intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương Mỹ học

Chia sẻ: Hoàng Miền | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:19

616
lượt xem
102
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

 Cái đẹp mang lại sự hài lòng, dễ chịu cho con người, đó là những hiện tượng có kết cấu hài hoà, hợp lý. Nhìn vào lịch sử và quá trình hình thành công cụ lao động, vật dụng sinh hoạt cũng như phong thái giao tiếp, con người luôn hướng tới cái đẹp, ngày càng hoàn thiện, hoàn mỹ hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương Mỹ học

  1. I/ Đối tượng nghiên cứu và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu Mỹ học? 1. Cơ sở thực tiễn và căn cứ lý luận để xác lập đối tượng môn học: a. Cơ sở thực tiễn: ­ Cái đẹp mang lại sự hài lòng, dễ chịu cho con người, đó là những hiện tượng có kết cấu hài hoà, hợp lý. ­­> Nhìn vào lịch sử và quá trình hình thành công cụ lao động, vật dụng sinh hoạt cũng như phong thái  giao tiếp, con người luôn hướng tới cái đẹp, ngày càng hoàn thiện, hoàn mỹ hơn. ­­> Mong muốn về một thế giới hoàn thiện, hoàn mỹ trở thành xu hướng chủ đạo trong lịch sử tiến hoá của  nhân loại. b. Căn cứ lý luận: C. Mác trong “Bản thảo kinh tế triết học” (1844) đã so sánh sự sản xuất của người và vật: Vật  + Sản xuất phiến diện. + Sản xuất khi có nhu cầu thể xác trực tiếp. + Sản phẩm gắn liền với thể xác của vật. + Sản xuất theo thước đo giống loài của nó. Người + Sản xuất toàn diện ­­> tạo nên cả thế giới. + Sản xuất khi không có nhu cầu. + Con người đối diện tự do với sản phẩm. + Sản xuất theo thước đo của bất cứ giống loài nào. ­­> Con người luôn nhào nặn vật chất theo “quy luật của cái đẹp”, là thước đo phẩm chất NGƯỜI của con  người. ­ Con người càng hướng tới cái đẹp nhiều bao nhiêu thì con người càng rời xa bản năng bấy nhiêu ­­> Năng lực bản chất NGƯỜI là nhào nặn, là biến cả thế giới theo quy luật. 2. Quá trình xác lập đối tượng nghiên cứu: a. Người đầu tiên đặt ra yêu cầu khái quát về Mỹ học là Platông (427 ­ 347 TCN) b. Baumgacten ­ nhà triết học, mỹ học Đức: ­ Ông là người đầu tiên xác lập mỹ học như một khoa học độc lập. ­ Năm 1750, ông viết cuốn sách “Aesthétik” nhằm khẳng định mỹ học là một trong hai khoa học nghiên  cứu hoạt động nhận thức của con người. Nếu logic học quan tâm đến các quy luật của nhận thức lý  tính, dựa vào tư duy để tìm kiếm chân lý thì mỹ học tiếp cận mảng nhận thức cảm tính, dựa vào tình  cảm để chiếm lĩnh cái đẹp. c. Ba đại diện ưu tú nhất của Mỹ học cận đại: ­ Canter (1724 ­ 1804): Là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm, ông thiên về trường phái duy tâm chủ  quan. Ông cho rằng mỹ học nghiên cứu cảm quan về cái đẹp. ­ Hêghen (1770 ­ 1831): Là đại diện cho trường phái duy tâm khách quan ­ duy tâm biện chứng. Ông cho  rằng mỹ học là khoa học về nghệ thuật ­ 1 hình thức tồn tại của ý niệm tuyệt đối ­ Tsécnưsépxki (1828 ­ 1889): Nhà triết học, mỹ học Nga. Ông cho rằng mỹ học là khoa học về cái  đẹp trong cuộc sống. d. Mỹ học thế kỷ XX: Có tính chất tổng hợp, đa chiều. 3. Quan điểm của Mỹ học Mác ­ Lênin: a. Quy luật cơ bản và phổ quát nhất của đời sống thẩm mỹ:
  2. ­ Là 1 mặt, 1 khía chạnh của đời sống xã hội. ­ Được nghiên cứu trên 2 cấp độ: • Cấp độ chung: quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực • Cấp độ đặc biệt: nghệ thuật ­ hình thái biểu hiện tập trung nhất các mối quan hệ thẩm mỹ của con  người với hiện thực. ­­> Nghệ thuật và quan hệ thẩm mỹ đồng kiểu, đồng chất nhưng không đồng cấp. b. Quy luật cơ bản và phổ quát nhất của công tác giáo dục thẩm mỹ: ­ Mỹ học là 1 khoa học nằm trong hệ thống khoa học triết học. Mỹ học nghiên cứu những quy luật cơ bản  và phổ biến nhất của đời sống thẩm mỹ, cụ thể là những quy luật chung của các mối quan hệ thẩm mỹ  của con người với hiện thực, những quy luật chung của nghệ thuật với tư cách là hình thái biểu hiện tập  trung nhất các mối quan hệ thẩm mỹ ấy. ­ Mỹ học Mác ­ Lênin còn nghiên cứu những quy luật cơ bản của quá trình hình thành và phát triển những  năng lực sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ nói chung và nói riêng. ­­> Mỹ học là khoa học nghiên cứu về cái đẹp, là các hiện tượng thẩm mỹ nói chung. ­­> Mỹ học là khoa học về mỹ cảm. ­­> Mỹ học là khoa học về nghệ thuật nói chung. → Trên đây là những quan niệm phiến diện 4. Ý nghĩa thực tiễn: a. Bình diện xã hội: ­ Mỹ học Mác ­ Lênin ra đời là 1 bước ngoặt quan trọng. ­ Trên cơ sở kế thừa, có phê phán, chọn lọc những hạt nhân hợp lý, khắc phục hạn chế trong các học  thuyết mỹ học từ cổ đại đến nay thì Mỹ học Mác ­ Lênin ngày càng tiếp cận đầy đủ, sâu sắc hơn đời sống  thẩm mỹ của nhân loại. ­ Được xây dựng trên 3 nguyên tắc: + Tính khoa học + Tính sáng tạo + Tính thực tiễn ­ Nguyên lý mỹ học không bất biến mà luôn luôn vận động cùng đời sống thực tiễn. ­­> Mỹ học Mác ­ Lênin được coi là nền tảng lý luận để các Đảng CM trên thế giới xây dựng các đường lối  CM của mình. b. Bình diện cá nhân: ­ Mỹ học có vai trò quan trọng đối với đời sống từng cá nhân. ­ Mỹ học còn được coi như khối lượng tri thức cơ bản đối với những người cán bộ văn hoá.  II/ Bản chất của quan hệ thẩm mỹ (QHTM)? 1. QHTM là 1 loại quan hệ xã hội: a. Con người có nhiều loại quan hệ với môi trường sống: ­ Quan hệ lý hoá: Con người ­ con vật ­ đồ vật ­ Quan hệ sinh học: Con người ­ con vật ­ Quan hệ xã hội: Là quan hệ bản chất, chỉ con người mới có ­­> Con người có thể đứng ở nhiều góc độ khác nhau để tiếp cận đối tượng. Đối tượng có thể chứa  đựng nhiều thuộc tính và phẩm chất khác nhau. Tuỳ theo việc con người đứng ở góc độ nào, quan tâm  đến thuộc tính, phẩm chất nào của đối tượng thì sẽ xuất hiện loại quan hệ xã hội đó. ­ QHTM chỉ xuất hiện khi con người đứng ở góc độ chủ thể thẩm mỹ và quan tâm đến đối tượng như 
  3. một khách thể thẩm mỹ. ­­> Con người có nhiều loại quan hệ xã hội: Quan hệ chính trị, quan hệ đạo đức, quan hệ kinh tế, quan hệ  khoa học… QHTM chỉ là 1 trong nhiều loại quan hệ xã hội. ­­> QHTM được coi là quan hệ xã hội bởi nó đảm bảo 2 yêu cầu mà bất kỳ 1 quan hệ xã hội nào cũng  phải có: • Loại quan hệ chỉ xuất hiện trong xã hội loài người mà không có ở bày đàn vật. • Nó chỉ do con người xã hội tiến hành (Con người xã hội là con người sinh ra, trưởng thành trong xã  hội) ­­> Hêghen: “Con người đều tự sinh ra mình lần thứ 2” 2. QHTM là 1 loại quan hệ đánh giá: ­ Là loại quan hệ mà ở đó con người tiến hành đánh giá đối tượng nhằm phát hiện ra giá trị đối tượng với  chính bản thân mình. a. Mối tương quan giữa sự đánh giá và giá trị: ­ Trong lịch sử đã từng có 2 trường phái đối lập nhau về mối quan hệ này: + Thuyết chủ quan: Khẳng định giá trị là thuần tuý chủ quan, là kết quả mà chủ thể đánh giá ban tặng  cho đối tượng (Giá trị không phải ở trong đối tượng mà là chủ thể đưa vào đối tượng). ­­> Canter: “Vẻ đẹp không nằm trên đôi má hồng người thiếu nữ mà trong đôi mắt kẻ si tình”. + Thuyết khách quan: Trong các sự vật, hiện tượng thường có cái gọi là “thuộc tính thẩm mỹ khách  quan” được phản ánh trong ý thức con người. Thuộc tính này đồng nhất với thuộc tính thẩm mỹ, hoá học,  lý học… của đối tượng, có trước con người và độc lập với ý thức con người. ­­> Cả 2 thuyết trên đều bất cập: • Thuyết chủ quan: Về mặt hình thức: có vẻ như hợp lý (Sau khi chủ thể đánh giá thì giá trị của đối tượng xuất hiện). Về bản chất: Giá trị có cơ sở khách quan. • Thuyết khách quan: Đúng: Giá trị bắt nguồn từ những thuộc tính khách quan (lý học, hoá học, hình học…). Nhưng giá trị không phải những thuộc tính đó, giá trị không tồn tại độc lập với người đánh giá. Giá trị  tuy là của sự vật nhưng là đối với người đánh giá. ­ Quan niệm của chúng ta: + Chủ thể loài không phải con số cộng giản đơn của những chủ thể cá nhân mà là kết quả tổng hợp,  sàng lọc qua thực tiễn của những chủ thể cá nhân từ thế hệ này sang thế hệ khác. + Những chủ thể cá nhân khi tiến hành đánh giá 1 đối tượng là tìm cách phát hiện ra giá trị của đối  tượng với chính bản thân mình. Nói cách khác: Nói tới giá trị là đòi hỏi phải thiết lập quan hệ. ­­> Giá trị tiềm ẩn bên trong đối tượng là kết quả tạo lập của chủ thể loài. Chủ thể cá nhân phát hiện ra  giá trị có thể đúng có thể sai. Chủ thể cá nhân đứng cùng tuyến, cùng hướng với chủ thể loài và ít  nhiều tích luỹ được kinh nghiệm. ­ Khi không có sự đánh giá của chủ thể cá nhân, đối tượng vẫn có giá trị tiềm ẩn vì được chủ thể loài  tạo lập nhưng đó là giá trị lý thuyết trừu tượng. Chỉ khi nào chủ thể cá nhân phát hiện ra thì đối tượng  mới có giá trị cụ thể thực tiễn. ­ Giá trị vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan: + Tính khách quan: • Bắt nguồn từ thuộc tính khách quan của đối tượng, sự tồn tại của đối tượng với các bộ phận, thành tố  khác nhau cũng như mối liên hệ giữa chúng có tính khách quan.
  4. • Mối liên hệ giữa sự vật được đánh giá với môi trường xung quanh cũng như hoạt động bản thân của  chủ thể cũng mang tính khách quan. • Giá trị được kiểm nghiệm trong thực tế khách quan. + Tính chủ quan: Tuy là giá trị của sự vật nhưng là giá trị do con người đánh giá. ­ Sự tồn tại vật chất của hiện tượng mang tính tuyệt đối, sự tồn tại tinh thần của giá trị trong hiện  tượng ấy mang tính tương đối trong các không gian, thời gian khác nhau ở các chủ thể khác nhau. */ Nhận xét: ­ Các quan hệ đánh giá của con người hết sức phong phú, đa dạng, tương ứng với mức độ phong phú, đa   dạng trong năng lực tinh thần của chủ thể. ­ Tuy đa dạng nhưng các loại đánh giá này vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chúng đều hình thành   trên nền tảng tồn tại xã hội nhất định từ lợi ích chung của 1 chủ thể. ­­> Giữa chúng có sự thống nhất với nhau về phương hướng tư tưởng. ­ Mỗi loại hình đánh giá đều nhằm vào 1 mặt của đối tượng nên các loại giá trị xã hội ấy luôn có tính độc   lập tương đối. Chúng bình đẳng, không hoà tan cũng như không thay thế nhau. Tuỳ theo từng trường hợp,   từng đối tượng cụ thể mà con người chủ yếu sử dụng trục đánh giá này hay trục đánh giá khác. ­ Các loại quan hệ đánh giá này có quan hệ qua lại, thậm chú chuyển hoá lẫn nhau. b. Giá trị thẩm mỹ: ­ Là giá trị được bộc lộ khi chủ thể tiến hành đánh giá thẩm mỹ đối với đối tượng. Trục giá trị thẩm mỹ:  Đẹp ­ xấu. ­ 6 đặc điểm của giá trị thẩm mỹ: + Là một loại giá trị xã hội như mọi loại giá trị xã hội khác: Chủ thể đánh giá dựa trên lợi ích xã hội của  chính mình. + Là một loại giá trị tinh thần cảm tính: Nếu các giá trị khác chỉ là giá trị một mặt thì giá trị tinh thần có  nhiều mặt. Mặt thẩm mỹ chỉ là một mặt trong nhiều mặt của sự vật nhưng lại là mặt có tính chất đại diện. => QHTM chỉ là 1 loại quan hệ nhưng lại có tính chất bao quát. Giá trị thẩm mỹ chỉ là 1 loại giá trị nhưng  lại có tính chất tiêu biểu. + Nếu các loại giá trị khác chỉ quan tâm đến nội dung (giá trị khoa học, giá trị đạo đức…) thì giá trị thẩm  mỹ là loại giá trị duy nhất quan tâm đến hình thức. + Nếu các loại giá trị xã hội khác được phát hiện khi chủ thể đánh giá hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đối  tượng thì giá trị thẩm mỹ là loại giá trị chỉ được phơi bày khi chủ thể tiến hành đánh giá trực tiếp đối   tượng. + Nếu các loại giá trị xã hội khác thường mang tính khách quan thì giá trị thẩm mỹ in đậm dấu ấn chủ   quan, giá trị thẩm mỹ có thể được coi là giá trị kép (giá trị thẩm mỹ của đối tượng theo sự đánh giá của  chủ thể, tình cảm của chủ thể với đối tượng). + Giá trị nghệ thuật thực chất là 1 dạng thức của 1 giá trị thẩm mỹ và nó được bộc lộ khi đối tượng đánh  giá là tác phẩm nghệ thuật. Nhưng mặt khác, giá trị nghệ thuật cũng là 1 giá trị thẩm mỹ đặc biệt, đó là sự  phản ánh những giá trị thẩm mỹ trong đời sống mà trong triết học gọi là tương quan giữa cái phản ánh và  cái được phản ánh. => Nói cách khác, giá trị nghệ thuật là các giá trị thẩm mỹ trong đời sống đã được phản ánh, được kết tinh   lại, được nâng cao lên, được hoàn thiện thêm. 3. QHTM là loại quan hệ luôn tôn trọng nguyên tắc hài hoà, toàn vẹn, biểu cảm của thế giới: ­ Thế giới luôn tồn tại trong nguyên tắc hài hoà, toàn vẹn, biểu cảm mà các quan hệ khác (đặc biệt là  quan hệ khoa học) luôn chia tách nó ra thành các giá trị biệt lập, giả tạo.
  5. ­ Biểu hiện: + Lĩnh vực hoạt động thẩm mỹ rất rộng (lao động, học tập, giao tiếp cộng đồng, sinh hoạt cá nhân). + Chủ thể của QHTM rất đa dạng: con người ở mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, mọi nghề nghiệp. + Đối tượng của QHTM luôn luôn mang tính toàn vẹn hài hoà cũng như bản thân đối tượng đa dạng nhiều  chiều như cuộc sống. + Thế giới luôn luôn tồn tại những mặt đối lập: cao ­ thấp, mỏng ­ dày, nặng ­ nhẹ… Vì thế hoạt động  thẩm mỹ nhận thức, bình giá, cải biến tránh được sự đơn điệu, khuôn sáo, mở rộng sự phát triển thiên  hướng cá nhân. => Chính vì thế QHTM là loại quan hệ tự do nhất. */ Kết luận: QHTM là 1 loại quan hệ xã hội, 1 loại quan hệ đánh giá của con người được hình thành trong quá trình  hoạt động thực tiễn nhân hoá tự nhiên. Đây là loại hoạt động đồng hoá thế giới về mặt thẩm mỹ, tôn trọng  tính hài hoà, biểu cảm của thế giới, biểu hiện sự phát triển tự do các năng lực biểu cảm.  III/ Tính chất cơ bản của QHTM? 1. Tính xã hội: Phản ánh nội dung, bản chất của QHTM ­ QHTM là 1 loại quan hệ xã hội. Giống như quan hệ chính trị, quan hệ đạo đức, quan hệ lợi ích… chỉ  xuất hiện trong xã hội loài người và do con người sáng lập. => QHTM giống các quan hệ xã hội khác. ­ Biểuhiện: + Tính cộng đồng của QHTM: • Tính giai cấp của QHTM: Trong xã hội có phân chia giai cấp thì QHTM có tính giai cấp, lợi ích của mỗi  giai cấp chi phối QHTM của mỗi giai cấp => ảnh hưởng tới dòng nghệ thuật. ­­> Giữa 2 dòng nghệ thuật luôn có sự đan xen, tác động qua lại lẫn nhau vì họ sống đan xen với nhau,  ảnh hưởng nhau. • Tính dân tộc của QHTM: Con người thuộc các dân tộc khác nhau, các thời đại khác nhau cũng có thái  độ thẩm mỹ khác nhau trước cùng 1 sự vật, hiện tượng. • Tính thời đại: Có điều kiện sống chúng nên có nhu cầu lợi ích chung và quan niệm thẩm mỹ gần gũi với  nhau. + Tính cá nhân của QHTM: tính cá nhân là sự biểu hiện cụ thể độc đáo của tính xã hội, nhờ tính cá nhân  này mà cuộc sống muôn hình muôn vẻ. + Quá trình XHH các giác quan sinh học (từ các giác quan sinh học thành các giác quan xã hội thẩm  mỹ). 2. Tính chất cảm tính: ­ Đặc trưng của QHTM: sự khác biệt giữa QHTM và các quan hệ xã hội khác. a. Vai trò của các giác quan: ­ Thị giác, thính giác: Thu nhận được nhiều nhất thế giới cảm tính bên ngoài. Nếu như các giác quan  khác (vị giác, khứu giác, xúc giác) buộc phải tiếp cận rất gần đối tượng thường gây ra những cảm xúc vụ  lợi thì thính giác, thị giác vẫn có thể nắm bắt đối tượng mà không cần phải đến quá gần. ­ Độ tinh, độ thính sinh học và độ tinh, độ thính tinh thần của các giác quan là rất quan trọng, có thể  nói “cửa mở càng rộng sức gió càng nhiều”. b. Mối quan hệ giữa cảm tính và lý tính:
  6. ­ Lý tính được tích đọng lại trong cảm tính. 3. Tính chất tình cảm: Nói đến ưu thế, sức mạnh của QHTM. ­ Do phương thức cảm tính của QHTM, do đặc trưng của đối tượng được đánh giá thẩm mỹ. ­ Ở các quan hệ xã hội khác, yếu tố tình cảm thường bị loại trừ hoặc chỉ có trong quá trình quan hệ chứ  không có ở trong kết quả quan hệ (giá trị). QHTM tình cảm không chỉ có mặt trong quá trình quan hệ mà  còn in đậm dấu ấn trong kết quả quan hệ. ­ Lý trí và tình cảm là 2 mặt đối lặp nhau nhưng thống nhất trong tâm hồn con người => khó tìm kiếm tình cảm phi lý trí. IV/ Điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển của QHTM? 1. Điều kiện của chủ thể thẩm mỹ: ­ Con người xã hội: Con người có ý thức xã hội, con người có ý thức thẩm mỹ, có ý thức thẩm mỹ chuyên  biệt về loại đối tượng mà mình thiết lập quan hệ. ­ Con người xã hội có điều kiện tâm sinh lý cần thiết. Con người ở trạng thái tâm lý vô tư, không vụ lợi trực  tiếp và thuần tuý. ­ Con người xã hội phải trực tiếp đánh giá đối tượng về mặt thẩm mỹ. 2. Điều kiện của khách thể thẩm mỹ: a. Sự vật, hiện tượng cụ thể toàn vẹn mà giác quan con người có thể cảm nhận. b. Sự vật, hiện tượng cụ thể toàn vẹn có sức hấp dẫn thẩm mỹ, tạo nên bởi: + Kết cấu hình thức ­ nội dung đặc biệt (cấu trúc nội tại). + Tương quan giữa sự vật với môi trường mà nó tồn tại (cấu trúc ngoại tại). + Tương hợp giữa đối tượng được đánh giá với nhu cầu của chủ thể 3. Điều kiện để hình thành và phát triển của QHTM: a. Cùng 1 lúc con người có đủ điều kiện là chủ thể thẩm mỹ gặp gỡ trực tiếp với sự vật, hiện tượng đủ điều  kiện là khách thể thẩm mỹ. b. Để duy trì và phát triển QHTM cần những điều kiện bên trong và bên ngoài: + Sự hấp dẫn không ngừng của khách thể. + Năng lực tinh thần của chủ thể không ngừng phát triển.  V/ Sự phân loại các hiện tượng thẩm mỹ? ­ Hiện tượng thẩm mỹ: Là các hiện tượng khách quan trong đời sống nhưng đang được chủ thể nào đó  quan tâm về mặt thẩm mỹ, đang được coi là đối tượng trong một mối quan hệ thẩm mỹ xác định. 1. Chia làm 2 nhóm lớn: ­ Hiện tượng thẩm mỹ tích cực (Đẹp) và các hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực (Xấu). ­­> Có nhiều loài, loại nên nó có biên độ sai lệch trong đánh giá thẩm mỹ. 2. Các nhóm nhỏ hiện tượng thẩm mỹ được khái quát bởi: a. Các phạm trù mỹ học cơ bản: 6 phạm trù cơ bản ­ Tuyến tích cực: 3 phạm trù + Cái đẹp + Cái cao cả + Cái bi ­ Tuyến tiêu cực: 3 phạm trù + Cái xấu + Cái thấp hèn
  7. + Cái hài b. Các phạm trù mỹ học vệ tinh (phái sinh): ­ Là các sắc thái khác nhau của phạm trù cơ bản VD: Đẹp: Duyên, Xinh, Hài hoà, Trật tự c. Các phạm trù giáp ranh: ­ Nằm giữa phạm trù nọ và phạm trù kia: VD: Cái bi hùng: Cái bi, Cái hùng (Cái cao cả) ­ Nằm đan xen giữa các tuyến phạm trù đối lập: VD: Cái bi hài: Cái bi, Cái hài VI/ Bản chất của cái đẹp? 1. Quan điểm của 1 số trường phái mỹ học: a. Trường phái duy tâm khách quan: ­ Họ quan niệm rằng cái đẹp không có cơ sở khách quan mà nó chỉ tồn tại trong thế giới thần linh, của  các đấng siêu nhiên ­ Platong: “Cái đẹp là 1 ý niệm bất biến” ­ theo quan điểm duy tâm siêu hình. ­­> Cái đẹp không có trong thế giới vật thể, nó là 1 ý niệm khác biệt. ­ Hêghen: “Sự thể hiện đầy đủ của ý niệm tuyệt đối trong 1 sinh thể riêng lẻ là ĐẸP” ­ theo quan điểm duy  tâm biện chứng. ­­> Thừa nhận có cái đẹp trong thế giới vật thể nhưng lại là kết quả rọi chiếu của ý niệm tuyệt đối. => Cái ưu tú nhất trong mỗi loài sẽ được coi là đẹp */ Nhược điểm: Đây là 1 định nghĩa quá rộng bởi không phải cái ưu tú nhất trong loài nào cũng là cái  đẹp. b. Trường phái duy tâm chủ quan: ­ Canter: “Cái đẹp không nằm trên đôi má hồng người thiếu nữ mà trong đôi mắt kẻ si tình”. “Không có khoa học về cái đẹp mà chỉ có khoa học về sự phán đoán cái đẹp.” ­­> Phủ nhận sự tồn tại khách quan của cái đẹp. Họ cho rằng đó là kết quả rọi chiếu của ý thức chủ quan. c. Trường phái duy vật trước Mác: ­ Họ đều cố gắng tìm kiếm ở cơ sở khách quan nhưng phần lớn họ đều rơi vào quy luật khách quan máy  móc, siêu hình. ­ Phái “vị tự nhiên”: quan tâm đến cấu trúc tự nhiên của đối tượng, đồng nhất “cái đẹp” với “các thuộc tính  tự nhiên” của đối tượng. + Tiêu chí khách quan của cái đẹp: • Tính tỷ lệ • Sự trật tự • Sự hài hoà • Tính mực thước. + Quan niệm cổ đại: Con người là thước đo cái đẹp. (Aristot) + Quan niệm trung đại: Chúa là thước đo cái đẹp. + Quan niệm thời kỳ Phục Hưng: quay trở lại lý luận của Aristot. ­ Phái “vị xã hội”: quan tâm đến lợi ích xã hội của đối tượng, đồng nhất cái đẹp với cái mang lại lợi ích XH. ­­> Tsécnưsépxki: “Cái đẹp là cuộc sống, một cuộc sống đúng như quan niệm của chúng ta”. 2. Quan điểm của Mỹ học Mác ­ Lênin: a. Cơ sở lý luân:
  8. ­ Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử người ta quan niệm rằng: “Cái đẹp là do  con người tạo ra và phát hiện ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, nhân hoá tự nhiên vì vậy bản chất cái  đẹp không tách rời các bản chất con người, bản chất của hoạt động nhân hoá tự nhiên”. ­­> Cái đẹp là kết quả của sự giao hoà giữa cái bên trong và bên ngoài, giữa cái dợp quy luật và hợp mục  đích, giữa tự nhiên và nhân tạo. b. Điều kiện của hiện tượng thẩm mỹ ĐẸP: ­ Đủ điều kiện của 1 hiện tượng thẩm mỹ thông thường (hiện tượng cụ thể ­ toàn vẹn đang được chủ thể  quan tâm về mặt thẩm mỹ). ­ Mang giá trị thẩm mỹ tích cực (cấu trúc hình thức ­ nội dung): + Hình thức hài hoà: • Nội tại: Giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành. • Ngoại tại: Giữa hiện tượng với môi trường mà nó tồn tại • Hình thức hài hoà với nội dung tích cực mà nó hàm chứa. + Nội dung tích cực: • Thoả mãn các nhu cầu thẩm mỹ của chủ thể đánh giá. • Khớp hợp với chuẩn mực, lý tưởng tiên tiến của xã hội. • Mang lại khoái cảm vô tư, trong sáng của con người. VII/ Cái đẹp là phạm trù giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các phạm trù Mỹ học? Được thể hiện qua quan hệ của cái đẹp và 1 số mối tương quan của cái đẹp. 1. Cái đẹp và cái có ích: ­ Theo quan điểm phương Đông: “Cái đẹp là cái có ích” ­­> Giống quan điểm Xôcrát (phương Tây). + Ưu điểm của nhận định đó: Tính thực tiễn. + Hạn chế: Vụ lợi và quá trực tiếp, thô thiển. ­ Canter: “Cái đẹp là cái không vụ lợi”. ­­> Giữa cái đẹp và cái có ích không đồng nhất, từ đó ông dẫn ra nghệ thuật chỉ là nghệ thuật tự nó, cứ  dính dáng đến một chút tính vụ lợi không còn là nghệ thuật nữa + Ưu điểm: Nói lên được cái thanh cao của cái đẹp. + Hạn chế: Thiếu tính thực tiễn. •Cái mang lại lợi ích tinh thần • Cái mang lại lợi ích vật chất => Cái có ích => Từ đó nhận xét: Cái đẹp nào cũng là cái có ích và trước hết là lợi ích tinh thần. ­ Sự gắn bó giữa cái đẹp và cái có ích là sự gắn bó tuyệt đối vô điều kiện tuy nhiên không phải cái đẹp  nào cũng mang lại lợi ích vật chất. ­­> Đó là sự gắn bó tương đối và có điều kiện nghĩa là nó tuỳ vào từng trường hợp. ­ Nhưng ngược lại không phải cái có ích nào cũng là cái đẹp. */ Điều kiện để trở thành cái đẹp của 1 cái có ích: ­ Phải là sự vật cụ thể (có thể sờ nắm được) => Toàn vẹn ­ Phải mang lại lợi ích tinh thần ­ Phải có cấu trúc hình thức hài hoà, hấp dẫn. 2. Cái đẹp ­ cái thật ­ cái tốt: ­ Cái đẹp (giá trị thẩm mỹ) => CHÂN
  9. ­ Cái thật (giá trị khoa học) => THIỆN ­ Cái tốt (giá trị đạo đức) => MỸ ­­> Đó là giá trị xã hội tích cực, đều là những cái phù hợp với lợi ích của con người, là những giá trị trường  tồn mà con người luôn mong muốn. */ Lưu ý: ­ Không thể đồng nhất chúng là vì chúng là 3 loại giá trị khác nhau. ­ Không phải cái thật cái tốt nào cũng là cái đẹp. ­ Cái thật, cái tốt muốn trở thành cái đẹp thì phải có cấu trúc toàn vẹn và có hình thức hài hoà, hấp dẫn. 3. Cái đẹp ­ vẻ đẹp: ­ Cái đẹp là nói tới cả 1 hình thức, cấu trúc nội dung. Còn vẻ đẹp chỉ phản ánh cái bên ngoài ­ hình thức. 4. Cái đẹp ­ cái gây khoái cảm: ­ Cái đẹp nào cũng là cái gây khoái cảm xong không phải cái gây khoái cảm nào cũng là cái đẹp. ­ Cái đẹp phải là cái gây khoái cảm “nhân tính”.  VIII/ Bản chất, biểu hiện của cái cao cả, cái hùng? 1. Bản chất: a. Quan niệm của 1 số trường phái mỹ học: ­ Theo Canter: Cái cao cả không phải là thuộc tính khách quan của tự nhiên mà là biểu tượng hình thành  từ phán đoán của chủ thể, được chủ thể gán cho đối tượng. => Cái đẹp gắn với chất lượng, còn cái cao cả gắn với số lượng. ­ Theo Hêghen, cái cao cả là ý niệm về sự vô hạn, cái cao cả xuất hiện ở giai đoạn ý niệm lấn át hình  tượng, nội dung đè nén hình thức. => Quan điểm duy vật khách quan. ­ Tsécnưsépxki: “Cao cả là đối tượng chứ không phải tư tưởng” => Ông đề cao mặt số lượng chư skhông chú ý đến mặt chất lượng. Cái cao cả là hiện tượng thẩm mỹ tồn  tại khách quan, có trong tự nhiên, trong xã hội, trong nghệ thuật. b. Quan điểm của Mỹ học Mác ­ Lênin: */ Tương quan giữa “cái cao cả” và “cái đẹp”: + Giống nhau: Là hiện tượng thẩm mỹ có mặt trong nhiều hiện tượng cuộc sống, là những hiện tượng  thẩm mỹ tích cực phù hợp với quy luật tiến bộ xã hội. Nó thể hiện được cái khát vọng lý tưởng của con  người ở mức độ khác nhau. ­­> Khẳng định: Cái cao cả là cái đẹp => Cùng bản chất. Nhưng không phải cái đẹp nào cũng là cái cao  cả + Khác nhau: • Cái cao cả là cái đẹp vượt độ, trên mức bình thường. Nếu như ở cái đẹp, mọi thứ đều vừa phải hài hoà  thì ở cái cao cả, sự hài hoà ấy bị phá vỡ. • Quy mô vật thể khác nhau: Cái đẹp có cấu trúc hình thức bình thường còn cái cao cả mọi thứ đều trên  mức bình thường, quy mô to lớn, kỳ vĩ hoặc khiến ta liên tưởng tới cái kỳ vĩ. ­­> Phản ánh vô tận, vĩnh cửu của thế giới cũng như cái sức mạnh phi thường của con người. • Ý nghĩa xã hội của cái đẹp vừa phải dễ thấy và dễ thấy hết trong khi ý nghĩa xã hội của cái cao cả rất  lớn có tầm ảnh hưởng quan trọng không chỉ đối với cá nhân mà đối với cả cộng đồng, lịch sử và nhân loại.  Hơn nữa, ý nghĩa của cái cao cả thường không dễ thấy và không dễ thấy hết. • Trước cái đẹp, con người thường có cảm xúc hài lòng, dễ chịu, nhưng trước cái cao cả, cảm xúc của  con người phức tạp. Có thể chia thành 2 giai đoạn cảm xúc:
  10. Cảm xúc choáng ngợp, bối rối (thực chất là cảm xúc tiêu cực), Canter gọi đó là cảm xúc đề kháng  nhất thời. Cảm xúc ngưỡng mộ, thán phục. */ Cái hùng: ­ Là 1 dạng thức đặc biệt của cái cao cả, phạm trù vệ tinh của cái cao cả. ­ Cái hùng chỉ giới hạn trong các hành vi của con người. ­­> Bản chất của cái cao cả, cái hùng là 1 phạm trù mỹ học cơ bản dùng để khái quát những hiện tượng  có quy mô vật thể lớn, biểu hiện sức mạnh phi thường tạo nên ở chủ thể cảm xúc ngưỡng mộ tự hào sau  khi đã vượt qua được trạng thái bối rối ban đầu do chưa làm chủ đối tượng, từ đó các hiện tượng này có  khả năng khơi dậy những năng lực bản chất người, khích lệ họ vượt qua những khó khăn, thử thách để  thực hiện ý tưởng thực tiễn cao đẹp. 2. Biểu hiện: a. Trong cuộc sống: ­ Tuy không phổ biến như cái đẹp nhưng cái cao cả, cái hùng là những hiện tượng ta thường gặp. Tất  nhiên nó thường đậm đặc hơn ở trong xã hội nhiều khó khăn, thử thách. b. Trong nghệ thuật: ­ Các nghệ sĩ chân chính luôn có ý thức trong việc phản ánh loại hiện tượng này. ­ Họ coi đây là 1 trách nhiệm xã hội.  IX/ Bản chất, biểu hiện của cái bi? Trả lời: 1. Bản chất: ­ Cái bi là hiện tượng khách quan trong cuộc sống và được phản ánh trong các tác phẩm nghệ thuật, đặc  biệt là bi kịch. a. Quan niệm của 1 số trường phái Mỹ học: ­ Theo Aristot, cái bi luôn thuộc về người tốt, là nhữn hành động nghiêm túc và cao thượng. ­­> Nhiệm vụ của bi kịch: làm thanh lọc cảm xúc bằng cách khêu gợi sự xót thương và khủng khiếp. ­ Theo Hêghen, cái bi nảy sinh do con người bằng các hành động tự do của mình đã làm rối loạn quá  trình vận động bình thường của tự nhiên. ­­> Đây không phải sự huỷ diệt của cái đẹp, cái cao cả mà là sự trả giá cho sai lầm và là sự thắng lợi của  lý tính, của ý niệm phổ biến. ­ Theo Tsécnưsépxki, “cái bi là cái khủng khiếp trong đời người” ­­> Nhấn mạnh tính ngẫu nhiên của cái bi. b. Quan điểm của Mác ­ Ăngghen: ­ Mác ­ Ăngghen gắn cái bi với mâu thuẫn xung đột có tính lịch sử. ­ Ăngghen khẳng định nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh cái bi là “sự xung đột giữa tính tất yếu về mặt   lịch sử và tình trạng không thể thực hiện được điều đó trong thực tiễn”. ­­> Cái bi bao giờ cũng thuộc về cái đẹp ­ cái tất yếu sẽ chiến thắng nhưng vì còn non yếu nên đã bị tổn  thất. ­ Mác: “Sự ngu dốt là 1 con quỷ sẽ gây ra nhiều tấn bi kịch” ­­> Những giới hạn trong nhận thức cũng là nguyên nhân cơ bản làm xuất hiện cái bi. => Cái bi có mối quan hệ bản chất với cái đẹp, cái cao cả, cái hùng, vì chúng đều khái quát những hiện  tượng thẩm mỹ tích cực, phù hợp với lý tưởng tiến bộ. => Khái niệm: Cái bi là 1 phạm trù mỹ học cơ bản dùng để khái quát những hiện tượng thẩm mỹ tích cực 
  11. của con người bị tạm thời thất bại trong cuộc đấu tranh kiên cường để khẳng định lý tưởng tốt đẹp. Cái bi  gợi nên ở chủ thể sự đồng cảm, thương xót, nuối tiếc. 2. Biểu hiện: a. Trong cuộc sống: ­ Là hiện tượng thẩm mỹ thường gặp trong cuộc sống vì nguyên nhân của hiện tượng này rất phổ biến.  Trong quá trình làm chủ tự nhiên và xã hội, con người luôn gặp những giới hạn của sự nhận thức, dẫn tới  các hành vi sai lầm và phải trả giá. ­ Đời sống luôn vận động theo quá trình thay mới, bỏ cũ, chính vì thế cái bi vẫn còn là hiện tượng tồn tại  lâu dài trong cuộc sống. ­ Cái bi phổ biến hơn khi trình độ sản xuất xã hội cũng như trình độ dân trí thấp kém đặc biệt trong các xã  hội có áp bức, bóc lột. ­­> Cần không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt của con người và đấu tranh tiêu diệt mọi cơ sở tồn tại  của 1 xã hội bất công, tàn bạo để làm giảm bớt cái bi trong XH. b. Trong nghệ thuật: ­ Đây là đối tượng được đặc biệt quan tâm phản ánh của các loại hình nghệ thuật. Tính mâu thuẫn, xung  đột trong cái bi đã dẫn tới việc xuất hiện thể loại bi kịch. ­ Các nghệ sĩ chân chính luôn có ý thức trong việc phản ánh loại hiện tượng này. Họ muốn nắm bắt tất cả  những tín hiệu đau thương của con người, truyền đến con người nhằm tìm kiếm sự sẻ chia, đồng cảm. ­­> Đều cảm thấy đồng cảm, thương xót, tiếc nuối cho cái đẹp bị huỷ hoại. ­ Có thể chia thành 2 khuynh hướng: Bi quan và lạc quan + Bi quan: Thường xuất hiện trong các tác phẩm thuộc dòng hiện thực phê phán (Số phận chị Dậu, Chí  Phèo…). ­­> Trong nghệ thuật tư sản hiện đại, người ta thi vị hoá cái bi, đề cao cái chết và sự tuyệt vọng của con  người. + Lạc quan: Xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật dân gian. Kết thúc có hậu, tốt đẹp cho các số phận chịu  nhiều đau khổ đc lặp lại trong hầu hết các chuyện cổ tích (Cô Tấm, Thạch Sanh) ­­> Đây là cách lý giải lạc quan nhưng mang nhiều ảo tưởng vì không xuất phát từ thực tế mà bằng mong  ước tốt lành.  X/ Bản chất, biểu hiện của cái hài? Trả lời: 1. Bản chất: ­ Cặp phạm trù bi ­ hài đều có 1 đặc điểm chung là đều khái quát những hiện tượng thẩm mỹ khách quan  có chứa đựng xung đột mâu thuẫn. ­ Cái hài chỉ thuộc về cái xấu (các hành vi của con người có nguỵ trang) nhưng đôi khi cái hài thuộc về cái  mới khi cái mới vẫn còn mang theo những dấu vết của cái cũ mà nó không nhận ra được điều đó. ­ Cái hài chứa đựng mâu thuẫn nhưng ở trong nó chứa đựng 2 loại mâu thuẫn: + Mâu thuẫn giữa nó với lý tưởng tích cực (bản chất xấu). + Mâu thuẫn bên trong nó (có sự nguỵ trang). ­­> Lời nói >   
  12. ­ Tiếng cười: Bản chất là cái xấu, mang nghĩa tiêu cực. ­ Cái gây cười: Tiếng cười phản ứng chủ quan của con người trước những hiện tượng khách quan. ­ Cái hài: Là bộ phận của cái gây cười, là hiện tượng khách quan. ­­> Định nghĩa: Cái hài là một phạm trù mỹ học cơ bản dùng để khái quát những hiện tượng thẩm mỹ là  các hành vi của con người mang bản chất tiêu cực nhưng được nguỵ trang bằng vỏ của cái đẹp. Khi mâu  thuẫn bị phát hiện đột ngột, hiện tượng này sẽ tạo ra ở chủ thể tiếng cười có tính phê phán. Tiếng cười  của chủ thể là khẳng định sự thắng thế của cái đẹp đối với cái xấu. 2. Biểu hiện: a. Trong cuộc sống: ­ Nguyên nhân: Trong quá trình thay mới đổi cũ, cái cũ không tự nguyện rời bỏ vị trí của nó, nó phải tìm  mọi cách để kéo dài sự tồn tại bằng cách lấy vỏ của cái đẹp để che đậy cái khác (nguỵ trang). => Mác gọi đây là hành động triệt để của lịch sử: “Hài kịch là để nhân loại rời bỏ quá khứ 1 cách vui vẻ”. b. Trong nghệ thuật: ­ Các nghệ sĩ chân chính thường rất quan tâm đến mảng đề tài HÀI. Hầu như tất cả các loại hình nghệ  thuật đều có khả năng phản ánh cái hài (trừ kiến trúc), thậm chí có những thể loại chuyên phản ánh cái  hài. ­Mục đích: + Cái hài đóng vai trò chôn vùi cái xấu xa, lỗi thời => Người đào huyệt. + Đóng vai trò bà đã cho sự ra đời cái mới. ­­> Nghệ thuật phản ánh cái hài thường phát triển tương ứng với nhu cầu và trình độ dân chủ hoá trong  XH. Mác nói: “Hài kịch là hoa, là quả của XH văn minh”. ­ Để đạt được hiệu quả gây ra tiếng cười, các nghệ sĩ có thể sử dụng các thủ pháp: cường điệu, phóng  đại, nói ngược… XI/Thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật? Trả lời: ­ Thị hiếu thẩm mỹ: + Là năng lực lựa chọn đánh giá bằng cảm xúc của con người trước các hiện tượng thẩm mỹ. Trong sự lựa  chọn đánh giá này, các yếu tố lý tính được tích đọng trong tình cảm ­ cảm xúc, các yếu tố xã hội được  thẩm thấu trong sự hứng thú thẩm mỹ cá nhân. Có nhiều loại thị hiếu, mỗi loại là sự đánh giá của con  người về đối tượng (chính trị, khoa học). + Có 2 quan niệm đối lập nhau về vấn đề này: • Không ai tranh cãi về thị hiếu: tuyệt đối hoá yếu tố cá nhân của thị hiếu, phủ nhận sự can thiệp về phía  xã hội. • Đòi hỏi xã hội hoá hoàn toàn thị hiếu, không chấp nhận sự khác biệt của sở thích cá nhân, đòi hỏi mọi  người phải giống nhau. ­­> Cả 2 quan niệm này đều cực đoan: Không đảm bảo xã hội ổn định bền vững, xã hội trở nên đơn điệu,  nhàm chán, không phát triển. ­ Thị hiếu nghệ thuật: + Là năng lực lựa chọn, đánh giá bằng cảm xúc con người trước tác phẩm nghệ thuật. Thị hiếu nghệ thuật  là 1 hiện tượng thẩm mỹ đặc biệt mang đầy đủ đặc trưng của thị hiếu nói chung nhưng tác phẩm nghệ  thuật là 1 thị hiếu đặc thù. Điều kiện để có thị hiếu tốt là con người phải thường xuyên tiếp xúc với nghệ  thuật, năng lực đánh giá phải được rèn luyện. + Mác nói: “Muốn thưởng thức nghệ thuật trước hết phải được giáo dục về nghệ thuật”
  13. ­­> Cần am hiểu hoàn cảnh xã hội, lịch sử mà tác giả, tác phẩm ra đời để có được quan điểm lịch sử cụ  thể khi đánh giá, phải am hiểu trách nhiệm xã hội của nghệ sĩ, tác phẩm nghệ thuật.  XII/ Bản chất và vai trò của lý tưởng thẩm mỹ? Trả lời: 1. Bản chất: ­ Lý tưởng thẩm mỹ là giai đoạn phát triển cao nhất của quá trình nhận thức thẩm mỹ ­ Là hình thức biểu hiện tập trung nhất ý thức thẩm mỹ của chủ thể. ­ Là cái chưa có, cái cần có, cái người ta mong muốn có. ­ Là sự phản ánh vượt trước, thể hiện khát vọng của con người trong cuộc sống. ­ Lý tưởng rất gần với ước mơ, nó đều nẩy sinh trên mâu thuẫn cuộc sống. Tuy nhiên, lý tưởng và ước mơ  không hoàn toàn trùng khớp với nhau. Để có được ước mơ hình thành trên cơ sở có tính khái quát hơn. Lý  tưởng như 1 mô hình dự kiến cách giải quyết các mâu thuẫn trong cuộc sống. ­­> Lý tưởng thẩm mỹ là 1 hệ thống các hình dung cụ thể cảm tính của con người về các hình mẫu hoàn  thiện, hoàn mỹ. Các hình mẫu này khi được “hiện thực hoá” sẽ là những con người, sự vật, cuộc đời đẹp  phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và phát triển nhân cách. 2. Vai trò: a. Đối với đời sống con người: ­ Là căn cứ chuẩn mực chủ quan riêng biệt để bình giá, cảm thụ các hiện tượng thẩm mỹ. ­ Là khuôn mẫu, mô hình chỉ đạo hoạt động sáng tạo các giá trị thẩm mỹ. b. Đối với người nghệ sĩ: ­ Lý tưởng thẩm mỹ đóng vai trò là “bản thiết kế”, mô hình để xây dựng ngôi nhà nghệ thuật. ­ Lý tưởng của người nghệ sĩ sẽ kích thích nhu cầu thẩm mỹ, chi phối các màu sắc cung bậc của cảm  xúc, định hướng sự lựa chọn, đánh giá các tư liệu của đời sống…  XIII/ Bản chất của nghệ thuật? Trả lời: A. Quan điểm của 1 số trường phái Mỹ học: 1. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (đại diện là Platong và Hêghen) ­ Platong: “Nghệ thuật là cái bóng của cái bóng, là bản sao của bản sao”. ­­> Cái đẹp tồn tại trong “thế giới ý niệm” và nghệ thuật chỉ là “bản sao” của thế giới ý niệm đó. ­ Hêghen: “Nghệ thuật là hình thức tồn tại thấp nhất của ý niệm tuyệt đối trong lĩnh vực tinh thần” ­­> Nghệ thuật là sự cụ thể hoá của “ý niệm” dưới dạng hình tượng. Khi “ý niệm” vận động đến trình độ  cao hơn thì nảy sinh ra tôn giáo và triết học, khi đó nghệ thuật sẽ bị triệt tiêu. 2. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: ­ Canter: “Nghệ thuật là sản phẩm của cái tôi của người nghệ sĩ” ­­> Nghệ thuật là sự tổng hợp của các cảm xúc chủ quan của con người về thế giới, nghệ thuật là đỉnh  cao của lý trí, là sự kết thúc của triết học. 3. Mỹ học tư sản hiện đại: ­ Kế thừa cái quan niệm Mỹ học duy tâm quá khứ và đẩy nó lên đến mức cực đoan. Họ cho rằng nghệ  thuật là sự sáng tạo ra 1 thế giới mới không giống thế giới hiện thực. 4. Mỹ học duy vật trước Mác đều đã có công kéo nghệ thuật trở về với đời sống: ­ Từ Aristot đến Tsécnưsépxki đều đã có công kéo nghệ thuật quay trở về với đời sống + Aristot cho rằng: “Nghệ thuật là sự bắt chước cuộc sống”
  14. + Tsécnưsépxki coi: “Nghệ thuật là 1 bản sao của cuộc sống” B. Mỹ học Mác ­ Lênin: ­ Nghệ thuật theo quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin vừa là hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, vừa  là hình thái biểu hiện tập trung nhất các mối quan hệ thẩm mỹ của con người với nghệ thuật. ­ Trong hoạt động nghệ thuật luôn có sự kết hợp hữu cơ giữa năng lực nhận thức thẩm mỹ về đời sống và  cái năng lực cải biến chất liệu cuộc sống với chất liệu ngôn ngữ loại hình theo quy luật cái đẹp nhằm tạo  nên 1 giá trị thẩm mỹ mới.  XIV/ Chức năng xã hội của nghệ thuật? Trả lời: 1. Khái niệm: ­ Chức năng xã hội là năng lực vốn có của nghệ thuật có thể đáp ứng những nhu cầu chủ yếu, những đòi  hỏi cơ bản của xã hội mà nghệ thuật tồn tại. ­­> Trong các xã hội khác nhau thì những nhu cầu chủ yếu, những đòi hỏi cơ bản của xã hội cũng khác  nhau, chức năng xã hội của nghệ thuật cũng biến đổi khác nhau. Sự biến đổi đó ở trên 3 khía cạnh: + Số lượng chức năng. + Tên gọi của các chức năng. + Vị trí của từng chức năng trong hệ thống cấu trúc chức năng không thay đổi. ­ Nghệ thuật được coi là phương tiện lưu trữ thông tin khi khoa học chưa phát triển. Hiện nay nghệ thuật  có chức năng giáo dục. ­ Nghệ thuật là 1 hiện tượng xã hội phức tạp và nó cũng có nhiều khả năng, năng lực với cuộc sống cho  nên không thể lược quy nghệ thuật vào 1 số lượng chức năng cố định nào đó (Nghệ thuật có nhiều chức   năng hay đa chức năng) nhưng trong đó có 1 chức năng xã hội đặc thù xuyên suốt hệ thống các chức  năng: thoả mãn trên cơ sở bồi đắp, định hướng nhu cầu thẩm mỹ của con người.  (Nhu cầu về cái đẹp: cái đẹp có tính tích hợp, nhu cầu về nghệ thuật cũng có tính tích hợp, bên trong nhu   cầu thẩm mỹ, nó cũng có tính tích hợp về hàng loạt những cái khác). 2. Một số chức năng xã hội cơ bản của nghệ thuật: a. Chức năng nhận thức: ­ Nghệ thuật là 1 hình thái ý thức xã hội, luôn phản ánh tồn tại xã hội, chính vì vậy nó có khả năng mang  lại nhận thức cho con người. ­ Nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. + Biêlinxki: “Nghệ thuật là cuốn bách khoa toàn thư về đời sống cho nên nghệ thuật có khả năng phản   ánh rất nhiều mặt của đời sống”. + Về sau các nhà nghệ thuật học cho rằng ý kiến của Biêlinxki vừa đúng vừa không đúng. Theo họ,  “Nghệ thuật vừa là, vừa không là cuốn bách khoa toàn thư về đời sống” là bởi nghệ thuật phản ánh mặt  thẩm mỹ của cuộc sống ­ Nghệ thuật cho chúng ta hiểu lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ (tức là thế giới nhân sinh quan, tư  tưởng của người nghệ sĩ với những nét riêng biệt, độc đáo). ­ Mỗi khoa học chỉ mang lại cho con người nhận thức về 1 mặt của đời sống. Tổng thể các khoa học có  thể mang lại cho con người hiểu biết về các mặt của đời sống nhưng nó không bị chia cắt 1 cách giả tạo  mà toàn vẹn, sinh động 1 cách vốn có. ­ Lượng tri thức mà nghệ thuật và khoa học mang lại cho con người đều là vốn sống gián tiếp (rất phong  phú) nhưng khác với tri thức mà khoa học mang lại, tri thức nghệ thuật ở đây được cụ thể cảm tính ­ có  nghĩa là vốn sống gián tiếp đó đã được trực tiếp hoá, nhờ đó lượng tri thức là nghệ thuật mang lại cho con 
  15. người thêm phần sâu sắc và phong phú. ­ Nếu lượng tri thức mà khoa học mang lại cho con người có ưu thế là độ chính xác rất cao thì lượng tri  thức mà nghệ thuật đem lại không có độ chính xác cao nhưng nó thẫm đượm niềm tin của người sáng tạo  nên có sức chinh phục, cảm hoá. b. Chức năng cảm hoá thẩm mỹ (Cảm hoá bằng cái đẹp): ­ Nghệ thuật không phản ánh cuộc sống theo kiểu máy ảnh mà nghệ sĩ phản ánh cuộc sống dưới ánh  sáng lý tưởng thẩm mỹ, hình mẫu hoàn mỹ của cuộc sống. Nghệ sĩ trình bày trước công chúng quan niệm  thẩm mỹ về cái đẹp, công chúng khi tiếp xúc với tác phẩm buộc phải soi mình trong tấm gương đó ­­> Nghệ thuật không tác động trực tiếp đến lý trí của con người. c. Chức năng thông tin ­ giao tiếp thẩm mỹ: ­ Nghệ thuật bao giờ cũng tồn tại dưới dạng ký hiệu thẩm mỹ. Đây là công cụ mã hoá tư tưởng, tình cảm  của người nghệ sĩ. VD: ngôn từ trong văn chương, hành động trong điện ảnh… ­ Thông tin giao tiếp bằng nghệ thuật: có tính hàm xúc (vỏ ký hiệu ít nhưng nghĩa ký hiệu nhiều): tinh tế,  uyển chuyển và mang tính biểu cảm cao. d. Chức năng rèn luyện các năng lực thẩm mỹ: ­ Tác phẩm nghệ thuật là nơi kết tinh toàn bộ các năng lực của người nghệ sĩ: cảm xúc quan sát, tưởng  tượng, trực giác…vì vậy khi tiếp xúc với các năng lực thẩm mỹ, công chúng được kéo theo dòng tưởng  tượng của người nghệ sĩ. e. Chức năng giải trí ­ tái sáng tạo: ­ Nghệ thuật là 1 trò chơi: là trò chơi của sự biến hoá, mang lại niềm vui cho con người về khả năng sáng  tạo kỳ diệu của con người. */NOTE: Các chức năng này tác động đến con người cùng 1 lúc, biểu hiện không giống nhau ở loại hình, loại thể   khác nhau. Do tính phong phú, đa dạng của đối tượng phản ánh cũng như nhu cầu thẩm mỹ của con   người. Nên cần tới tác phẩm nghệ thuật thuộc nhiều loại hình, loại thể khác nhau, không mâu thuẫn tuyệt   đối hoá 1 loại hình, loại thể nào. Mỗi loại hình, loại thể có ưu thế riêng, hạn chế riêng. XV/ Bản chất của hình tượng nghệ thuật? Trả lời: 1. Hình tượng ­ phương tiện biểu hiện: ­ Là phương tiện đặc thù để phản ánh hình tượng, hình tượng không thể xếp vào giai đoạn nào của 2 quá  trình nhận thức cảm tính và lý tính + Phương tiện đặc thù: • Cụ thể hoá sâu: Cụ thể (giác quan, nhận thức…). Cá biệt (không nhắc lại). • Khái quát hoá cao. + Trong hình tượng nghệ thuật luôn có sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng. • Cái chung và cái riêng: Biểu hiện ở cái riêng mới. => Đối tượng phản ánh. • Lý tưởng và tình cảm: Biểu hiện ở tình cảm. => Chủ thể phản ánh. • Cái khách quan và cái chủ quan: Biểu hiện ở cái chủ quan.
  16. => Đối tượng phản ánh ­ chủ thể phản ánh. ­­> Tác phẩm nghệ thuật đủ điều kiện của 1 khách thể thẩm mỹ, luôn cụ thể toàn vẹn nên giác quan có  thể cảm nhận được. 2. Tính ước lệ: ­ Nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách ước lệ. 3. Tính đa nghĩa: ­ Trong khái niệm luôn luôn là đơn nghĩa nhưng trong nghệ thuật nó luôn luôn đa nghĩa  XVI/ Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm nghệ thuật? Trả lời: ­ Trong tác phẩm, nội dung giữ vai trò chủ đạo: + Trước hết, bao giờ cũng phải xuất phát từ ý tưởng với tư cách là nội dung sơ khai, dự kiến để đi tìm hình  thức thể hiện. + Hình thức không có mục đích tự thân mà nó bị quy định bởi ý tưởng. Khi ý tưởng thay đổi thì hình thức  biểu hiện cũng phải thay đổi theo. + Nội dung do gắn liền với cuộc sống nên nó thường vận động nhanh hơn còn hình thức thường thay đổi  chậm hơn. => Dẫn đến tình trạng: 1 nội dung mới, 1 ý tưởng mới lại được biểu đạt dưới hình thức cũ. + Giá trị của 1 tác phẩm nghệ thuật trước hết là giá trị về nội dung: giá trị ở mức thông điệp mà nghệ sĩ  muốn gửi cho công chúng. ­ Tính tích cực của hình thức: + Nhờ hình thức mà ý tưởng của người nghệ sĩ mới trở thành tác phẩm và cũng nhờ hình thức mà ý tưởng  của nghệ sĩ mới có được tiếng vang trong xã hội. => Hình thức tốt sẽ góp phần biểu hiện chân thực, đầy đủ ý tưởng trong nội dung của tác phẩm, hình thức  kém sẽ cản trở việc bộc lộ nội dung, thậm chí làm sai lệch nội dung. 2 quy luật: ­ Quá trình xây dựng hình thức mới chính là quá trình hình thành nội dung tác phẩm hay là quá trình biến   ý tưởng thành nội dung tác phẩm. ­ Mức độ hoàn thiện của hình thức sẽ quyết định mức độ thể hiện của nội dung.  XVII/ Các lĩnh vực cơ bản của hoạt động nghệ thuật? Trả lời: 1. Nhóm nghệ thuật ứng dụng: ­ Nghệ thuật trang trí ứng dụng: Gắn liền với công cụ lao động các nghề thủ công và các vật dụng sinh  hoạt của con người: may, đúc, rèn, dệt… Bên cạnh chức năng thẩm mỹ còn có chức năng thực dụng. + Được hiểu theo 2 nghĩa: • Tô điểm từ bên ngoài và bên trong sự vật. • Là cái kết cấu tạo hình bên trong của đối tượng như 1 phương tiện cơ bản cái gọi là hình thức của tác  phẩm. + Ngôn ngữ cơ bản của loại hình nghệ thuật này là hoa văn. Hoa văn được tạo nên từ 2 yếu tố: hoạ  tiết (các đường nét hình học) và nhịp điệu (việc sắp xếp các hoạ tiết đó theo 1 trật tự nhất định nhằm tạo  nên 1 sự hài hoà với đối tượng). ­ Nghệ thuật kiến trúc: Gắn liền với nhu cầu, là loại hình nghệ thuật chiếm lĩnh không gian bằng phương  pháp tạo hình, ngôn ngữ của kiến trúc là hình khối: có 2 yếu tố kết hợp là trật tự và nhịp điệu (2 yếu tố 
  17. này thường chuyển hoá lẫn nhau). => Lưu ý: Mặc dù nghệ thuật kiến trúc sử dụng ngôn ngữ hình khối nhưng nó là nghệ thuật biểu hiện (tư  tưởng, tình cảm, những khát vọng của con người trong cuộc sống). Những lưu ý trong nghệ thuật kiến trúc điêu khắc: + Chất liệu sử dụng. + Khả năng kỹ thuật cho phép. + Điều kiện khí hậu. + Quang cảnh thiên nhiên. 2. Nhóm nghệ thuật tạo hình: ­ Nghệ thuật điêu khắc, hội hoạ, đồ hoạ và nhiếp ảnh nghệ thuật: Thể hiện tính vật thể không gian, tính  xác thực thế giới, là nghệ thuật không gian ­ nghệ thuật tĩnh ­ nghệ thuật thị giác. + Điêu khắc:  • Là loại hình nghệ thuật xuất hiện sớm. Nặn đắp từ chiều sâu ra bên ngoài. • Ngôn ngữ của điêu khắc: là hình khối, luôn luôn là không gian 3 chiều. • Đối tượng phản ánh chủ yếu của điêu khắc là khám phá vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh của con người  thông qua hình thể. Vì vậy, điêu khắc thường chỉ phát triển trong giai đoạn lịch sử mà ở đó conngười được  tôn trọng. • Có 3 thể loại điêu khắc: Điêu khắc trên giá: tượng trang trí. Tượng đài (gắn với các công trình lớn). Phù điêu (chạm nổi, đắp nổi). + Hội hoạ: Đề tài rất rộng, đó là toàn bộ thế giới vật thể mà con người có thể cảm nhận bằng thị giác.  Ngôn ngữ thể hiện của hội hoạ chính là màu sắc, ánh sáng, là không gian 2 chiều. 3. Nhóm nghệ thuật biểu hiện: ­ Âm nhạc và múa: là nghệ thuật động ­ nghệ thuật thời gian ­ biểu diễn ­ Có điểm giống nhau: nó đều là những nghệ thuật phản ánh tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người  trước cuộc sống. + Âm nhạc: ra đời trên cả cơ sở vật lý và tâm lý. Âm nhạc biểu hiện nhờ những liên tưởng mà con người  có cảm xúc trước cuộc sống, phản ánh quá trình vận động, phát triển của tâm lý, tư tưởng, tình cảm. Đây  là điều mà hội hoạ, điêu khắc không làm được. Nhưng âm nhạc lại không có khả năng miêu tả vật thể của  thế giới trong khi hội hoạ và điêu khắc làm rất tốt. + Múa: Nếu âm nhạc là cảm xúc có thể nghe thấy được thì múa là cảm xúc có thể nhìn thấy được. Ngôn  ngữ múa là các động tác hình thể của con người nhưng mang tính ước lệ và cách điệu cao. Nhạc có thể  không cần múa nhưng múa không thể không cần đến nhạc. 4. Nghệ thuật văn chương: ­ Có khả năng phản ánh thế giới cả ở tầm vĩ mô và vi mô: phản ánh nhanh nhạy các vấn đề của cuộc  sống. ­ Được coi là cơ sở cho tác phẩm nghệ thuật của nhiều loại hình, loại thể khác nhau. + Một là, nó đặt ra những đề tài, chủ đề cho nhiều loại hình nghệ thuật khác. + Hai là, nó là 1 thành tố hữu cơ, không thể thiếu được của nhiều tác phẩm nghệ thuật. ­ Đây là loại hình nghệ thuật tác động trực tiếp đến tư duy của con người cũng như phản ánh trực tiếp  nghệ thuật sáng tạo. ­ Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ, nó gắn liền với tiếng nói của dân tộc
  18. => Là loại hình nghệ thuật có tính quần chúng rộng rãi nhất. ­ Hình tượng văn chương là hình tương mở: có nghĩa là nó chỉ hình thành 1 cách trọn vẹn trong óc người  tưởng tượng nó. ­ Đặc trưng của văn chương là những ngôn từ có tính nghệ thuật mang tính biểu trưng, ước lệ cao bởi nó  được xây dựng từ hàng loạt các phương thức tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ. 5. Nhóm nghệ thuật tổng hợp: ­ Sân khấu, điện ảnh, video: Có sự kết hợp của tất cả các loại hình nghệ thuật đơn. ­ Vừa tạo hình, vừa biểu hiện, vừa không gian, vừa thời gian, vừa thị giác, vừa thính giác => Nó không phải là con số cộng của các loại hình mà là sự tổng hợp của các loại hình. + Sân khấu ra đời sớm nhất: • Khi con người có nhu cầu tái hiện lại 1 hoạt động nào đó trong cuộc sống là cơ sở cho nhu cầu sân  khấu hoá hoạt động sống. • Các thành tố quan trọng trong vở diễn: Kịch bản: trước hết là kịch bản văn chương sau đó người ta chuyển thể thành kịch bản sân khấu, chia  màn, chia cảnh, từng lớp… (“Có tích mới dịch nên trò”) Diễn viên (linh hồn của vở diễn): Bằng lời thoại, diễn xuất, người diễn viên phải trình bày 1 đoạn đời  ước lệ của 1 nhân vật giả định nào đó. Đạo diễn: Là người tổ chức, tổng hợp cá tính sáng tạo của các nghệ sĩ, phân tích ý đồ của kịch bản và  gợi ý cho diễn xuất của diễn viên. Khán giả: Không chỉ cảmm thụ kết quả sáng tạo mà còn đồng hành với sự sáng tạo của họ. + Điện ảnh: là loại hình nghệ thuật bao gồm nhiều loại thể: phim truyện, phim hoạt hình, phim khoa học,  phim tài liệu. • Đặc trưng của điện ảnh: Tính chân thực (phản ánh chân thực tính vật thể của thế giới trong quá trình phát triển). Nghệ thuật dựng phim: sự sắp xếp, kết nối các đoạn phim theo logic nào đó để thể hiện chủ đề của tác  phẩm. Nhiệm vụ của nghệ thuật dựng phim là phát hiện và trình bày thuyết phục nhất. Nhân bản phim: Đây được coi là loại hình nghệ thuật rộng rãi nhất. + Truyền hình: như 1 phương tiên truyền thông, chưa phải 1 nghệ thuật, nó chỉ là 1 nghệ thuật khi nhờ kỹ  thuật người ta xử lý 1 cách nghệ thuật những mảnh đời thật để thể hiện 1 cách sâu sắc bản chất của  chúng và bày tỏ thái độ của người sáng tạo đối với số phận ấy, tức là cuộc đời ấy được nâng lên tới mức 1  hình tượng nghệ thuật. Truyền hình với tư cách là thông tin tư liệu xuất hiện năm 1936 nhưng tới năm 1950  truyền hình mới xuất hiện là 1 tác phẩm nghệ thuật. */Kết luận: Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ưu thế riêng. Chúng ta không thể tuyệt đối hoá loại hình   loại thể nào.  XIX/ Nội dung cơ bản của công tác giáo dục thẩm mỹ? Trả lời: ­ Xây dựng ý thức thẩm mỹ tiên tiến: tính chất và trình độ của ý thức thẩm mỹ quyết định đến tính chất  và trình độ của hoạt động thẩm mỹ. ­ Bồi dưỡng kỹ năng tạo lập cái đẹp trong từng lĩnh vực cụ thể. + Kỹ năng tạo lập cái đẹp cho bản thân + Kỹ năng tạo lập cái đẹp trong lao động xã hội. + Kỹ năng giao tiếp xã hội
  19. => Người cán bộ Văn hoá phải là người làm công tác giáo dục thẩm mỹ và các trung tâm văn hoá phải là  nơi giáo dục thẩm mỹ. ­ Giáo dục nghệ thuật: Là giáo dục những tri thức về các đặc trưbng ngôn ngữ của các loại hình nghệ  thuật. 2.Chứng minh ngắn gọn: Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội? Tuân thủ đầy đủ 3 quy luật cơ bản chi phối mqh giữa ý thức xh và tồn tại xh: - NT cũng phản ánh tồn tại xh và chịu sự quy định của tồn tại xh. - NT cũng có sự tác động ngược lại đối với tồn tại xh. (Là tiến bộ CM => thúc đẩy xh pt, là phản động lạc hậu => kìm hãm sự pt và làm tha hóa con ng) - NT cũng mang tính độc lập tương đối.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0