt hại cho người nói nếu lời cam kết không
được thực hiện. Trách nhiệm này có thể hiện thực hoá cũng có thể mang tính cường điệu hoá tuỳ
theo tính chất trang trọng của lời thề. Tuy nhiên, trong ca dao đa phần là những trách nhiệm có tính
chất riêng tư, cường điệu hoá vì có thể nó xuất hiện trong cuộc giao duyên giả định, không mang
tính nghi thức xã hội giữa những người có quan hệ thân tình:
(66) Nếu em còn ngại, qua thề lại cho em hết nan phân,
Đứa nào quên tấn quên tần,
Xuống sông cọp ních, lên rừng sâu tha.
Hoặc:
Ai mà nói dối với ai,
Thì trời giáng hạ cây khoai ngoài đồng
Trong giao tiếp hàng ngày, việc nêu trách nhiệm thiệt hại thường xuất hiện trong phát ngôn
cam kết nhưng trong ca dao phần này rất ít xuất hiện.
Điều kiện để có một hành động tại lời cam kết trực tiếp phải thoả mãn điều kiện sau: Chủ thể
của nó phải ở ngôi thứ nhất, thời gian của sự tình phải ở hiện tại, mệnh đề của phát ngôn chính là
hành động trong tương lai của người nói.
(67) a. Trên trăng dưới nước, anh giao ước một lời.
Dẫu trăng mờ nước cạn, anh chẳng đời nào phụ em.
b.
SP1 - Nếu không thệ hải minh san,
Làm sao biết được đá vàng chì thau.
SP2 - Ngọc còn ẩn đá,
Vàng chẳng lộn than,
Em đây là phận hồng nhan,
Một lời đã hứa tào khang
Trăm năm ghi tạc nghĩa chàng chàng ơi!
Câu 67.a là câu biểu thị hành động cam kết trực tiếp, có động từ ngôn hành giao ước, nội
dung mệnh đề chẳng đời nào phụ (bỏ). Câu 67.b, mặc dù có động từ hứa nhưng việc hứa này xảy ra
ở quá khứ “đã”, nên nó có hình thức là trần thuật với hiệu lực tại lời là từ chối hành động yêu cầu
SP2 thề của SP1 hoặc SP2 khẳng định lại lời hứa để SP1 yên lòng.
a) Trong ca dao đối đáp giao duyên, hành động cam kết biểu hiện trực tiếp bằng biểu thức
ngôn hành tường minh: S - Vnh – p. (S: chủ thể hành động hứa hẹn, Vnh: động từ ngôn hành, p nội
dung hứa hẹn – hành động trong tương lai mà người nói thực hiện)
Ví dụ: (68)
SP1 - Nếu anh có dạ thương em,
Xin cho sáu lễ mai đem tới nhà.
SP2 - Thương nhau đâu quản đường xa
Anh nguyền trọn dạ đến nhà hỏi thưa.
Anh thề có bóng trăng đây,
Núi kia có lỡ lòng này vẫn nguyên.
Hoặc, hành động cam kết được trực tiếp bằng biểu thức cam kết nguyên cấp: S - sẽ - p. Trong
biểu thức này, biểu thị ý cam kết - hứa sự tình p được S thực hiện trong tương lai là phụ từ sẽ.
(69) Phụ mẫu tui sanh để phụ mẫu tui định,
Ngày nay tui đâu dám cãi lịnh sợ phụ mẫu rầy.
Này anh ơi anh về cậy mai đên đây.
Phụ mẫu tui ừ, tui sẽ ưng anh.
b) Hành động cam kết được thực hiện gián tiếp bằng hành động khẳng định
Với hành động khẳng định chính danh, sự việc X phải xảy ra trước hoặc ngay tại thời điểm
nói, S tin rằng X có thật. Thực hiện hành động cam kết bằng hình thức khẳng định là S khẳng định
một sự việc ở tương lai, một sự việc chưa xảy ra nhưng S khẳng định sẽ thực hiện nó:
(70) Anh về mai mốt anh qua,
Em đừng trông đợi, má ba hay rầy.
Hay, S thực hiện cam kết bằng cách nêu một giả thiết phi thực tế và khẳng định nếu giả thiết
đó được hiện thực hoá thì S sẽ không thực hiện sự việc A trong tương lai:
Chừng nào muối ngọt chanh thanh,
Em đây mới dám bỏ anh lấy chồng.
Điều đặc biệt là hành động cam kết có tần số xuất hiện rất thấp trong ca dao đối đáp giao
duyên. Trong 1514 đơn vị ca dao, chỉ có 50 phát ngôn có lực tại lời là hứa, hẹn, thề, nguyền. Có thể
lí giải tại sao cam kết lại không xuất hiện nhiều trong giao duyên là do nó ứng với chặn cuối cùng
của cuộc đối đáp giao duyên là hát tiễn đưa. Trong lời tiễn đưa, người ta có thể thực hiện nhiều hành
động như bày tỏ sự bịn rịn, nhớ mong; dặn dò, thề nguyền, hẹn ước… Thực hiện hành động hứa
hẹn, thề nguyền đòi hỏi người thực hiện phải có trách nhiệm thực hiện, nếu không thực hiện sẽ bị
chê trách. Lời thề, nguyện là thiêng liêng, ảnh hưởng đến danh dự. Do vậy, trong lĩnh vực tình cảm,
người ta không thực hiện hành động thề, nguyện, hứa nếu không xuất phát từ một tình cảm chân
thật mà những lời hát trong cuộc đối đáp giao duyên có khi chỉ là lời trao đáp về một cuộc tình giả
định.
2.3 Tiểu kết
Nhìn từ góc độ giao tiếp ngôn ngữ, chúng tôi nhận thấy: ca dao đối đáp giao duyên là thơ dân
gian dùng để giao tiếp với mục đích thực hiện những hành động trao gửi duyên tình. Lời ca dao có
cấu trúc đối đáp, được tổ chức theo kiểu lắp ghép liên hành động, nghĩa là, trong một đơn vị ca dao
có thể có nhiều hành động ngôn từ cùng xuất hiện.
Sức sống và giá trị của ca dao đối đáp giao duyên được xác định nhờ khả năng tương thích
với nhiều hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, với nhiều người sử dụng khác nhau. Ban đầu nó vốn diễn
đạt một nội dung cụ thể với các đối ngôn cụ thể và hoàn cảnh cụ thể. Nhưng do truyền miệng,
những yếu tố ngữ cảnh bị tước bỏ nên nó có thể phù hợp với nhiều tình huống đối đáp khác nhau.
Nội dung của ca dao đối đáp giao duyên là những tình cảm tâm trạng mang tính phổ phát nên có thể
sử dụng ở nơi khác với ngữ cảnh khác. Do đó, có nhiều trường hợp, một đơn vị ca dao tồn tại nhiều
cách hiểu, rất khó xác định chính xác lực ngôn trung của hành động ngôn ngữ. Có thể có nhiều hành
động tại lời khác nhau trong một đơn vị tạo lời. Không phải bao giờ cũng có sự tương ứng 1-1 giữa
hành động ngôn từ và động từ biểu thị hành động đó.
Trong ca dao đối đáp giao duyên, rất ít xuất hiện những hành động như chê, nhờ, khuyến
cáo, phàn nàn… mà chủ yếu là hỏi, biểu cảm, khẳng định, thỉnh cầu, khuyên bảo, từ chối, trách cứ.
Đây là những hành động phù hợp cho một cuộc giao duyên. Về hình thức biểu hiện, hành động
khẳng định, thỉnh cầu, khuyên bảo đa phần lựa chọn hình thức biểu hiện trực tiếp, còn với những
hành động có khả năng đe doạ thể diện cao như từ chối, trách cứ là hình thức gián tiếp. Hỏi và bày
tỏ thì lựa chọn gần như tương đồng cả hai hình thức. Điều này giúp chúng ta nhận thấy lời bày tỏ
tình cảm của ca dao có tính chất vừa mạnh bạo, vừa kiên quyết, vừa chân thành, vừa kín đáo tế nhị
mang đặc trưng tính cách của người lao động.
Việc sử dụng linh hoạt, hợp lí nhiều hình thức biểu hiện hành động tại lời để đạt hiệu quả bày
tỏ các sắc thái tình cảm trong đối đáp giao duyên đã giúp cho ngôn ngữ ca dao trở nên sinh động,
uyển chuyển, tinh tế và hàm chứa nhiều hàm ngôn trong một vỏ ngôn ngữ.
CHƯƠNG BA
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC TẠO HÀM NGÔN
TRONG CA DAO ĐỐI ĐÁP GIAO DUYÊN TIẾNG VIỆT
3.1. Khái quát về hàm ngôn
3.1.1 Thuật ngữ hàm ngôn, khái niệm và phân loại
Về thuật ngữ hàm ngôn, có tác giả gọi là hàm ngôn, đối lập với hiển ngôn như Hoàng Tuệ
[91-927], Nguyễn Đức Dân [10-192], Hoàng Phê [69 -178], Đỗ Hữu Châu [7- 365], Đỗ Thị Kim
Liên [48-60]; có tác giả gọi là hàm ý [29-469], [Trần Thị Tố Ninh 64-113]. Bên cạnh đó, tác giả
Cao Xuân Hạo còn có sự phân biệt hàm ý (nghĩa hàm ẩn mà người nghe suy ra từ phát ngôn) và
hàm ngôn (nghĩa hàm ẩn mà người nói muốn chuyển đến người nghe).
Hàm ngôn là một trong những vấn đề mà ngữ dụng học quan tâm nghiên cứu. Nó được đề
cập trong hầu hết các công trình nghiên cứu về ngữ dụng học. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất:
hàm ngôn là nghĩa không hiện ngay trên bề mặt phát ngôn, đối lập với nghĩa hiển ngôn, là nghĩa
hiện rõ trên bề mặt phát ngôn. Như vậy, muốn hiểu nghĩa hàm ngôn thì phải đặt nó trong mối quan
hệ với nghĩa hiển ngôn (tường minh). O.Ducrot, một nhà ngôn ngữ học hiện đại có nhiều công trình
liên quan đến vấn đề hàm ngôn, đưa ra định nghĩa được nhiều người chấp nhận đó là: hiển ngôn là
“cái người ta nói ra” và hàm ngôn là “cái người ta muốn nói mà không nói ra”. Và ông còn đưa ra
mô hình lưỡng phân hiển ngôn – hàm ngôn như sau:
Nghĩa phát ngôn
Hiển ngôn (Explicite)
Hàm ngôn (Implicite)
Ẩn ý (Sous – entendus)
Tiền giả định (Présupposés)
(Dẫn theo 91 - 931)
Dựa vào định nghĩa của Ducrot và Kerbrat Orecchioni, Hoàng Tuệ phát biểu:
Tiền giả định (TGĐ) bao gồm những thông tin tuy không được nói ra, nhưng một cách tự
động, được ghi vào phát ngôn và từ phát ngôn được suy ra.
Nghĩa ẩn ý là những thông tin được chuyển đến bằng một phát ngôn, nhưng sự hiện thực hoá
chúng vẫn phải phụ thuộc vào những điều kiện của tình huống cụ thể.
Nghĩa ẩn ý và tiền giả định đều là hàm ngôn, đều “không nói ra”, nhưng giữa hai nghĩa này
vẫn có sự khác nhau cơ bản. Nghĩa ẩn ý đòi hỏi một sự giải mã đặc biệt. Ngoài mã ngôn ngữ còn
phải có mã tâm lí, xã hội …
Như vậy, Hoàng Tuệ cũng xem hàm ngôn bao gồm cả tiền giả định và nghĩa ẩn ý.
Nguyễn Đức Dân [10-192] cũng cho rằng: câu ngoài hiển ngôn nó còn chứa đựng một thông
tin không hiển hiện khác mà chúng ta sẽ gọi là nghĩa hàm ngôn. Hàm ngôn là TGĐ + hàm ý. về
TGĐ, ông nói: khi A có một TGĐ B thì TGĐ ngữ nghĩa là dù A có giá trị đúng hay sai thì TGĐ B
của nó vẫn luôn luôn đúng, còn TGĐ ngữ dụng là khi phát ngôn A thì người nói đã giả định rằng B
và tin rằng người nghe cũng nghĩ là B và B được chấp nhận. Nói tóm lại, TGĐ của một câu được
coi là những điều kiện dùng chuẩn xác của câu đó. Hàm ý được hình thành từ ngôn ngữ độc lập với
ngữ cảnh là hàm ý ngôn ngữ. Hàm ý hình thành trong những tình huống giao tiếp cụ thể là hàm ý
hội thoại.
Theo Hoàng Phê: [69-178] “Cái kì diệu của ngôn ngữ là cho phép có thể nói ít mà làm cho
người nghe lại có thể hiểu nhiều. Bên cạnh, hay nói đúng hơn là bên trong những điều nói trực tiếp,
thường có thể còn có những điều nói gián tiếp, gợi ý cho người nghe tự mình suy nghĩ mà hiểu lấy.
Điều nói trực tiếp, chúng tôi gọi là hiển ngôn, điều nói gián tiếp gọi là hàm ngôn.”. Khi một lời có
hàm ngôn, thì ý hàm ngôn thường là quan trọng, thậm chí có khi hiển ngôn chỉ dùng để nói hàm
ngôn, ý hàm ngôn mới là chính. Và theo ông, TGĐ là “những điều mà coi như người nghe đã biết
rồi, điều được giả định là đúng [69-7-38], những điều phải đúng như vậy thì câu hoặc lời mới thật
sự có ý nghĩa”. Giữa hàm ngôn và TGĐ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau “Người nghe phải dựa
vào hiển ngôn và TGĐ, coi như là những tiền đề, từ đó suy ra hàm ngôn”.
Nếu O.Ducrot, Hoàng Tuệ coi TGĐ là một hình thức của hàm ngôn (cùng với ẩn ý), là cái
hàm ngôn nằm trực tiếp trong bản thân nghĩa từ ngữ của lời thì các nhà Việt ngữ học như Hoàng
Phê, Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo đều có chung quan niệm coi TGĐ là một loại nghĩa hàm ẩn
nhưng là nghĩa hàm ẩn không có giá trị thông báo và là điều kiện tiên quyết để nghĩa hiển ngôn của
câu có thể đúng hay sai. TGĐ được phân biệt với các loại ý nghĩa hàm ẩn khác như hàm ngôn, hàm
ý, ẩn ý. Có nghĩa là, một phát ngôn ngoài nghĩa tường minh còn có nghĩa hàm ẩn. Trong nghĩa hàm
ẩn, ngoài TGĐ còn có một nghĩa hàm ẩn nữa, đó là hàm ngôn. Quan niệm về TGĐ và hàm ngôn hay
hàm ý của các tác giả này, chúng tôi đã trình bày ở chương 1 của luận văn. Theo những quan niệm
trên, hàm ngôn được hiểu:
1) Là phần nghĩa hàm ẩn có giá trị thông tin, đối lập với tiền giả định là phần nghĩa hàm ẩn
không có giá trị thông tin.
2) Là ý nghĩa hàm ẩn được suy ra từ nghĩa tường minh và TGĐ.
Ví dụ: (1)
Khi xưa chín hẹn thì nên
Bây giờ chín hẹn, em quên cả muời.
Ta có TGĐ: Hai người đã có cuộc hẹn hò.
Người con gái quên lời hẹn.
TGĐ này được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận nên nó không có giá trị thông tin.
Dựa vào đó, người con trai tạo nên phát ngôn của mình. Nếu TGĐ đúng thì hiển nghĩa của câu Bây
giờ em quên hết lời hẹn là đúng. Từ TGĐ và nghĩa hiển ngôn, có thể suy ra hàm ngôn của câu chính
là: người con trai trách móc người con gái đã sai hẹn. Đây mới chính là phần nghĩa có giá trị thông
tin của câu, là ý nghĩa mà người nói muốn người nghe hiểu.
Tuy có sự thống nhất tương đối cao trong quan niệm về hàm ngôn, nhưng thực tế lại tồn tại
nhiều điều chưa thống nhất giữa các nhà ngôn ngữ học về tên gọi và sự phân loại hàm ngôn.
Về phân loại hàm ngôn, các nhà nghiên đều thống nhất là trong sự đối lập với cái được nói ra
hiển ngôn thì hàm ngôn là thông tin hàm ẩn đằng sau câu chữ. Tuy nhiên, có sự khác nhau về nội
hàm của hàm ngôn. Chẳng hạn, Hoàng Phê cho rằng hàm ngôn có hai lớp nghĩa khác nhau về mức
độ phụ thuộc hoàn cảnh và độ tin cậy của sự suy ý là hàm ý và ngụ ý. Ông viết: “Chúng tôi gọi là
hàm ý phần nội dung hàm ngôn có thể suy ý trực tiếp và không khó khăn, vì không hoặc ít phụ
thuộc vào ngôn cảnh, độ tin cậy của suy ý vì thế tương đối cao; còn ngụ ý là phần nội dung hàm
ngôn phụ thuộc nhiều vào ngôn cảnh và phải suy ý gián tiếp, độ tin cậy của suy ý thường không
cao.” [ 69-51] Hồ Lê phân biệt hai lớp nghĩa của hàm ngôn là hàm nghĩa và hàm ý nhưng hai lớp
nghĩa này phân biệt với nhau ở quan hệ nội dung đối với hiển ngôn: hàm ý là ý nghĩa hàm ẩn có nội
dung khác với hiển ngôn bao gồm: ngụ ý, ẩn ý, dụng ý; còn hàm nghĩa là ý nghĩa hàm ẩn bổ sung
một phương diện nào đó cho hiển ngôn. [47-341] Theo các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Văn Hiệp thì hàm ngôn 1) có thể suy ý từ những phương tiện ngôn ngữ nhất định, 2) có thể
hình thành trên cơ sở các nguyên tắc hội thoại. Ở loại 1), Nguyễn Đức Dân gọi là hàm ý ngôn ngữ,
Đỗ Hữu Châu gọi là hàm ngôn ngữ nghĩa, Nguyễn Văn Hiệp gọi là hàm ngôn quy ước. Tương tự ở
loại 2), được gọi là hàm ý hội thoại, hàm ngôn ngữ dụng và hàm ngôn hội thoại.
Chúng tôi tán thành quan điểm của Đỗ Hữu Châu về hàm ngôn và phân loại hàm ngôn: hàm
ngôn thuộc phạm trù lớn hơn là phạm trù nghĩa hàm ẩn; hàm ngôn được phân thành hai loại là hàm
ngôn ngữ nghĩa và hàm ngôn ngữ dụng. Bởi lẽ, nếu coi toàn bộ thông tin “không nói ra” mà có thể
suy ra từ phát ngôn đều thuộc hàm ngôn như Hoàng Tuệ thì phạm vi nghiên cứu về đối tượng sẽ vô
cùng lớn vì bất cứ phát ngôn nào cũng có hàm ngôn. Nếu như theo Cao Xuân Hạo coi nội dung suy
ý của người nghe đối lập với điều người nói muốn chuyển đến thì cuộc thoại có hàm ngôn sẽ rơi vào
tính trạng nói một đằng hiểu một nẻo. Cách phân loại của Hoàng Phê không thuyết phục vì chủ yếu
dựa trên cơ sở cảm tính về ngữ cảnh và độ tin cậy.
Về tiêu chí phân loại giữa TGĐ, hàm ngôn ngữ nghĩa và hàm ngôn ngữ dụng, hiện nay các
nhà ngữ nghĩa học và ngữ dụng học đã xác lập tiêu chí phân biệt chúng với nhau.
- Tiêu chí về tính có thể khử bỏ
Theo Nguyễn Văn Hiệp, thông tin ngầm ẩn mang tính có thể khử bỏ là loại thông tin mà
người nói/ viết có thể khử bỏ, tức là khiến nó bị vô hiệu, bằng cách nói/viết thêm một vài điều gì
đấy.[30-262]
TGĐ không thể khử bỏ còn hàm ngôn ngữ nghĩa và hàm ngôn ngữ dụng có thể khử bỏ.
Đỗ Hữu Châu cho rằng: TGĐ là điều được xem là bất tất phải bàn cãi nên nó không thể khử
bỏ ngay trong cùng một phát ngôn. Việc khử TGĐ bằng kết tố lập luận nghịch hướng sẽ dẫn tới sự
vô nghĩa hoặc mâu thuẫn. Ở ví dụ (1), chúng ta không thể nói: Khi xưa chín hẹn thì nên/Bây giờ
chín hẹn, em quên cả muời. Nhưng em chưa bao giờ hẹn với anh.
Hàm ngôn ngữ nghĩa và hàm ngôn ngữ dụng có thể khử bỏ vì chúng là thông tin thông báo
không được nói ra, cho nên người nói có thể chối bỏ là họ không thông báo những ý nghĩa như vậy.
Lấy lại ví dụ trên, chúng ta có thể khử bỏ hàm ngôn trên như sau: Khi xưa chín hẹn thì nên/Bây giờ
chín hẹn, em quên cả muời. Nhưng em quên lời hẹn vì từ ngày ba má em bệnh, em mãi chăm lo cho
sức khỏe của ba má, do đó anh thông cảm với em và không có ý trách em.
- Tiêu chí về mức độ phụ thuộc vào ngữ cảnh
Sự phụ thuộc vào ngữ cảnh được hiểu như là thay đổi nội dung thông tin theo ngữ cảnh. Ngữ
cảnh thay đổi thì thông tin hàm ẩn thay đổi.
Tiêu chí này giúp ta phân biệt hàm ngôn ngữ dụng với hàm ngôn ngữ nghĩa và TGĐ. Vì hàm
ngôn ngữ nghĩa và TGĐ được suy ra từ câu chữ của phát ngôn, bằng một số từ ngữ chuyên dụng
nên không hoặc ít phụ thuộc vào ngữ cảnh, còn hàm ngôn ngữ dụng thì ngược lại, phụ thuộc hoàn
toàn vào ngữ cảnh. Trở lại ví dụ (1) ta thấy, dù đặt trong hoàn cảnh nào thì việc “hai người đã có
cuộc hẹn hò; người con gái quên lời hẹn” là không thay đổi còn hàm nghĩa trách móc hay than thở
thì tùy thuộc vào nguyên nhân sai hẹn và mối quan hệ liên nhân giữa hai người.
Grice nói rằng “hàm ngôn mang tính có thể khử bỏ tức nói rằng giá trị của chúng là phụ
thuộc vào ngữ cảnh và rằng trong những ngữ cảnh cụ thể, chúng có thể bị khử bỏ mà không gây
mâu thuẫn hoặc bất kì kiểu bất thường nào khác.” [38 -296]
3.1.2 Chức năng của hàm ngôn
Ở chương 2, chúng ta nhận thấy rằng, dân gian thực hiện nhiều HĐTLGT. Đó cũng là một
cách thức biểu thị hàm ngôn. Như vậy, bên cạnh lối nói hiển ngôn, người ta còn nói bằng hàm ngôn.
Theo Hoàng Phê: “Khi một lời có hàm ngôn, thì ý hàm ngôn thường là quan trọng, thậm chí có khi
hiển ngôn chỉ dùng để nói hàm ngôn, ý hàm ngôn mới là chính”. Tại sao lại muốn truyền báo điều
cần nói bằng lối nói hàm ngôn? Tác giả Cao Xuân Hạo đưa ra bốn lí do khiến người ta sử dụng hàm
ngôn là:
- Tránh nói những điều kiêng kị, dung tục
- Tránh làm mất thể diện người đối thoại
- Người nói không muốn chịu trách nhiệm về lời nói của mình nên dùng hàm ngôn để dễ
dàng phủ nhận cái ẩn ý.
- Trêu chọc, giễu cợt thâm thúy, sắc bén
[29 – 518]
Khảo sát ca dao đối đáp giao duyên, chúng tôi nhận thấy, dân gian thường dùng lối nói hàm
ngôn vì hàm ngôn có những chức năng chủ yếu sau:
a) Giữ thể diện cho người đối thoại
Để giao tiếp đạt hiệu quả, người tham gia giao tiếp phải tôn trọng nguyên tắc lịch sự đó là tôn
trọng và bảo toàn được thể diện của đối tượng tham gia giao tiếp, tránh làm phương hại đến thể diện
của người khác và khi không thể tránh được phải biết làm giảm nhẹ mức độ phương hại thể diện đó.
Các nhà Việt ngữ học khi nghiên cứu về lịch sự đều cho rằng khái niệm lịch sự liên quan đến bốn
khái niệm cơ bản là lễ phép, đúng mực, tế nhị và khéo léo. Lễ phép và đúng mực là những ứng xử
ngôn ngữ phù hợp với chuẩn mực giao tiếp xã hội, thể hiện sự tôn trọng về thứ bậc, địa vị… của
người đối thoại. Khéo léo và tế nhị là giảm bớt mức áp đặt né tránh sự xúc phạm, làm tăng sự hài
lòng của người đối thoại. [36-11] Trong ca dao đối đáp giao duyên, việc sử dụng lối nói hàm ngôn
cũng là một chiến lược giao tiếp nhằm đảm bảo tính lịch sự. Sử dụng cách nói hàm ngôn là tránh
phải nói trực tiếp những điều tế nhị dễ làm tổn hại thể diện người đối thoại, diễn đạt khéo léo những
trạng thái tình cảm thầm kín khó nói.
Ví dụ: (2) cô gái đã từ chối tình cảm của chàng trai như sau:
Anh về mua lụa bọc trời,
Mua thuyền chở núi, em thời theo ngay.
Nếu như nói rằng “em không bao giờ lấy anh” thì cô gái đã làm mất thể diện chàng trai, và
có thể mối quan hệ thân tình giữa hai người cũng chấm dứt. Còn với câu nói trên, cô gái đã giữ thể
diện cho chàng trai bằng hành động từ chối được thực hiện gián tiếp bằng hành động nhận lời. Ý
nghĩa từ chối không nằm trên bề mặt phát ngôn mà được người nghe nhận diện nhờ kinh nghiệm
sống của mình, nhờ suy luận từ nội dung của câu nói: lụa không thể bọc trời, thuyền không thể chở
núi nên em không theo anh.
b) Tránh phải nói ra những điều thô thiển dung tục, cấm kị
Những điều được xem là cấm kị, dung tục không nên nói thẳng ra là những chuyện chết
chóc; những từ ngữ gọi tên các bộ phận sinh dục và hoạt động sinh dục. Nói thẳng những điều dung
tục, thô thiển sẽ làm người nói ngượng mồm, người nghe xấu hổ nên biện pháp hiệu quả nhất là
hàm ngôn.
Ví dụ: (3)
Chàng trai: Hoa kia tươi tốt rườm rà
Tuy rằng tươi tốt nhưng mà ong châm.
Cô gái: Anh ở trong ấy anh ra?
Cớ sao anh biết vườn hoa chị tàn?
Hoa tàn nhưng nhị chưa tàn
Muốn xem chị vén bức màn cho xem.
Chàng trai dùng các từ “tươi tốt rườm rà”, “ong châm” ngầm ám chỉ cô gái không còn trinh
trắng. Thật là lời ởm ờ, ám chỉ, sâu cay. Nhưng cô gái cũng không vừa, cũng thâm thúy sâu cay
không kém "anh ở trong ấy hay sao mà anh lại biết tường tận là vườn hoa của tôi đã tàn?".
Hay người nói đã khéo léo diễn tả tình huống dung tục, thô thiển sau: (4)
Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Hoặc:
SP1: Tay cầm quyển sách làm chi,
Hỏi thăm chỗ lội đấy thì nông sâu?
SP2: Đây em là gái chưa chồng,
Nào em có biết nông sâu thế nào.
c) Tạo nên tính nghệ thuật cho lời nói.
Cách nói hàm ngôn cũng góp phần tạo nên tính nghệ thuật cho lời nói. Để lời nói hằng ngày
trở thành lời nói nghệ thuật thì người nói phải lựa chọn cách nói, trau chuốt ngôn từ theo quy luật
của nghệ thuật, của thẩm mĩ. Cách nói có nghệ thuật là lời nói phải cân đối, hài hòa, có chứa đựng
cảm xúc, lời ngắn ý dài… Một trong những cách nói có tính nghệ thuật chính là lối nói ví von, nói
vòng, nói bằng ngôn từ biểu tượng, tức là nói bằng hàm ngôn. Ví dụ: (5)
Chàng trai: Tay cầm tên bạc ná vàng,
Lăm le muốn bắn phượng hoàng trên cây.
Cô gái: Tay cầm tên bạc ná vàng,
Anh nhắm sao cho trúng được con phượng hoàng khen cho.
Mới nghe qua tưởng như là cuộc đối thoại về chuyện săn bắn chim phượng hoàng nhưng thật
ra đây là lời thăm dò ý tứ hóm hĩnh, đầy bản lĩnh của chàng trai và lời đáp khéo léo, không kém bản
lĩnh của cô gái. Câu ca dao gợi ra một sự tương xứng hòa hợp tuyệt vời: tên bạc, ná vàng và chim
phượng hoàng, cả hai đều đẹp đẽ, quý giá. Chàng trai bày tỏ ý muốn chinh phục cô gái xinh đẹp,
cao quý. Câu trả lời của cô gái cho thấy cô biết chàng trai kia có thân thế cao quý nhưng điều cô cần
chính là bản lĩnh, tài năng của chàng. Nếu chàng thật sự có tài năng cô sẽ đồng ý.
d. Người nói không muốn chịu trách nhiệm về lời nói của mình
Do hàm ngôn dễ dàng bị khử bỏ nên khi người nói bị trách cứ về nội dung hàm ẩn mà không
muốn chịu trách nhiệm về điều mình nói thì có thể phủ nhận nghĩa hàm ẩn đó.
3.1.3 Các cơ sở tạo lập và lí giải hàm ngôn
Theo Đỗ Hữu Châu: [7-393]
Hàm ngôn ngữ nghĩa được suy ra từ nội dung ngữ nghĩa tường minh của phát ngôn hay nói
cách khác, là các luận cứ hoặc kết luận không được nói ra một cách tường minh, mà để cho người
nghe dựa trên cơ sở các quan hệ logic, các lẽ thường (topos) mà rút ra.
Hàm ngôn ngữ dụng là các hàm ngôn do vi phạm các quy tắc ngữ dụng và quy tắc cộng tác
hội thoại mà có.
Theo Nguyễn Văn Hiệp: [30-261]
Hàm ngôn quy ước được nảy sinh do việc sử dụng những biểu thức nào đó trong phát ngôn
chứ không phải nảy sinh từ ngữ cảnh. Những cách sử dụng từ ngữ có thể tạo hàm ngôn là dùng liên
từ, quán ngữ tình thái, các phó từ chỉ thời, thể…
Hàm ngôn hội thoại nảy sinh trên cơ sở người nói cố tình vi phạm các phương châm hội
thoại và ngữ cảnh.
Hồ Lê [ 47– 347] chia phương thức hàm ngôn thành:
Hàm ngôn sử dụng những quan hệ ngữ nghĩa bất bình thường trong phát ngôn.
Hàm ngôn sử dụng các kiểu quan hệ phi cấu trúc câu.
Hàm ngôn sử dụng những quan hệ giữa phát ngôn và ngữ huống.
Từ những cách phân loại trên, chúng tôi nhận thấy:
Điều kiện để xét một phát ngôn có nghĩa hàm ngôn là chúng ta cần phải xem xét hàm ngôn
trong mối quan hệ với nghĩa hiển ngôn, TGĐ và ngữ cảnh giao tiếp. Có nghĩa là, phải dựa vào mối
quan hệ giữa các từ ngữ, các thành tố cú pháp trong phát ngôn mà bản thân chúng đã chứa sẵn TGĐ
và mối quan hệ giữa người nói, người nghe trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Để tạo hàm ngôn, có thể có các phương thức như: hình thành các lập luận dựa trên các lẽ
thường, các tiền đề logic; vi phạm các nguyên tắc ngữ dụng; sử dụng một số phương tiện ngôn ngữ
mang tính đặc thù như hư từ, tình thái từ…; sử dụng những kết hợp bất thường về nghĩa, những cấu
trúc câu chuyên biệt… Với các quy tắc ngữ dụng, quy tắc hội thoại, nếu ta áp dụng một cách chuẩn
mực thì chỉ tạo ra nghĩa tường minh, còn nếu cố tình vi phạm thì sẽ tạo ra hàm ngôn.
Để lí giải hàm ngôn, thứ nhất người nghe cần phải dựa vào năng lực ngôn ngữ của bản thân,
tức là khả năng của con người về vận dụng ngôn ngữ. Tùy từng hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao
tiếp, trạng thái tâm lí, địa vị xã hội, trí tuệ…mà con người vận dụng các cơ chế ngôn ngữ tạo ra
những phát ngôn khác nhau. Ngược lại, từ các biểu thức ngôn ngữ, con người cũng có thể đặt cái
được biểu đạt vào cái biểu đạt. Điều này cũng dẫn đến, sự khác biệt hay tương đồng về năng lực
ngôn ngữ giữa người nói và người nghe sẽ dẫn tới sự thống nhất hay bất đồng về hàm ngôn giữa
người nói và người nghe. Thứ hai, người nghe cần phải dựa vào lẽ thường (topos). Đây là những
chân lí thông thường có tính chất kinh nghiệm, bị chi phối bởi nền văn hóa cộng đồng. Thứ ba,
người nghe cần phải dựa vào các quy tắc diễn ngôn, còn gọi là quy tắc ngữ dụng. Bất cứ người nào
tham gia giao tiếp, muốn tiến hành một cuộc hội thoại chân thành cũng phải tôn trọng các quy tắc
này. Thứ tư, người nghe cần phải dựa vào các kiểu quan hệ logic như quan hệ nhân quả, phép tam
đoạn luận…Theo logic, việc thay đổi trật tự các tác tử, kết tử sẽ làm thay đổi hiệu lực của phát
ngôn.
Cần lưu ý, hàm ngôn được người nghe suy ý từ hiển ngôn và TGĐ. Do đó, về phía người nói,
để tạo câu nói có hàm ngôn và không muốn người nghe hiểu sai điều mình muốn nói, người nói
phải đặt mình vào cương vị của người nghe, dự kiến những suy ý có thể xảy ra, thiết lập hiển ngôn
không chứa những suy ý không đúng điều mình muốn nói.
Ví dụ: (6) Hoa không phải là cô gái đẹp.
Có thể người nghe hiểu “Hoa là cô gái xấu”. Nhưng nếu người nói không có hàm ý như vậy
thì phải nói “Hoa không phải là cô gái đẹp nhưng cũng không phải là cô gái xấu.”
Hàm ngôn là kết quả của sự suy ý. Do đó, cùng một lời nhưng tùy thuộc vào người phát
ngôn, hoàn cảnh phát ngôn, có thể hiểu ít nhiều khác nhau về cái ý muốn nói. Đối với ca dao, do
đây là loại hình văn học dân gian được truyền từ đời này sang đời khác, mất đi dấu ấn tác giả, ngữ
cảnh nên thường có nội dung hàm ngôn phong phú. Những người thuộc thời đại khác nhau, vị trí xã
hội khác nhau, hoàn cảnh khác nhau có thể cảm thụ nội dung hàm ngôn khác nhau. Ứng với từng
lớp người, từng ngữ cảnh mà người ta có thể gắn nội dung cho câu ca dao:
(7) Ngọc lành còn đợi giá cao,
Kim vàng cũng đợi lụa đào mới may.
Nội dung ngầm ẩn có thể là lời bày tỏ tình cảm, lời từ chối, cung cấp thông tin về bản thân
“chưa có chồng/vợ”, đang tìm kiếm người có đức tính tốt hay chỉ ý muốn kết duyên với người giàu
có…
3.2 Miêu tả một số phương thức tạo hàm ngôn trong ca dao đối đáp giao duyên
Phương thức tạo hàm ngôn là cách sử dụng các biện pháp ngôn ngữ trong ngữ cảnh nhằm tạo
ra nghĩa hàm ngôn có giá trị thông tin trên một vỏ ngữ âm bề mặt hướng đến người nghe.
3.2.1 Phương thức sử dụng hư từ
Hư từ là loại từ chỉ mang nghĩa ngữ pháp hoặc nghĩa tình thái. Loại nghĩa này không phản
ánh trực tiếp thế giới khách quan. Hư từ không có khả năng đảm nhiệm chức năng thành tố chính
trong ngữ và câu.
Hư từ bao gồm hai loại: hư từ cú pháp tức quan hệ từ và hư từ tình thái gồm phụ từ, trợ từ,
tình thái từ, thán từ.
Có thể nói, hư từ có vai trò quan trọng trong việc tạo nghĩa hàm ngôn vì nó có khả năng biến
hóa linh hoạt tùy theo sự kết hợp với các từ trong phát ngôn cụ thể
a) Mà
Mà là một liên từ, biểu thị một điều gì đó trái với lẽ thường, thường dùng để phủ định, bác bỏ
một ý kiến được nêu ra.
(8) SP1: Sông sâu cá lội mất tăm,
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ.
SP2: Sông sâu cá lặn vào bờ,
Lấy ai thì lấy đợi chờ mà chi.
Ở trường hợp này, SP1 khẳng định bản thân sẽ chờ đợi cho dù thời gian chờ đợi có kéo dài.
Không đồng ý với ý định của SP1, SP2 dùng mà để bác bỏ ý định đó.
(9) Xa xôi chi đó mà lầm,
Phải hương hương bén, phải trầm trầm thơm.
Thông thường, nếu ở gần nhau lâu ngày sẽ hiểu rõ gia cảnh, tính cách của nhau nên việc ở
gần nhau, không hiểu nhau là trái với tự nhiên. Dụng ý của người nói trong trường hợp này chính là:
ở gần nhau thì đã hiểu nhau, sẽ không có chuyện lựa chọn sai lầm.
Nguyễn Đức Dân [12-1] xem mà là tín hiệu của cấu trúc nghịch nhân quả. Từ mà chuyển tải
được ý nghĩa của quan hệ nghịch nhân quả. Tất cả những gì trái với lẽ thường, lạ lẫm, bất ngờ đều
có thể được biểu hiện bằng từ mà. Với những câu chất vấn về quan hệ nghịch nhân quả, hàm ngôn
của câu sẽ là bác bỏ nó, tức là hàm ý khẳng định một quan hệ nhân quả.
(10) Thiếu chi hoa lí hoa lài,
Mà anh đi chọn hoa khoai cuối mùa.
Thiếu gì A mà lại B? Suy ra: đã có A thì không cần B. hàm ngôn không nên B, tức là khẳng
định: Nếu đã có nhiều hoa lí, hoa lài thì không nên chọn hoa khoai. (Không nên chọn người con gái
tầm thường.).
(11) Nước cùng một giếng múc ra,
Đó chê đây đục, đó mà trong chi
Phát ngôn này dựa trên lí lẽ: “nước cùng một giếng thì không thể có chuyện chỗ đục chỗ
trong”. Đây với đó như nước cùng một giếng, nếu đây đục thì đó cũng đục. Hàm ngôn: đây không
tốt thì đó cũng không tốt vì đây với đó cùng một hạng người.
b) Thì
Thì là trợ từ dùng để đánh dấu điều đã được đề cập đến (phần ở trước thì) và còn là từ trỏ
quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, trong ca dao, thì còn được dùng như một phương tiện để nói dỗi, thề
có chứa hàm ngôn.
- Thì dùng để thề nguyền
(12) Ai mà nói dối với ai,
Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng.
Thì trong ví dụ trên cùng đánh dấu ý thề nguyền. Người nói không tường minh hành động thề
bằng động từ ngôn hành thề mà dùng từ thì để tạo mối quan hệ nhân quả giữa hai đối tượng. Người
nghe dựa vào điều được mang ra đảm bảo có liên quan đến tính mạng, danh dự mà đoán định. Lời
thề chỉ có ý nghĩa khi hậu quả gắn với chủ thể. Nhưng ở đây, thực tế không có chuyện “trời giáng
hạ cây khoai” mà nếu có, nó cũng không ảnh hưởng gì đến chủ thể. Do đó hàm ngôn là: người nói
ngầm không chịu trách nhiệm về lời thề không nói dối.
- Thì dùng để nói dỗi
(13) Vợ anh tôi chẳng dám bì,
Vợ anh vàng bảy, tôi thì than ba.
Ước gì ta ở một nhà,
Thử xem vàng bảy than ba thế nào.
Nói dỗi là nói không thành thật. Người nói dành cho đối tượng khác phần tốt đẹp, tự nhận về
mình phần không tốt hoặc đề cao người khác và tự hạ thấp mình nhưng không phải thể hiện ý khiêm
tốn mà để thực hiện hành động nói dỗi. Tự hạ thấp mình nhưng thật tâm không muốn thế. Trong
trường hợp này, cô gái đã nói dỗi thể hiện hàm ý cho rằng người đàn ông yêu vợ nhiều hơn mình,
coi trọng vợ hơn mình. Sử dụng thì để nói dỗi, người nói sẽ nhấn mạnh ở từ thì.
3.2.2 Phương thức kết hợp từ tạo thành chuỗi bất thường về nghĩa
Phương thức này được cấu tạo dựa trên sự kết hợp bất bình thường về nghĩa trong ngữ cảnh
từ đó làm nảy sinh hàm ngôn. [48-66]
(14) Người xinh cái bóng cũng xinh
Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn.
Câu ca dao chứa đựng hàm ngôn nhờ sự kết hợp bất bình thường: cái tỉnh tình tinh. Không
thể tìm trong từ điển cái gọi là tỉnh tình tinh. Ở đây, người nói khó có thể nói thẳng điều mình muốn
diễn đạt nên đã phải tạo ra những kết hợp mới. Tùy theo ngữ cảnh mà xác định cái tỉnh tình tinh.
Hiểu nó là cái gì thì hàm ngôn của câu vẫn là khen hoặc say đắm hết mức.
(15) Chữ tình là chữ chi chi,
Ai chi chi cũng chi chi mới tình.
Mấy từ “chi chi cũng chi chi” có sự biến hóa linh hoạt về cả từ loại lẫn nghĩa. Có thể nói
nghĩa của chuỗi kết hợp này là những biểu hiện cụ thể của chữ “tình”. Như vậy, tùy vào ngữ cảnh,
tùy thuộc vào mối quan hệ tình cảm giữa hai người mà suy ra hàm ngôn.
(16) Sáng trăng em ngỡ tối trời,
Em ngồi em để sự đời em ra.
Sự đời bằng cái lá đa…
“Sự đời” thường được hiểu là những sự việc xảy ra ở cuộc đời, gần nghĩa với thói đời, trò
đời. Thế nhưng “sự đời bằng cái lá đa” là một kết hợp bất thường, bất ngờ, một sự sáng tạo mới
mang nghĩa hàm ngôn ám chỉ cái “sự đời” của một cô gái.
(17) Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu trộm nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người.
Thật là bất ngờ khi nghe đến “họp chợ trên bụng”. Cô gái đã tạo nên một kiểu kết hợp bất
bình thường về nghĩa nhằm dẫn dắt người nghe nhận ra hàm ngôn: đã từng chung sống vụng trộm
với rất nhiều người và tỏ thái độ mỉa mai những chàng trai có thói trăng hoa nhưng lại muốn các cô
gái trinh tiết.
3.2.3 Phương thức sử dụng câu chất vấn
Chất vấn, theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2006) là hỏi và yêu cầu phải giải
thích rõ ràng. Nhưng, theo Nguyễn Đức Dân – Đỗ Thị Thời, [14-3] khi nghi ngờ hoặc cho rằng một
sự tình (đối tượng, hiện tượng, ý kiến, luận điểm, lí lẽ…) là vô lí, không đúng thì người ta chất vấn
sự tình đó nhằm mục đích bác bỏ sự tình này mà không cần người nghe trả lời. Nếu sự tình là một ý
khẳng định thì chất vấn tạo hàm ý phủ định và ngược lại. Hành động chất vấn thể hiện thành câu
chất vấn. Câu chất vấn luôn luôn có hàm ý. Điều này có nghĩa là khi người tham gia giao tiếp dùng
câu chất vấn chính là đã tạo hàm ngôn cho phát ngôn.
Câu chất vấn phổ biến dùng yếu tố phiếm định như ai, đâu, sao, nào, gì… làm tác tử chất
vấn. Ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt thường sử dụng một số hình thức chất vấn sau:
- Khuôn chất vấn với từ phiếm định “ai?”
Ví dụ: (18)
a. Gió đưa bụi chuối se tàu,
Chàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn?
Người nói chất vấn “ai ăn” để phủ định “ai ăn”, nghĩa là khẳng định “không có ai ăn” mà
không có ai ăn thì làm giàu làm gì? Hàm ngôn: trách móc với mong muốn sum họp.
b. Nước chảy liu riu lục bình trôi líu ríu,
Anh ở một mình khi đau yếu ai nuôi?
Chất vấn “ai nuôi” nghĩa là bác bỏ việc “có người nuôi”, nhằm khẳng định “ở một mình thì
không có ai nuôi trong lúc đau yếu không thể tự nuôi mình”. Vậy, hàm ngôn của phát ngôn: khuyên
không nên ở một mình
- Khuôn chất vấn với từ phiếm định “X đâu?, X nào?”
(19) Bậu nói với qua là bậu không hái lựu bẻ đào,
Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay.
Chất vấn sự tồn tại của sự vật “lựu, đào” nhằm khẳng định “bậu có hái lựu, bẻ đào”, để bác
bỏ sự việc “bậu nói không hái lựu, bẻ đào”. Suy ra hàm ngôn của câu: bậu đã nói dối.
- Khuôn chất vấn với từ phiếm định “sao không X?”. Hàm ngôn: cần phải nên X. Ví dụ:
(20)
a. Khi xưa bể rộng sông dài
Sao lưới chả mắc, sao chài chẳng quăng?
b. Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
- Khuôn chất vấn với từ phiếm định “X làm chi, làm gì?”. Hàm ngôn: bác bỏ X , không nên
X. Ví dụ: (21)
a. Gần nhà xa ngõ, chịu khó đi quanh,
Bóng khế lộn với bóng chanh
Duyên ai nấy gặp, dỗ dành làm chi?
b. Trai như anh đây chưa vợ sao em không thương,
Em lại tìm nơi có vợ náu nương làm gì?
c. Trăng lên đỉnh núi trăng soi,
Yêu thời yêu thật, ghẹo chơi làm gì?
3.2.4 Phương thức dùng cấu trúc nhân quả
Hai hiện tượng x và y có quan hệ nhân quả là: khi xảy ra hiện tượng X là sẽ xảy ra y. x→y.
Quan hệ này thể hiện qua cấu trúc chuyên dụng như sau:
Nguyên nhân – kết quả: vì x nên y
Điều kiện kết quả: nếu x thì y, bao giờ x thì y
Với cấu trúc nhân quả này, ta chỉ có thể lí giải hàm ngôn qua cơ chế quan hệ lập luận.
Cơ chế quan hệ lập luận là p→r, trong đó, p là dữ kiện xuất phát làm căn cứ để suy ra kết đề,
còn gọi là các tiền đề, r là đích khẳng định, gọi là kết đề. Theo Nguyễn Đức Dân, [l0-237], điều kiện
để có một câu nhân quả có hàm ngôn là người nghe thấy ngay được tính đúng sai của tiền đề. Muốn
vận dụng cơ chế này tạo ra hàm ngôn, chúng ta chỉ việc tạo câu có cấu trúc “nếu X thì Y”, trong đó,
nếu muốn hàm ngôn bác bỏ Y thì tạo ra X hiển nhiên sai, và ngược lại chẳng hạn:
(22) Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước, thì ta lấy mình.
Tiền đề “chạch đẻ ngọn đa, sáo đẻ dưới nước” hiển nhiên sai nên suy ra kết đề “ta lấy mình”
là sai. Hàm ngôn: ta không lấy mình.
(23) Nếu mà không lấy được anh,
Thì em tự vẫn gốc chanh nhà chàng.
Ở ví dụ (23), tiền đề p được ngầm ẩn là: không lấy được anh là em chết. Vì thực tế không ai
muốn chết, nghĩa là muốn bác bỏ cái chết, nên suy ra kết đề hàm ngôn: em phải lấy anh.
Nguyễn Đức Dân chỉ ra rằng, chỉ cần xác định đúng tiền đề a hoặc kết đề b, đem phủ định nó
là sẽ được hàm ý gốc của câu. Từ hàm ý gốc suy ra hàm ý thích hợp trong ngữ cảnh.
(24) Anh về kiếm được vảy con cá trê vàng,
Cái gan con tép bạc, thì nàng theo không
Ở ví dụ (24), phủ định tiền đề, kết đề ta có: anh không kiếm được vảy cá trê, gan con tép và
nàng không theo anh. Suy ra, hàm ngôn là lời từ chối tình cảm: sẽ không theo anh.
3.2.5 Phương thức tạo lối nói mơ hồ
Lối nói mơ hồ là lối nói không rõ ràng. Một biểu thức có từ hai cách hiểu trở lên thì được gọi
là mơ hồ. Mơ hồ thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau như từ vựng, ngữ nghĩa, cấu trúc… Hiện tượng
mơ hồ trong tổ chức văn bản còn được dùng như một nghệ thuật biểu thị hàm ngôn. Tuy nhiên, cách
thức này cũng tương tự với việc cố tình vi phạm phương châm cách thức “tránh nói mập mờ, có thể
hiểu nhiều nghĩa” của nguyên tắc cộng tác hội thoại.
(25) Mình nói với ta mình chửa có chồng,
Ta đi qua ngõ thấy mình bồng con ra.
Con mình khéo giống con ta,
Con mình thì bẩy, con ta ba phần.
Chàng trai trong ví dụ (25) khéo dùng cách nói mơ hổ để bày tỏ tình yêu sâu sắc của mình
đối với cô gái. Câu nói “con mình khéo giống con ta” có thể hiểu theo hai cách: 1) mình có con, ta
cũng có con, con ta và con mình có nét giống nhau; 2) mình có con, ta không có con, con của mình
cũng như con của ta. Theo cách hiểu thứ 2), chàng trai muốn nói là mình thông cảm và chấp nhận
quá khứ của cô gái.
Tương tự, ta có dị bản của bài ca dao (25):
(26) Mình nói với ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi gánh nước tắm cho con mình.
“Con mình” ở đây có thể hiểu cả hai nghĩa: con của cô gái và con của cả hai (chúng mình).
Chàng trai ngầm bảo với cô gái là chàng đã xem con của cô là con của chàng nghĩa là vẫn chấp
nhận cô gái là người yêu của mình.
Một câu có cấu trúc mơ hồ khi cấu trúc của nó cho phép người ta có nhiều cách lí giải. Chẳng
hạn: (27)
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em đã có chồng, em trả yếm cho anh.
Ta có cách 1
S
NP
VP
Em
đã lấy chồng, trả yếm cho anh
Cách 2:
S
NP
VP
S’
NP
VP
Em đã lấy chồng
em
trả yếm cho anh
S: sentence: câu
NP: noun phrase: cụm danh từ đóng vai trò chủ ngữ
VP: verb phrase: cụm động từ đóng vai trò vị ngữ
Hiểu theo cách 1, vì yêu nhau không lấy được nhau nên cô gái trao trả lại kỉ vật mà nàng đã
nâng niu gìn giữ. Còn theo cách 2, do không đạt được mục đích, người con trai đòi lại kỉ vật tình
yêu đã trao. Chàng trai thật là nhỏ nhen, tầm thường, toan tính.
3.2.6 Phương thức suy luận
Suy luận (Từ điển Hoàng Phê chủ biên,2006) là liên hệ các phán đoán với nhau và bằng một
chuỗi suy lí, từ một số phán đoán sẵn có rút ra một hay nhiều phán đoán mới về một chủ đề nào đó.
Dựa trên suy luận để tạo ra hàm ngôn là người nói đưa ra những tiền đề xuất phát để người nghe
làm căn cứ rút ra kết kết luận.
(28) Lấy anh em biết ăn gì,
Lộc sắn thì chát, lộc si thi già.
Từ các phán đoán “ Nếu lấy anh thì không biết ăn gì để sống mà lộc sắn thì chát, lộc si thì
già không thể ăn được”, có thể đi đến kết luận “không thể lấy anh”, vì thực tế, người ta phải ăn mới
sống được.
Có trường hợp hình thức suy luận trùng khớp với tam đoạn luận trong logic hình thức. Tam
đoạn luận là phép suy luận dựa vào hai phán đoán được gọi là hai tiền đề, để suy ra một phán đoán
thứ ba là kết đề. Nếu tiền đề đúng thì kết luận đúng. Nếu tiền đề sai thì kết luận sai.
Ví dụ: (29)
Bao giờ cho sóng bỏ gành,
Cù lao bỏ bể, thì anh bỏ nàng
Ta có: tiền đề 1: sóng bỏ gành
Tiền đề 2: cù lao bỏ bể
Kết đề: anh bỏ nàng
Tiền đề 1 và 2 sai thực tế, suy ra kết đề “anh bỏ nàng” là sai. Vậy, hàm ngôn của câu là: anh
không bỏ nàng.
3.2.7 Phương thức tạo hàm ngôn bằng cách vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất
Vi phạm qui tắc chiếu vật – chỉ xuất là một trong những cơ chế để tạo ra hàm ngôn cho phát
ngôn. Chúng ta biết rằng tự bản thân các từ không quy chiếu đến cái gì cả. Bằng hành vi chiếu vật,
người nói đưa sự vật mình định nói vào diễn ngôn bằng các từ ngữ, câu. Theo G.Green thì “Thuật
ngữ chiếu vật dùng để chỉ phương tiện nhờ đó người nói phát ra một biểu thức ngôn ngữ, với biểu
thức này người nói nghĩ rằng nó sẽ giúp người nghe suy ra được một cách đúng đắn thực thể nào,
đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến” [dẫn theo 50 -3]. Nếu chiếu vật là hành
động của con người thì việc tạo lập biểu thức chiếu vật như thế nào có liên quan đến ý định của
người nói. Nếu người nói cố tình tạo mơ hồ về chiếu vật hoặc thay đổi ngôi bậc là họ có ý định
dùng cách nói hàm ngôn. Vi phạm quy tắc chiếu vật để tạo hàm ngôn trước hết phải kể đến việc
dùng từ xưng hô.
Hệ thống các từ xưng hô trong ca dao giao duyên tiếng Việt rất đa dạng, chứa đựng nhiều sắc
thái biểu cảm. Mỗi cặp từ xưng hô đều TGĐ một kiểu quan hệ hội thoại nhất định. Bằng cách lựa
chọn từ để xưng hô, người nói đã định một khung quan hệ liên cá nhân. Bên cạnh đó, từ xưng hô
còn đóng vai trò như một biểu thức biểu thị tình cảm. Do đó, trong ca dao đối đáp giao duyên, sử
dụng từ xưng hô là một chiến lược giao tiếp quan trọng. Ngoài ra, việc sử dụng từ xưng hô còn chịu
ảnh hưởng bởi những quy ước xã hội. Việc cố tình xưng hô không theo qui ước hoặc đột ngột thay
đổi cách xưng hô trong cuộc thoại là một cách để tạo ra hàm ngôn. Ví dụ: (30)
SP1: Anh về chi nữa anh ơi,
Ở đây em dạm một nơi thanh nhàn.
SP2: Anh về chẻ nứa đan sàng,
Bện dây đan võng cho nàng ru con.
Ở lượt trao lời, SP1 xưng “em” và gọi “anh”, do vậy ta có cặp từ xưng hô anh-em. Nhưng ở
lượt đáp lời, SP2 xựng “anh” và gọi “nàng”. Việc cố tình dùng từ xưng gọi “nàng” là không theo
quy ước là chứa đựng hàm ngôn: “nàng” ở đây cũng có thể hiểu là “em”, cũng có thể hiểu là người
khác.
(31) Bấy lâu chàng đợi thiếp trông,
Bây giờ chàng hỏi thiếp nói không sao đành.
Mình nghiêng tai tôi nói nhỏ cho rành,
Theo mình có thác cũng đành dạ tôi.
Sự chuyển cách xưng hô “chàng-thiếp, mình-tôi” như vậy là ngầm bày tỏ quan hệ giữa hai
người, có hàm ngôn: cặp từ chàng – thiếp biểu thị một tình cảm nghiêm túc, tha thiết, gắn bó; cặp từ
mình – tôi cho thấy quan hệ giữa hai nhân vật chưa phải là quan hệ vợ -chồng. Mình – tôi phản ánh
mối quan hệ hiện tại của hai người vẫn còn khoảng cách.
Việc dùng các từ xưng hô phiếm chỉ cũng là một cách thức tạo hàm ngôn. Bởi vì, nó tạo nên
tính đa nghĩa hay mơ hồ về chiếu vật. Hình thức này được ca dao giao duyên sử dụng khá nhiều. Rất
nhiều trường hợp ca dao dùng các từ phiếm chỉ như ai, đây, đó, cô ấy, anh ấy… để xưng gọi thay vì
dùng các cặp từ xác định như anh –em, thiếp – chàng…
(32) - Cô kia bóng bẩy làm chi,
Để cho anh ấy đi đi về về?
- Ai làm cái nón quai thao,
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh
Cô kia, anh ấy, cô nào trong trường hợp này chứa đựng hàm ngôn ngầm chỉ hai nhân vật
đang trực tiếp đối thoại. Chính là em quá xinh đẹp khiến anh phải say đắm.
(33) SP1: Hỡi người vác cuốc dưới đồng,
Thăm lúa thăm mạ hay lòng thăm ai?
Anh nay vác cuốc thăm khoai, SP2:
Nào ai có dám thăm ai ngoài đồng.
Tự xưng mình là “ai”, gọi “em” bằng “ai”, làm cho đối tượng đang trò chuyện trực tiếp thành
gián tiếp, đang xác định trở thành không xác định là cách nói hàm ngôn. Cách nói này giúp các đối
tượng giao tiếp tránh được sự khó nói.
Xưng hô chịu sự chi phối mạnh mẽ của quan hệ liên cá nhân nên khi người nói trong cuộc
thoại lựa chọn hoặc thay đổi từ xưng hô thì người nghe phải thực hiện thao tác suy ý, để xác định
được ý định của người nói, để có chiến lược hồi đáp thích hợp.
Sử dụng phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ cũng là một biện pháp cố tình vi phạm quy tắc chiếu
vật.
(34) Chưa chi anh đã vội về,
Hay là xuân giục vội về với xuân.
Xuân có nghĩa gốc là mùa xuân nhưng được chuyển nghĩa dùng để chỉ những người trẻ đẹp.
Cô gái có hàm ý rằng chàng trai vội ra về vì có cô gái trẻ đẹp nào đó đang thúc giục, chờ đợi.
(35) Nhà em cao hàng rào em kín,
Nhà em tám, chín, mười từng.
Con ong bay vô không lọt,
Biểu con bướm đừng xôn xao.
Ở ví dụ 35, cô gái dựa trên nét tương đồng giữa con ong, con bướm và người con trai đang
tán tỉnh cô con gái, đã quy chiếu chàng trai đang ve vãn mình là con bướm.
3.2.8 Phương thức vi phạm quy tắc cộng tác hội thoại
Theo nguyên tắc cộng tác hội thoại của H.P.Grice, muốn đạt được hiệu quả giao tiếp, người
ta phải tuân thủ nguyên tắc cộng tác hội thoại, đó là phải đảm bảo bốn phương châm sau:
Phương châm về chất: nói đúng sự thật và có bằng chứng xác thực.
Phương châm về lượng: đảm bảo thông tin đúng như đòi hỏi, không lớn hơn đòi hỏi.
Phương châm quan hệ: nói những thông tin có liên quan và đúng chủ đề.
Phương châm cách thức: thông tin phải ngắn gọn, trật tự, rõ ràng.
Trong tình huống nói năng bình thường, tất cả quy tắc trên đều được tuân thủ. Đôi lúc, vì tôn
trọng phương châm này mà người nói vi phạm một cách không cố ý phương châm khác. Nhưng khi
người nói muốn tạo ra cách nói hàm ngôn, thì họ cố tình vi phạm một hay một số phương châm nêu
trên như một chiến thuật giao tiếp. Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp đều có ý kiến
tương tự: “ người nói một mặt phải tôn trọng các quy tắc này và giả định rằng người nghe cũng biết
và tôn trọng chúng, mặt khác lại cố ý vi phạm chúng và giả định rằng người nghe cũng ý thức được
chỗ vi phạm đó của mình” [7 -377] thì sẽ tạo nên nghĩa hàm ngôn. Chẳng hạn: (36)
SP1: Em đà thuận lấy anh chưa?
Để anh đốn gỗ rừng nưa làm nhà.
SP2: Có lòng xin giả ơn lòng,
Xa xôi cách lế đèo bòng mần răng?
Rõ ràng, SP2 đã cố tình vi phạm phương châm quan hệ, bởi vì cậu trả lời không vào đề, tức
không khớp với câu hỏi. SP1 hỏi một đàng (em thuận lấy anh chưa?) nhưng SP2 lại đáp một nẻo
(Cám ơn đã có lòng, nhưng xa xôi quá làm sao dám mơ tưởng). Nghe câu trả lời, SP1 hiểu rằng SP2
từ chối, không chấp thuận.
(37) SP1: Anh về thắc rế kim cang,
Bán đôi đũa bếp cưới nàng còn dư.
SP1: Anh về bán ruộng cây da,
Bán cặp trâu già chẳng cưới được em.
Trong ví dụ (37), SP1 đã sử dụng cách nói không đúng sự thật để tạo hàm ngôn, tức là cố tình
vi phạm phương châm về chất. Ai cũng biết rằng đôi đũa bếp là vật không có giá trị cao còn việc tổ
chức đám cưới phải tốn kém rất nhiều tiền bạc nên không thể chỉ bán đôi đũa bếp mà cưới được vợ.
Trâu và ruộng là hai vật rất quý giá đối với người nông dân xưa nên nó có giá trị rất cao. Câu nói
của SP1 không có giá trị thông báo việc đám cưới mà nhằm thấp giá trị cô gái. Câu nói của cô gái
nhằm bác bỏ hàm ý của chàng trai và đề cao mình.
Tương tự câu trên, ta có: (38)
Hồi hôm tôi có lại đình,
Ông thần ổng biểu hai đứa mình kết đôi..
Điều nói ra trong câu ca dao trái với tự nhiên và cũng không có bằng chứng xác thực. Không
thể có chuyện “ông thần ổng biểu” mà chỉ có chuyện chàng trai mượn ông thần nói thay cho mình.
“Anh muốn hai đứa mình kết đôi” chính là hàm ngôn của câu nói.
Ngó lên mây bạc trời hồng, (39) SP1:
Thương em hỏi thật có chồng hay chưa?
SP2: Ngồi thêu bức gấm kim tòng,
Nhiều nơi dàn dạt nhưng lòng chưa ưng.
Hàm ngôn trong câu trả lời của SP2 được tạo bởi thông tin thừa “ngồi thêu bức gấm kim tòng,
nhiều nơi dàn dạt”. Thông tin này không liên quan đến câu hỏi “Có hay không có chồng?”. Sử dụng
thông tin thừa này, SP2 ngầm bảo mình “đang kén chồng, có rất nhiều người để ý nhưng còn đang
lựa chọn”.
Cần lưu ý: Có những tình huống mà do tôn trọng phương châm này người nói buộc lòng vi
phạm phương châm khác như trường hợp sau:
(40) Rồng giao đầu, phượng giao đuôi,
Nay tui hỏi thiệt, mình thương tui không mình?
Do tôn trọng phương châm về chất, người nói muốn khẳng định tính chân thật nên đã vi
phạm phương châm cách thức: nói ngắn gọn. Sự vi phạm này là không cố ý nên không nảy sinh
hàm ngôn.
3.2.9 Phương thức vi phạm quy tắc lập luận
Trong quan hệ lập luận, p,q là luận cứ, r là kết luận. Giữa luận cứ và kết luận có quan hệ với
nhau và hai thành phần này được thể hiện tường minh, tức được nói rõ ra. Nhưng trong thực tế có
những lập luận không đầy đủ. Có lập luận có thể một luận cứ hoặc một kết luận không được nói ra
mà người nghe phải tự suy ra từ những luận cứ đã có.
Đỗ Hữu Châu nói rằng “không hoàn tất các bước lập luận là cách thường được dùng để tạo ra
các hàm ngôn”. [7-379] Nghĩa là sự vi phạm các quy tắc lập luận là phương thức tạo hàm ngôn.
Ví dụ: (41)
Chờ anh, em gắng sức chờ,
Chờ hồi mười bảy, bây giờ ba mươi.
Ở ví dụ 41, Thông tin miêu tả Chờ hồi mười bảy, bây giờ ba mươi được xem là những luận
cứ. Ở đây kết luận không được nói ra một cách tường minh. Người nghe phải căn cứ vào luận cứ để
rút ra kết luận ngầm ẩn. Kết luận đó có thể là em đã già vì chờ đợi hoặc em không đợi anh nữa.
Theo O ducrot: mỗi thông tin miêu tả đều tiềm ẩn giá trị lập luận. Thông thường, người miêu
tả không nhằm mục đích miêu tả thuần túy mà nhằm dẫn đến một kết luận nào đó. Cái mà người nói
dẫn người nghe đến thông qua miêu tả có thể là một thái độ, tình cảm, đánh giá, nhận định hay một
hành động nào đó.
Ví dụ; (42)
Em rầu nỗi mẫu thân mất sớm.
Chữ nhớ thương đau ốm một mình,
Phận em vô đệ vô huynh,
Không nơi nương tựa cui cút một mình bớ anh.
Dễ dàng nhận thấy ở ví dụ 42, những thông tin mà S đưa ra là những tiền đề dẫn dắt người
nghe đến hành động lập luận rồi suy ra kết luận hàm ngôn: em không có ai là người thân để nương
tựa nên rất cần anh làm chỗ nương tựa.
Theo Nguyễn Đức Dân, chúng ta có hai loại lập luận: thứ nhất là loại lập luận chứng minh
khoa học, đòi hỏi phương pháp suy luận theo logic hình thức, lí lẽ theo tiêu chuẩn đúng sai logic.
Thứ hai là loại lập luận thuyết phục mang lại tính hiệu quả, theo phương pháp suy luận “logic không
hình thức”, lí lẽ theo những lẽ thường. Người nói phải nói như thế nào đó, để người nghe căn cứ vào
ngôn cảnh, ngữ huống để có thể tự mình suy ra kết luận.
Suy luận theo logic hình thức: (43)
Rượu ngon trong hũ rót ra,
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em.
Trong ví dụ 43, từ một số từ “cũng … nữa là”, ta có biểu thức: A còn x nữa là B. Suy ra: A
mà x thì B cũng x . Rượu ngon để lâu nhạt thì duyên em cũng nhạt. Hàm ngôn: em càng lớn tuổi thì
vẻ đẹp và tình duyên cũng phai tàn theo.
Vợ anh như thể đĩa xôi,
Anh còn phụ bạc, nữa tôi cơm đùm.
Hàm ngôn: Anh đã phụ bạc vợ thì anh chắc chắn phụ bạc tôi.
Suy luận theo lẽ thường: (44)
Mạ non bắt nhẽ cấy biền,
Anh thương em đứt ruột, chạy tiền không ra.
Từ luận cứ: thương em đứt ruột, chạy tiền không ra, người nghe hình dung ra ngữ cảnh:
chàng trai yêu cô gái tha thiết nhưng nhà nghèo không kiếm được tiền để làm đám cưới. Vì theo lẽ
thường, trai - gái yêu nhau, muốn nên vợ chồng phải tổ chức lễ cưới. Nhà trai phải mất rất nhiều
tiền. Như vậy, người nghe có thể suy ra nghĩa hàm ngôn là “anh không có tiền để cưới em”.
3.2.10 Phương thức thực hiện hành động tại lời gián tiếp
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Sử dụng các hành vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp là biện pháp rất có
hiệu lực, để truyền báo các ý nghĩa hàm ẩn, đặc biệt là các ý nghĩa hàm ẩn dụng học.”. [7-379] Thực
tế sử dụng ngôn ngữ cũng cho thấy, với hành động tại lời gián tiếp, người ta có thể nói được nhiều
hơn cái mà họ đã nói ra. Vì, muốn nhận biết HĐTLGT thì trước tiên phải nhận biết HĐTLTT thông
qua biểu thức ngôn hành. Khi người nói không thỏa mãn điều kiện sử dụng của HĐTLTT thì sẽ tạo
ra HĐTLGT. Như vậy, HĐTLGT là kết quả của sự suy ý từ HĐTLTT, chính là hàm ngôn.
(45) SP1: Anh về anh cạo râu đi,
Mai sau trẻ lại, anh thì đến chơi.
SP2: Tức cái phận, giận cái duyên,
Ba cái râu mọc sớm để gái thuyền quyên giày vò.
Tiểu từ cầu khiến đi đứng ở vị trí cuối câu là dấu hiệu đặc trưng của biểu thức ngôn hành cầu
khiến, mang ý nghĩa yêu cầu người nghe thực hiện hành động “cạo râu cho trẻ lại rồi hãy đến
chơi”. Tuy nhiên, trong tâm thức người Việt, râu mang nghĩa biểu trưng cho người đàn ông tuổi
cao. Thực tế, cạo râu không có nghĩa là sẽ trẻ lại. SP1 đã yêu cầu một hành động phi thực tế. Điều
này cho thấy, SP1 đã vi phạm điều kiện thực hiện hành động cầu khiến: người nghe không có khả
năng làm mình trẻ lại và người nói biết rõ điều đó, nghĩa là người nói không thực sự mong muốn
người nghe thực hiện hành động đó. Do vậy, lượt lời của SP1 không có hiệu lực trực tiếp cầu khiến
mà là gián tiếp thực hiện hành động chê bai. SP2, thông qua suy ý, hiểu rằng SP1 yêu cầu mình cạo
râu chính là hàm ngôn chê mình đã già nên có hành động giải thích là do “râu mọc sớm”.
(46) Nước bưng bậu không uống, bậu uống nước bàu,
Chê đây lấy đó, ai giàu hơn ai?
Nêu câu hỏi này, S rõ ràng đã vi phạm điều kiện chuẩn bị và điều kiện chân thành của hành
động hỏi. Ở câu nói thứ nhất với hình ảnh ẩn dụ “nước bưng, nước bàu” cho thấy S đã biết lời giải
đáp cho câu hỏi của mình. Do đã biết thông tin, S chắc chắn không phải muốn biết “ai giàu hơn” mà
là để tỏ thái độ không bằng lòng với việc “chê đây lấy đó” của H, tức là thực hiện HĐTLGT chê
trách.
3.2.11 Phương thức so sánh
Nhà nghiên cứu Đinh Trọng Lạc định nghĩa so sánh như sau: “So sánh (còn gọi: so sánh
hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng
khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào
đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng.” [43-154]
Nghiên cứu về hình thức nghệ thuật của ca dao, Vũ Ngọc Phan [66-52] viết: “Tỉ là thể so
sánh. Ở thể này câu ca không nói thẳng ngay như ở thể phú mà mượn một cái khác để so sánh, để
ngụ ý gì hay gửi gắm một tâm sự gì. So sánh là một phương pháp nghệ thuật độc đáo của tục ngữ,
ca dao và dân ca. Ở những thể loại này trong văn học dân gian, so sánh là một phương pháp chủ
yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh là một lối cụ thể hóa những cái trừu tượng: nó
còn làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. Giữa hai vật so sánh, bao giờ cũng có mối liên hệ
nội tại.”. So sánh có hai loại; so sánh trực tiếp và so sánh gián tiếp. So sánh trực tiếp được hiểu là
hiển ngôn các thành phần trong cấu trúc so sánh như: yếu tố cần so sánh (yếu tố 1); yếu tố biểu thị
thuộc tính của sự vật, nêu rõ phương diện so sánh (yếu tố 2); yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (yếu tố
3); yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh (yếu tố 4). Chẳng hạn: (47)
Thiếp/ xa chàng / như / rồng nọ xa mây
1 2 3 4
So sánh gián tiếp (tức nghệ thuật ẩn dụ), là so sánh ngầm. Nghĩa là trong cấu trúc so sánh sẽ ẩn đi
cái được so sánh, phương diện so sánh, quan hệ so sánh, chỉ hiển thị yếu tố có tính tương đồng với
cái cần so sánh.Ví dụ (48): cái được so sánh “sự việc người con trai muốn đến nhà người con gái để
tính chuyện tình duyên nhưng cha mạ cô gái chưa chấp thuận” không được nói ra trong câu ca dao
sau:
Thấy em anh cũng muốn thương,
Nước thì muốn chảy nhưng mương chẳng đào.
Em về lo liệu thế nào,
Để cho nước chảy lọt vào trong mương.
Hoàng Kim Ngọc [61-148] xem ẩn dụ là hệ quả của phép ẩn dụ hóa (so sánh ngầm). Nếu so
sánh nổi có cấu trúc là “A t như B” (trong đó A là cái được so sánh, B là cái so sánh) thì ở so sánh
ngầm chỉ còn B là hiển ngôn. A, t và từ ngữ so sánh bị ẩn đi. Quá trình chuyển hóa từ so sánh sang
ẩn dụ được mô hình hóa như sau: A t như B → B (~ A). Mô hình ẩn dụ được hiểu là: B là từ ngữ
dùng để biểu thị một sự vật khác loại với sự vật do A biểu thị, nhưng có một mặt, một thuộc tính
tương đồng nào đó giữa A và B mà người ta liên tưởng đến.
Ví dụ: (49)
a. Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong. (so sánh)
b. Tằm ơi, say đắm nơi đâu,
Mà tằm bỏ nghĩa cành dâu không nhìn. (ẩn dụ)
Đồng quan điểm trên, Nguyễn Lân cho ẩn dụ là “Phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển dựa
trên cơ sở của sự tương đồng, sự giống nhau… giữa các thuộc tính của cái dùng để nói và cái nói
đến. Ẩn dụ cũng là một cách ví, nhưng không cần dùng đến những tiếng để so sánh như: tựa, như,
tường, bằng…” [dẫn theo 85 -1] Và Nguyễn Đức Tồn khẳng định: “ẩn dụ chỉ là một tiểu loại của so
sánh mà thôi”.[85-3]
Dựa vào quan hệ liên tưởng, Lê Đức Luận [51-362] đã “gộp tất cả các phương thức chuyển
nghĩa cùng kiểu so sánh như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng vào một phương thức so sánh
chung cùng quan hệ liên tưởng”.
Như vậy, phương thức so sánh chính là đối chiếu hai đối tượng mà giữa chúng có quan hệ
liên tưởng tương đồng, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng.
Cái mà Vũ Ngọc Phan gọi là “không nói thẳng mà mượn một cái khác để so sánh, để ngụ ý
gì hay gửi gắm một tâm sự gì”, Hoàng Kim ngọc gọi đó là nghĩa hàm ý (ngụ ý). Nghĩa của phát
ngôn được xây dựng trên cơ sở của phép so sánh không chỉ gồm hai phần là nghĩa biểu hiện và
nghĩa thông báo, mà còn có phần nghĩa thứ ba. Phần thứ ba này nằm ở chính bản chất ngữ nghĩa của
các từ ngữ giữ vai trò của cái so sánh (B) trong quan hệ với cái được so sánh. Phần nghĩa này chính
là nghĩa hàm ngôn.
Ví dụ: (50)
Lòng qua như đinh sắt,
Nguyện nói chắc một lời,
Qua không có dạ đổi dời như ai.
Cái mượn để so sánh là “đinh sắt” không dùng để nói thẳng về “vật làm bằng sắt cứng, có
một đầu nhọn, dùng để đóng treo, giữ vật này, vật khác” mà là hình ảnh gợi tính chất “bền chặt” với
nghĩa hàm ngôn “bền lòng chặt dạ, không thay đổi”.
(51) Nghe tin anh có vợ rồi,
Như ai dội bác nước sôi trong lòng.
Cô gái trong câu ca dao không nói thẳng “lòng em quá đau xót khi nghe tin anh có vợ” mà
mượn cái so sánh B “ai dội bác nước sôi trong lòng” để thể hiện ý này. Chính cái so sánh B gợi
người nghe cái thuộc tính “đau xót”. Hình ành “dội bác nước sôi” mang nghĩa biểu trưng cho tính
chất “đau xót”. Nghĩa biểu trưng này có được nhờ mối liên hệ tương đồng giữa hai vật so sánh.
(52) Làm chi trong da ngập ngừng,
Đã có nơi ấy thì đừng nơi đây.
Thôi đừng bắt cá hai tay,
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.
Hai hình ảnh “cá xuống bể” và “chim bay về ngàn”, trong ngữ cảnh: một người cùng một lúc
yêu hai người, lâm thời không mang nghĩa gốc mà được dùng như một biểu tượng cho “không nắm
giữ được một cái gì đó”. Từ nghĩa này, người nghe suy ra hàm ngôn của phát ngôn là lời cảnh báo
“yêu một lúc hai người sẽ không thể giữ được tình yêu của người nào cả”.
Trong ca dao đối đáp giao duyên, biểu trưng cho các nhân vật nam - nữ đối đáp là các hình
ảnh như trúc, mai, mận, đào, thuyền, bến, sen, hồ, bướm, hoa, rồng, phượng, ngọc, áo, khăn, lụa,
chiếu….Biểu trưng cho trạng thái tình cảm xoay quanh câu chuyện tình duyên của các cuộc đối đáp
là các hình ảnh như giếng sâu, sợi gầu dài, mắt ngủ không yên, nước mắt lai láng, nước đầy, nước
cạn, trăng tròn, trăng khuyết…Biểu trưng cho quan hệ hôn nhân có trầu, cau, chăn, gối…, Biểu
trưng cho tín hiệu tình yêu có áo, khăn, nón, trâm, cầu….
Có thể nói, nắm bắt được nghĩa biểu trưng của những hình ảnh so sánh gián tiếp (ẩn dụ)
không phải dễ dàng. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra tiêu chí để nhận diện: 1) dựa vào những yếu tố,
những quan hệ cụ thể của câu chữ trong ngôn bản (ngữ cảnh hẹp) và tình huống giao tiếp: người
tham gia, không gian, thời gian … (ngữ cảnh rộng). 2) dựa vào tính logic và thói quen thẩm mĩ.
1) khi tổ chức ngôn bản, bao giờ người ta cũng thực hiện hai thao tác là lựa chọn và kết hợp.
Lựa chọn từ ngữ theo trục liên tưởng dựa vào nét tương đồng về ngữ nghĩa, tức là vật được lựa chọn
để so sánh phải đảm bảo mang những nét thuộc tính khách quan tương đồng với cái được so sánh.
Điều kiện chi phối sự lựa chọn chính là các yếu tố văn hóa, lịch sử, xã hội liên quan đến đời sống
tình cảm người lao động. Kết hợp các yếu tố được lựa chọn theo quy tắc nhất định, đảm bảo tính hệ
thống, theo tình huống giao tiếp nhất định để đạt hiệu quả giao tiếp. Vậy, muốn hiểu được ngôn bản
phải dựa vào ngữ cảnh hẹp để xác định ý nghĩa của từng từ ngữ và không thể không đặt chúng trong
tình huống giao tiếp cụ thể.
2) Lí giải nghĩa biểu trưng của các hình ảnh ẩn dụ không thể không dựa vào sự hợp lí trong
suy nghĩ và thói quen thẩm mĩ của con người.
Ví dụ: (53)
Thuyền sao chẳng bẻ lái cho
Thuyền còn lơ lững để chờ đợi ai?
Xét ở trục kết hợp, câu ca dao ở ví dụ 53 có diễn tố là chủ thể hành động “thuyền” - đóng vai
trò chủ ngữ - có quan hệ với vị từ chỉ hành động “bẻ”, vị từ tồn tại “còn”, vị từ chỉ trạng thái “lơ
lững” và chu tố chỉ mục đích là “chờ đợi ai”- đóng vai trò là vị ngữ của câu. Các yếu tố thuyền, lái,
(trôi) lơ lững phù hợp với nhau về ngữ nghĩa. Tuy nhiên, việc thuyền biết “bẻ lái” và ‘chờ đợi” cho
thấy thuyền không dùng theo nghĩa gốc là con thuyền mà được dùng để biểu trưng cho con người,
con người ở đây là hai nhân vật nam và nữ đang trò chuyện. Dựa vào thuộc tính vốn có của thuyền
trong thực tế và thuyền trong lời ca dao, thuyền biểu trưng cho sự di động, tự do nay đây mai đó,
biểu tượng cho nhân vật nam. Chọn hình ảnh con thuyền để biểu trưng cho hình tượng người con
trai có cơ sở là thói quen thẩm mĩ của người Việt.
Hay, trong nhóm các đồ dùng cá nhân có áo, giày, dép, nón, khăn, trâm, lược …Việc chọn
cái áo làm vật trao gửi tình yêu có cơ sở từ suy nghĩ của người Việt: áo là vật che thân, không thể
thiếu, không thể rời, mang hơi ấm của người mặc nên nó chứa đựng nỗi khát khao thầm kín về sự
gần gũi, giao hòa trong tình yêu.
(54) SP1: Áo anh rách miếng bên vai,
Cậy nàng vá giúp để mai đi làm.
SP2: Anh về sắm bạc cùng vàng,
Sắm cho đủ lễ đến đây nàng vá cho.
Hình ảnh trầu, cau hoặc trầu, rượu là hai vật đi liền trong văn hóa ứng xử người của Việt.
Trầu, cau luôn có nhau như vợ, chồng là cặp song hành. Do đó, nó chính là tín hiệu hôn nhân.
(55) Anh về đào lỗ trồng cau,
Cho em trồng ké dây trầu một bên.
Hoặc,
Hồi buổi ban đầu,
Em biểu anh têm ba miếng trầu cùng li rượu lạt.
Anh lắc đầu sợ tốn,
Giờ em đã có chồng, anh rủ trốn theo anh?
Trong ca dao người Việt nói chung và ca dao giao duyên nói riêng, việc tạo hàm ngôn bằng
phương thức so sánh là rất phổ biến.
3.2.12 Phương thức nói vòng vo
Nói vòng vo là nói quanh không đi thẳng vào vấn đề hoặc nói từ xa đến gần. Theo Nguyễn
Đăng Khánh, [39 -30] nói vòng là cách thức thể hiện những ý định nói bằng những điều khác thông
qua sự chủ động dẫn dắt của người nói nhằm mục đích chính là điều này. Như vậy, nói vòng để tạo
hàm ngôn là người nói cố tình không không nói thẳng vào vấn đề mà thông qua việc nói điều này
muốn người tiếp nhận một điều khác.
Ví dụ (56)
Đường về bên ấy bao xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Ở ví dụ 56, chàng trai muốn cô gái nhưng không nói thẳng mà nhờ cô gái làm mối cho một
người giống như cô gái (một người con gái có tuổi “mười tám đôi mươi, vừa đẹp vừa tươi”). Làm
sao có thể tìm được một người giống hệt như cô gái nếu không phải là cô gái? Người mà chàng trai
đề cập không ai khác chính là cô gái. Vậy, hàm ngôn của câu nói là chàng trai khen cô gái đẹp và
muốn kết duyên cùng cô gái.
Và, trong bài ca dao: (57)
Anh kia áo trắng lòa lòa
Sao anh không bảo mẹ già nhuộm thâm
Áo ấy được tay em cầm
Em nhuộm màu tím, màu thâm , màu vàng
Vạt cả em nhuộm màu vàng
Vạt con màu tím lại càng thêm xinh
Đôi nách em kết chữ tình
Chữ loan chữ phương, chữ mình chữ em.
Ở đây, cô gái thật sự muốn gắn bó, giao hòa với chàng trai nhưng không trực tiếp đi thẳng
vào vấn đề mà đưa ra một giả định “nếu có được áo của anh, em sẽ nhuộm màu và kết chữ tình, chữ
mình, chữ em”. Rõ ràng, thông qua cái giả định đó, cô gái đã dẫn dắt chàng trai hiểu được ý muốn
“kết tình” của mình.
3.2.13 Phương thức nói lấp lững
Nói lấp lững là nói mập mờ, không rõ ràng một cách cố ý, để cho muốn hiểu cách nào cũng
được. Đó là cách nói nước đôi, không mà có, có mà không, thật mà giả, giả mà thật.
(58) Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
…..
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến lúc có chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo một vò rượu tăm
……
Giúp em quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Đây là cách nói lấp lững tạo hàm ngôn. Chàng trai nói chuyện mất áo, xin áo nhưng thật là
không mất, chỉ là tạo ra cớ để làm quen. Nói đặc điểm “áo rách” không phải để nhận dạng áo mà là
giới thiệu gia cảnh “chưa vợ”. Nói “cô ấy” nhưng thực chất là “cô em”, vì không phải “cô ấy” là “cô
em” thì sao lại có chuyện mượn “cô ấy” mà trả công cho “em". Nhờ vá áo chỉ là cớ để trả công, tặng
quà. Tặng quà lại là đưa lễ vật dẫn cưới. Như vậy, “xin áo” thực chất là xin cưới. Chuyện mất áo,
xin áo là giả nhưng chuyện xin cưới là thật. Bất cứ người con gái Việt Nam nào cũng hiểu được
hàm ngôn bài ca dao này. Tuy nhiên, nếu cô gái không chấp nhận hàm ngôn đó thì chỉ cần xem đây
là chuyện mất áo thật và khẳng định mình không nhặt được chiếc áo bỏ quên.
3.2.14 Phương thức nói giảm
Phương thức nói giảm là sử dụng cách diễn đạt giảm đi nhiều lần thuộc tính của khách thể
hoặc hiện tượng, dùng để diễn đạt thái độ giữ gìn, có ý tứ của con người trong việc nhận xét đánh
giá, biểu lộ tình cảm. Nói giảm cũng là cách tạo ra hàm ngôn.
(59) Cưới em có cánh con gà,
Có dăm sợi bún, có và hạt xôi.
Cưới em còn nửa anh ơi
Có một dĩa đậu, hai môi rau cần.
Có xa dịch lại cho gần,
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi.
Hay là nặng lắm anh ơi,
Để em bớt lại một môi rau cần.
Lời ca dao nói giảm đến mức cực tiểu: đám cưới gì mà chỉ có cánh con gà, dăm sợi bún, vài
hạt xôi, một dĩa đậu, hai môi rau cần? Nói như vậy rõ ràng có hàm ngôn. Lễ vật thách cưới quá đơn
sơ, gần như không có cho thấy tình cảm của người thách cưới rất lớn, rất tha thiết. Cô gái thông cảm
với hoàn cảnh nghèo khó của chàng trai, muốn cùng chàng trai nên duyên nên đã phân trần: cưới em
anh không cần bày vẽ, chỉ cần một chút nghi lễ cho gọi là có để em khỏi mang tiếng theo không.
3.3 Tiểu kết
Trong chương 3, sau khi đi sâu vào tìm hiểu hàm ngôn và các cơ chế tạo lập và lí giải hàm
ngôn trong ca dao đối đáp giao duyên, chúng tôi nhận thấy:
Người bình dân xưa không chỉ nói bằng hiển ngôn mà còn nói bằng hàm ngôn. Hàm ngôn
cho phép họ có thể bằng một biểu thức ngôn ngữ chuyển tải được nhiều nội dung, phát huy hiệu lực
giao tiếp của phát ngôn. Do vấn đề trao gửi tình cảm là vấn đề mang tính chất riêng tư, kín đáo, tế
nhị nên cách nói bằng hàm ngôn được sử dụng phổ biến hơn cách nói hiển ngôn. Tuy nhiên, cái khó
nhất trong thực tế nghiên cứu hàm ngôn trong ca dao giao duyên là nhận dạng và lí giải các tầng ý
nghĩa này. Vì, đối với văn chương nghệ thuật nói chung, ca dao đối đáp giao duyên nói riêng, hàm
ngôn xưa nay vẫn được xem là ý tại ngôn ngoại, khó mà nắm bắt hết được. Chúng ta không thể tùy
tiện, muốn hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” đó thế nào cũng được mà phải có cơ sở, phải hợp logic thì
mới hiểu thấu đáo và sâu sắc. Hơn nữa, càng không thể áp đặt cách hiểu không có trong ý định của
người nói. Ca dao đối đáp giao duyên không chỉ là lời nói hàng ngày mà còn là lời thơ dân gian,
mang dấu ấn ngôn ngữ nghệ thuật rất rõ. Do đó, việc tìm hiểu hàm ngôn trong ca dao, thiết nghĩ
không nên tùy tiện áp đặt mà cần phải xem xét cả hai khía cạnh này.
Muốn hiểu được hàm ngôn của lời ca dao thì trước hết phải hiểu được nghĩa hiển ngôn của
nó. Bên cạnh đó còn phải nắm được tri thức bên ngoài văn bản như ngữ cảnh văn hóa vì giải mã
hàm ngôn không chỉ dựa vào ngôn ngữ mà còn phải dựa vào ngữ cảnh.
Luận văn đã cố gắng hình thức hóa các phương thức biểu hiện nghĩa hàm ngôn trong ca dao
đối đáp giao duyên từ nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, dân gian sử dụng nhiều phương thức để
tạo hàm ngôn, phổ biến là các phương thức như: phương thức so sánh, phương thức sử dụng câu
chất vấn, phương thức vi phạm chiếu vật, chỉ xuất, quy tắc cộng tác hội thoại, lập luận… Có thể dựa
vào các đơn vị ngôn ngữ từ, ngữ, câu hoặc các quy tắc sử dụng lời nói để tạo hàm ngôn. Tuy nhiên,
dù ở góc độ nào cũng không thể tách rời ngữ cảnh, đặc biệt là các yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán. Phương thức tạo nghĩa hàm ngôn trong ca dao đối đáp giao duyên rất phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi khó có thể miêu tả đến mức độ hoàn thiện. Việc
phân loại các phương thức chỉ mang tính tương đối vì có những câu ca dao cùng lúc có thể xếp vào
những phương thức khác nhau.
KẾT LUẬN CHUNG
Tìm hiểu ca dao đối đáp giao duyên từ góc độ dụng học: đặt lời ca dao trong mối quan hệ
với ngữ cảnh, với người sử dụng, với mục đích giao tiếp, luận văn đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm
cấu trúc hội thoại và ngữ cảnh, các hành động tại lời và nghĩa hàm ngôn của lời ca dao. Qua tìm
hiểu, chúng tôi nhận thấy, về mặt ngữ dụng, ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt có một số đặc
điểm đáng chú ý sau:
1. Ca dao đối đáp giao duyên là những lời thơ dân gian được hình thành và sử dụng trong
các cuộc hát giao duyên như hát ví, hát ghẹo, hát quan họ… Lời thơ đó có chức năng thực hiện một
hành động giao tiếp nào đó trong cuộc đối đáp như hỏi, bày tỏ, cầu khiến, thề hẹn, từ chối, trách
cứ… Lời ca dao có cấu trúc là một cuộc hội thoại với lượt trao lời và lượt đáp lời. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân mà bộ phận đơn vị ca dao có đầy đủ hai lượt lời trở lên rất ít, đa số chỉ có những
đơn vị ca dao một lượt lời (trao hoặc đáp). Đối tượng tham gia giao tiếp là những chàng trai, cô gái
có cùng lứa tuổi, địa vị. Họ đã có mối quan hệ bạn bè, người yêu hoặc chỉ là hai người xa lạ. Mối
quan hệ này được biểu hiện qua cách xưng gọi cụ thể hay phiếm chỉ. Bối cảnh giao tiếp gắn liền với
sinh hoạt hàng ngày, thường mang tính biểu trưng.
2. Căn cứ vào hiệu lực tại lời của lời ca dao đối đáp giao duyên, luận văn đi sâu vào phân
loại và miêu tả các HĐTL thường gặp. Xuất hiện với tần số khá cao là các hành động hỏi, bày tỏ,
cầu khiến, trần thuật. Với hành động hỏi, cách hỏi trực tiếp được dùng nhiều trong trường hợp mở
đầu cuộc giao duyên, khi người nói muốn biết về thông tin cá nhân như tên họ, quê quán, đã có
người yêu hoặc vợ, chồng… Còn với mục đích thăm dò tình cảm đối phương hay từ chối, trách cứ
về mặt tình cảm thì sử dụng cách hỏi gián tiếp như là một chiến lược nhằm giảm đe dọa thể
diện.Trong nhóm hành động bày tỏ, loại hành động biểu cảm với các trạng thái cảm xúc là thương,
nhớ, mong muốn, sợ chiếm số lượng lớn và thường được biểu hiện trực tiếp. Điều này nói lên tình
cảm mạnh mẽ, sâu sắc, bất chấp mọi gian khổ của người bình dân. Nhưng, hành động trách cứ thì
chủ yếu được thực hiện gián tiếp qua hành động hỏi và trần thuật, góp phần nói lên sự tế nhị, lịch
thiệp của người lao động. Ở nhóm hành động cầu khiến, tuy hành động này tiềm ẩn sự đe dọa thể
diện cao nhưng lại xuất hiện nhiều trong cuộc đối đáp giao duyên với hình thức cầu khiến trực tiếp.
Hiệu lực cầu khiến chủ yếu là thỉnh cầu và khuyên bảo. Chủ thể cầu khiến chủ yếu là vai giao tiếp
nữ. Đặc điềm này phần nào phản ánh thái độ chủ động bày tỏ tình cảm, tinh thần phản kháng của
người phụ nữ. Với những phát ngôn có hiệu lực tại lời từ chối thì phần lớn là từ chối gián tiếp,
không dứt khoát nhằm tránh sự hụt hẫng và giữ thể diện cho người đối thoại.v.v.. Điều đáng chú ý,
một đơn vị lời ca dao có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau và nó có thể chia tách
cũng như lắp ghép, vì vậy nó có thể thực hiện nhiều hành động ngôn từ khác nhau phù hợp với mục
đích giao tiếp của con người trong ngữ cảnh nào đó. Tuy nhiên, việc miêu tả HĐTL này chỉ là giai
đoạn mới bước đầu tìm hiểu nên chưa có những nhận xét đánh giá thỏa đáng.
3. Nghiên cứu ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên, thiết nghĩ không thể không tìm hiểu
hàm ngôn vì hiểu nghĩa hàm ngôn là nhận thức được nội dung đích thực mà người nói hướng đến
người nghe, chủ định đích thực của người phát ngôn cho dù họ có phủ nhận trách nhiệm của mình
về nội dung đó. Đa số nghĩa của lời ca dao đối đáp giao duyên, mà người nói muốn người nghe
nhận thức là nghĩa hàm ngôn. Sử dụng cách nói hàm ngôn, vì vấn đề trao gửi duyên tình là vấn đề
tế nhị, thầm kín, dễ làm tổn hại thể diện nên khó có thể diễn đạt một cách tường minh. Hơn nữa,
trong giao duyên cần phải nói thế nào cho hay và tránh phải nói những điều thô tục. Phương thức
tạo hàm ngôn trong ca dao đối đáp giao duyên rất phong phú, đa dạng. Nhưng, có thể nói phương
thức ưa dùng nhất là phương thức so sánh, tức là tạo nghĩa hàm ngôn từ các biểu tượng – những
hình ảnh trong thế giới khách quan, trong tâm linh của người Việt. Những hình ảnh này cho ta hình
dung được bức tranh toàn cảnh về đời sống vật chất và tinh thần của người Việt. Sự biểu trưng hóa
các sự vật, hiện tượng đã góp phần tạo nên tính nghệ thuật của ngôn ngữ ca dao. Nghĩa hàm ngôn là
kết quả của sự suy ý từ nghĩa câu chữ và phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh. Tuy nhiên, đặc trưng
của ca dao đối đáp giao duyên là được truyền từ đời này sang đời khác, mất đi dấu ấn tác giả, ngữ
cảnh nên thường có nội dung hàm ngôn phong phú vì nó gắn với ngữ cảnh của người sử dụng nó.
Những người thuộc thời đại khác nhau, vị trí xã hội khác nhau, hoàn cảnh khác nhau có thể cảm thụ
nội dung hàm ngôn khác nhau, do đó có thể có rất nhiều nghĩa hàm ngôn trong một lời ca dao. Có
thể nói yếu, tố ngữ cảnh quan trọng để nhận diện, lí giải nghĩa lời ca dao đó chính là các lẽ thường,
những lẽ thường phản ánh bản sắc riêng trong tư duy người Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Thị Thủy An (2001), “Phân tích đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của động từ trong mối liên
hệ với chức năng cấu tạo câu cầu khiến”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 26-31.
2. Lê Thị Lan Anh (2004), “Tương quan ngữ nghĩa giữa thể được so sánh và thể dùng để so sánh
trong các câu ca dao về tình yêu đôi lứa có chứa sự tình quan hệ so sánh”, Ngữ học trẻ, tr. 249 -
253.
3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, NXB Giáo dục.
4. Chử Thị Bích (2007), “Hành động ngôn ngữ gián tiếp cho, tặng trong giao tiếp của người Việt”,
Ngôn ngữ, số 10, tr. 40-51.
5. Brown.G – Yule.G (2002), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuần dịch), NXB ĐHQG Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, số 10, tr. 1-8
7. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học, NXB Giáo dục.
8. Nguyễn Phương Chi (2004), “Một số chiến lược từ chối thường dùng trong tiếng Việt”, Ngôn
ngữ, số 3, tr. 22-29.
9. Mai Ngọc Chừ (2007), “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam”, trong Ca dao và những lời bình, NXB
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
10. Nguyễn Đức Dân (1998), Logich và tiếng Việt, NXB Giáo dục.
11. Nguyễn Đức Dân (2001), Ngữ dụng học, tập 1, NXB Giáo dục.
12. Nguyễn Đức Dân (2005), Nhập môn logic hình thức và phi hình thức, NXB ĐHQG, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Dân (2006), “Lô gích ngữ nghĩa của từ mà”, Ngôn ngữ, số 5, tr.1-9.
14. Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thị Thời (2007), “Câu chất vấn”, kì I, II, Ngôn ngữ, số 9, tr. 1-8;
Ngôn ngữ, số 10, tr. 15-30.
15. Nguyễn Thanh Du (2004), “Về phân tích ca dao - dân ca”, Ngôn ngữ, số 3, tr. 32-37.
16. Đoàn Dụng (2002), “Vẻ đẹp của ngôn ngữ tình yêu qua bài ca dao “Hòn đá đóng rong”, Ngôn
ngữ & đời sống, số 12, tr. 23-24.
17. Châu Thị Mỹ Duyên (2009), Hàm ý và vấn đề dạy hàm ý ở nhà trường phổ thông, Luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM.
18. Hữu Đạt (1996), “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ thơ và ca dao (nhìn từ góc độ giao tiếp ngôn
ngữ”, Ngôn ngữ, số 6.
19. Nguyễn Văn Đô (2004), “Hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2,
tr. 30-40.
20. Lê Đông (1991), “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hư từ tiếng Việt: ý nghĩa đánh giá của các hư từ”,
Ngôn ngữ, số 2, tr 15-23.
21. Lê Đông (1992), “Mối liên hệ logic-ngữ nghĩa trong mấy vần ca dao”, Ngôn ngữ và đời sống, tr.
27-29.
22. Cao Huy Đỉnh (2007), “Lời đối đáp trong ca dao trữ tình”, trong Ca dao và những lời bình,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Én (2007), “Hành vi cầu khiến qua lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp”, Ngôn ngữ & đời sống, số 7, tr. 31-34.
24. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao dân ca Nam
Bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thiện Giáp (2007), Dụng học Việt ngữ, NXB ĐHQG Hà Nội (tái bản lần thứ 3)
26. Grice.P (1975), Pragmatics, Edited by Steven David, New York Oxford: Oxford Universiry
Press, 1991.
27. Nguyễn Thị Hai (2001), “Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại”, Ngôn ngữ, số 1, tr. 1-
12.
28. Dương Tuyết Hạnh (2004), “Tham thoại dẫn nhập có hành vi hỏi làm hành vi chủ hướng”, Ngữ
học trẻ, tr. 45 – 48.
29. Cao Xuân Hạo (2007), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm – ngữ pháp – ngữ nghĩa, NXB Giáo dục.
30. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở phân tích ngữ nghĩa cú pháp, NXB Giáo dục.
31. Minh Hiệu (1984), Nghệ thuật ca dao, NXB Thanh Hóa.
32. Nguyễn Hòa (2002), “Ngữ cảnh trong lí luận phân tích diễn ngôn”, Ngôn ngữ, số 11, tr. 1-10.
33. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên),2003, Từ điển ngữ pháp tiếng Việt cơ bản, NXB ĐHQG TPHCM.
34. Nguyễn Thị Thu Hương (2003), “Hiệu lực tại lời của câu hỏi có – không trong tiếng Anh và
tiếng Việt”, Ngôn ngữ & đời sống, số 6, tr. 37-38.
35. Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Chiến lược lịch sự thay đổi mức lợi – thiệt trong lời cầu khiến
tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 10, tr. 39-48.
36. Vũ Thị Thanh Hương (2004), “Khái niệm thể diện và ý nghĩa đối với việc nghiên cứu và ứng xử
ngôn ngữ”, Ngôn ngữ, số 1, tr. 8-14.
37. Jakobson.R (2008), Thi học và ngữ học (Trần Duy Châu biên khảo), NXB Văn học.
38. John Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch), NXB Giáo dục.
39. Nguyễn Đăng Khánh (2005), “Lối nói vòng vo nhìn từ quan điểm giao tiếp”, Ngôn ngữ, số 5,
tr. 27-30.
40. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học dân gian Việt
Nam, NXB Giáo dục.
41. Nguyễn Xuân Kính (1993) Thi pháp ca dao, NXB KHXH Hà Nội.
42. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên), (1995), Kho tàng ca dao người Việt (4 tập),
NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
43. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục. (Tái bản
lần thứ 7)
44. Đào Thanh Lan (2004), “Ý nghĩa cầu khiến của các động từ nên, cần, phải trong câu tiếng
Việt”, Ngôn ngữ, số 11, tr. 23-29.
45. Đào Thanh Lan (2005), “Vai trò của hai động từ mong, muốn trong việc biểu thị ý nghĩa cầu
khiến ở tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 7, tr. 12-17.
46. Mã Giang Lân (2007), “Tục ngữ ca dao Việt Nam”, trong Ca dao và những lời bình, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
47. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, quyển II: Tính quy luật của cơ chế ngôn giao, NXB Khoa
học xã hội.
48. Đỗ Thị Kim Liên (1999), “Những phương thức tạo hàm ngôn trong hội thoại”, Kỉ yếu hội thảo
khoa học “Ngữ dụng học”lần thứ nhất, tr. 60-68.
49. Đỗ Thị Kim Liên (2004), “Bài ca dao Tát nước đầu đình từ góc nhìn ngữ dụng học”, Ngôn ngữ
& đời sống, số 7, tr. 11-15.
50. Đỗ Thị Kim Liên (2006), “So sánh đại từ Ai trong ca dao và tục ngữ”, Ngôn ngữ & đời sống,
số 1+2, tr. 2-8.
51. Lê Đức Luận (2004), “Cấu trúc so sánh trong ca dao”, Ngữ học trẻ, tr. 362-365.
52. Lê Đức Luận (2005), Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt, (Luận án tiến sĩ ngữ văn), Đại học
Vinh.
53. Nguyễn Thị Lương (1996), Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi
ngôn ngữ trong tiếng Việt, (Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn), Đại học Sư phạm Hà Nội.
54. Nguyễn Thị Lương (2006), “Câu cầu khiến tường minh và câu cầu khiến tường minh nguyên
cấp”, Ngôn ngữ & đời sống, số 5, tr. 9-12.
55. Trần Chi Mai (2004), “Về hành vi từ chối trực tiếp trong tiếng Việt”, Ngữ học trẻ, tr. 78 – 84.
56. Trần Chi Mai (2005), “Lời từ chối gián tiếp với đặc trưng tư duy văn hóa dân tộc”, Ngôn ngữ &
đời sống, số 3, tr. 6-8.
57. Lê Xuân Mậu (2001), “Hàm ngôn và dạy hàm ngôn”, Ngôn ngữ, số 8, tr. 73–76.
58. Vũ Thị Tố Nga (2001), “Một cách biểu thị hành vi cam kết trong đời sống hàng ngày”, Ngôn
ngữ, số 7, tr. 56-58.
59. Vũ Thị Tố Nga (2006), “Hành vi cam kết và các động từ biểu thị hành vi cam kết”, Ngôn ngữ,
số 5, tr. 49-56.
60. Nguyễn Thị Thanh Ngân (2007), “Nhờ và yêu cầu trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ & đời sống, số
4, tr. 5-9.
61. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn
hoá học, NXB Khoa học Xã hội.
62. Trương Thị Nhàn (1991), “Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo trong ca dao cổ
truyền Việt Nam”, trong Ca dao và những lời bình, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007.
63. Trần Thị Tuyết Nhung (2004), “Về hành vi cầu khiến của nhân vật truyện ngắn Nam Cao trước
1945”, Ngôn ngữ & đời sống, số 9, tr. 9-12.
64. Nguyễn Thị Tố Ninh (2004), “Hàm ý và hàm ý hội thoại”, Ngữ học trẻ, tr. 113 - 121.
65. Vũ Ngọc Phan (1968), “Sức truyền cảm của ca dao truyền thống”, trong Ca dao và những lời
bình, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007.
66. Vũ Ngọc Phan (2007) Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.(Tái bản lần thứ
15)
67. Hoàng Phê 1989, Logic ngôn ngữ học. Hà Nội, NXB Khoa học xã hội.
68. Hoàng Phê (chủ biên) 2006, Từ điển tiếng Việt. Hà Nội, NXB Đà Nẵng.
69. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng.
70. Đào Nguyên Phúc (2003), “Quan hệ người nói – người nghe và cách xưng hô trong giao tiếp
tiếng Việt”, Ngôn ngữ & đời sống, số 5, tr. 7-9.
71. Lê Xuân Phước (2006), “Hình thức thể hiện hành động khuyên bảo trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ
& đời sống, số 6, tr. 11-16.
72. Mai Thị Kiều Phượng (2004), “Hành động gián tiếp trong câu hỏi mua và bán”, Ngôn ngữ &
đời sống, số 6, tr. 26-41.
73. Mai Thị Kiều Phượng (2005), “Nghĩa hàm ẩn và cơ chế tạo ra các ý nghĩa hàm ngôn của hành
động hỏi trong hội thoại mua bán bằng tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 34 – 48.
74. Trần Kim Phượng (2001), “Về các điều kiện của động từ ngôn hành tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số
2, tr. 39-44.
75. Võ Đại Quang (2000), “Một số đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ dụng của các kiểu loại câu hỏi trong
tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)”, Ngôn ngữ, số 3, tr. 59 – 66; số 4, tr. 34 – 42.
76. Trần Văn Sáng (2004), “Về việc nghiên cứu nghệ thuật ngôn ngữ ca dao hiện nay”, Ngôn ngữ &
đời sống, số 3, tr. 11-14.
77. Trần Văn Sáng (2009), “Thế giới sắc màu trong ca dao”, Ngôn ngữ số 2, tr. 63-68.
78. Saussure.F (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, (Cao Xuân Hạo dịch), NXB Khoa học
xã hội. (Tái bản lần 2)
79. Chu Thị Thanh Tâm (1995), Đề tài diễn ngôn: sự cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn
ngôn và các hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn, (Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn), Đại học
Sư phạm Hà Nội.
80. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lí giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp
trong hội thoại, (Luận án tiến sĩ ngữ văn), Đại học Sư phạm Hà Nội.
81. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), “Thử tìm hiểu hiệu lực bác bỏ trong mối quan hệ với hành vi hỏi”,
Ngôn ngữ & đời sống, số 4, tr. 5-8.
82. Đoàn Thị Tâm (2006), Một số phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt, (Luận
văn thạc sĩ), Đại học Sư phạm TPHCM.
83. Nguyễn Ngọc Thắng (2002), “Sắc thái đa nghĩa, đa cung bậc cảm xúc của ca dao tình yêu qua
đại từ “Ai””, Ngôn ngữ & đời sống, số 7, tr. 14-16.
84. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.
85. Nguyễn Đức Tồn (2007), “Bản chất của ẩn dụ”, Ngôn ngữ, số 10, tr .1-9.
86. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
87. Trịnh Thị Thanh Trà (2002), “Hành vi điều khiển trong sự kiện lời nói hàm ẩn”, Ngôn ngữ và
đời sống, số 4, tr 9-10.
88. Nguyễn Thế Truyền (1999), “Ngôn ngữ của người Nam Bộ trong ca dao-dân ca”, tạp chí Ngôn
ngữ và đời sống, số 6.
89. Nguyễn Thế Truyền (2004), “Vài điều lí thú về phép so sánh”, Ngôn ngữ, số 9, tr 26-30.
90. Cù Đình Tú (2002), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục. (Tái bản lần
1)
91. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học. NXB ĐHQG TPHCM.
92. Hoàng Tiến Tựu (2004), Bình giảng ca dao, NXB. Giáo dục.
93. Lê Đình Tường (2007), “Về phân tích một bài ca dao trong ngữ văn 10”, Ngôn ngữ & đời sống,
số 3, tr. 19-26.
94. Nguyễn Thị Hồng Vân (2002), “Câu ngữ vi cầu khiến tường minh với phép lịch sự trong giao
tiếp”, Ngôn ngữ & đời sống, số 5, tr. 11-14.
95. Trần Thanh Vân (2002), Đặc điểm nhân vật trữ tình trong ca dao cổ truyền Việt Nam, (Luận
văn cao học), Đại học Sư phạm TPHCM.
96. Lê Anh Xuân (2000), “Các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh”, Ngôn ngữ, số 4, tr.
43-51.
97. Lê Anh Xuân (2001), “Trả lời dưới dạng câu nghi vấn để thực hiện hành vi khẳng định một
cách gián tiếp”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 19-34.
98. Phan Thị Hồng Xuân (2005), “Chức năng của ẩn dụ đối với ngôn ngữ và nhận thức”, Ngôn ngữ
& đời sống, số 12, tr. 1-5.
99. Hàm Thị Hải Yến (2004), “Hành vi cảm thán gián tiếp”, Ngữ học trẻ, tr. 170 -172.
100. Phạm Thu Yến (1998), Thế giới nghệ thuật trong ca dao, NXB Giáo dục.
101. Yule.G (2003), Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ - Đại học Tổng hợp
Oxford, (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch) NXB ĐHQG Hà Nội.
PHỤ LỤC
(CA DAO ĐỐI ĐÁP GIAO DUYÊN VIỆT NAM)
A. Ca dao có một lượt lời (lời của nam hoặc nữ)
1. Ai đi đâu đấy hỡi ai,
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm. [1-8]
2. Ai đưa em đến chốn này,
Đò đưa bến khác em chờ đợi ai? [1-8]
3. Ai đưa em đến chốn này,
Bên kia là núi, bên này là sông. [1-8]
4. Ai bảo thương mà anh không nói,
Để bây giờ trách lỗi cho nhau.
Hai nhà có cách xa đâu,
An Vinh, An Thái còn câu hẹn hò.
Dòng sông chung một con đò,
Sao anh tiếc của, chẳng đưa đồ hỏi xin?[1-9]
5. Ai ham cau cưới thì ham,
Tuổi em còn bé chưa ham lấy chồng! [1-9]
6. Ai làm cái nón quai thao,
Đề cho anh thấy cô nào cũng xinh. [1-10]
7. Ai mà nói dối với ai,
Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng. [2-14]
8. Ai trắng như bông lòng tôi không chuộng,
Người đó đen giòn làm ruộng tôi thương.
Biết rằng da có vấn vương,
Để tôi cậy mối tìm đường sang chơi. [1-10]
9. Ai về phố Hội, sông Cầu,
Để thương để nhớ để sầu cho ai?
Để sầu cho khách vãng lai,
Để thương để nhớ cho ai để sầu? [1-12]
10. Ai ơi đã quyết thì hành,
Đã cấy thì gặt với anh một mùa. [2-15]
11. Ai ơi! Trẻ mãi ru mà?
Càng đo càng đắn càng già mất duyên. [2-17]
12. Anh đừng có bỏ giọng trầm,
Đừng ham tiếng ngọt mà cầm duyên em. [1-12]
13. Anh đừng ham chữ phú phụ bạc chữ bần,
Bạc trăm xài hết, duyên ngãi trần còn đây.[1-12]
Anh đừng lên xuống ngã này,
Trước em mang tiếng, sau thầy mẹ la. [1-13]
14. Anh đừng lên xuống uổng công,
Em nghe ba má nói không kia mà. [1-13]
15. Anh đừng thở ngắn than dài,
Tơ duyên đã định chớ nài uổng công. [1-13]
16. Anh đừng vạch vách, phá rào,
Vườn quê mới lập lựu với đào còn non. [3-163]
17. Anh đã có vợ con chưa,
Mà anh ăn nói đẩy đưa ngọt ngào.
Mẹ già anh ở nơi nao,
Để em tìm vào hầu hạ thay anh. [1-13]
18. Anh đã có vợ con rồi,
Sao anh còn ước hoa hồi cầm tay?
Hoa hồi nửa trắng nửa cay,
Nửa ngọt như mía, nửa cay như gừng. [1-13]
19. Anh đây không của không nhà,
Muốn vô gá nghĩa biết là được không? [1-13]
20. Anh đây thật khó không giàu,
Anh xin nói trước kẻo sau phàn nàn.
Nhà anh chỉ có một gian,
Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng.
Trời làm một trận mưa tuôn,
Nửa bếp cũng đổ, nửa buồng cũng xiêu. [1-14]
21. Anh đi làm thợ nơi nao,
Để em gánh đục gánh bào theo anh. [1-15]
22. Anh ở đợ ba năm không tiền dư ăn miếng kẹo,
Em lại thân nghèo, chọc ghẹo làm chi? [1-16]
23. Anh than rằng vợ con chưa có,
Em bước vô nhà thấy ai nằm đó?
Bớ anh chung tình!
Em thương anh để dạ, sợ anh bạc tình bỏ ai. (web)
24. Anh thương em nói thiệt em nhờ,
Anh đừng nói gạt, em chờ hết duyên.[3-169]
25. Anh thương em thủng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội, phụ mẫu từ nghĩa em. [3-171]
26. Anh thương em chỉ nói bên ngoài,
Sao mà không nói tận tay mẹ thầy? (web)
27. Anh chê em khó lui về lấy đó giàu sang,
Mấy lâu ni đã làm nên đụn bạc non vàng mô chưa? [1-18]
28. Anh chê thuyền thúng chẳng đi,
Anh đi thuyền ván có khi gập ghềnh. [1-18]
29. Anh dựa hơi em như trầm hương mộc,
Một mai anh xa em rồi như tùng lộc mất sương. [1-19]
30. Anh kia lịch sự đi đàng,
Mời anh hãy ghé vào hàng nghỉ ngơi. [web]
31. Anh kia áo trắng lòa lòa,
Sao anh không bảo mẹ già nhuộm thâm?
Áo ấy được tay em cầm,
Em nhuộm màu tím màu thâm màu vàng.
Vạt cả em nhuộm màu vàng,
Vạt con màu tím lại càng thêm xinh.
Đôi nách em kết chữ tình,
Chữ loan chữ phượng, chữ mình chữ em.
Ra đường già trẻ cùng khen,
Khen nền màu nhuộm lại nền cành hoa.
Trước là khen mẹ khen cha,
Sau khen ông bà khéo kén nàng dâu. [2-27]
32. Anh lui về mà kiếm vợ con đi,
Em đây còn hải hà muôn dăm, can sự gì mà hỏi han?[1-20]
33. Anh về đào lỗ trồng cau,
Cho em trồng ké dây trầu một bên.
Mai sau cau nọ lớn lên,
Trầu kia ra lá, đền ơn cho chàng.[1-21]
34. Anh về em nắm cổ tay,
Em dặn câu này anh chớ có quên.
Đôi ta đã trót lời nguyền,
Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng. [1-23]
35. Anh về học kĩ chữ nhu,
Ba năm em đợi, mười thu em chờ. [1-23]
36. Anh về hỏi mẹ cùng thầy,
Có cho làm rể bên này hay không? [1-23]
37. Anh về mai mốt anh qua,
Em đừng trông đợi, má ba hay rầy.[3-174]
38. Anh về mắc võng nuôi con,
Đừng nên tơ tưởng trái chanh non cuối mùa! [2-40]
39. Anh với tôi làm đôi sao xứng,
Bạc với vàng sao đứng đồng cân.
Trách ai tham phú phụ bần,
Tham xa mà bỏ ngãi gần thuở xưa. [3-174]
40. Anh xót ngọc tiếc hương sao ngoài sương không che đậy?
Để lúc gần tàn tiếc vậy uổng công. [3-175]
41. Anh ra đi cay đắng như gừng,
Đường xa xôi ngàn dăm, khuyên em đừng nhớ thương. [web]
42. Áo anh ai cắt ai may,
Đường ta ai đột cửa tay ai viền. [1-25]
43. Áo anh rách lỗ bằng sàng,
Mẹ anh già yếu, cậy nàng vá may. [1-25]
44. Bướm bay giữa bể bướm rơi,
Anh thấy em còn ngó nhiều nơi anh buồn.[1-26]
45. Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.[3-199]
46. Bao giờ cho chuối có cành,
Cho sung có nụ cho hành có hoa?
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
Bao giờ cây cải làm đình,
Gổ lim ăn ghém thì mình lấy ta. [2-47]
47. Bao giờ cho sóng bỏ gành,
Cù lao bỏ bể, thì anh bỏ nàng. [3-180]
48. Bao giờ Chợ Lớn hết vôi,
Thì em hết đứng hết ngồi với anh. [3-180]
49. Bên anh dư đất trồng cau,
Cho em xin miếng trồng trầu một bên. [2-58]
50. Bởi mưa nên lấm,
Nên dặm nên dò,
Có thương mới đợi, mới chờ,
Không thương ai ở vật vờ chi đây. [2-63]
51. Bậu có chồng chưa, bậu thưa cho thiệt,
Kẻo để anh lầm tội nghiệp thân anh . [3-183]
52. Bậu nói với qua bậu không bẻ lựu hái đào,
Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay. [3-185]
53. Bậu ơi đừng có vội vàng,
Để coi cây quế ngả tàn về đâu? [3-185]
54. Bậu ra ngắm bóng bậu coi,
Hồng nhan chi bậu mà đòi làm cao. [3-185]
55. Bần gie đóm đậu sáng ngời,
Lỡ duyên tại bậu, trách trời sao nên. [3-183]
56. Bần gie con hạc đậu cánh xòe,
Tưởng anh vô gá nghĩa chồng vợ, hổng dè gạt em. [3-182]
57. Bảy với ba tính ra một chục,
Tam tứ lục coi lại cửu chương.
Liệu bề thương được thì thương,
Đừng giao gánh nặng giữa đường cho em. [3-181]
58. Bấy lâu chàng đợi thiếp trông,
Bây giờ chàng hỏi thiếp nói không sao đành.
Mình nghiêng tai tôi nói nhỏ cho rành,
Theo mình có thác cũng đành dạ tôi. [3-187]
59. Bên dưới có sông, bên trên có chợ,
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen? [3-188]
60. Bông phù dung sớm nở tối tàn,
Em sợ anh nói gạt qua đàng bỏ em. [3-192]
61. Bước xuống ghe ba lần không dứt,
Khuyên em vào chỗ khuất anh lui.[3-197]
62. Cá rô canh cải nấu gừng,
Không ăn thì chớ, xin đừng mĩa mai.
Khuyên chàng đừng ở đơn sai,
Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng. [2-68]
63. Cái đóm là cái đóm đào,
Thấy chàng lịch sự em trao điếu bình.
Đôi tay nâng lấy điếu bình,
Mời chàng xơi thuốc thấu tình cùng em.
Cái nón của chàng đẹp lắm chàng ơi!
Chàng cho thiếp mượn che trời nắng mưa.
Nón chàng thiếp đội cũng vừa,
Cái nón cũng đẹp, cái tua cũng giòn.[2-72
64. Củi kia chen lộn với trầm,
Em giữ sao cho khỏi kẻo lầm bớ em.[1-29]
65. Chàng đi cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu lạnh lùng có nhau.[2-80]
66. Chàng đi thiếp cũng xin theo,
Quản chi lội suối vượt đèo chàng ơi! [2-81]
67. Chàng là con trai thứ mấy trong nhà,
Mà chàng ăn nói mặn mà có duyên?
Cái miệng chàng cười như cánh hoa nhài,
Như chùm hoa nở như tai hoa hồng.
Ước gì được lấy làm chồng,
Để em làm vợ, em trông cậy nhờ! [2-82]
68. Chàng mà cầm lấy nón này,
Em về thưa với mẹ thầy làm sao.
Chàng cho em xin lại nào,
Bao giờ mận sánh với đào hãy hay! [2-82]
69. Chàng ơi! Chớ giận thiếp cùng,
Xá cho bèo bọt anh hùng giận chi. [2-82]
70. Chàng ơi! Có thấu cho chăng,
Ba năm cách biệt thiếp hằng nhớ thương.
Hay chàng đã có đa mang,
Có the quên lụa có vàng quên thau? [2-83]
71. Chàng về thì thiếp cũng về,
Chàng về thiếp ở làm nghề chi đây? [2-86]
72. Cha mẹ biểu ưng em đừng mới phải,
Em nỡ lòng nào bạc ngãi bỏ anh. [3-212]
73. Chẳng ai phụ bạc như chàng,
Bẻ cành gai bạc, lấp đàng lối đi.[2-89]
74. Chẳng tham ruộng cả ao sâu,
Tham vì anh tú rậm râu mà hiền. [2-92]
75. Chẳng tham vựa lúa anh đầy,
Tham vì ba chữ cho tày thế gian. [2-92]
76. Chẳng yêu nhau được thì thôi,
Xin chàng đừng tẩy nước vôi mà nồng.
Chẳng thương nhau được thì đừng,
Xin chàng đừng tẩy nước gừng mà cay. [2-92]
77. Chẳng xứng đôi thì thôi bớ bậu,
Lên xuống chi thường mà lậu tiếng ra. [3-214]
78. Chèo mau cho thiếp gặp chàng,
Hai ta hiệp lại cho thành một đôi.[2-95]
79. Chèo ghe mái nổi mái chìm,
Lòng thương em bậu anh tìm tới đây.
Tới đây lạ xứ lạ làng,
Ai ai cũng lạ, chỉ mình nàng anh quen. [3-215]
80. Chiếu hoa mà trải sập vàng;
Điếu Ngô xe trúc, sao chàng chẳng say?
Những nơi chiếu cói võng đay,
Điếu sành xe sậy, chàng say la đà.[2-102]
81. Chim quyên nhốt ở trong lồng,
82. Cho anh một miếng trầu vàng,
Qua nay hỏi bậu có chồng hay chưa? [3-224]
Mai sau anh trả lại nàng đôi mâm. [5-190]
83. Chờ chàng xuân mãn hè qua,
Bông lan đã nở sao mà vắng tin.
Chờ chàng tháng tám đã qua,
Tháng mười đã lụn tháng ba mãn rồi. [2-113]
84. Chờ anh, em gắng sức chờ,
Chờ hồi mười bảy, bây giờ ba mươi. [3-226]
85. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu vụng nhớ thầm,
Họp chợ trên bụng có trăm con người. [web]
86. Chữ tình là chữ chi chi,
Ai chi chi cũng chi chi mới tình. [web]
87. Chừng nào muối ngọt, chanh thanh,
Em đây mới dám bỏ anh lấy chồng [2-120]
88. Chưa chi anh đã vội về,
Hay là xuân giục vội về với xuân. [2-119]
89. Có chồng chưa xin thưa cho thiệt,
Kẻo anh lầm tội nghiệp, em ơi! [3-230]
90. Có thương thì nói anh mừng,
Không thương thì nói anh đừng xuống lên. [3-231]
91. Cô kia áo trắng lòa xòa,
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà chín, cà xanh,
Anh cho một quả để dành mớm con. [2-134]
92. Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nửa hay thôi ?
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng. [2-134]
93. Cô kia gánh nước quang mây,
Cho xin một gáo tưới cây ngô đồng.
Ngô đồng thêm tốt thêm xanh,
Để con chim thượng đỗ đầu cành so le. [2-135]
94. Cô kia khăn trắng tang ai,
Nhất tang cha mẹ thứ hai tang chồng?
Tang chồng thì vất khăn đi.
Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung. [2-135]
95. Cưới em có cánh con gà,
Có dăm sợi bún, có và hạt xôi.
Cưới em còn nửa anh ơi,
Có một dĩa đậu, hai môi rau cần.
Có xa dịch lại cho gần,
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi.
Hay là nặng lắm anh ơi,
Để em bớt lại một môi rau cần. [2-143]
96. Dao vàng bỏ đãy kim nhung,
Hỡi người quân tử có dùng hay không? [2-145]
97. Dù ai bẻ lá vin cành,
Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò. [2-147]
98. Dù ai cho bạc cho vàng,
Chẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nay.
Dù ai cho bạc cầm tay,
Không bằng được thấy chàng ngay bây giờ. [2-148]
99. Dây lăng leo hút nhánh tai bèo,
Gian nan em không sợ, sợ nghèo anh bỏ em. [3-245]
100. Đào tiên ruột mất vỏ còn,
Đón em anh hỏi đường mòn ai đi? [3-248]
101. Miếng đất láng nguyên tự nhiên cỏ mọc,
Anh mảng lo nghèo, bạn ngọc có đôi.
Đó có đôi thời thôi bớ bậu,
Lui tới làm gì cho lậu tiếng ra.[3-250]
102. Đấy còn không đây cũng còn không,
Đấy kén vợ đẹp, đây trông chồng giàu.
Chuộng chuối chuối lại cao tàu,
Thương anh, anh lại ra màu làm cao.
Xin đừng bắc bậc làm cao,
Phèn chua em đánh nước nào chẳng trong. [1-32]
103. Đấy vàng đây cũng đồng đen,
Đấy hoa thiên lý đây sen Tây Hồ.
Đấy trông như tượng mới tô,
Đây như người ngọc hoạ đồ trong tranh. [1-32]
104. Đầu làng có con chim xanh,
Ăn no tắm mát đậu cành dâu gia.
Đường về bên ấy bao xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Ai xinh thì mặc ai xinh,
Ông tơ chỉ quyết xe mình với ta. [1-33]
105. Đầu năm ăn quả thanh yên,
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bồng.
Vì cam cho quýt phải lòng,
Vì em nhan sắc cho lòng anh thương. [1-33]
106. Đêm năm canh anh ngủ, em ngồi,
Muỗi bay qua em quạt,
Thức dậy rồi anh không thương. [3-258]
107. Đò đưa một chuyến năm tiền,
Bớ cô bán bột xuống thuyền tôi đưa. [3-263]
108. Đó chê đây, đây càng lịch sự,
Đó ăn mâm vàng, đây ngự toà sen. [3-263]
109. Đón ngang đường tắt hỏi gắt bạn chung tình,
Bướm xa bông tại nhuỵ, tôi xa mình tại ai? [3-264]
110. Em có thương anh thì nói thật tình,
Đừng để anh lên xuống một mình bơ vơ. [2-187]
111. Em còn bé dại thơ ngây,
Mẹ cha ép uổng từ ngày thiếu niên.
Cho nên duyên chẳng vừa duyên,
Có thương thì vớt em lên hỡi chàng. [2-187]
112. Em như hoa đã nở rồi,
Xin chàng che lấy mặt trời cho tươi.[2-197]
113. Em như cây quế giữa rừng,
Thơm cay ai biết ngát lừng ai hay.
Anh như cây phướn nhà chay,
Em như chiếc đũa sánh tày sao nên. [2-196]
114. Em chê thuyền thúng chẳng đi,
Em đi thuyền ván có khi gập ghềnh.
Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh,
Có khi đổ ngửa đổ nghiêng thiệt thòi.[1-41]
115. Em không chân trắng má hồng,
Dám đâu lại ước tơ hồng xe duyên. [1-41]
116. Em là con gái tổng trên,
Em đi bắt cáy xuống lên ngõ này.
Tình cờ gặp được anh đây,
Có cho chung mẹ chung thầy hay không? [1-42]
117. Em rầu nỗi mẫu thân mất sớm,
Chữ nhớ thương đau ốm một mình.
Phận em vô đệ vô huynh,
Không nơi nương tựa, cui cút một mình bớ anh. [3-277]
118. Em thương anh bất tận vô hồi,
Ngủ quên thời nhớ, thức dậy thời thương.[3-278]
119. Em về ngoảnh mặt lại đây
Để anh ngó chút cho khuây cơn buồn. [2-205]
120. Gà lạc bầy gà kêu cháo chác,
Cá lạc bầy, cá tìm bóng mát dựa nương.
Trai như anh đây chưa vợ sao em không thương,
Em lại tìm nơi có vợ náu nương làm gì? [1-43]
121. Gặp đây anh nắm cổ tay,
Hỏi rằng duyên ấy tình này là sao?
Trên trời có mấy ông sao,
Sông sâu mấy trượng mây cao mấy tầng?
Trần gian có mấy cánh đồng,
Sông bao nhiêu cá vẫy vùng bấy nhiêu. [1-44]
122. Gặp đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này, có lấy anh không? [web]
123. Gặp đây anh nắm cổ tay,
Nhờ vá cái áo nhờ may cái quần. [1-44]
124. Gặp anh đây nắm cổ tay,
Anh yêu vì nết, anh say vì tình.
Ngược xuôi chi nữa hỡi mình,
Duyên ta đã bén với tình thì thôi. [1-44]
125. Gặp đây anh hỏi thực nàng,
Còn không hay đã đá vàng cùng ai?
Còn không để chúng anh chờ,
Hay là đã có nơi nhờ thì thôi? [2-210]
126. Gặp đây em xơi miếng trầu,
Gọi là tỏ giải mấy câu tư tình.
Xin em đừng có cậy mình,
Một mai quá lứa, xuân xanh hết thì. [1-45]
127. Gặp anh không ăn cũng no,
Đau đầu cũng nhẹ, hen ho cũng lành. [1-46]
128. Gặp anh đây bụng mừng phơi phới,
Cẳng bước tới miệng nọ liền chào.
Anh ở làng chi tổng chi, nói cho em hiểu đặng em vào làm quen. [3-281]
129. Gặp nhau đây giữa đò vạn khách đông,
Cho anh trộm lời ướm hỏi:
Thân phụ già đã kết nghĩa mặn nồng với ai chưa? [1-48]
130. Gặp nhau đường vắng thì chào,
Gặp nhau giữa chợ lao xao xin đừng. [1-48]
131. Gặp nhau ghé nón không chào,
Hay là em đã có người nào hơn anh? [1-49]
132. Gần nhà, xa ngõ, chịu khó đi quanh,
Bóng khế lộn với bóng chanh,
Duyên ai nấy gặp, dỗ dành làm chi. [web]
133. Ghe lui khỏi vịnh, em thọ bịnh đau liền,
Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi. [3-285]
134. Ghe lên ghe xuống dầm dề,
Sao anh không gửi thư về thăm em? [1-50]
135. Giếng Ngọc Hồ vừa trong vừa mát,
Vườn Ngọc Hồ thơm mát gần xa.
Hỡi cô gánh nước tưới hoa,
Có cho anh được vào ra vườn này. [1-51]
136. Gió đưa gió đẩy duyên đưa,
Gặp đâu hay đó, em kén lừa làm chi? [1-52]
137. Gió đưa bụi chuối se tàu,
Chàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn? [2-224]
138. Gió đưa nước, nước sao vời vợi,
Gió đưa mây, mây hỡi mịt mù.
Anh với em duyên nợ sầm sờ,
Em còn thủ tiết, mà chờ đợi ai?[1-53]
139. Gió đánh đò đưa gió đập đò đưa,
Sao cô mình lơ lửng mà chưa có chồng.
Gió đánh cành hồng, gió đập cành hồng,
Hỡi cô mình đã muốn lấy chồng hay chưa? [1-53]
140. Gió đông em sợ lạnh lùng,
Đêm đông em sợ chiếu mùng cô đơn. [3-286]
141. Gió vàng hiu hắt đêm thanh,
Đường xa, dặm vắng xin anh đừng về.
Mảnh trăng đã trót lời thề,
Sao anh để gánh nặng nề riêng em? [1-54]
142. Gió thổi pho pho, đưa đò lên Huế,
Trăng non đoài vội xế về Vinh.
Em đây vốn thiệt một mình,
Có ai vô gầy dựng duyên nợ, gá nghĩa chung tình cho vui. [1-54]
143. Gió xuân thổi ngọn phù dung,
Lòng anh như sắt em nung cũng mềm. [1-55]
144. Gió xoay vần cát vận bờ đê,
Phụ mẫu anh cậy mai tới nói, sao em chê anh nghèo? [3-290]
145. Hạc chầu thần, hạc đứng uy nghi,
Sầu anh tôi đứng dựa ghế nghi khóc ròng. [3-202]
146. Hoa thơm hoa ở trên cây,
Đôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ. [2-234]
147. Hoa thơm mất nhụy đi rồi,
Còn thơm đâu nữa mà người ước ao. [2-234]
148. Hỏi chàng quê quán nơi đâu,
Mà chàng thả lới buông câu chốn này. [2-235]
149. Hỏi chồng bậu nói rằng không,
Con đâu bậu ẵm, bậu bồng trên tay? [3-297]
150. Hồi buổi ban đầu,
Em biểu anh têm ba miếng trầu cùng li rượu lạt,
Anh lắc đầu sợ tốn,
Giờ em đã có chồng, anh rủ trốn theo anh? [3-298]
151. Hồi hôm coi bói ông thầy,
Sáng nay xuống đám ruộng này gặp em. [3-298]
152. Hồi hôm tôi có lại đình,
Ông thần ổng biểu hai đứa mình kết đôi. [web]
153. Hột thủy tinh đây nhìn sáng rỡ,
Để dành chờ thuở, làm nhẫn đeo tay.
Dầu ai năn nỉ hỏi nài,
Anh đợi người biết đạo, của nầy anh sẽ trao. [3-299]
154. Hỡi cô cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi!
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng! [1-56]
155. Hỡi cô thắt lưng bao xanh,
Có cho anh gửi một cành kim thoa!
Nàng về hỏi mẹ cùng cha,
Có cho anh gửi kim thoa hay đừng? [1-57]
156. Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? [2-244]
157. Hỡi anh đi đường cái quan ,
Em xem khăn gói anh mang những gì?
Hay là giận vợ ra đi,
Anh cứ thú thật em thì mang cho. [1-58]
158. Hỡi anh đi ngựa hồng mao,
Để em đi đất làm sao cho đành?
Cho em lên ngựa với anh,
Như chim loan phượng đậu cành có đôi. [2-241]
159. Hỡi chàng da trắng tóc dài,
Em đã chờ đợi một hai năm trời.
Cho nên mặt ủ chẳng tươi,
Sợ chúng bạn cười chẳng dám nói ra.
Nhớ chàng lòng những xót xa,
Làm thơ mà dán cây đa giữa đồng.
Phòng khi qua lại chàng trông,
Thời chàng mới thấu nỗi lòng nhớ thương.
Mối sầu là mối tơ vương,
Ai mà gỡ khỏi thiếp thương trọn đời. [2-242]
160. Hỡi người gánh nước Truông Mây,
Cho xin một gáo tưới đây tơ hồng.[1-60]
161. Hôm qua anh đi chợ trời,
Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên.
Tay thì cầm bút cầm nghiên,
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành.
Biên ta rồi lại biên mình,
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta.
Chẳng tin lên hỏi trăng già,
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình.
Chẳng tin lên hỏi thiên đình,
Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta. [2-237]
162. Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến lúc có chồng anh lại giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau. [1-61]
163. Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa.
Em thương anh không dám nói ra.
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.
Anh với em cũng muốn kết đôi,
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan. [1-61]
164. Khăn bàng lông, chin chỉ, nón nỉ quai hường,
Duyên đây em không kết, kiếm đường đi đâu? [3-301]
165. Khoan khoan xin đó buông chèo,
Đợi đây theo với, nước bèo hiệp nhau. [2-257]
166. Khi xưa bể rộng sông dài,
Sao lưới chả mắc, sao chài chẳng quăng?
Bây giờ sông đã chắn đăng,
Còn mang lưới mắc, chài quăng làm gì? [2-259]
167. Khi xưa một hẹn thì nên,
Bây giờ chín hẹn em quên cả mười. [2-259]
168. Khuyên đừng thở vắn than dài,
Lâu mau chi cũng ba ngày em lên. [3-304]
169. Làm chi trong dạ ngập ngừng.
Đã có nơi đấy thì đừng nơi đây.
Thôi đừng bắt cá hai tay,
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn. [2-261]
170. Lâu ngày mới gặp một lần,
Chuyện chi trong dạ phân trần với anh,
Bờ quanh dòng nước chảy quanh,
Thấy anh có nghĩa ưng anh cho rồi. [1-68]
171. Lấy ai thì cũng một chồng,
Lấy ta ta bế, ta bồng trên tay.[1-66]
172. Lấy ai thì lấy một người,
Tàu bè chi mà chở tám chín mười khúc sông. [2-266]
173. Liệu cơm mà gắp mắm ra,
Liệu cửa liệu nhà em lấy chồng đi.
Nữa mai quá lứa lỡ thì,
Cao thì chẳng tới thấp thì chẳng thông. [1-68]
174. Lòng qua như đinh sắt,
Nguyện nói chắc một lời,
Qua không có dạ đổi dời như ai. [3-310]
175. Lời nguyền chứng có ông tơ hồng,
Thác thời mới dứt, sống không bỏ chàng. [3-312]
176. Lộ bất hành bất đáo,
Tôi thương anh thương thiệt,
Không thương láo, anh ôi!
Tôi thương anh để trong dạ,
Không để ngoài môi đâu mà anh phiền. [3-311]
177. Lộc còn ẩn bóng cây tùng,
Thuyền quyên đợi khách anh hùng vãng lai. [2-272]
178. Lời giao ngôn đá nát vàng phai,
Dặn em đừng nhẹ dạ thương ai bao giờ. [3-312]
179. Lời nguyền chứng có ông tơ hồng,
Thác thời mới dứt, sống không bỏ chàng. [3-312]
180. Lụa lành mười lăm, anh chê rằng lụa vụn,
Mắc phải lụa hồ, đành bụng anh chưa? [3-312]
181. Mạ non bắt nhẽ cấy biền,
Anh thương em đứt ruột, chạy tiền không ra. [3-314]
182. Mạ úa cấy lúa chóng xanh,
Gái dòng chóng đẻ sao anh hững hờ? [2-275]
183. Màn rồng một bức giăng giăng,
Tôi với mình trời định, tam cương ngũ thường.
Mình về thưa lại thung đường,
Qua đây gá nghĩa cang thường với em. [3-315]
184. Mãn mùa thăm lúa dạo đồng,
Hỏi thăm em bậu có chồng hay chưa? [3-315]
185. Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.
Mình ơi có nhớ ta chăng,
Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời. [2-277]
186. Mặt trời đỏ tựa lửa đốt,
Mặt trời tốt tựa bông hường,
Lấy chồng lựa người chữ nghĩa văn chương,
Quang minh trí tuệ cao cường hơn em. [3-317]
187. Mấy khi rồng gặp mây đây,
Để rồng than thở với mây vài lời.
Nữa mai rồng ngược mây xuôi,
Biết bao giờ lại nói lời rồng mây.[2-279]
188. Mía sâu có đốt nhà dột có nơi,
Mình có thương, mình cắt tóc mình thề.
Chỉ trời, vạch đất chớ hề bỏ nhau. [1-72]
189. Mình ơi ta hỏi thiệt tình,
Còn thương nhau nữa hay mình muốn thôi ? [web]
190. Mình ơi ta hỏi thực mình,
Còn không hay đã chung tình với ai?
Hôm xưa tát nước gầu giai,
Có phải nhân ngãi hay ai tát cùng? [1-73]
191. Mình ơi tôi nhớ thương mình,
Mẹ cha chửi mắng chữ tình nặng thêm. [1-73]
192. Mình ở trên đất làm chi,
Năm sào ba mẫu bán đi xuống thuyền.
Mình ở trên đất ta dưới thuyền,
Làm sao cho hợp nhân duyên hở mình? [1-73]
193. Mình nói dối ta mình hãy còn son,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi gánh nước tắm cho con mình. [1-74]
194. Mình nói với ta mình chửa có chồng,
Ta đi qua ngõ thấy mình bồng con ra.
Con mình khéo giống con ta,
Con mình thì bẩy, con ta ba phần. [1-74]
195. Mình về sao được mà về,
Mặt trăng còn đó, lời thề còn đây. [1-77]
196. Mình về ta ngóng ta trông,
Ta về mình chẳng chút công đoái hoài. [1-78]
197. Mình về ta dặn câu này,
Dặn dăm câu nhớ dặn vài câu thương.
Dặn cho đến chiếu đến giường,
Đâu hơn thì kết đâu bằng chờ anh. [2-292]
198. Mong sao anh biến ra tằm,
Em thành dâu lá, ta nằm chung cơi.
Khi nào cho hợp hai hơi,
Ghé tai thủ thỉ những lời thủy chung. [2-293]
199. Một lòng kết tóc xe tơ,
Một niềm chỉ đợi chỉ chờ một anh. [1-79]
200. Một năm một tuổi một già,
Ba năm một tuổi chi mà đợi anh. [2-301]
201. Một ngày ngồi tựa mạn rồng,
Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài. [2-302]
202. Một nhành tre, năm ba nhành gãy, sáu bảy nhành chà,
Em thấy anh có một mẹ già,
Để em vô phụ trong nhà được không? [3-321]
203. Một niềm vàng đá khăng khăng,
Ba thu cũng đợi, chín trăng cũng chờ. [2-302]
204. Một thương hai nhớ ba trông,
Bốn chờ năm đợi sáu mong duyên nàng. [2-303]
205. Mua cau chọn lấy buồng sai,
Mua trầu chọn những trăm hai lá vàng.
Cau tiện ngang trầu vàng ngắt ngọn,
Thời buổi này kén chọn làm chi.
Thà rằng lấy quách nhau đi,
Kẻo sau quá lứa lỡ thì làm sao? [2-306]
206. Muốn cho sông cạn đò đầy,
Muốn cho anh chung mẹ chung thầy với em.
207. Muốn cho trước giếng sau chùa,
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu. [1-81]
208. Mù u bông trắng, lá quắn, nhụy huỳnh,
Người ta không nghĩ đến mình thì thôi. [3-323]
209. Mưa sa lác đác gió táp lạnh lùng,
Thấy em lao khổ anh mủi lòng nhớ thương.
Đàng đi biết mấy dặm trường,
Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa ? [1-70]
210. Nam Kỳ chẳng thiếu gái xinh,
Đến đây thấy bậu nết lành anh thương. [3-325]
211. Nay em còn cha còn mẹ còn cô còn bác,
Nên em không dám tự tung tự tác một mình.
Anh có thương em cậy mai dong đến nói,
Cha mẹ đành em cũng sẽ ưng. [1-92]
212. Này anh Bảy đó ơi,
Nhà họ giàu thì đầu heo nọng thịt,
Còn đôi mình nghèo thì cặp vịt với bông tai. [3-326]
213. Năm ngoái năm xưa em còn kha khá,
Năm nay nghèo quá nên đội nón lá bung vành,
Đứt quai nên nón tròng trành,
Hỏi anh xin cắc bạc mua nón lành đội chơi. [3-327]
214. Nắm tay em tròn như ống chỉ,
Lòng dạ anh đây phỉ chí muốn kết duyên.
Ngày nay hỏi thiệt bạn hiền thương không? [1-83]
215. Này người đứng ở bên sông,
Tay đeo nhẫn bạc, có chồng hay chưa? [192]
216. Nếu em còn ngại, qua thề lại cho em hết nan phân,
Đứa nào được Tấn quên Tần,
Xuống sông cọp ních, lên rừng xấu tha. [3-329]
217. Ngày nay hỏi gấp bạn mình,
Còn thương như cũ hay tình. hết thương [1-95]
218. Ngày xuân em đi Chợ Hạ,
Mua cá thu về, chợ hãy còn đông.
Ai nói với anh rằng em đã có chồng,
Tức mình em đổ cá xuống sông em về.[1-96]
219. Ngắn tay với chẳng tới kèo,
Cha mẹ anh nghèo, cưới chẳng được em! [1-93]
220. Nghe anh được lúc bây giờ,
Mai sau trứng nước con thơ ai nhìn. [1-96]
221. Nghe lời ăn nói đậm đà,
Chồng con chẳng phải, vậy mà em thương! [1-97]
222. Nghe lời quân tử như ru,
Nhưng còn e ngại giấm chua lửa nồng. [1-97]
223. Nghe tin anh có vợ rồi,
Như ai dội bát nước sôi trong lòng. [1-97]
224. Ngó lên đàng tóc rẽ tư,
Tại bụng em ừ, chẳng phải tại anh. [3-332]
225. Ngó lên mây bạc mây hồng,
Thương em hỏi thiệt có chồng hay chưa? [1-98]
226. Ngó lên trời, trời trong lại trắng,
Ngó xuống nước, nước trắng lại trong,
Gái như em chắc dạ bền lòng,
Lỡ duyên thì em chịu, đóng cửa loan phòng đợi anh. [3-334]
227. Ngó lên trên trời có đám mây xanh,
Chính giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.
Anh chào nàng rồi lại hỏi nàng,
Phụ mẫu nhà đã định đức đông sàng hay chưa? [1-98]
228. Ngọc lành còn đợi giá cao,
Em chờ người quân tử em giao nghĩa tình. [3-335]
229. Ngọc lành còn đợi giá cao,
Kim vàng cũng đợi lụa đào mới may. [2-326]
230. Ngỡ rằng cây cả bóng cao,
Thiếp ẩn mình vào tránh nắng cùng mưa.
Ai ngờ cây cả lá thưa,
Ẩn nắng nắng hắt, ẩn mưa mưa vào. [1-94]
231. Ngỡi nhân bạc tợ con mèo,
Hỏi xin đồng bạc than nghèo không cho.
Người ta cho bạc cho vàng,
Ngỡi nhân của em, xin thước vải vá quàng cũng không cho. [3-337]
232. Ngủ quên một giấc hừng đông,
Hẹn lỡ lời hẹn mình trông không mình? [3-337]
233. Người chê đã có anh yêu,
Nhan sắc mà nỡ bỏ liều sao em ? [1-92]
234. Người ta trắng nõn trắng nà,
Mình đen thui thủi như là củi thui.
Trách bà mụ khéo trêu người,
Nặn người thế ấy, nặn tôi thế này. [2-332]
235. Người xinh cái bóng cũng xinh,
Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn. [1-93]
236. Nhà em cao hàng rào em kín,
Nhà em tám, chín, mười từng.
Con ong bay vô không lọt,
Biểu con bướm đừng xôn xao.
Anh về sắm lễ cho cao,
Cậy mai dong cho giỏi,
Mới bước vào nhà em. [1-102]
237. Nhác trông lên mái tam quan,
Thấy người lịch sự khôn ngoan có tài.
Cho nên em chả lấy ai,
Dốc lòng chờ đợi một hai lấy mình. [1-105]
238. Nhạn lạc bầy, kêu sương nơi viễn bắc,
Em thương anh rồi, em hứa chắc một lời,
Anh có thương em hay không nói thiệt, chớ có gạt gái lỡ vời, bớ anh. [3-341]
239. Nhện sa trước miễu nhện phân tình,
Mình có chồng chưa, tôi chưa biết, tôi thấy mình tôi thương. [3-342]
240. Nhìn lên thấy một cành hoa,
Thấy cánh tim tím hương bay ngạt ngào.
Lòng riêng anh cũng muốn vào,
Cửa buồng khóa chặt mở sao hở nàng?
Then bằng sắt, khóa bằng vàng,
Lòng anh muốn ngỏ, thì nàng nghĩ sao? [2-344]
241. Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi!
Nhớ chỗ chàng đứng nhớ nơi chàng nằm.
Vắng chàng em vẫn hỏi thăm,
Nào em đã bỏ mấy năm mà hờn!
Chàng nghe kẻ đặt người đơm
Chàng nghe thấy tiếng chàng hờn cho cam.
Chàng ơi! em nhớ chàng thay
Nỡ nào chàng dứt mối dây cho đành. [2-347]
242. Nhớ ai ai nhớ ta không,
Hay đã có chồng chẳng nhớ đến ai! [1-100]
243. Niên kỷ cũng đồng niên kỷ,
Phu thê cũng xứng phu thê,
Gá duyên chồng vợ, chỉ sợ anh chê em nghèo. [3-344]
244. Nón em nón bạc quai vàng,
Thì em mới dám trao chàng cầm tay.
Tiếc vì nón lá quai mây,
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm. [1-106]
245. Nón cụ quai tơ có tờ giấy đỏ,
Anh ở khác tỉnh, xa làng sao rõ tên em? [3-44]
246. Nơi không thương thì thầy mẹ ép,
Nơi tình đẹp thì thầy mẹ khiến đừng.
Trong dạ em cứ bối rối nữa chừng, anh ơi ! [1-85]
247. Nước bưng bậu không uống, bậu uống nước bàu,
Chê đây lấy đó, ai giàu hơn ai? [3-345]
248. Nước chảy liu riu lục bình trôi riu ríu,
Anh ở một mình khi đau yếu ai nuôi. [1-85]
249. Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Anh mảng thương nàng có được hay không? [web]
250. Nước chảy re re con cá he nó xòe đuôi phụng,
Cả tỉnh này anh đành bụng có một mình em. [1-85]
251. Nước cùng một giếng múc ra,
Đó chê đây đục, đó mà hơn chi. [2-359]
252. Nước dưới sông lững lờ,
Gió đưa mây vật vờ,
Tơ duyên đã sờ sờ,
Qua đay, bậu đó, còn chờ đợi chi? [1-85]
253. Nước Hồ Tây vừa trong vừa mát,
Đường chợ Bưởi lắm cát dễ đi.
Cô kia bóng bẩy làm chi,
Để cho anh ấy đi đi về về? [2-358]
254. Nước lên cuốn sáo nhổ đăng,
Trong tay em có ngọc, cũng không bằng có anh. [2-358]
255. Nước trong còn ở nguồn xanh,
Trà thơm có đợi chén sành hay không? [2-361]
256. Nước trong cá lượn bên bờ,
Hỏi em mấy tuổi mà chưa lấy chồng? [1-88]
257. Nước trong xanh chảy quanh Bình Thuỷ,
Trách lòng chàng không nghỉ đến em. [3-351]
258. Ôi anh đi cái ô vàng,
Có trầu xin miếng hỡi chàng đi ô? [1-109]
259. Ông tơ hồng nói nhỏ anh nghe,
Để xong mùa cấy, ổng sẽ xe cho hai đứa mình. [3-352]
260. Ớ người quen ơi!
Nghe anh, em cũng muốn thương nhiều,
Nhưng hoa đã có chủ, khó chìu lòng anh. [3-352]
261. Ớt non mà trổ hoa cà,
Lấy em không đặng, ở già vậy thôi. [3-353]
262. Phải căn duyên nhà lá cột chà là,
Không phải căn duyên nhà ngói đôi ba toà cũng không ham. [3-353]
263. Phải chăng vườn mới thêm cây,
Cành chia thêm nụ thì đây lui về? [2-367]
264. Phụ mẫu đánh em treo ở hàng rào,
Lễ nghi chưa có, sao anh dám vào can ngăn? [3-356]
265. Ra về chi vội bạn ơi!
Ta đang vui với bạn, bạn vội rời bỏ ta. [2-375]
266. Ra về dặn bạn cho bền,
Dù ai xoay hướng trở nền mặc ai. [2-375]
267. Ra về dặn rứa nghe không,
Đừng đứng núi nọ mà trông núi này. [2-375]
268. Răng đen ai nhuộm cho mình,
Để duyên mình thắm, để tình ta say? [2-382]
269. Răng đen như thể hạt dưa,
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng.
Chưa chồng anh kiếm chồng cho,
Chưa con anh kiếm cho con mà bồng. [2-383]
270. Rồng giao đầu phượng giao đuôi,
Nay tui hỏi thiệt, Mình thương tui không mình? [1-112]
271. Rừng hoang sóc nhảy tưng bừng,
Hoa chưa nở nhụy bướm đừng lao xao. [2-386]
272. Rượu ngon bất luận ve chai,
Thương em bất luận sợ ai chê cười. [3-364]
273. Rượu ngon trong hũ rót ra,
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em. [2-386]
274. Sáng ngày em đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu.
Thưa rằng tôi đi hái dâu,
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn.
Thưa rằng bác mẹ em răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người. [1-113]
275. Sông sâu nước chảy ngập kiều,
Dầu anh có phụ, còn nhiều nơi thương. [2-393]
276. Sợ đó không ưng,
Chớ đó ưng đây bụng mừng biết mấy,
Hễ anh thấy thương rồi, cha mẹ thấy cũng thương. [3-370]
277. Tai nghe phảng phất gió Tây,
Vợ anh còn, con anh có, còn thương gió nhớ mây cái nỗi gì? [3-372]
278. Tay cầm cành bứa lệ ứa hàng hàng,
Thuở xuân xanh sao không gặp,
Đến lúc hoa tàn mới gặp nhau. [1-115]
279. Tay cầm quyển sách bìa xanh,
Xem trong số mệnh, tuổi anh hợp nàng.
Tay cầm quyển sách bìa vàng,
Xem trong số mệnh, tuổi nàng hợp anh. [2-400]
280. Tay em tay bạc tay vàng,
Sao chàng không chuộng, chuộng nàng tay không? [3-375]
281. Tằm ơi say đắm nơi đâu,
Mà tằm bỏ nghĩa cành dâu không nhìn? [2-402]
282. Tham vàng bỏ ngãi anh ơi!
Vàng thì ăn hết ngãi tôi vẫn con. [403]
283. Thân anh như phụng lạc bầy,
Thấy em lẻ bạn anh muốn gầy duyên loan. [1-117]
284. Thân em như đóa hoa rơi,
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa? [2-412]
285. Thân em như cái sập vàng,
Chúng anh như mảnh chiếu rách giữa đàng bỏ quên.
Lạy trời cho cả gió lên,
Cho manh chiếu rách trải trên sập vàng. [2-411]
286. Thấy anh em cũng muốn theo,
Em sợ anh nghèo anh bán em đi.
Lấy anh em biết ăn gì,
Lộc sắn thì chát, lộc si thì già.
Lấy anh không cửa không nhà,
Không cha không mẹ biết là cậy ai. [1-118]
287. Thấy em, anh cũng muốn thương,
Nước thì muốn chảy nhưng mương chẳng đào.
Em về lo liệu thế nào,
Để cho nước chảy lọt vào trong mương. [2-419]
288. Thấy anh có một mẹ già,
Muốn vô nuôi dưỡng biết là đặng không? [3-379]
289. Thèm trầu mà chẳng dám xin,
Thương em mà chẳng dám nhìn mặt em. [1-122]
290. Thiếp chờ chàng ba bốn năm ni,
Chờ không thấy bạn thiếp phải ra đi lấy chồng. [2-421]
291. Thiếp gặp chàng vào hội không may,
Vô duyên giặt áo phải ngày trời mưa. [1-123]
292. Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây,
Như con chèo bẻo xa cây măng vòi. [1-124]
293. Thôi đây anh không giận thì đó em cũng chớ hờn,
Kiếp tái sanh sẽ nối phiếm đờn tri âm. [3-384]
294. Thôi thôi đã lỡ nước cờ.
Có thương xin hãy đợi chờ kiếp sau. [3-384]
295. Thuyền đây nhớ bến vô cùng,
Ngặt vì đồn bót ngại ngùng khó qua.
Thuyền đây ý cũng muốn qua,
Thuế má đóng đủ, gẫy cha... cái cột buồm. [1-125]
296. Thuyền rồng bất ngãi bỏ trôi,
Đò ngang có ngãi ta ngồi đò ngang. [1-128]
297. Thuyền sao chẳng bẻ lái cho,
Thuyền còn lơ lửng để chờ đợi ai? [1-128]
298. Thương ai chẳng nói khi đầu,
Để cho thầy mẹ ăn trầu người ta. [2-432]
299. Thương anh lắm lắm nhiều nhiều,
Còn anh thương lại bao nhiêu mặc lòng.[2-434]
300. Thương chi thương cũng uổng công,
Chừng nào thiệt vợ thiệt chồng hãy thương. [3-388]
301. Thương em không lấy được em,
Anh về ở vậy chẳng thèm lấy ai. [2-437]
302. Thương thì mở nắp bưng cơi,
Không thương đặt xuống cho người khác bưng. [2-440]
303. Tôi thương anh Sáu, sợ mất lòng anh Năm,
Thôi thà thương hết đồng tâm hai người. [3-395]
304. Tiếc công anh đóng giá chờ gàu,
Đó đã phụ khó tham giàu thì thôi. [1-129]
305. Trách ai đem khóa rẽ chìa,
Vu oan giá họa mình lìa tôi ra. [3-399]
306. Trách cha trách mẹ em lầm,
Cho nên em phải khóc thầm hôm mai.
Trách chàng chẳng dám trách ai,
Trách chàng chè nụ hoa nhài không thơm. [2-452]
307. Trách lòng em bậu đãi đưa,
Gạt anh dãi nắng dầm mưa nhọc nhằn. [3-400]
308. Trách lòng tham đó bỏ đăng,
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn. [3-400]
309. Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao. [2-455]
310. Trăng lên khỏi núi trăng tròn,
Em bao nhiêu tuổi mà giòn thế em? [1-138]
311. Trăng lên khỏi núi khuất bụi chuối con trăng mờ,
Anh biết em bao nhiêu tuổi mà đợi chờ cho uổng công. [2-466]
312. Trăng thanh nguyệt rạng mái đình,
Chén son chưa cạn sao tình đã quên? [1-138]
313. Trăng lên con nước rong đầy,
Anh đừng đến nữa má rầy khổ em. [1-138]
314. Trầu này têm tối hôm qua,
Giấu cha, giấu mẹ đem ra cho chàng..
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa, không thuốc, sao chàng không ăn?
Hay là chê khó chê khăn.
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
315. Trèo lên cây khế giữa nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời. [1-144]
316. Tua rua đã xế ngang đầu,
Em còn ở lại làm giàu cho cha.
Giàu thì chia bảy chia ba,
Phận em là gái được là bao nhiêu? [1-147]
317. Vàng rơi xuống chiếu, sợi chỉ điểu ân tình,
Mình xa tôi tôi nhớ, sao tôi xa mình, mình quên? [3-413]
318. Vợ anh như ngọc như ngà,
Anh còn chẳng chuộng nữa là thân tôi.
Vợ anh như thể đĩa xôi,
Anh còn phụ bạc, nữa tôi cơm đùm. [1-150]
319. Xa xôi chi đó mà lầm,
Phải hương hương bén, phải trầm trầm thơm. [2-512]
320. Xin đừng phụ thiếp làm chi,
Thiếp như cơm nguội đợi đỡ khi đói lòng. [2-514]
B. Ca dao có hai lượt lời
Ai về nhắn nhủ ông câu, 1.
Cá ăn thì giật, để lâu mất mồi.
- Mất mồi này ta câu mồi khác,
Cá biển hồ xao xác thiếu chi? [4-203]
Anh cầm cổ tay, anh chỉ cổ tay, 2.
Ngày xưa em trắng sao rày em đen?
- Bởi chưng em lấy chồng hèn,
Mò cua bắt ốc em đen thế này. [4-203]
Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở, 3.
Anh đến tìm đò thì đò đã sang sông,
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng.
Em yêu anh như rứa có mặn nồng chi mô?
- Hoa đến kỳ thì hoa phải nở,
Đò đã đầy thì đò phải sang sông,
Đến duyên thì em phải lấy chồng.
Em yêu anh như rứa đó còn mặn nồng thì tùy anh. [web]
Anh đồ ơi hỡi anh đồ, 4.
Có cơm ăn tấm trộn ngô thì vào?
- Cơm tấm còn đãi dưới ao,
Ngô thì chưa bẻ anh vào làm chi? [1-12]
Anh đi ghe rổi chín chèo, 5.
Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo.
- Nợ treo mặc kệ nợ treo,
Em bán bánh bèo trả nợ nuôi anh. [1-14]
Anh đi lấy vợ cách sông, 6.
Để tôi lấy chồng cách ngõ anh ra.
- Có lấy thì lấy xa xa,
Đừng lấy trước ngõ anh ra anh buồn. [1-15]
Anh ngồi bờ cỏ xót xa, 7.
Vô đây em trải chiếu hoa cho ngồi.
- Chiếu hoa để cha mẹ em ngồi,
Phận anh là rể không dám ngồi chiếu hoa.
Tới đây ngồi tạm lá dừa
Chiếu trải mặc chiếu anh chưa dám ngồi. [4-96]
Anh như cây gỗ xoan đào. 8.
Em như câu đối dán vào nên chăng?
- Em như cây kiểng trong chùa,
Anh như con bướm, đậu nhờ nên chăng? [4-96]
Anh xích lại đây, anh dịch lại đây, 9.
Chiếu hoa em trải, ghế mây anh ngồi.
- Anh xích lại rồi, anh dịch lại rồi,
Chiếu hoa em trải, ghế ngồi anh đâu? [4-99]
10. Anh về chi nữa anh ơi,
Ở đây em dạm một mơi thanh nhàn.
- Anh về chẻ nứa đan sàng,
Bện dây đan võng cho nàng ru con.[1-2]
11. Anh về thắc rế kim cang,
Bán đôi đũa bếp cưới nàng còn dư.
- Anh về bán ruộng cây da,
Bán cặp trâu già, chẳng cưới được em.[1-24]
12. Anh về mua lụa bọc trời,
Mua thuyền chở núi, em thời theo ngay.
- Anh nỏ mua lụa mà mất nhiều tiền,
Anh sai người thổi gió mây lên che trời. [4-98]
13. Anh về xẻ ván cho dày,
Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang.
- Thầy mẹ sang em cũng theo sang.
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo. [1-24] Anh về xẻ ván cho dày,
Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang.
- Thầy mẹ sang em cũng theo sang.
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo. [1-24]
14. Anh về ráng học chữ nhu,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
- Anh gắng công anh học, chứ đâu có để bơ thờ,
Ở nhà em gìn giữ, chớ em hững hờ, chắc anh xa. [4-98]
15. Anh về sao được mà về,
Dây giăng tứ phía tính bề ngăn anh.
- Dây giăng mặc kệ dây giăng,
Ông tơ, bà nguyệt, đón ngăn cũng về. [4-98]
16. Anh ra về, em cũng muốn về theo,
Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm.
- Đá dăm anh đã lượm rồi.
Truông kia cát nóng, anh đã bồi đất thêm. [4-97]
17. Anh về anh cạo râu đi,
Mai sau trẻ lại anh thì đến chơi.
- Tức cái phận, giận cái duyên,
Ba cái râu mọc sớm để gái thuyền quyên giày vò. [4-205]
18. Anh về bên ấy mấy đò,
Mấy cầu mấy quán, em cho mượn tiền.
- Anh về bên ấy đàng liền,
Không cầu không quán mượn tiền làm chi? [4-205]
19. Anh về để áo lại đây,
Đêm khuya em đắp gió tây lạnh lùng.
- Đêm khuya em tạm đắp mền bông.
Để áo anh mặc, về không mẹ rầy. [1-21]
20. Anh về chẻ lạc bó tro,
Rán sành ra mỡ em cho làm chồng.
- Em về đục núi lòn qua,
Vắt cổ chầy ra nước, thì ta làm chồng. [4-205]
21. Anh về kiếm vảy con cá trê vàng,
Kiếm gan con tép bạc thì nàng theo không.
- Em về tìm vú con công,
Tìm đuôi con cóc, mới hòng theo anh.[3-173]
22. Áo anh rách miếng bên vai,
Cậy nàng vá giúp để mai đi làm.
- Anh về sắm bạc cùng vàng,
Sắm cho đủ lễ đến đây nàng vá cho.[1-25]
16. Áo vá quàng xiên xiên mũi mác
Con gái đất này bạc ác khó ve.
- Nói chi cao cách khó nghe,
Ngọc vàng khó kiếm, củi tre thiếu gì? [4-206]
17. Áo vắt vai đi đâu hăm hở,
Em có chồng rồi mắc cở lêu lêu.
- Áo vắt vai anh đi thăm ruộng,
Anh cũng có vợ rồi chẳng chuộng bậu đâu. [3-176]
18. Ba năm tượng rách còn thờ,
Hường nhan như bậu ngó bề đứng côi.
- Anh đừng nói vậy anh ơi,
Hình dáng khô héo có đôi ba người.[3-178]
19. Bây giờ em mới hỏi anh,
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?
- Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.[2-53]
20. Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
- Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào![2-54]
21. Bấy lâu còn lạ chưa quen,
Hỏi hồ đã có hoa sen chua hồ?
- Hồ còn leo lẻo nước trong,
Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợi sen! [2-56]
22. Bấy lâu anh mắc công chi,
Để em nhắn gửi thư đi từ về?
- Bấy lâu anh mắc cấy cầy,
Trồng khoai trỉa đỗ, lâu ngày nhớ em. [4-101]
23. Búp sen lai láng giữa hồ,
Anh đưa tay bẻ, sợ trong chùa có sư.
- Có sư thì mặc có sư,
Anh đưa tay ra bẻ, có hư em đền. [4-102]
24. Bửa ni anh mới tới nhà,
Hỏi chàng coi thử ở xa hay gần?
- Trước Lam Thủy, sau Hồng sơn,
Nhà nào đọc sách gảy đờn nhà anh. [4-102]
25. Bướm đeo dưới dạ cây bần,
Anh muốn vào kết nghĩa châu trần nên chăng?
- Em còn bán tín bán nghi,
Chưa đem vào dạ, chưa ghi vào lòng. [4-207]
26. Cách nhau có đó với đây,
Biết là xe mấy lần dây cho liền.
- Xe mãi cũng liền, nối mãi cũng liền,
Chỉ e em có chồng riêng ở nhà. [4-103]
27. Cau già quá lứa bán buôn,
Em già quá lứa có buồn không em?
- Cau già quá lứa bửa phơi,
Em già quá lứa có nơi đợi chờ.[2-75]
28. Cửa nhà gia thế, thế nao?
Răng ở đây anh ở lân la không về?
- Có gà diều mới lượn quanh,
Vì em, anh phải tu hành xóm ni.[1-29]
29. Cha tôi già mẹ tôi yếu, con tôi còn nhỏ xíu mắc nợ tứ giăng,
Muốn mượn anh vô trả thế, sợ anh nói nợ không ăn anh phiền.
- Thương em rồi anh dẹp lấy ưu phiền,
Nợ tào khang nặng nhất, đâu phải vì bạc tiền em ơi! [3-212]
30. Cha mẹ bậu thách cưới một trăm,
Qua đi chín chục thêm trăm đi ngoài.
Cha mẹ bậu thách cưới đôi hoa tai,
Qua ra thợ bạc, đánh hai đôi liền.
- Trăm quan thử hỏi mấy tiền,
Nghìn xưa ai có mua duyên bằng tiền. [4-208]
31. Chiếc tàu Nam Vang chạy ngang Cồn Cát,
Xuồng câu tôm đậu sát nhành da,
Thấy em có chút mẹ già,
Muốn vô hoạn dưỡng biết là đặng không? [3-217]
- Chiếc tàu Nam Vang đậu ngang Cồn Cát,
Xuồng câu tôm dậu sát mé bờ,
Biểu anh cưới vợ đừng chờ,
Em còn ở vậy cha mẹ nhờ đôi năm. [3-217]
32. Chiều chiều bướm đậu vườn hoa,
Có cho bướm đậu hay lùa bướm đi?
- Bướm đậu ai dám lùa đi,
Vườn hoa thêm đẹp, người thì có đôi. [4-109]
33. Chim khôn mắc phải lưới hồng,
Ai mà gỡ được đền công lạng vàng.
- Đền vàng anh chẳng lấy vàng,
Lòng anh chí quyết lấy nàng mà thôi. [4-110]
34. Chờ anh em hết sức chờ,
Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông.
- Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ.
Ai biểu anh chờ, mà anh giở công ơn? [3-226]
35. Có trầu cho miếng đỏ môi,
Có rượu cho chén thêm tươi má hồng,
- Trầu cũng sẵn đây, thuốc cũng sẵn đây
Nhân duyên chưa định, miếng trầu này chưa trao. [4-210]
36. Cô kia má đỏ hồng hồng,
Dừng tay tôi hỏi có chồng hay chưa?
- Có chồng năm ngoái năm xưa,
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng.[web]
37. Cô kia xách giỏ đi đâu?
Cho tôi gửi trầu cô xách giùm tôi.
- Trầu anh trầu đắng trầu nồng,
Em không dám nhận sợ chồng em ghen. [4-211]
38. Cúc đương xanh sao cúc vội tàn,
Kiểng đương xanh, sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai?
- Mắt nhìn luỵ nhỏ hàng hai,
Cúc tàn kiểng héo tại hai đứa mình. [3-241]
39. Dâu cỏ nhỏ lá chàng ơi,
Chàng nên đi chọn những nơi dâu tàu.
- Dâu cỏ nhỏ lá mà xinh,
Dâu tàu to lá mà mình không ưng. [4-115]
40. Dẫu mà không lấy được em,
Anh về đóng cửa, cài rèm đi tu.
- Tu mô cho em tu cùng,
May ra thành Phật thờ chung một chùa. [1-29]
41. Dây rau bấc bò trên ngõ chuối,
Ai đối đặng rồi, giá thú nghênh hôn.
- Con chim huýt cô đậu cửa nhà dì.
Ta đà đối đặng, bạn thì theo không. [1-29]
42. Dưới có đất rộng trên có trời cao,
Tại cha cùng mẹ, chớ em nào phụ anh.
- Thôi đừng tráo trở giấu quanh,
Mắt đà thấy rõ em tham sang giàu. [4-212]
43. Đèn hết dầu đèn tắt,
Nhan hết vị hết thơm,
Anh đừng lên xuống đêm hôm,
Thế gian đàm tiếu, tiếng đồn tội em.
- Thế gian sao khéo lạ kì,
Ta thương, ta tới, mắc gì đón ngăn. [4-117]
44. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng:
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng ?
- Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời. [1-33]
45. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng,
Chạc rơm gánh đá vũng vàng chi không?
- Chạc cày gánh đá vứt đi,
Chạc rơm gánh đá có khi vững bền. [4-118]
46. Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng:
Tre non đủ lá, đan sàng nên chăng?
- Ðan sàng thiếp cũng xin vâng.
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? [1-34]
47. Đến đây hỏi thật chủ nhà,
Vườn hồng nghiêm cấm hay là cho chơi?
- Vườn xuân nghiêm cấm chín từng,
Quan ngang, khách tạm xin đừng có vô. [4-213]
48. Đến đây hỏi bạn một lời,
Đường dây mối chỉ, có người nào chưa?
- Anh hỏi thì em xin thưa,
Gần xa đã có mà chưa vừa lòng. [4-120]
49. Đôi mình mới gặp hôm nay,
Cho hun một chút em Hai đừng phiền.
- Có hun thì hun cho liền,
Đừng có làm bộ láng giềng cười em. [4-125]
50. Đồng nào mà chẳng có chim,
Sao anh vác súng đi tìm non cao?
- Tay anh cầm khẩu súng đạn vàng,
Lăm le muốn bắn, phương hoàng trên cây. [4-126]
51. E khi thắm lạt vàng phai,
Sắc tàn nhị mất anh lại bỏ hoài không thương.
- Anh thề có bóng trăng đây,
Núi kia có lỡ tấm lòng này vẫn nguyên. [4-131]
52. Em đà thuận lấy anh chưa?
Để anh đốn gỗ rừng Nưa làm mhà.
- Có lòng xin giã ơn lòng,
Xa xôi cách lế đèo bòng mần răng? [4-215]
53. Em có chồng rồi em nói rằng chưa
Tội riêng em đó, chẳng lừa được anh.
- Không không chưa có nơi đâu,
Con tằm soan đang đợi nương dâu nhà người. [4-127]
54. Em đây như chiếc chuông vàng
Trên tỉnh Hà Nội ba ngàn quân canh.
- Anh đây là lính xứ Thanh
Ra tỉnh Hà Nội, lên thành thử chuông.[4-128]
55. Em mà không lấy được anh,
Thì em tự vẫn gốc chanh nhà chàng,
- Anh mà không lấy được nàng,
Thì anh tự vẫn giữa gia đàng nhà em. [4-130]
56. Em như bánh lá bóc trần,
Có chi anh phải dò gần hỏi xa.
Nhân duyên bởi tại trăng già,
Có nên thời nói người ta yên lòng.
Được như lời ấy thì thôi, -
Anh về giết lợn đồ xôi cưới liền. [4-130]
57. Em thấy anh em cũng muốn chào,
Sợ anh chồng cũ nó đứng bờ rào hắn trông.
- Hắn trông thì mặc hắn trông,
Đã quyết một lòng ta sẽ lấy nhau. [1-39]
58. Em thương anh cuốn gối cho tròn,
Chờ ba má ngủ em bước lòn cửa sau.
- Anh ơi! Ơn cha em chưa trả, nghĩa mẹ em chưa đền,
Sao anh dám biểu em ôm mền theo anh?[3-278]
59. Em về thưa với mẹ cha,
Có cho em lấy chồng xa quê người?
- Em về hỏi mẹ thầy rồi,
Chồng xa cũng lấy, chồng người cũng đi. [1-42]
60. Em gặp anh sao không hỏi không chào,
Hay em đã có chốn sang giàu hơn anh?
- Tối tăm em biết mít là gai,
Biết quen hay lạ, biết ai mà chào. [4-134]
61. Gặp đây anh hỏi thực nàng,
Tre non đủ lá đan sàng được chăng?
- Chàng hỏi thì thiếp xin thưa,
Tre non đủ lá đan chưa được sàng.
Ngoài chợ có thiếu gì giang,
Mà chàng lại nỡ đan sàng tre non.
Đan sàng có gốc tre già,
Tre non đủ lá được là bao nhiêu. [2-210]
62. Gặp em giữa chốn vườn đào
Kẻ giàu người khó làm sao nên tình?
- Thế gian chuộng của, chuộng tài,
Em đây chuộng nghĩa chẳng nài giàu sang. [4-134]
63. Gặp nhau anh muốn tỏ tường,
Xin nàng cho biết quê hương nơi nào?
- Chàng hỏi em phải nói ra,
Bắc Ninh là tỉnh, huyện nhà không sai.
…… [4-135]
64. Gặp nhau đây đâu phải điều trăng gió,
Xin hỏi một lời đã có chồng chưa?
Xin hỏi cô một lời, cô cứ thật phân qua.
- Quê em đây chính nơi Trang Lãnh,
Thuyên huyên sớm dời nên muộn cảnh chồng con.
Anh cố hỏi nằn, em xin thật phân qua. [4-135]
65. Gánh nặng mà đi đường dài,
Để anh gánh đỡ một vai nên chồng.
- Gánh nặng thì chị trả công,
Mặt em chẳng đáng làm chồng chị đâu.[1-43]
66. Gần nhà mà chẳng sang chơi,
Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu.
- Bắc cầu anh chẳng đi cầu,
Để tốn công thợ để sầu lòng em.[1-43]
67. Gió vàng hiu hắt đêm thanh,
Đường xa, nhà ngái, sao anh vội về?
- Anh về vài bữa anh ra,
Để em với mẹ về nhà ở chung. [4137]
68. Hái dâu ngọn ngắt, ngọn chừa,
Ba cô đã lớn mà chưa có chồng.
- Hái dâu ngọn ngắt, ngọn không,
Lêu lêu mắc cỡ, đã có chồng sạch trơn.[1-55]
69. Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em đã có chồng em trả yếm lại anh.
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh,
Yếm em, em mặc, yếm anh sao anh đòi! [2-232]
70. Hoa kia tươi tốt rườm ra,
Tuy rằng tươi tốt nhưng mà ong châm.
- Anh ở trong ấy anh ra,
Cớ sao anh biết vườn hoa chị tàn.
Hoa tàn nhưng nhụy chưa tàn,
Muốn xem chị vén bức màn cho xem. [4-218]
71. Hoa tàn bướm chẳng vãng lai,
Tình nghĩa anh đã phụ trúc mai xá gì?
- Vậy chớ bạn há chẳng xét suy,
Anh vì cha mẹ phải chia li bạn vàng. [4-218]
72. Hỏi anh, anh bảo học trò,
Sao em lại thấy cưỡi bò hôm qua?
- Em ơi, bò ấy bò nhà,
Đứa ở đi khỏi anh ra thăm đồng.
Nếu mai nên vợ, nên chồng,
Anh lại đi học, em trông bò giùm. [3297]
73. Hỏi anh chìa khóa ai cầm,
Giang sơn ai giữ, việc tảo tần ai lo.
- Chìa khóa đã có mẹ anh cầm,
Giang sơn anh giữ, việc tảo tần em lo. [4-138]
74. Hỏi chàng khách lạ đường xa,
Đến đây cân sắc hay là kết duyên?
- Sa chân bước xuống cõi tiên
Trước là cân sắc sau kết duyên Châu Trần. [1-56]
75. Hỏi chàng quê quán nơi đâu
Mà chàng thả lới buông câu chốn này?
- Quê anh ở phủ Hưng Nguyên,
Phù Long là tổng, Liệu Xuyên là làng. [4-139]
76. Hỏi chàng quê quán nơi nao
Sao chàng chẳng biết vườn đào có huê?
- Anh là khách lạ đàng xa,
Biết đây có gái đào hoa tới tìm. [4-140]
77. Hỡi cô bán đèn giấy hồng,
Đèn hồng cô bán má hồng bán không?
- Má hồng phải hỏi song thân,
Em đây chỉ bán cho anh đèn hồng. [web]
78. Hỏi nàng đã có chồng chưa,
Hay là chưa có anh thưa vài lời?
- Cũng chưa lược giắt trâm cài,
Cũng chưa duyên hán phận hài chi mô. [4-140]
79. Hỡi người vác cuốc thăm đồng,
Thăm lúa, thăm mạ, hay lòng thăm ai?
- Anh nay vác cuốc thăm khoai,
Nào ai có dám thăm ai ngoài đồng. [2-249]
80. Hỡi người bạn cũ tri âm,
Đôi ta thương trộm nhớ thầm đã lâu.
- Đôi ta thương trộm nhớ thầm,
Đừng cho người khác biết tri âm người cười. [4-141]
81. Khách tri âm đã tới sân hòe,
Mời ngòi chiếu phượng mà nghe thiếp đàn,
- Chậm chân là kẻ đi sau,
Vườn huê đã chật lấy đâu mà ngồi. [4-142]
82. Khăn lông rút mối, đẹp tợ như rồng,
Muốn mua cho em đội, sợ chồng em ghen.
- Vịt bầu đòi tắm ao sen,
Chồng tôi chưa có, anh ghen nỗi gì. [3-301]
83. Khoan khoan buông áo em ra,
Để em đi bán kẻo hoa em tàn.
- Hoa tàn thì mặc hoa tàn,
Mấy thuở găp nàng nàng biểu buông ra. [2-257]
84. Kìa kìa sao mai đã mọc,
Để anh ra về đi học kẻo trưa.
- Mù sương nhỏ đượm nư mưa,
Xin anh ở lại đến trưa hãy về.[4-144]
85. Lạ lùng bắt gặp chàng đây,
Có mấy câu nầy em đoán chưa ra.
Nếu mà anh giảng cho ra,
Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh.
Cái gì trong trắng ngoài xanh,
Cái gì soi tỏ mặt anh mặt nàng,
Cái gì xanh đỏ trắng tím vàng,
Cái gì ăn phải dạ càng tương tư.
Cái gì năm đợi tháng chờ,
…….?[1-64]
- Lạ lùng bắt gặp nàng đây
Quả bí đao trong trắng ngoài xanh
Gương tàu soi tỏ mặt anh mặt nàng
Chỉ ngủ sắc xanh đỏ trắng tím vàng
Bùa yêu ăn phải dạ càng tương tư
Nhân duyên năm đợi tháng chờ
………..
Anh nay đã giải hết liền,
Vậy anh xin kết nhân duyên cùng nàng. [1-65]
86. Mình về có nhớ ta chăng?
Ta như lạt buộc khăng kgăng nhớ mình.
- Ta về ta cũng nhớ mình,
Nhớ yếm mình mặc nhớ tình mình trao. [4-149]
87. Mình về ngoài ấy mau vô,
Cho anh sắm sửa cau khô để dành.
- Cau khô anh bổ để dành,
Bao giờ cau có trầu xanh mới về. [4-149]
88. Miếng trầu của đáng là bao,
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.
- Thưa rằng: bác mẹ em răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người. [4-218]
89. Một cây em bẻ lấy một nhành,
Anh tên chi, thứ mấy cắt nghĩa rành đặng em kêu?
- Cây bần gie con đom đóm đạu cheo lao,
Anh tên tư, thứ tám kêu thế nào thì kêu. [3-321]
90. Một bên quần rộng áo dài,
Một bên cày cấy, lấy khoai đổ bồ?
Hai bên em chuộng bên mô?
- Hai bên em chuộng bên bồ khoai lang. [4-150]
91. Một bên đèn sách văn chương
Một bên chèo đẩy em thương bên nào?
- Chữ nghĩa còn đợi giá cao
Quần nâu áo vải chân sào em thương.[1-78]
92. Mời anh đi quá cổng ngăn,
Em ra đỡ túi, nâng khăn anh vào.
- Anh vào anh cũng muốn vào,
Anh sợ thầy mẹ cây cao lá dài. [4-152]
93. Mời chàng mãi mãi không vào,
Bán mua chi đó, làm cao rứa chàng?
- Lạ lùng đứng chút ngoài sân
Khi mô kết ngãi châu trần sẽ vô. [4-152]
94. Mừng nay phụ mẫu song toàn,
Hỏi thăm anh đã kết nguyền mô chưa?
- Anh đang thanh cảnh một mình,
Chưa hề chung ý chung tình với ai.[4-153]
95. Năm ngoái anh còn kha khá,
Năm nay anh nghèo quá nên đội lá bung vành,
Hỏi cô công cấy bìa xanh,
Có tiền dư cho anh mượn mua chiếc nón lành đội làm duyên?
- Nón anh quai xanh, quai đỏ, đồ bỏ mái hè,
Phận anh đi cấy mướn đòi hoa hoè làm chi? [3-327]
96. Nếp ngâm mà đậu chưa chà,
Lòng em nói rứa, còn mẹ già nói sao?
- Nếp ngâm thì đậu cũng xay,
Lòng em nói rứa mẹ thầy cũng ưng. [4-155]
97. Nếu anh có dạ thương em,
Xin cho sáu lễ mai đem tới nhà.
- Thương nhau đâu quản đường xa,
Anh nguyền trọn dạ đến nhà hỏi thưa. [4-155]
98. Nếu không thệ hải minh san,
Làm sao biết được đá vàng chì thau.
- Ngọc còn ẩn đá
Vàng chẳng lộn than
Em đây là phận hồng nhan
Một lời đã hứa tào khang
Trăm năm ghi tạc nghĩa chàng chàng ơi! [4-155]
99. Nghe em phân như dần khúc ruột
Gần nhau chưa được lại nói cuộc chia xa.
Thế nào cũng ráng chờ qua
Tiền lo không kịp, qua bán nhà cưới em.
- Hỏi thử anh cho biết tình nhơn ngãi
Em đâu có ngại sự đợi chờ
Một lời hứa đạo tóc tơ
Trăm năm cũng chẳng hững hờ dạ riêng. [4-156]
100. Ngó lên mây bạc trời hồng,
Thương em hỏi thật có chồng hay chưa?
- Ngồi thêu bức gấm kim tòng,
Nhiều nơi dàn dạt, trong lòng chưa ưng. [4-158]
101. Nhà anh nhà ngói,
Nhà em nhà lá,
Em đâu dám gá vợ chồng.
Nồi đất mà đậy vung đồng ai coi?
- Nàng nói sao không nghĩ lại coi,
Bình sành người ta còn dùng nắp thiếc,
Sao nàng không xét không soi cho tôi nhờ! [3-339]
102. Nhà em có nén vàng mười,
Còn không, hay đã có người bỏ cân?
- Nhà em thong thả chưa cần,
Làng vàng cao giá có cân thì vào.
Vàng thật, chẳng phải bán rao
Có mua thời vác tiền vào mà mua. [4-160]
103. Nhác trông thấy bóng một người
Răng đen nhưng nhức, miệng cười như hoa.
Hai bên còn cả mẹ cha
Có ai gánh đỡ hay là còn không?
- Đây còn không, đấy cũng còn không
Đây chưa có chồng, đấy chửa lấy ai [1-105]
104. Nước lên lai láng vườn dâu,
Nhà anh ba bảy cha mẹ, biết đâu em chiều?
- Quý hồ anh có lòng yêu,
Ba bảy cha mẹ em chiều cũng xong. [4-166]
105. Phụ mẫu sơ sanh để phụ mẫu định,
Trong việc vợ chồng chờ lệnh mẹ cha.
- Em sợ mẹ cha cũng là sự phải,
Anh không buộc điều phải trái, mà em ngại tấm lòng.
Anh thề chứng có non sông,
Miễn em ừ một tiếng, anh quyết không thay lời. [4-168]
106. Sông sâu nước chảy, con cá cháy giữa dòng,
Thấy anh em lại vừa lòng,
Tuổi em còn nhỏ, anh chờ đôi năm thế nào?
- Em ơi tuổi xuân một thuở hoa đào,
Phải duyên nên chồng vợ, đợi ong bướm ra vào làm chi? [web]
107. Sông sâu cá lội mất tăm,
Chín tháng cũng đợi mười năm cũng chờ.
- Sông sâu cá lặn vào bờ,
Lấy ai thì lấy đợi chờ ta chi. [2-392]
108. Tai nghe em bậu chóng hồi,
Cũng bằng anh uống một nồi nhơn sâm.
- Nhơn sâm mắc lắm anh ôi!
Tiền đâu mà uống một nồi nhơn sâm. [4-224]
109. Tay cầm quyển sách làm chi,
Hỏi thăm chỗ lội đây thì nông sâu?
- Đây em là gái chưa chồng,
Nào em có biết nông sâu thế nào. [2-401]
110. Tay cầm tên bạc ná vàng,
Lăm le muốn bắn phượng hoàng trên cây.
- Tay cầm tên bạc ná vàng,
Anh nhắm sao cho trúng được con phượng hoàng khen cho.[4-176]
111. Thân em như cá lội tranh mồi,
Em tìm nơi sông lớn, vịnh bồi ẩn thân.
- Anh đây như thể lão chài,
Vực sâu anh thả lưới, bãi lài anh buông câu. [4-177]
112. Thân em như thể nước sông,
Tuy là thấy mặt biết lòng cạn sâu.
- Thân anh đây như sợi dây dài,
Lòng sông sâu cạn, anh dò hoài cũng thông. [4-177]
113. Thấy em có chút dung nhan,
Biết bao nhiêu kẻ chận đàng đón truông.
- Mặc ai đón ngõ chận đường
Em đây chỉ biết có thương một người. [3-380]
114. Thấy em có đôi bông nhận hột, cái chột bằng đồng,
Phụ mẫu em sắm hay bên chồng em cho?
- Anh ơi đừng hỏi vòng vo,
Phụ mẫu em sắm chớ bên chồng cho hồi nào. [3-380]
115. Theo anh em cũng muốn theo,
Em sợ anh nghèo anh bán em đi.
- Nghèo thời bán cột bán nhà,
Nào ai có bán vợ theo bao giờ. [1-122]
116. Thiếp như cá ở biển đông,
Chờ khi nước cạn hóa rồng lên mây.
- Phải chi anh có phép thần thông,
Ngăn mây cưỡi gió, bắt rồng cưỡi chơi. [1-123]
117. Thiếu chi củi quế rừng ta,
Kiếm chi củi mục rừng xa đem về?
- Phải duyên túc đế ngoài Huế tôi cũng tầm,
Không phải duyên củi quế dựa thềm tôi cũng nhổ quăng. [3-383]
118. Thiếu chi hoa lý hoa lài
Mà anh đi chuộng hoa khoai cuối mùa?
- Hoa khoai chịu nắng chịu mưa,
Hoa lài hoa lý chưa tra đã rầu. 2-424]
119. Thuyền ai dù ngược dù xuôi,
Có về Nam Định cho tôi về nhờ.
- Sao cô ăn nói ỡm ờ?
Thuyền anh chật mớm, em nhờ làm sao. [1-125]
120. Thương thương, nhớ nhớ, thương thương
Một chiếu đôi giường biết trải nơi nao?
- Có trải thời trải giường cao,
Chớ trải giường thấp chiêm bao mơ màng. [4-186]
121. Tiếc cây nứa tốt có sâu
Tiếc người lịch sự trên đầu có tang.
Tang chồng thì bỏ tang đi,
Tang cha tang mẹ ta thì tang chung.
- Tang cha tang mẹ trên đầu
Lẽ nào em dám bán sầu mua vui [1-129]
122. Tiện đây đưa một miếng trầu,
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.
- Trầu này ơn nặng như chì,
Ăn thì đã vậy, lấy gì trả ơn. [4-187]
123. Trai tân đang đứng đang chờ,
Ai bưng mắt em lại, em lại vơ cha dòng?
- Cha dòng áo rách em thương,
Trai tân quần lợt áo lương không dùng. [3-401]
124. Trăm hoa đua nở vườn đào,
Mời chàng nho sĩ bước vào thăm hoa.
- Trăm hoa phong nhụy một lần,
Thung dung rồi sẽ bước dần vào chơi. [4-190]
125. Trăng lên đỉnh núi trăng tà,
Mình yêu ta thực hay là yêu chơi ?
- Trăng lên đỉnh núi trăng ngời
Yêu thời yêu thực, yêu chơi làm gì ? [1-138]
126. Trăng lên khỏi núi trăng tròn,
Em bao nhiêu tuổi mà giòn rứa em?
- Trên đầu lược giắc trâm cài,
Tảo tần khuya sớm chưa ai chung tình. [4-191]
127. Trăng tròn rồi sao lại thưa,
Anh chơi hồi nữa em đưa đoạn đường,
- Quý hồ em có lòng thương
Bắt em đưa đón đoạn đường làm chi! [4-191]
128. Trầu xanh, cau trắng, khay vàng
Cơi trầu bịt bạc, thiếp mời chàng ăn chung.
- Trầu này trầu mẹ trầu cha,
Hay là trầu bạn đưa ta hỡi nàng! [4-191]
129. Trầu vàng còn để trong cơi,
Anh kia đũa mốc chớ chòi mâm son.
- Trầu vàng đâu ở mãi trong cơi,
Sợ mai trầu héo trầu ơi là trâu. [4-228]
130. Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay
- Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi từ ngày còn không.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra. [web]
131. Trèo lên cây bưởi ngắt ngọn thanh yên,
Duyên em bán mấy, anh kiếm tiền anh mua?
- Duyên em bán thiệt ba trăm,
Anh mua chi nổi mà hỏi thăm cho rộn ràng. [web]
132. Trèo lên cây khế chua le,
Anh muốn cưới vợ kiếm ba ghe tiền đồng.
- Tiền đồng lấy đấu mà đong,
Lấy xe mà chở bằng lòng em chưa? [4-191]
133. Trên trăng dưới nước anh giao ước một lời,
Dẫu trăng mờ nước cạn chẳng đời nào phụ em.
- Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền
Phật trời còn đó em giữ thuyền thuỷ chung. [1-121]
134. Trên rừng ba mươi sáu thứ chim,
Thiếu gì loan phượng đi tìm quạ khoang.
- Quạ khoang có của có công,
Tuy rằng loan phượng nhưng không có gì. [1-120]
135. Trước đây mỗi đứa mỗi nơi,
Bây giờ giáp mặt, hỏi người tính sao?
- Mẹ cha anh chẳng phải giàu,
Thân anh làm mướn, tiền đâu cưới nàng. [4-231]
136. Từ rày anh dặn nàng hay,
Sông sâu chớ lội đò đầy chớ đi.
- Sông sâu ai lội làm chi,
Dò đây ai chở mà đi đò đầy. [4-231]
137. Vắng mình ta ngóng ta trông,
Vắng ta mình chẳng bỏ công đoái hoài.
- Vắng mình ta lại hỏi thăm,
Nào ai bỏ vắng trăm năm mà hờn. [4-196]
138. Vợ anh em chẳng dám bì,
Vợ anh vàng bảy em thì than ba.
Ước gì ta ở một nhà,
Để xem vàng bảy than ba thế nào?
- Vàng bảy anh vứt xuống ao
Than ba anh để võng đào anh đưa.
Dù ai đi sớm về trưa
Anh ngồi nghỉ mát mà đưa võng đào. [2-509]
139. Vườn xuân im ỉm còn gài,
Em mong khiến bẻ cho ai một cành.
- Đã yêu anh bẻ cả cho anh,
Giấu cha giấu mẹ rằng cành hoa rơi. [4-197]
140. Xăm xăm bước tới vườn hoa,
Thấy nàng thục nữ mà ta vội mừng.
- Vườn hoa từ lúc quen mình
Quan san mấy dặm ân tình dài lâu. [4-197]
NGUỒN TƯ LIỆU 1. Ca dao Việt Nam, ca dao tình yêu, Vương Trung Hiếu (2006), NXB Tổng hợp Đồng Nai.
1. Ca dao trữ tình chọn lọc, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1994), NXB Giáo dục.
3. Ca dao dân ca Nam Bộ, Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị
(1984), NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Ca dao (quyển 9), Viện Nghiên cứu văn hóa, NXB KHXH, 2009.
5. Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam,Vũ Ngọc Phan, NXB Văn học, 2007. (tái bản lần thứ 15)
(web) Website: www.e-cadao.com