
Đầu tư vào thị trường chứng khoán
và những rủi ro của nó.
Sau cơn sốt giá, thị trường chứng khoán tại Việt Nam đang có dấu hiệu
điều chỉnh và người ta còn chờ đợi nhiều giao động bất ngờ khiến một số
nhà đầu tư cá nhân có thể sẽ bị thua thiệt. Diễn đàn Kinh tế đề cập tới
những rủi ro ấy qua phần trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân
Nghĩa về việc đầu tư vào cổ phiếu .
Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, liên tiếp từ ba ngày của tuần trước qua đến
Thứ Hai, thị trường chứng khoán tại Việt Nam đã có những dấu hiệu điều
chỉnh chờ đợi từ lâu.Việc điều chỉnh ấy sẽ vận hành ra sao, là một câu hỏi
đáng quan tâm cho nhiều người cho nên chúng tôi đề nghị là kỳ này, chúng
ta sẽ cùng tìm hiểu về việc đầu tư vào thị trường chứng khoán và những rủi
ro của nó.
Thưa đây là một cơ hội tốt cho mọi người cùng bình tĩnh kiểm lại một số
quy tắc cơ bản về đầu tư trong thị trường này.Trước hết, tôi xin đề nghị là
ta cùng định nghĩa lại nghiệp vụ đầu tư, thị trường chứng khoán và một số
nguyên lý vận hành của thị trường này cho các nhà đầu tư cá nhân. Các nhà
đầu tư có tổ chức, gọi là đầu tư định chế, là loại công ty chuyên nghiệp theo
phương cách đầu tư khoa học thì ta không nói ở đây.
Nếu vậy, câu hỏi đầu tiên : đầu tư là gì ?
Đầu tư là khi ta dùng tiền tiết kiệm của mình mà đưa vào lãnh vực sản xuất
để kiếm lời với rủi ro có thể là bị lỗ. Trên đại thể thì việc đầu tư ấy có thể là

trực tiếp hay gián tiếp.
Trực tiếp là khi ta lấy tiền tiết kiệm lập ra cơ sở sản xuất để kiếm lời qua
bán hàng hay cung cấp dịch vụ trên thị trường. Gián tiếp là khi ta dùng tiền
ấy mua tài sản của một cơ sở sản xuất sẵn có để kiếm lời nếu cơ sở ấy có
lời mà cũng chịu rủi bị lỗ nếu cơ sở bị lỗ.
Việc đầu tư gián tiếp ấy có khác gì đầu cơ hay không ?
Thuần về kinh tế mà nói, đầu tư và đầu cơ giống nhau ở việc không tiêu
tiền tiết kiệm mà dùng tiền ấy cho mục đích kiếm lời sau này. Khác nhau là
đầu cơ nhắm vào mối lợi lớn trong ngắn hạn và cũng bị rủi ro rất lớn. Cho
tới nay, đại đa số các nhà đầu tư tại Việt Nam vẫn có động thái đáng lo ngại
của người đầu cơ mà lại không thấy ra sự rủi ro.
Theo nguyên lý ông giải thích thì đầu tư gián tiếp là đưa tiền của mình cho
người khác kinh doanh và chia lời phải không ?
Thưa đúng vậy. Trên nguyên tắc, thị trường chứng khoán là nơi nhà đầu tư
có thể bỏ tiền ra mua chứng phiếu gồm có hai loại là cổ phiếu và trái phiếu
do doanh nghiệp phát hành.
Cổ phiếu ( Stocks) là tiền hùn vào phần vốn, còn Trái phiếu ( Bonds) là tiền
cho vay với phân lời đã định trước. Cho đến nay, vật dụng đầu tư tại thị
trường chứng khoán Việt Nam chủ yếu là cổ phiếu, là loại có thể lời cao
hơn phân lời của trái phiếu nhưng cũng có rủi ro cao hơn.
Nhưng việc đầu tư ấy có lợi thế nào cho doanh nghiệp và nền kinh tế ?
Khi bước vào thị trường này, ta có ba cách ứng xử, một là mua, hai là giữ
nguyên những gì mình đã mua trước đó, ba là bán. Quyết định mua hoặc
giữ nguyên những cổ phiếu đã mua là khi mình tin rằng trị giá cổ phiếu sẽ
còn tăng. Nếu thấy là giá cổ phiếu sẽ sụt thì mình quyết định bán. Yếu tố
quyết định ở đây là triển vọng sinh lời của doanh nghiệp được yết giá trên
sàn giao dịch.
Doanh nghiệp huy động vốn kinh doanh từ loại thị trường ấy, và nhà đầu tư
không tiêu thụ mà giao tiền cho doanh nghiệp dùng vào sản xuất để kiếm

lời cho mình.
Theo nguyên tắc này, mà xứ nào hay nhà đầu tư nào cũng phải biết, là mình
chỉ lấy tiền tiết kiệm ra đầu tư với giả thuyết là dù có mất hết thì cũng
không ảnh hưởng đến lợi tức hay mức sống thường nhật của mình.
Trút hết tài sản ra “chơi stock” như ở nhà vẫn thường nói ngày nay chỉ là
đánh bạc và nếu bị lỗ lã thì gia đình bị thua thiệt, kinh tế sa sút. Nếu lại còn
vay tiền ngân hàng đưa vào cuộc đỏ đen ấy thì mình có thể gây ra khủng
hoảng tài chính và kinh tế nếu thị trường tuột giá, là điều có thể xảy ra tại
Việt Nam khi luật lệ về tài trợ đầu tư chưa đủ tinh tế.
Nói vắn tắt lại thì trong lời trình bày của ông, nhà đầu tư cá nhân chỉ nên
dùng tài sản tiết kiệm được để đầu tư trong tinh thần cẩn trọng, phải không
?
Thưa đúng như thế, và đấy là một phản ứng tâm lý cần thiết khi mình bắt
đầu bước vào thị trường chứng khoán, là hình thái đầu tư vẫn còn quá mới
lạ và chưa có đủ thông tin tối thiểu ngoài những lời đồn đại và thành tích
lạc quan của một thiểu số được bạc.
Xin nói thêm là trên thị trường này, ta có quy luật “bù trừ”, tức là người
này thắng thì đâu đó phải có người thua một ngân khoản tương đương. Chỉ
nghe nói là đại gia này hay nhân vật kia đã thắng lớn trên thị trường chứng
khoán mà hồ hởi nhảy vào là sẽ mất tiền oan.
Ông vừa trình bày phần đại lược của nghiệp vụ đầu tư vào cổ phiếu, bây
giờ bước qua phần chuyên môn một chút là làm sao tính ra triển vọng lời lỗ
để quyết định đầu tư.
Khi bước vào thị trường này, ta có ba cách ứng xử, một là mua, hai là giữ
nguyên những gì mình đã mua trước đó, ba là bán. Quyết định mua hoặc
giữ nguyên những cổ phiếu đã mua là khi mình tin rằng trị giá cổ phiếu sẽ
còn tăng. Nếu thấy là giá cổ phiếu sẽ sụt thì mình quyết định bán. Yếu tố
quyết định ở đây là triển vọng sinh lời của doanh nghiệp được yết giá trên
sàn giao dịch.
Nhiều nhà đầu tư tại Việt Nam có khi hoàn toàn không biết và không cần

biết gì về doanh nghiệp đối tượng, thậm chí mua cổ phiếu trên chợ đen của
doanh nghiệp chưa hoạt động mà mới chỉ được cấp giấy phép. Đấy là
phương pháp “dựa chõ nghe hơi” cực kỳ nguy hiểm của tay mơ đi vào đầu
tư như vào sòng bạc.
Khi làm chủ một số cổ phiếu của doanh nghiệp, nhà đầu tư là một cổ đông,
làm chủ một phần tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có lời thì có
thể chia mức lời ấy cho các cổ đông, ta gọi là cổ tức, là một trị giá được
thông báo cho mọi người cùng biết.
Ngoài số tiền lời gọi là cổ tức, nhà đầu tư có thể còn nghĩ đến một cách
kiếm lời khác là bán ra cổ phiếu với giá cao hơn giá mua trước đấy. Yếu tố
ấy giữ phần quyết định có lẽ còn lớn hơn cổ tức nên mới giải thích khối
lượng giao dịch rất lớn mỗi ngày trên thị trường chứng khoán làm giá cả
thăng trầm rất mạnh.
Cụ thể thì có cách gì đo lường được trị giá phải chăng của cổ phiếu hay
không ?
Theo kinh nghiệm từ vài trăm năm nay của thế giới thì thông thường, khi trị
giá cổ phiếu xê dịch trong khoảng 15 đến 17 lần cổ tức thì ta coi đó là giá
phải chăng, gọi là tỷ số P/E do chữ Price Earning Ratio mà ra. Khi tỷ số
P/E này lại cao gần gấp trăm lần cổ tức thì ta đoán rằng giá đó là giá ảo, tức
là sẽ có ngày sụt mạnh như điều sẽ xảy ra cho một số cổ phiếu tại Việt
Nam.
Bong bóng đầu tư đang căng phồng thiếu cơ sở nên sẽ bị xì, có khi sẽ bị bể
như trường hợp đã xảy ra tại Hoa Kỳ bảy năm về trước với loại công ty cao
kỹ trên thị trường Nasdaq làm kinh tế Mỹ bị suy trầm vào năm 2001.
Nhưng làm sao người ta có thể tính ra những triển vọng ấy mà quyết định
về giá cổ phiếu nên mua hay nên bán ?
Trên đại thể, ta có hai phương pháp đầu tư khác nhau. Phương pháp thứ
nhất gọi là “phân tích cơ bản”, là tìm hiểu về tình hình kinh doanh của đối
tượng từ đó định ra loại yếu tố tích cực và tiêu cực có thể giúp doanh
nghiệp phát triển để có lời cao hơn, hoặc ngược lại, khiến doanh nghiệp gặp

trở ngại và có khi bị lỗ.
Phương pháp thứ hai, gọi là “phân tích kỹ thuật”, thì có thể khỏi cần biết
đến tình hình cơ bản của doanh nghiệp đối tượng mà chỉ cần theo dõi dạng
thức chuyển dịch, thăng hay giáng, của cổ phiếu qua một số tuyến đồ từ
đấy mình suy đoán ra sự chuyển dịch, lên hay xuống, trong tương lai.
Theo thiển ý của tôi, phương pháp cơ bản có thể giải thích ra cái “nhân”, là
yếu tố khiến cổ phiếu có thể tăng hay giảm, nhưng nhiều khi không trả lời
được một câu hỏi rất quan trọng là nếu tăng thì tăng đến đâu, bao giờ sẽ lên
đến mức ấy? Hoặc ngược lại, nếu giảm thì sẽ ra sao? Nếu cứ nói là cổ phiếu
doanh nghiệp này sẽ tăng thì ta chưa có một thông tin đủ chuẩn xác.
Một nhà đầu tư cá nhân tìm đâu ra những dữ kiện để tiến hành việc phân
tích theo hai hướng đó ?
Đấy mới là vấn đề. Nhiều nhà đầu tư tại Việt Nam có khi hoàn toàn không
biết và không cần biết gì về doanh nghiệp đối tượng, thậm chí mua cổ
phiếu trên chợ đen của doanh nghiệp chưa hoạt động mà mới chỉ được cấp
giấy phép. Đấy là phương pháp “dựa chõ nghe hơi” cực kỳ nguy hiểm của
tay mơ đi vào đầu tư như vào sòng bạc.
Về đại cương, phương pháp cơ bản đòi hỏi nhà đầu tư phải biết về tình hình
kinh tế tài chính tổng quát, rồi tìm hiểu sâu hơn vào khu vực hay ngành
nghề kinh doanh của xí nghiệp mà mình muốn mua cổ phiếu để cân nhắc
lợi thế hay nhược điểm của xí nghiệp đó. Sau đấy mới đối chiếu tình hình
chung của môi trường và những đặc điểm riêng của xí nghiệp, như tài sản,
số nợ, khả năng của ban quản trị, v.v....
Việt Nam thực ra chưa có đủ thông tin và cơ chế để áp dụng phương pháp
cơ bản, là điều đáng lẽ đã phải có sau khi thị trường chứng khoán hoạt động
được gần chục năm. Muốn có thì phải làm một cuộc cách mạng về thông
tin và luật lệ để mọi doanh nghiệp muốn huy động vốn trên thị trường
chứng khoán phải công khai hoá sổ sách kế toán, từ bảng tổng kết tài sản
đến các trương mục lời lỗ và mọi chi tiết cần thiết về thị trường và tổ chức
lẫn nhân sự của doanh nghiệp.
Kế đó, báo chí phải có quyền tự do thông tin và tìm hiểu về từng doanh