ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN

NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN



1

Câu 1: Vấn đề cơ bản về học thuyết Cung tiền: M1?

- Trong quá trình cung tiền, ai là người quyết định cung tiền trong nền kinh tế?

 Ý 1:cung tiền chỉ lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng

hóa, dịch vụ, tài sản, v.v... của các cá nhân (hộ gia đình) và doanh nghiệp(không kể các tổ chức

tín dụng).

M1: bằng tổng lượng tiền mặt (M0) và tiền mà các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương.

M1 còn được gọi là đồng tiền mạnh.Có 4 đối tượng quyết định cung tiền trong nền kinh tế

- Ngân Hàng trung ương

Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc

trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi

hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn

định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân

hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính

phủ.

- Các tổ chức nhận tiền gửi

Hay còn gọi là Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với

nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Tổ chức tín dụng bao gồm hai loại: ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

- Những người gửi tiền

- Những người đi vay

Từ đây giúp ta biết được nhưng chủ thể mà ta cần tác động đến nếu muốn điều chỉnh cung tiền.

 Ý 2:Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và

thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng

tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .

Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHTW thông qua các hoạt động

của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu

2

kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ

thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.

Tùy điều kiện mỗi quốc gia, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở

rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng

- chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm

giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng - chính sách tiền tệ

ổn định giá trị đồng tiền).

Mục tiêu cuối cùng của CSTT:

- Ổn định giá trị đồng tiền:

- Tăng trưởng kinh tế

- Đảm bảo công ăn việc làm

Ngân hàng trung ương có thể sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ

- Ngân hàng trung ương có thể thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại, qua đó thay

đổi lượng tiền dự trữ R, và tổng lượng cung tiền M.

rrr tăng (giảm) ->rr tg (g)-mm tg (g) -> MS g (tg) và I tg (g)

- Thông quan lãi xuất triết khấu ( là lãi suất do ngân hàng TM vay để duy trì dự trữ)

MS=(1+Cr)/(rr+Cr) *B

+LSTK g -> B tg và rr giảm ->so nhân tiền mm tg - MS tg , i giảm

Và ngược lại

- Ngân hàng trung ương còn có thể điều chỉnh, bán các giấy tờ có giá của mình đối với các tổ chức

tín dụng, từ đó tác động tới lượng vốn khả dụng của các tổ chức này. Khi đó lượng cung tiền

cũng sẽ được điều tiết.

TH1: khi ngân hàng TW mua trải phiếu

B tg MS tg và i giảm  C tg, I tg  AD tg (slg Y tg, thất nghiệp tăng, giá tăng)

Mua khi nền kinh tế suy thoái

3

Và ngược lại khi bán trái phiếu khi nền kinh tế lạm phát cao

- Ý nghĩa của học thuyết cung tiền trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam?

Gắn liền với công cuộc đổi mới & mở cửa của nước ta, có nhiều yêu cầu cần giảI quyết cùng lúc như: vừa

ổn định vừa phát triển KT trong nước,vừa mở rộng giao lưu, quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước

ngoài,nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng ngày càng lớn dẫn đến sự xác lập quan hệ cung-cầu mới về

tiền, trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định KT Vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ,tạo lập nền tảng cho

sự phát triển chung.

Ở Việt Nam,Dựa vào học thuyết cung tiền, Ngân hàng nhà nước đã đẩy mạnh dùng các công cụ sẵn có để

thực thi chính sách tiền tệ cho việc ổn định tình hình kinh tế cho từng thời điểm thích hợp.

Ta có lấy ví dụ về việc khi ngân hàng NNVN quyết định tung trái phiếu ra bán ở thời kỳ 1999 để thu hồi

1 lượng lớn tiền mặt đang có trong dân giảm lạm phát.

Hay việc thắt chặt tiền tệ khi ngân hàng NNVN sử dụng vào năm 2011, với mức dự trữ bắt buộc tăng lên

gấp đôi, giảm bớt múc tăng trưởng tín dụng…giúp nền kinh tế nước ta dần hồi phục trước tình hình khủng

hoảng chung trên toàn thế giới.

Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công bằng XH, vì vậy việc lựa chọn

giaỉ pháp nào để xây dựng &điêù hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó

khăn,phức tạp.

Câu 2: Vai trò trung gian tài chính

Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới

người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp, người cần vốn và người có vốn trao đổi trực

tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối.

Nghĩa là người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài chính

gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian.

Vốn luân chuyển trong nền kinh tế chủ yếu thông qua các tổ chức tài chính, các ngân hàng

thương mại mà không phải qua thị trường tài chính bởi có những chi phí thông tin và chi phí giao dịch lớn

trong nền kinh tế.

Để những người cho vay nhân ra được những người muốn vay và để những người đi vay nhận ra

được những người muốn ch vay là một vấn đề đòi hỏi chi phí đắt tiền. Khi một người cho vay tìm ra được 4

một người muốn cho vay, người này còn có thêm một khó khăn là phải chi phí thì giờ và tiền cho một

cuộc kiểm tra tín nhiệm để biết được liệu người vay có thể hoàn trả vốn của ông ta không. Ngoài các chi

phí thông tin này, quá trình thực tế cho vay hoặc mua một chứng khoán cần đến các chi phí giao dịch ;

trong trường hợp cho vay vốn, phải viết ra một hợp đồng vay thích hợp, còn trong trường hợp mua một

chứng khoán, phải thanh toán cho người môi giới.

Trung gian tài chính và ngân hàng thương mại có thể giúp giảm chi phí giao dịch trên cơ sở: tiết

kiệm do quy mô( góp những vốn muốn cho vay của nhiều nhà đầu tư với nhau cho vậy họ có thể thu được

lợi ích nhờ phương pháp tiết kiệm do quy mô, tức là, sự giảm chi phí giao dịch cho mỗi đô la đầu tư khi

quy mô giao dịch tăng lên) và mở rộng hiểu biết để giảm chi phí ( chẳng hạn, một ngân hàng có thể chi

nhiều tiền trong việc thuê một luật sư để soạn một hợp đồng pháp lý vay tiền hoàn hảo thì họ có thể sử

dụng hợp đồng này nhiều lần trong những giao dịch cho vay của họ, như thế hạ thấp chi phí về luật pháp

cho mỗi giao dịch). Như vậy, trung gian tài chính có thể cung cấp cho các khách hàng của mình những

dịch vụ linh hoạt, tức là những dịch vụ làm dễ dàng cho các khách hàng thực hiện giao dịch.

Hơn nữa, trong nền kinh tế luôn tồn tại tình trạng thông tin không cân xứng nên xuất hiện rủi ro

đạo đức và lựa chọn đối nghịch trong hoạt động luân chuyển vốn. Là nơi nắm bắt nhiều thông tin của

khách hàng cũng như các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các trung gian tài chính sẽ giúp làm giảm những

loại rủi ro này và khiến cho các đồng vốn được đảm bảo an toàn hơn. Người cho vay sẽ an tâm hơn về

khoản tiền của mình.

Một đặc điểm nữa khiến các trung gian tài chính và ngân hàng thương mại được ưa chuộng hơn

thị trường tài chính, đó là: đối với những người có quy mô vốn nhỏ thì khả năng họ có thể tham gia thị

trường tài chính là rất thấp bởi những rào cản về chi phí hay điều kiện để tham gia. Còn đối với những

người có nhu cầu sử dụng vốn không quá lớn nhưng vẫn muốn có nhu cầu sử dụng vốn cho công việc của

mình thì việc tham gia trên thị trường tài chính là điều không thể. Trong những trường hợp trên, phương

án khôn ngoan nhất chính là thông qua tổ chức tài chính trung gian để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình.

2. Tại sao vốn luân chuyển trong nền kinh tế lại chủ yếu thông qua các tổ chức tài chính, các

NHTM mà không phải qua thị trường tài chính?

Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thự chiện chức năng dẫn vốn từng

ườicóvốntớingườicầnvốn.Tuynhiênkhôngnhưdạngtàichínhtrựctiếp,ngườicầnvốnvàngườicóvốntraođổitrựct

iếpvớinhauởthịtrườngtàichính,cáctrunggiantàichínhthựchiệnsựdẫnvốnthôngquamộtcầunối.Nghĩalàngườic

ầnvốnmuốncóđượcvốnphảithông qua ngườithứba, đóchínhlàcáctổchứctàichínhgiántiếp hay

cáctổchứctàichínhtrunggian.

5

Vốnluânchuyểntrongnềnkinhtếchủyếuthông qua cáctổchứctàichính,

cácngânhàngthươngmạimàkhôngphải qua thịtrườngtàichínhbởicónhững chi phíthông tin và chi

phígiaodịchlớntrongnềnkinhtế.

Đểnhữngngườichovaynhânrađượcnhữngngườimuốnvayvàđểnhữngngườiđivaynhậnrađượcnhữngn

gườimuốnchvaylàmộtvấnđềđòihỏi chi phíđắttiền.Khimộtngườichovaytìmrađượcmộtngườimuốnchovay,

ngườinàycòncóthêmmộtkhókhănlàphảichiphíthìgiờvàtiềnchomộtcuộckiểmtratínnhiệmđểbiếtđượcliệungườ

ivaycóthểhoàntrảvốncủaông ta không.Ngoàicác chi phíthông tin này,

quátrìnhthựctếchovayhoặcmuamộtchứngkhoáncầnđếncác chi phígiaodịch ; trongtrườnghợpchovayvốn,

phảiviếtramộthợpđồngvaythíchhợp,còntrongtrườnghợpmuamộtchứngkhoán,phảithanhtoánchongườimôigi

ới.

Trunggiantàichínhvàngânhàngthươngmạicóthểgiúpgiảm chi phígiaodịchtrêncơsở: tiếtkiệm do

quymô(gópnhữngvốnmuốnchovaycủanhiềunhàđầutưvớinhauchovậyhọcóthểthuđượclợiíchnhờphươngphá

ptiếtkiệm do quymô, tứclà, sựgiảm chi phígiaodịchchomỗiđô la

đầutưkhiquymôgiaodịchtănglên)vàmởrộnghiểubiếtđểgiảm chi phí( chẳnghạn, mộtngânhàngcóthể chi

nhiềutiềntrongviệcthuêmộtluậtsưđểsoạnmộthợpđồngpháplývaytiềnhoànhảothìhọcóthểsửdụnghợpđồngnày

nhiềulầntrongnhữnggiaodịchchovaycủahọ, nhưthếhạthấp chi phívềluậtphápchomỗigiaodịch). Nhưvậy,

trunggiantàichínhcóthểcungcấpchocáckháchhàngcủamìnhnhữngdịchvụlinhhoạt,

tứclànhữngdịchvụlàmdễdàngchocáckháchhàngthựchiệngiaodịch.

Hơnnữa,trongnềnkinhtếluôntồntạitìnhtrạngthôngtin

khôngcânxứngnênxuấthiệnrủirođạođứcvàlựachọnđốinghịchtronghoạtđộngluânchuyểnvốn.

Lànơinắmbắtnhiềuthông tin củakháchhàngcũngnhưcácdoanhnghiệp, tổchứckinhtế,

cáctrunggiantàichínhsẽgiúplàmgiảmnhữngloạirủironàyvàkhiếnchocácđồngvốnđượcđảmbảo an toànhơn.

Ngườichovaysẽantâmhơnvềkhoảntiềncủamình.

Mộtđặcđiểmnữakhiếncáctrunggiantàichínhvàngânhàngthươngmạiđượcưachuộnghơnthịtrườngtàic

hính,đólà:

đốivớinhữngngườicóquymôvốnnhỏthìkhảnănghọcóthểthamgiathịtrườngtàichínhlàrấtthấpbởinhữngràocảnv

ềchiphíhayđiềukiệnđểthamgia.Cònđốivớinhữngngườicónhucầusửdụngvốnkhôngquálớnnhưngvẫnmuốncó

nhucầusửdụngvốnchocôngviệccủamìnhthìviệcthamgiatrênthịtrườngtàichínhlàđiềukhôngthể.Trongnhữngtr

ườnghợptrên,phươngánkhônngoannhấtchínhlàthôngquatổchứctàichínhtrunggianđểđápứngnhucầuvềvốncủ

a mình.

6

Câu 3: Vai trò của tổ chức chuyên biệt với nền kinh tế

d) Các công ty Tài chính Phát triển (Development Finance Companies DFC.s)

Thuộc loại này có thể bao gồm nhiều loại thể chế tài chính khác nhau. Tuy nhiên, đặc tính chung

của thể loại này là cung cấp tài chính dài hạn cho các dự án phát triển. Loại hình DFC thường hay gặp

nhất là ngân hàng phát triển, trong đó có một số chuyên doanh theo loại hình cho vay vốn, chủ yếu là cho

vay nông nghiệp hoặc công nghiệp.

Mặc dầu hiện nay các DFC thường hay chỉ có tại các quốc gia đang phát triển, thực tế không phải

lúc nào cũng đúng như vậy. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao các nước đang phát triển lại áp dụng hình thức

Tổ chức Tài chính Phát triển với một sự say mê rõ rệt tới như vậy, và liệu làm như vậy là có đúng không?

Câu hỏi thức nhất có thể được trả lời theo hai cách khác nhau. Thứ nhất, khu vực tư nhân không

cung cấp đủ các loại hình thể chế cũng như vốn để có thể cho vay dài hạn nhằm mục đích đầu tư. Hậu quả

của việc không tồn tại các thể chế tài chính tại nhiều nước lại bị làm trầm trọng thêm bởi việc không có

thị trường chứng khoán (bất kể là có tổ chức hay không có tổ chức) cũng như bởi sự khan hiếm của nguồn

vốn tự có (retalned earings) là loại vốn đáp ứng phần lớn nhu cầu về vốn cho khu vực công nghiệp và

dịch vụ tại Anh và Mỹ trong thể kỷ 19. Thứ hai, vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế của chính phủ

đã buộc họ phải thành lập nên các thể chế để có thể xác định, đánh giá, khuyến khích, cấp tài chính và

thực hiện các dự án phát triển. Loại thể chế như vậy chính là ngân hàng phát triển. Tại nhiều nước vai trò

chủ đạo của chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển không phải là xuất phát từ ý muốn “xã hội hóa” hoặc

“tập trung hóa” nền kinh tế, mà chính là từ việc nhận thức được sự thiếu hụt của khu vực tư nhân trong

việc đáp ứng nhu cầu đầu tư của quốc gia. Do vậy, ngân hàng phát triển đảm nhiệm một vai trò lớn hơn

so với trường hợp chúng chỉ đơn thuần là một thể chế tài chính của khu vực tư nhân. Loại hình ngân hàng

phát triển đã trở thành một công cụ chính sách của chính phủ, và thường được mong đợi là sẽ hoạt động

phù hợp với lợi ích phát triển kinh tế lâu dài của quốc gia. Đây là một chức năng thường mâu thuẫn với

tiêu chí hoạt động có lợi nhuận của những ngân hàng này.

Những mục đích rộng lớn hơn mà chính phủ mong đợi các ngân hàng phát triển thường có:

+ Tạo công ăn việc làm

+ Tiết kiệm hoặc tạo ngoại lệ

+ Phân phối thu nhập (giữa các giai cấp xã hội, các khu vực, các nhóm chủng tộc và thậm chí

giữa nam và nữ)

7

+ Đa dạng hóa công nghiệp

+ Hiện đại hóa nông nghiệp

+ Phát triển doanh nghiệp nhỏ

+ Khuyến khích hoạt động kinh doanh sáng tạo

+ Phát triển thị trường vốn

Do vậy, các Tổ chức tài chính Phát triển (DFC) có thể sẽ buộc phải cho vay vốn cho các dự án

theo đó:

+ Cơ cấu tài chính không đáp ứng được các tiêu chuẩn thương mại thông thường. Nhìn chung,

điều này có nghĩa là hệ số giữa vốn vay và vốn cổ phần thường quá cao do việc các cơ quan chủ quan dự

án không có khả năng huy động đủ vốn cổ phần. Các DFC có thể bổ xung cho nguồn vốn cổ phần còn

thiếu đó bằng cách đầu tư cổ phần vào một phần của dự án, mặc dầu làm như vậy có nghĩa là làm tăng rủi

ro của tổ chức đó tới một mức độ không còn được coi là hợp lý.

+ Ngân lưu của dự án không đáp ứng được các điều kiện thanh toán nợ thông thường. Khi đó, các

DFC buộc phải gia hạn thời gian ấn hạn, hoặc các thời hạn cho vay thông thường. Có thể các DFC sẽ làm

được như vậy nhưng đối với một DFC hoạt động trên cơ sở vốn lưu chuyển tuần hoàn, việc dự án chậm

thanh toán sẽ làm hại tới khả năng cấp vốn vay cho các dự án khác trong tương lai (và có thể là những dự

án đáng được cấp vốn vay hơn).

+ Ít hoặc không có hình thức bảo lãnh thế chấp phù hợp. Điều này thường đúng đối với trường

hợp các doanh nghiệp nhỏ (theo Kitchen, 1978) hoặc các doanh nghiệp đã mang thế chấp các tài sản hiện

có. Trong trường hợp các doanh nghiệp bị thất bại, thị trường mua bán các loại tài sản này lại rất có thể

chỉ mang tính chất hạn hẹp, do vậy khi đem bán chẳng thu được là bao. Tại các quốc gia càng nhỏ và

càng nghèo thì điều này càng đúng.

+ Các doanh nghiệp chủ đầu tư có ít kinh nghiệm trong lĩnh vực đang xin đầu tư hoặc trong các

lĩnh vực khác. Những rủi ro này rất có thực nếu như ngành công nghiệp hoặc loại hình công nghệ liên

quan là mới đối với quốc gia đó.

Như vậy, một điều rõ ràng là DFC phải chịu những rủi ro thương mại và tài chính rất lớn, và căn

cứ theo lý thuyết thị trường vốn, điều này sẽ đòi hỏi phải có một tỷ lệ sinh lợi. Tuy nhiên, việc phải đáp

ứng được các mục tiêu quốc gia của chính phủ lại thường có nghĩa là các tổ chức ngày thường buộc phải

8

cấp vốn cho các dự án có mức sinh lời dự kiến tương đối thấp, thấp hơn mức sinh lợi có thể chấp nhận

được theo tiêu chuẩn thương mại thông thường. Hơn nữa, các mục tiêu của chính phủ có thể sẽ làm cho

các DFC chỉ tập trung vốn cho vay và đầu tư cho một số ngành hoặc lĩnh vực nhất định (ví dụ: nông

nghiệp), do vậy làm các tổ chức này mất đi khả năng đa dạng hóa hình thức đầu tư của mình. Dường như

là các mục tiêu tài chính và quốc gia mà các DFC phải đáp ứng thường khó hòa hợp với nhau. Chỉ riêng

đáp ứng các yêu cầu tài chính của các tổ chức này cũng đã là một kế hoạch đầy tham vọng, nên việc đòi

hỏi chúng phải hoạt động như một tổ chức “xã hội” có thể là quá mức. Việc tồn tại nhiều dự án vừa khả

thi về tài chính lại vừa đáng mong ước về mặt xã hội sẽ loại bỏ được sự phân lập này. Tuy nhiên, những

biến dạng trong nền kinh tế nhiều nước đang phát triển lại có nghĩa rằng các tổ chức DFC chưa sẵn sàng

thỏa mãn được những mục tiêu mâu thuẫn này. Đồng thời, còn có mối nguy hiểm khác nữa là các tổ chức

DFC này sẽ trở thành “người cho vay cuối cùng” (lender of last resort) chuyên cấp vốn cho các dự án mà

các tổ chức tài chính tư nhân không chấp nhận cho vay.

Lý thuyết thị trường vốn có liên quan nhiều tới các ngân hàng phát triển. Trong lĩnh vực nhiều rủi

ro, việc theo đuổi mức sinh lợi cao là một việc quan trọng. Việc nhận thức được rằng một số lĩnh vực đầu

tư mang tính rủi ro cao hơn so với các lĩnh vực khác sẽ giúp các ngân hàng thấy phải sử dụng mức chiết

khấu cao hơn đối với các dự án nhiều rủi ro. Đồng thời, các tổ chức DFC cần phải đầu tư vào nhiều hình

thức vốn nợ và vốn cổ phần khác nhau để có thể đa dạng hóa các rủi ro riêng có. Nguyên tắc đa dạng hóa

lập luận rằng không nên thành lập các tổ chức tài chính mang tính chuyên doanh cao do các tổ chức đó sẽ

bị hạn chế trong việc đa dạng hóa rủi ro. Nếu các tổ chức DFC được vận hành theo đúng những nguyên

tắc nêu trên thì kết quả hoạt động của chúng sẽ ngày càng được cải thiện, giúp chúng thu hút được thêm

nguồn vốn mới (ví dụ thông qua phát hành trái phiếu), tạo điều kiện cho việc vay và đầu tư tăng thêm, và

nêu một tấm gương sáng cho khu vực tư nhân thấy là doanh nghiệp có thể hoạt động có lãi. Một tổ chức

DFC yếu kém vè mặt tài chính thường khó có thể tư vấn cho khách hàng cách thức vận hành doanh

nghiệp hoặc cách thức huy động thêm vốn cho mình trên thị trường. Tuy vậy, chúng ta cũng nêu nêu lên

rằng huy động vốn là vai trò thứ yếu của các DFC. Dĩ nhiên, các tổ chức này có thể tham gia vào thị

trường vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu và cổ phiếu (cho mình và cho khách hàng) nhưng các

tổ chức đó không được trang bị để huy động những khoản tích lũy nhỏ trên qui mô toàn quốc. Sẽ có hiệu

quả hơn nếu để cho các ngân hàng tiết kiệm và cho vay chuyên doanh hoặc các bưu điện thực hiện những

chức năng đó,

Đây có thể là một quan điểm gây nhiều tranh cãi, nhưng xem ra chúng ta nên tạo điều kiện cho

DFC hoạt động như là những thể chế tài chính tốt hơn là như những tổ chức xã hội và nên để cho chính

phủ tập trung giải quyết hoặc giảm bớt các biến dạng kinh tế thường buộc các tổ chức DFC phải giải

9

quyết những mục tiêu kinh tế và xã hội có thể mâu thuẫn nhau. Mối nguy hiểm của csc dự án yếu kém về

tài chính là ở chỗ mức sinh lợi của các dự án này thấp hoặc lâu sinh lợi (hoặc cả hai). Nếu phải cấp tài

chính cho những dự án như vậy, thì khả năng cấp vốn tài chính cho các dự án tương lai của các DFC sẽ bị

hạn chế, gây hại cho tăng trưởng kinh tế và tài chính quốc gia. Kinh nghiệm của DFC (Công ty Tài chính

Quốc Tế) là một ví dụ minh họa cho sự hoạt động kém hiệu quả của các DFC, IFC thu được mức sinh lợi

trung bình là 15% cho toàn bộ hoạt động đầu tư của mình, nhưng phần đầu tư của IFC vào các tổ chức

DFC chỉ mang lại được mức sinh lợi 10%.

Lý do tồn tại của một tổ chức DFC trong một nền kinh tế thị trường (hoặc hỗn hợp) là để nhằm

cung cấp vốn dài hạn (vốn vay hoặc vốn cổ phần) mà thị trường tài chính không có khả năng cung cấp.

Chúng ta không thể phủ nhận được rằng những khoản vốn đó là cần thiết cho công nghiệp, nông nghiệp,

một số ngành dịch vụ nhất định và các dự án cơ sở hạ tầng trong những trường hợp chính phủ không trực

tiếp cấp tài chính hoặc không dùng được vốn ngắn hạn để cấp vốn do không có khả năng có vốn liên tục

để cấp. Các tổ chức DFC đã cung cấp được nguồn vốn dài hạn tới mức độ mà các tổ chức đó có thể làm

được. Câu hỏi lúc này đặt ra là liệu các tổ chức DFC lẽ ra đã có thể làm việc đó một cách hiệu quả hơn

theo một phương thức khác tốt hơn hay không? Đồng thời, chúng ta cũng có thể thấy một điều rằng các tổ

chức DFC thường hay cấp vốn tài chính với mức lãi suất thấp hơn mức thị trường, mọt phần là do các tổ

chức này được nhận vốn ưu đãi từ chính phủ và đợc hưởng lợi bởi chính sách kiềm dchees lãi suất. Các tổ

chức này còn đóng vai trò là cơ quan cho vay lại (on-lending) các khoản vốn của các cơ qan cho vay nước

ngoài, chủ yếu cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp cũng thường được nhận mức

lãi suất ưu đãi. Trong hầu hết mọi trường hợp, các tổ chức này có một vị trí được ưu ái và bảo hộ trong

khu vực tài chính, là nơi cũng ít diễn ra sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính.

Ở những nước chỉ có một số ít các tổ chức tài chính (và các tổ chức này lại hạn hẹp trong chiến

lược cho vay) và các hoạt động kinh doanh chỉ tập trung vào mục đích chộp giật cũng như khả năng bảo

lãnh vay nợ còn bị hạn chế, thì sự tồn tại của các tổ chức DFC là một sự cần thiết. Phần lớn các nước kém

phát triển đều ở trong tình trạng như miêu tả trên đây, nhưng các chính phủ theo đuổi mục đích phát triển

một khu vực tài chính cạnh tranh và ngày càng lớn cũng cần phải thấy rằng về lâ dài, vị trí được ưu ái của

DFC là không phù hợp với mục tiêu mà chính phủ đó đang theo đuổi. Hơn nữa, một tổ chức DFC được

bảo hộ thậm chí còn đưa tới tình trạng không khuyến khích được sự phát triển của các thể chế tài chính

thuộc khu vực tư nhân do khu vực tư nhân sẽ không thể cạnh tranh và hậu quả là việc phát triển khả năng

cung cấp tài chính dài hạn của khu vực tư nhân sẽ bị hạn chế. Tại một số nước, trong đó có cả Indonesia

và Philippine, các ngân hàng phát triển tư nhân cùng tồn tại với các ngân hàng phát triển của chính phủ và

điều đó cho thấy các ngân hàng tư nhân hoàn toàn có thể hoạt động được trong điều kiện hạn chế về

10

thương mại. Ngân hàng phát triển của Singapore là một công ty công cộng, có cổ phiếu niên giá trên thị

trường chứng khoán. Do đó, xét về mục đích lâu dài xem ra các chính phủ nên cho tư nhân hóa các ngân

hàng phát triển của mình và khuyến khích các tổ chức này phát triển và đa dạng hóa sang các loại hình

hoạt động khác như: cho thuê tài chính, quĩ vốn rủi ro như các loại hình dịch vụ tài chính khác.

Nếu trong trường hợp không phát triển hình thức các tổ chức DFC thì liệu có phương thức cung

cấp vốn dài hạn nào khác được phát triển thay thế hay không? Giải pháp thay thế có khả năng xảy ra

nhiều nhất là các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng cấp vốn tài chính dài hơi hơn, và trên thực tế

sẽ trở thành các ngân hàng tổng hợp, hoặc nếu không thì theo một giải pháp khác thị trường vốn sẽ phải

phát triển mạnh hơn, trong đó có sư tham gia tích cực của các ngân hàng đầu tư, các tổ chức tài chính

(như công ty bảo hiểm, quĩ hưu trí) cho vay dài hạn và tham gia đầu tư cổ phần, đồng thời thị trường

chứng khoán sẽ phải phát triển mạnh hơn. Tại nhiều nước, giải pháp huy động vốn dài hạn thông qua thị

trường chứng khoán là không thể nghĩ tới trong những năm 50, 60 và thậm chí hiện nay vẫn còn đúng đối

với nhiều nước do ở đó có các tổ chức tài chính và thị trường chứng khoán bị hạn chế rất nhiều do không

có nhu cầu, thu nhập thấp, hoặc do chính sách kiềm chế tài chính. Trong hoàn cảnh đó, giải pháp thay thế

đối với nhiều nước cho mô hình các tổ chức DFC chuyên doanh sẽ là các ngân hàng thương mại sẽ

chuyển thành các ngân hàng tổng hợp. Điều này sẽ đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn trong hoạt động của

ngân hàng, đi ngược lại với triết lý kinh doanh của ngân hàng cao tuổi. Đơn giản hơn, các ngân hàng

nước ngoài tại nhiều nước đang phát triển sẽ ngần ngại tham gia vào các cuộc chơi dài hạn khi tương lai

của các cuộc chơi này là không chắc chắn. Việc một số quốc gia ngần ngại trong việc cho phép các ngân

hàng nước ngoài gắn bó lâu dài với quốc gia mình cũng đã làm cho các ngân hàng nước ngoài càng thêm

gắn với quan điểm nêu trên. Mặc dù ngày nay các ngân hàng thương mại có xu hướng tham gia nhiều hơn

vào hoạt động cho vay dài hạn, xem ra ít có ngân hàng nào lúc trước đây lại sẵn lòng trở thành ngân hàng

tổng hợp. Do vậy, chúng ta hoàn toàn có thể kết luận được rằng trong những năm 1950 và 1960, không có

giải pháp thực tiễn nào thay thế cho hình thức DFC. Tuy nhiên rất nhiều quốc gia và nhiều tổ chức DFC

tại các nước đó hiện đã đạt tới mức độ chín muồi nhất định để có thể xem xét kỹ tới vai trò tương lai của

các tổ chức DFC đó.

(e) Các ngân hàng đầu tư theo kiểu Anh (merchant bank)

Các ngân hàng đầu tư là hình thức bổ trợ cho các ngân hàng thương mại theo kiểu Anh. Ở Mỹ,

chúng mang tên gọi là Investment Bank. Với việc loại bỏ các ủy ban chứng khoán nhỏ tại Mỹ vào năm

1975, các ngân hàng đầu tư đã chuyển hóa thành các tập đoàn tài chính lớn và tình hình hiện nay cho thấy

là các ngân hàng đầu tư của Anh cũng sẽ phát triển theo hướng tương tự khi chúng ta xét tới thỏa thuận về

việc xóa bỏ các ủy ban chứng khoán nhỏ tại đây. Nhìn chung, các ngân hàng tổng hợp thực hiện chức 11

năng của cả ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Do vậy, chúng ta sẽ thường chỉ thấy hình thức

đầu tư này (merchant bank) tại những nước có ngân hàng thương mại theo kiểu Anh hoặc Mỹ.

Trước đây, các ngân hàng đầu tư này chủ yếu chuyên doanh cung cấp tài chính thương mại, đặc

biệt là chuyên chấp nhận hối phiếu. Trong thế kỷ vừa qua, các ngân hàng này chuyển dần thành các ngân

hàng phát hành và kinh doanh chứng khoán, lúc đầu chủ yếu là các loại cổ phiếu của Chính phủ nước

ngoài và sau đó là cổ phiếu công ty. Các ngân hàng này cũng cung cấp nhiều loại dịch vụ công ty khác

nhau và thực hiện cả dịch vụ quản lý đầu tư (porttolio manager) cho các công ty và cá nhân. Khác với các

ngân hàng đầu tư kiểu Mỹ và các ngân hàng tổng hợp, các ngân hàng này không trực tiếp kinh doanh

chứng khoán. Trong cơ cấu tài chính kiểu Anh hiện nay, chức năng kinh doanh chứng khoán được dành

cho các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Mặc dù các ngân hàng đầu tư kiểu Anh có cung

cấp tài chính công ty (corporalefinace) và nhận tiền gửi, tổng lượng huy động trực tiếp của các ngân hàng

này thường là rất nhỏ. Các sản phẩm tài chính trọn gói chủ yếu bao gồm vốn của các tổ chức khác, phần

lớn là của các ngân hàng và các thể chế thương mại. Theo quan điểm của chúng tôi, tầm quan trọng chính

của các ngân hàng này chính là ở vai trò của chúng trên thị trường chứng khoán, và do vậy tôi sẽ để dành

mục này cho chương 6.

(g) Các quỹ tiết kiệm tại bưu điện (Posst Olllce SavingsBunks – FOSB).

Tại rất nhiều nước đang phát triển, bưu điện chính là thể chế nhận tiền gửi tiết kiệm dễ tiếp cận

nhất đối với đại bộ phận dân chúng, do bưu điện có chi nhánh ở khắp nơi, đặc biệt là các vùng nông thôn,

đồng thời lại không quá uỷ quyền trong con mắt của các tầng lớp thấp. Do đó, loại thể chế này huy động

được những khoản tích luỹ mà lẽ ra đã được cất kỹ trong gương hoặc đem ra chi dùng. Đồng thời, phương

thức này cũng không đòi hỏi chi phí tốn kém trong khâu điều hành do việc nhận gửi tiết kiệm chỉ là một

trong nhiều chức năng của bưu điện. Tuy nhiên, bưu điện không cung cấp tín dụng, do đó không thể được

coi là các tổ chức tài chính trung gian. Nguồn vốn huy động được của bưu điện thường được dùng để đầu

tư vào tín phiếu và trái phiếu chính phủ, do vậy góp phần vào tài chính Chính phủ. Trong chừng mực mức

lãi suất bị kiềm chế, chính phủ sẽ nhận được một nguồn vốn tài chính với giá rẻ từ các cơ quan bưu điện,

với phần thiệt thuộc về những người gửi phải chịu mức lãi suất bị kiềm chế. Hơn nữa, quy trình này

thường có xu hướng hút vốn ra khỏi các vùng nông thôn nghèo khó để đưa tới các vùng trung tâm.

UNESCO (1973) đã có nhận xét như sau trong bối cảnh của châu Phi: “Về việc huy động tích luỹ, các

quỹ tiết kiệm tại bưu điện là một hình thức thể chế thụ động và nên có một nỗ lực tích cực hơn đối với

nền kinh tế, đặc biệt là ở cấp địa phương”. UNESCO (1973) cũng chỉ ra rằng mức tiền gửi tiết kiệm tại

các tổ chức bưu điện ở Châu Phi cũng đã ở mức trì trệ, thậm chí giảm sút, nhưng tại thời điểm đó chỉ có

hai quốc gia Châu Phi là Algeria và Swaziland là đã thành công trong việc thay thế hình thức quỹ tiết 12

kiệm tại bưu điện bằng các loại hình thể chế thích hợp hơn đối với việc huy động tiền tiết kiệm của các hộ

gia đình – như Caisse Nationale d’Epargne et du Prevoyance (1966) và Ngân hàng Tín dụng và Tiết kiệm

Swaziland (1965). Rõ ràng, các quỹ tiết kiệm có thể được thực hiện được nhiều loại hình dịch vụ (đặc biệt

là cung cấp tín dụng) và có thể vận hành như là một thể chế địa phương hoặc khu vực, do đó có thể

khuyến khích kinh tế địa phương. Các tổ chức này cũng có thể cung cấp tín dụng của khu vực tư nhân

cũng như của Chính phủ.

(g) Các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí.

Các thể chế này tạo ra những cơ chế vô cùng quan trọng cho tích luỹ tại các nước phát triển và

các khoản đầu tư của các thể chế này chiếm vị trí chủ yếu trên thị trường chứng khoán. Ngược lại, tại các

nước đang phát triển, tầm quan trọng của các thể chế tài chính loại này lại rất hạn chế. Thứ nhất, yêu cầu

của loại hình thể chế này đòi hỏi người tích luỹ phải góp theo định kỳ (thường là theo thang), do vậy chỉ

hạn chế ở những người có thu nhập thường xuyên ổn định. Số người này ở các nước đang phát triển có ít

hơn là ở các nước phát triển. Thứ hai, các khoản góp nhiều khi không được khuyến khích do không có các

chính sách thuế cần thiết. Thứ ba, các thể chế thuộc loại này thường bị buộc phải đầu tư một phần đáng kể

(thậm chí toàn bộ) phần vốn của mình để mua chứng khoán chính phủ, mà những chứng khoán loại này ở

các nước bị kiềm chế tài chính lại thường chỉ mang lại mức sinh lợi thực (rcal) thấp hoặc âm. Ngoài ra,

những đòi hỏi như vậy còn hạn chế việc dùng vốn góp để đầu tư mua trái phiếu và cổ phiếu của công ty

mà lẽ ra các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí có thể thực hiện, vì vậy gây kiềm chế sự tăng trưởng của thị

trường chứng khoán và hạn chế nguồn vốn dài hạn dành cho khu vực tư nhân.

Mặc dù tầm quan trọng của các thể chế này trong tiết kiệm và đầu tư vẫn còn nhỏ bé tại các nước

đang phát triển, hiện tình hình cho thấy tại một số nước, các tổ chức này đang phát triển rất nhanh.

UNESCO (1973) có nhận xét về: “tốc độ tăng trưởng của các công ty bảo hiểm tại châu phi”. Tại

Indonesia, nguồn vốn huy động được bởi các công ty bảo hiểm nhân thọ và quỹ bảo hiểm xã hội tăng

47% và 45% trong các năm 1978 và 1979. (Mức tăng ưowng ứng trong chỉ số CPI là 28%). Xu hướng các

chính phủ thường cho phép cơ chế tích luỹ này được ưu đãi về thuế sẽ kích thích sự tăng trưởng của hình

thức này, mặc dù khi đó thị trường tài chính sẽ bị thêm nhiều biến dạng. Ngoài ra, có thể chế này đôi lúc

bị coi là những đối tượng đầu tư quá dè dặt và bảo thủ, không chạy theo mức sinh lợi cao. Trên thực tế, có

một số trường hợp chỉ mang lại sức sinh lợi vô cùng thấp. Trong những trường hợp như vậy, tác động của

sự biến động trên thị trường có thể dẫn tới tình trạng vốn bị hướng vào các khoản đầu tư an toàn nhưng

lợi tức thấp thay vì vào các khoản đầu tư mới, rủi ro cao hơn nhưng lợi tức hứa hẹn cũng cao hơn. Sự tăng

trưởng của bảo hiểm nhân thọ cũng chịu tác động của tỷ lệ lạm phát cao và tình trạng bị kiềm chế của thị

trường tài chính. Emery (1970) có cân nhắc rằng “khu vực bảo hiểm tại hầu hết các nước Đông Nam Á 13

không phải là một nguồn vốn đáng kể”. Chỉ có ở Malaysia các công ty bảo hiểm mới có vai trò quan

trọng trong việc cung cấp nguồn vốn phí ngân hàng. Ở Singapre, Philippine và Miến điện, các công ty

này chỉ đóng một vai trò tương đối quan trọng. Tại các nước khác, khu vực này luôn hoàn toàn không

quan trọng. Emery cho rằng sự tăng trưởng của khu vực này bị hạn chế do “chỉ có một bộ phận nhỏ dân

chúng có quan tâm tới bảo hiểm nhân thọ “và “tỷ lệ lạm phát cao ở indonesia và Việt Nam, 2 trong số

nhiều nước khác, cũng làm cho việc bán dịch vụ bảo hiểm bị hạn chế. Đối với các nước Mỹ la tinh, Riette

(1979) cũng nhận thấy rằng “tỷ lệ tích luỹ qua hình thức bảo hiểm nhân thọ đã ngày một giảm trong

những năm gần đây, chủ yếu là do tác động của lạm phát đã hạn chế việc bán các hợp đồng và chính sách

bảo hiểm nhân thọ”.

Các số liệu về nguồn vốn đầu tư cho hình thức bảo hiểm nhân thọ tại các nước thứ ba không được

đầy đủ lắm, mặc dù cảm giác chung là doanh số không lấy gì làm quan trọng. Rietti (1979) cho rằng tại

Châu Mỹ la tinh, chí có khoảng 5% bộ phận dân chúng tham gia hoạt động kinh tế là có mua bảo hiểm

sinh mạng, và trong toàn khu vực, chỉ khoảng 25% thu nhập quốc dân được mua bảo hiểm nhân thọ, trong

khi đó tại các nước phát triển, con số này là 100%.

Tương tự, các quỹ hưu trí cũng không có vị trí quan trọng. Emery (1970) báo cáo rằng chỉ có 4

nước Đông Nam Á (trên tổng số 10 nước) là có những quỹ hưu trí chính thức. Đó là Malaysia, Singapore,

Phillipine và Miến điện. Tuy nhiên, nguồn quỹ từ các thể chế này tại Malaysia, Singapore và Phillipine

cũng chiếm vị trí là một nguồn vốn dài hạn quan trọng và ở Malaysia, tính tại thời điềm cuối năm 1967,

tổng đầu tư của các quỹ hưu trí của cán bộ công nhân viên cũng chiếm tới 80% tổng vốn cho vay và đầu

tư của các ngân hàng thương mại. Kể từ đó tới nay, khu vực này cũng đã được mở rộng tại các nước khác

trong khu vực, trong đó có cả Indonesia. Việc đầu tư của các quỹ hưu trí cũng phải chịu những quy định

hạn chế của luật pháp và quy chế. Ở Nigeria chẳng hạn, Quỹ Hưu trí Quốc gia do chính phủ sở hữu đầu tư

phần lớn nguồn vốn của mình vào chứng khoán Chính phủ (theo Ajayi và Ojo). Tại Kenya, tình hình cũng

tương tự. Mức độ tăng hoặc huy động tích luỹ của các quỹ hưu trí bắt buộc cũng chưa được xác định rõ

ràng. Rất nhiều thành viên của các quỹ này có lẽ cũng sẽ tích luỹ một khoản đang kể phần đóng góp của

mình tại các quỹ tương tự và sự đóng góp của cán bộ công nhân viên trong các chương trình do chính phủ

đưa ra cũng chỉ là một khoản thuế lượng phát sinh thêm mà thôi. Nhưng tác động của các quỹ này, đặc

biệt đối với các quỹ do chính phủ lập ra, là đã hướng vốn tích luỹ vào trong tay chính phủ. Các quy này

còn thực hiện chức năng chuyển hoá thời hạn, do tính chất dài hạn của phí bảo hiểm cho phép vốn được

cấp vay trên cơ sở dài hạn. Phương án tích luỹ khác (ví dụ: gửi tiền tại ngân hàng thương mại) có sẽ

không cho phép thực hiện chức năng chuyển hoá thời hạn như vậy.

(h) Các công ty cho vay xây dựng nhà ở (Housing Finance Companies)

14

Các tổ chức này thường nhận tiền gửi của hội viên để cho các hội viên khác vay mua nhà. Người

tích luỹ thường gửi tiền nhằm mục đích có đủ tieu chuẩn vay mua nhà. Trên thực tế, có lẽ đây là lý do duy

nhất của việc tích luỹ theo phương thức này do một số công ty cho vay xây dựng nhà ở k hông dành cho

người gửi những điều khoản ưu đãi lắm. Phần lớn những khoản vốn gửi sẽ được dùng để cho vay mua

nhà hoặc xây nhà, và đáy là phương tiện quan trọng để có vốn xây dựng nhà ở. Phần vốn vay khả dụng

được dùng để đầu tư mua chứng khoán, thường là trái phiếu Chính phủ. Tại một số nước, các Chính phủ

thường có chính sách ưu đãi thuế đối với tiền gửi và tiền trả lãi vay thế chấp nhằm khuyến khích người

dân mua nhà, sở hữu nhà và tăng cường chất lượng nhà ở nói chung. Mặc dù mục tiêu là chính đáng, kết

quả thực tế lại là những biến dạng trên thị trường tài chính, theo đó tiền được đổ vào đầu tư nhà ở đạt mức

cao hơn so với trường hợp không có ưu đãi về thuế. Tại Anh, việc cấp vốn vay tài chính đầu tư nhà ở đôi

khi bị chỉ trích do đã hút một khoản quá lớn tiền tích luỹ vào mục đích đầu tư nhà ở, làm ảnh hưởng tới

đầu tư công nghiệp và kích thích giá nhà tăng cao.

Dĩ nhiên, các tổ chức này vay ngắn cho vay dài. Do vậy, chức năng chính của loại hình thể chế

này là chuyển hoá thời hạn, và cũng vì vậy mà các tổ chức này rất dễ bị đổ (run). Nhưng nhìn chung, họ

cũng tránh được rủi ro này thông qua việc nhận tiền gửi của nhiều đối tượng gửi nhờ, phần lớn các đối

tượng muốn gửi tiền để có đủ tiêu chuẩn vay đầu tư nhà ở. Mức tiền gửi ổn định và người vay trả nợ đúng

hạn là các yếu tố quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức này. Tại một số nước, các tổ chức này

được chính phủ bảo đảm (thậm chí do chính phủ sở hữu). Tại các nước khác, như ở Anh chẳng hạn các tổ

chức này được bảo đảm bởi các thoả thuận “cứu hộ” ký kết giữa các tổ chức với nhau nhằm được giúp đỡ

trong trường hợp đổ bể. Các tổ chức này thường thu hút những người tích luỹ nhỏ và có cạnh tranh với

ngân hàng và bưu điện trong việc thu hút vốn gửi. Tuy nhiên, đối với người gửi tiền thì động cơ chính

chính là lời hứa sẽ được vay đầu tư nhà ờ sau khi đã đạt được một mức tiền gửi nhất định hoặc sau một

thời hạn tích luỹ nhất định. Vì lý do đó, các tổ chức cấp vốn vay xây nhà cũng có tác dụng khuyến khích

tích luỹ và có thể cũng tăng được tích luỹ, chứ không chỉ đơn thuần chuyển tích luỹ từ hình thức thể chế

này sang hình thức thể chế khác.

Một điều thú vị là nguồn gốc của các tổ chức cho vay đầu tư xây dựng bắt đầu tư những thể chế

tiết kiệm và cho vay phi chính thức tại miền bắc nước Anh trong thế kỷ 19. Có một số tồn tại mãi, song

cũng có một số chấm đứt hoạt động sau khi các thành viên của mình đã mua nhà xong. Quy mô và tầm

quan trọng của loại hình tổ chức này trong khu vực tài chính của Anh cho thấy tiềm năng phát triển thành

các tổ chức chính thức của các tổ chức tài chính phi chính thức tại các xã hội đang phát triển.

15

Tại các thuộc địa của Anh, mô hình này cũng diễn ra tương tự, ví dụ như tại Malaysia. Tuy nhiên,

tại các nước khác, các ngân hàng tiết kiệm và cho vay và các ngân hàng cho vay thế chấp mua nhà thường

là nguồn cung cấp vốn vay đầu tư ở nhà chính.

(i) Các ngân hàng tiết kiệm và cho vay (Savings and Loans Banks).

Các ngân hàng tiết kiệm (tên gọi tắt của các loại tổ chức nêu trên) là những trung gian tài chính

phi lợi nhuận, có những mục tiêu sau đây:

+ Nhận tiền gửi tiết kiệm cho đầu tư xây dựng nhà ở, đặc biệt cho nhóm người có thu nhập thấp.

+ Cấp tín dụng cho người gửi tiết kiệm và cho các đối tượng khác, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ

và cá nhân đóng trong vùng hoạt động.

Các tổ chức này có thể do chính phủ sở hữu hoặc do chính quyền địa phương, khu vự sở hữu,

nhưng cũng có thể hoạt động dưới hình thức hợp tác xã. Các tổ chức này có một lịch sử rất lâu đời, bắt

nguồn từ Scolland vào năm 1810. Ngân hàng tiết kiệm tín thác được thành lập ở Anh vào năm 1817 và đã

phát triển nhanh chóng, đạt số lượng 400 chi nhánh với tổng lượng tiền gửi 14 triệu Bảng Anh của

400,000 người gửi. Các tổ chức này không hoàn toàn đạt được mục tiêu của mình, vì hấp dẫn với cả tầng

lớp trung lưu cấp thấp, tầng lớp tư sản lẫn người nghèo, và vì vậy đã dẫn tới hình thức quỹ tiết kiệm tại

bưu điện vào năm 1861. Fishlow (1961) có nhận xét rằng:

Các quỹ tiết kiệm tại bưu điện được thành lập vào năm 1861 chính là để bù đắp cho sự thất vọng

với hoạt động của các ngân hàng tiết kiệm. Hình thức mới này nhanh chóng vượt ngân hàng tiết kiệm cả

về mức tiền gửi lẫn số lượng người gửi tiền. Đồng thời, hình thức này có thể thu hút được người gửi

thuộc tầng lớp thấp một cách có hiệu quả hơn. Ngân hàng Tín thác, vốn được thành lập với những niềm

hy vọng to lớn, mau chóng bị đưa xuống vai trò th ứ yếu trong việc thu hút các khoản tích luỹ nhỏ.

Mặc dù khái niệm về hình thức ngân hàng tiết kiệm rất hấp dẫn đối với các nước đang phát triển

do thu hút được các khoản tích luỹ mà lẽ ra đã không được sử dụng, hình thức này không thể mặc nhiên

được coi là liều thuốc chữa bệnh đối với khu vực tài chính của các nước đang phát triển. Một điều thú vị

là UNESCO (1973) đã có báo cáo rằng xu hướng chung của các nước châu Phi là thực hiện tổ chức lại

các quỹ tiết kiệm tại bưu điện thành các ngân hàng tiết kiệm, hoặc thành lập những ngân hàng tiết kiệm

mới. Cuối những năm 60 và trong những năm 70 một số nước cũng đi theo một trong số các mô hình trên.

Chúng ta hãy cùng đánh giá hoạt động của các tổ chức này sau 10 – 15 năm hoạt động.

16

Cơ cấu cho vay của các ngân hàng tiết kiệm tại các nước rất khác nhau. Tại Mỹ, các hiệp hội cho

vay và tiết kiệm là nguồn cấp vốn lớn nhất cho đầu tư nhà ở nhưng Viện Ngân hàng Tiết kiệm Quốc tế

lại không phân loại đó là một ngân hàng tiết kiệm. Các tổ chức cho vay đầu tư xây dựng cũng không được

phân vào loại này. Tuy nhiên, một điều rõ ràng là nhìn chung một trong những chức năng cho vay chính

của các ngân hàng tiết kiệm là cung cấp tài chính xây dựng nhà ở. Tại Tây Ban Nha, các tổ chức này cung

cấp tới 75% lượng vốn cho vay thế chấp nhà ở. Ở Ý và Đan Mạch, con số tương ứng khoảng 70%. Tại

Argentina, lượng vốn cho khu vực công cộng vay chiếm khoảng 40% tổng lượng cho vay của các ngân

hàng tiết kiệm, tại Úc con số này là 35%, tại Thái Lan là 30%. Có một số cho vay các doanh nghiệp nhỏ

tại địa phương là chủ yếu. Các tổ chức xây dựng, quỹ tiết kiệm tại bưu điện, ngân hàng cho vay và tiết

kiệm đều có một chức năng chung là huy động các khoản tích luỹ nhỏ của tư nhân. Tại nhiều nước, các tổ

chức này cùng tồn tại một lúc, (Tại Anh, các tổ chức thuộc loại này cùng tồn tại với Ngân hàng Tiết kiệm

Quốc gia của Chính phủ, có chức năng tương tự) và cùng cạnh tranh để thu hút vốn. Tuy nhiên, các tổ

chức này lại rất khác nhau trong việc cấp tín dụng. Hiện còn chưa rõ đâu là giải pháp cho phép tối đa hoá

nguồn vốn huy động hoặc đâu là giải pháp ít tốn kém nhất. Tuy nhiên, việc các tổ chức cho vay và tiết

kiệm phát triển với chi nhánh khắp nơi trong nước xem ra là rất hấp dẫn đối với các nước đang phát triển

do các tổ chức này có thể thu hút những khoản tích luỹ nhỏ, tại khu vực nông thôn, đồng thời cung cấp tín

dụng cho các loại hình hoạt động khác nhau.

Các tổ chức cho vay và tiết kiệm tại các nước châu Mỹ la tinh có xu hướng theo mô hình của Mỹ,

với phần lớn là các tổ chức cho vay xây dựng, trừ lại các thuộc địa cũ của Anh. Tổ chức cho vay và tiết

kiệm đầu tiên trong khu vực được thành lập tại Peru vào năm 1957 nhưng sau đó trong những năm 60 và

70, rất nhiều nước khác thành lập theo. Kết quả là hầu như mọi quốc gia trong vùng đều có loại tổ chức

này. Tuy nhiên, ngay từ năm 30, 40, 50 các ngân hàng thế chấp cũng đã được thành lập để cung cấp vốn

xây dựng nhà ở (chủ yếu cho giới trung lưu).

Cho tới năm 1970, Philiopine là nước duy nhất ở Châu Á có các tổ chức cho vay và tiết kiệm. Ở

đó cũng có các ngân hàng tiết kiệm và các tổ chức cho vay xây dựng. Tại Hồng Kông có các tổ chức cho

vay và xây dựng, trong khi đó tại Malaysia và Singapore có các công ty cho vay xây dựng Emery (1970)

có nhận xét: một trong các nhóm thành công nhất chính là các tổ chức cho vay xây dựng của Malaysia và

Singapore… Sự hoạt động của các tổ chức này có thể được coi là hình mẫu cho các nước Đông Nam Á

khác.

2. CÁC TỔ CHỨC BÁN CHÍNH THỨC VÀ KHÔNG CHÍNH THỨC.

(a) Các hợp tác xã tín dụng và các hiệp hội tín dụng.

17

Các chương trình cho vay và tiết kiệm hợp tác xã hay tiết kiệm tương hỗ là khu vực chính thức

tương đương với các chương trình cho vay và tiết kiệm không chính thức (xem dưới đây). Các tổ chức

này chính thức ở chỗ chúng có đăng ký với Cục Đăng ký (hay phòng đăng ký) của các hợp tác xã hay các

Cục đăng ký của các Tổ chức Tương hoá xã hội. Cả Emery (1970) và Drake cho rằng các hợp tác xã

thành công nhất là các hợp tác xã đô thị, nơi mà hầu hết thành viên là những người làm công việc văn

phòng “công nhân cổ trăng”. Các tổ chức này dường như là cung cấp tín dụng tiêu dùng hơn là các quỹ

đầu tư. Các hợp tác xã nông nghiệp, mặt khác đôi thi được các chính phủ và các FDI sử dụng như là

phương tiện để chuyển các khoản vay cho các tiểu nông để mua thiết bị, cải thiện đất đai và sử dụng vào

vốn lưu động và vì vậy chúng ngay lập tức được coi là công cụ để cung cấp các tài trợ đầu tư. Hoạt động

của chúng đã trở nên rất tồi tệ ở một số nước do việc thất thu các khoản nợ. Hoạt động của chúng đã trở

nên rất tồi tệ ở một số nước do việc thất thu các khoản nợ. Mặc dầu các tổ chức tín dụng hợp tác xã có

thể là nguồn tài chính cho các tiểu nông, cấc tổ chức này, về mặt số lượng, ít khi cung cấp một khoản lớn

tín dụng nếu xét trong tổng tín dụng quốc gia.

Các hiệp hội tín dụng thực hiện các chương trình tiết kiệm hợp tác xã tức là cung cấp tín dụng

cho các thành viên. Với sự động viên của Uỷ ban hiệp hội tín dụng thế giới và một số các Hiệp hội Quốc

gia của các hiệp hội tín dụng như ở Canada hay ở Mỹ, chúng ta được thành lập ở một số lớn các nước

đang phát triển. Các tổ chức này thường là các tổ chức địa phương xét về mặt các thành viên và các hoạt

động của chúng, chủ yếu tập trung tại các làng, cơ sở làm việc, thậm chí các tổ chức như nhà thờ. Các tổ

chức này rất thịnh hành tại một số nước. Emery (1970) ghi lại rằng ở Philippin có hơn 1000 các hiệp hội

tín dụng vào cuối năm 1967. Vào cuối năm 1972, 21 nước Châu phi có các hiệp hội tín dụng. Các tư cách

pháp nhân của các hiệp hội tín dụng ở các nước khác nhau thì khác nhau. Các tư cách pháp nhân của các

hiệp hội tín dụng ở các nước khác nhau thì khác nhau; ở một số nước chúng là các tổ chức pháp lý do Nhà

nước quản lý; ở một số nước khác chúng không có tư cách pháp nhân và thực sự thuộc về khu vực tài

chính không chính thức.

Thường các tổ chức này bao gồm ít thành viên tham gia (tối thiểu là 25 thành viên) và khối lượng

vốn nhỏ, các tổ chức này trả lãi cho các khoản tiền gửi và thu lãi (thậm chí lãi cao hơn rất nhiều) đối với

các khoản cho vay đối với các thành viên. Các khoản vay thường là ngắn hay trung hạn (lên tới 2 năm),

hầu hết cho các mục đích tiêu dùng như là cưới xin, ma chay, mua sắm ô tô và phần trả trước cho việc

mua nhà cửa. Trong nhiều trường hợp cấc tổ chức này cung cấp cách tiếp cận các tín dụng mà các khu

vực (ví dụ như các ngân hàng thương mại). Việc giám sát và quản lý thường do các chuyên viên được bổ

nhiệm theo tinh thần tự nguyện thực hiện, nhằm giữ các chi phí ở mức thấp, nhưng việc quản lý kém có lẽ

là nhược điểm lớn nhất của các tổ chức này. Thêm vào đó, chúng cũng gặp các trường hợp vay nợ không

18

trả được và đặc biệt khi việc giám sát kém dẫn đến biến thủ vốn. Các tổ chức này không cấp tín dụng cho

những người ngoài tổ chức và vì số lượng nhân viên hạn hẹp các tổ chức này có rất ít cơ hội để phát triển.

Trong nhiều trường hợp chúng cung cấp tín dụng với lãi suất thực âm cho những người gửi tiền dẫn đến

không khuyến khích việc tiết kiệm.

Sai lầm của các hiệp hội và hiệp hội và hợp tác xã tín dụng, rất dễ xảy ra, và cần phải thừa nhận

rằng mối quan hệ của tác giả với các tổ chức tín dụng (ở Zambia) cho thấy rằng các tổ chức này còn phải

phấn đấu nhiều hơn nữa. Vì vậy thật là hài lòng khi ghi nhận một báo cáo gần đây rằng một số các tổ

chức và hiệp hội tín dụng thành công trong việc cung cấp tín dụng nông nghiệp và nông thôn ở Châu Phi

(Van Pizchke và Rouse, 1983). Báo cáo cho biết tổ chức Caisse Nationale de Crelit Agricole (Morocco)

chương trình tiết kiệm hợp tác xã của Kenya, các hiệp hội tín dụng ở Camcroun, các câu lạc bộ tiết kiệm

nông thôn ở Zimbabwe và các nhóm tín dụng ở Malawi đã thành công hay ít nhất là một phần nào đó

thành công. Những tổ chức này đối ngược với các thất bại chung của các tổ chức tự chovay nông thôn

huy động các nguồn vốn nội bộ”.

(b) Các hội Cho vay và Tiết kiệm không chính thức.

Các chương trình tín dụng hợp tác xã và các hiệp hội tín dụng thường đăng ký với chính phủ hay

là một phần của phong trào quốc gia và vì thế được coi là chính thức hoặc là các tổ c hứ bán chính thức.

Ngoài các tổ chức kiểu này, các hội cho vay và tiết kiệm không chính thức với chức năng như là các câu

lạc bộ tiết kiệm cho các thành viên và cũng cung cấp các khoản vay cho các thành viên. Chủng được sử

dụng bởi phần lớn những người không thể tiếp cận được với các hiệp hội cho vay và tiết kiệm không

chính thức, và không có các tài khoản ngân hàng, hoặc là vì các tổ chức chính thức không gần về mặt địa

lý, hoặc vì các cá nhân không có vị trí tài chính và xã hội thích hợp. Vì vậy hình thức này rất phổ cập ở

các vùng nông thôn nói chung có thể cung cấp các thông tin rẻ hơn những người cho vay khác, và cũng

rất phổ cập tại các vùng đô thị nơi mà chúng cung cấp những lãi suất hấp dẫn hơn so với các tổ chức tín

dụng đông đúc khác cho những người tiết kiệm.

Các hội hội cho vay và tiết kiệm không chính thức có thể hoạt động theo nhiều cách khác nhau.

Có thể là các quỹ có vốn cố định (như các ngân hàng), có nguồn vốn biến động, trong đó các thành viên

đóng góp theo từng tháng, lần lượt, cố định hay theo kỳ. Họ có thể cho vay vì bất cứ mục đích nào hay có

thể giới hạn việc cho vay cho một số các mục đíc nhất định như nhà cửa hay giáo dục. Chúng có thể tồn

tại để tiết kiệm việc chi tiêu của cộng đồng, như là các nhà máy cung cấp điện của làng xã. Việc quản lý

thường được các thành viên cung cấp miễn phí và vì vậy chi phí rẻ hơn. Trong khi các hiệp hội có thể

quan trọng đối với các thành viên, nhưng thực tế thì chúng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tiết kiệm

19

của toàn đất nước. Tuy nhiên, Begashaw (1977) ước lượng rằng ở Ethiopia, các hiệp hội không chính

thức thực hiện tiết kiệm và cho vay lên tới 8% hay hơn của tổng thu nhập đất nước.

Các ngân hàng di động có thể hoạt động trên cơ sở không chính thức, cung cấp các dịch vụ cho

các thương nhân và tại thị trường. Chúng có thể trong một số trường hợp hoạt động như là các đại lý của

những người cho vay hoặc các thương nhân trong khu vực không chính thức, như ví dụ ở Đông Phi theo

Miracle, và Cohen (1980). Những người cầm đồ trên toàn thế giới cung cấp các tín dụng trên khu vực

không chính thức ở các nước như Đông Nam bao gồm Indonêsia vàMiến Điện thì do chính phủ sở hữu và

điều khiển hoạt động. Các tổ chức này có thể khá lớn nhưng các số liệu về chúng thì còn rất hạn chế. Ở

Indônêsia năm 1979, ví dụ các hiệu cầm đồ cho vay cỡ khoảng 90 tỷ rupi, trong khi đóng góp bảo hiểm

nhân thọ chỉ khoảng 66 tỷ rupi (theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Indonesia 1980/ 1981). Emery

(1970) báo cáo rằng ở Thái Lan các hiệu cầm đồ cung cấp một nguồn rất quan trọng đứng khoảng thứ tư

sau các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ và Ngân hàng Trung ương, năm 1968.

(c) Tín dụng nông nghiệp và các thị trường tín dụng nông thôn không chính thức.

Khu vực tài chính nông thôn ở những nước đang phát triển còn rất rời rạc khác biệt với khu vực

tài chính đô thị. Thường thì các tổ chức đô thị thường tiếp cận các vùng nông thôn một các chắp vá. Tuy

nhiên các cơ hội đối với tiết kiệm và tín dụng ở các vùng nông thôn rất hạn hẹp và ít hơn nhiều so với

thành thị, thường nảy sinh các "sở hữu tay đôi về tài chính". Tại các vùng nông thôn khu vực tài chính

không chính thức trở nên quan trọng hơn tại các vùng đô thị, và các tổ chức bán chính thức như các hợp

tác xã tín dụng thường được thấy nhiều hơn là các ngân hàng và các hiệp hội địa ốc. Nhiều chính phủ (và

các tổ chức trợ giúp) đã cố gắng thiết lập các tổ chức tín dụng nông nghiệp với mục đích là chuyển tín

dụng (thường là tín dụng trợ cấp) cho các tiểu nong. Các tổ chức như vậy thường không nhận tiền gửi và

cũng không huy động vốn.

Thực tế là các chính phủ đã bỏ nhiều công nghiên cứu vấn đề này cho rằng chức năng của các tín

dụng nông thôn không thể thực hiện một cách thích đáng bởi khu vực tư nhân hay ít nhất là khu vực tư

nhân chính thức. Các ngân hàng thương mại cho rằng khối lượng kinh doanh ở các vùng nông thôn là

thấp. Tính đến chi phí cố định tương đối cao của các chi nhánh ngân hàng, các ngân hàng thấy rằng khó

có thể hoạt động hiệu quả ở nhiều vùng, đặc biệt là nếu họ không được phép điều chỉnh chênh lệch giữa

lãi suất cho vay và lãi suất vay để trang trải các chi phí giao dịch. Thậm chí nếu họ muốn làm điều này họ

có thể sẽ thành công chỉ khi họ phải di chuyển đi lại nhiều. Thứ đến họ luôn coi tín dụng nông thôn và

trang trại nhỏ là tín dụng có rủi ro cao và thường có xu hướng giảm lợi nhuận trừ khi họ có thể tăng lãi

suất cho vay mà không giảm cầu về vay.

20

Vì vậy đối với các vùng rộng lớn trên thế giới, các thị trường tài chính nông thôn thường hoạt

động trên các chương trình hợp tác xã không chính thức hoặc bán chính thức, với những người cho vay

truyền thống (bao gồm thương nhân, người môi giới và các địa chủ). Những người cho vay này thường bị

phê phán vì đã thu những lãi suất quá đáng. Bottomley (1963, 1964, 1975) đã phân biệt 4 nhân tố quyết

định lãi suất ở các vùng nông thôn.

- tỷ lệ lãi suất phi rủi ro (đây là chi phí cơ hội của huy

động vốn);

Cộng với - phần thu bù đắp rủi ro.

Cộng với - phần thu bù đắp chi phí giao dịch

Cộng với - nhân tố của lợi nhuận độc quyền.

Khó mà có thể thực hiện việc phân chia các lãi suất nông thôn theo 4 nhân tố này. Thường thì,

mặc dù kết quả thu được là lãi suất thương mại tại các vùng nông thôn thường lớn hơn nhiều so với lãi

suất các tổ chức tín dụng chính thức thu của khách hàng. Ngân hàng thế giới (1975) đã ghi lại lãi suất

danh nghĩa và lãi suất thực tế đối với nông dân, theo nguồn cho vay. Tại tất cả các nước được liệt kê, lãi

suất thương mại do các cá nhân cho vay thu thường cao hơn nhiều so với lãi suất các tổ chức tín dụng thu.

Lãi suất thực tế được liệt kê cho tất cả các ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay ở 23 nước. Tóm

tắt một cách sơ lược, lãi suất thực tế thu, trung bình trên 23 nước, là 3.6% đối với các tổ chức cho vay và

54% đối với các cá nhân cho vay. Sự chênh lệch thật sửng sốt.

Tất nhiên hầu hết các tổ chức tín dụng đều được trợ cấp, nhưng người ta buộc phải nói đến lý do

khác đối với việc thu lãi suất quá cao của các cánhan cho vay. Trong số 4 nhân tố quyết định cho

Bottomley đưa ra, 3 lý do hoàn toàn có thể giải thích cho việc thu lãi quá cao này. Trên tất cả thị trường

tài chính, lãi suất bao gồm tỷ lệ phi rủi ro cộng với phần trả cho rủi ro chấp nhận cộng với chi phí giao

dịch là rất phổ biến. Thực tế, thị trường tiền tệ không thể tồn tại nếu không có cơ sở như vậy cho lãi suất.

Điều mà không thể chấp nhận được (không nghi ngờ gì chỉ có thể chấp nhận được đối với người cho vay)

là nhân tố lợi nhuận độc quyền, mà tôi sẽ trình bày một cách kỹ hơn dưới đây. Một giải thích có thể nữa

là đối với lãi suất rất cao là những người cho vay thường dự đoán quá cao rủi ro của tín dụng nông thôn,

và vì vậy đã thu phí rủi ro cao. Chúng tôi có ý định không đề cập nhiều đến lý do này vì cho rằng những

người cho vay có kinh nghiệm và hiểu công việc kinh doanh của họ. Phần thu bù đắp cho rủi ro có thể cao

nhưng dẫu sao cũng có thể điều chỉnh được. Tuy vậy còn có một lý do nữa không được nói đến trong các

nhân tố quyết định của Bottomely là sự thiếu hiểu biết của người vay. Thật đơn giản là họ không nhận

21

biết được lãi suất thực sự mà họ trả, đặc biệt đối với tín dụng ngắn hạn. Hơn nữa, họ không biết các

nguồn vốn rẻ hơn để xin vay hoặc là chính thức hoặc là không chính thức. Gần đây chính phủ Anh đã đưa

ra yêu cầu rằng tất cả những người cho vay cần phải đưa ra giá thực tế tính theo năm và đầy là điều cần

thiết để bảo hộ người vay, người không bao giờ nhận ra được giá thực của khoản vay. Vấn đề cần phải

bàn kỹ hơn đối với các nước đang phát triển nơi mà giáo dục và máy tính cá nhân còn chưa được sử dụng

rộng rãi. Tuy vậy, bằng chứng về vấn đề này dường như là cá biệt hơn là hệ thống.

Các tác giả khác nhấn mạnh các nhân tố khác mà tồn tại tại các thị trường chưa hoàn hảo. Long

(1973) bao gồm:

- Khan hiếm tư bản;

- Chi phí quản lý cao;

- Tỷ lệ không trả được nợ cao;

- Tính thời vụ của nhu cầu tín dụng.

Là các lý do có sự chênh lệch giữa lãi suất trong thị trường chính thức và không chính thức. Các

chi phí quản lý và tỷ lệ không trả được nợ cao cũng được miêu tả trong sách của Bottomley, nhưng sự

khan hiếm vốn và tính thời vụ của cầu tín dụng được nhấn mạnh ở sự khác biệt giữa cung và cầu giữa khu

vực không chính thức và chính thức. Wai (1975, 1997) đề cập tới cung (thiếu vốn, lợi nhuận độc quyền,

bảo đảm thiếu tin cậy, tỷ lệ không trả nợ) và cầu (mức thu nhập thấp của nông nghiệp, vay phục vụ nhu

cầu sơ đẳng về thức ăn, quần áo và chỗ ở, nhu cầu thời vụ; và mức giáo dục và tỷ lệ biết chữ thấp) để giải

thích cho lãi suất trong thị trường không chính thức.

Lợi nhuận độc quyền là nhân tố của tín dụng nông thôn mà gây nên tranh luận trong giới giáo dục

và đã trở thành mục tiêu của những nhà quản lý cop, những người muốn giảm ảnh hưởng bằng việc cung

cấp các tín dụng rẻ và các tín dụng từ các tổ chức tín dụng để thay thế. Nhưng mức lợi nhuận độc quyền

để đến mức độ nào? Không may là các bằng chứng còn rất hạn chế. Xin trích dãn lời Ngân hàng thế giới

(1975).

Rất ít nghiên cứu cho thấy các vấn đề về lãi suất trên thị trường không chính thức. Các nghiên

cứu chỉ ra rằng ở Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thai Lan và Cộng hòa Việt Nam, cho thấy lãi suất đối với

các khoản vay thương mại không quá cao so vói lãi suất trên thị trường. Nhưng ở Malaysia và Chi lê, lãi

suất là quá cao do độc quyền mà những người cho vay có được (p.29).

22

Wai (1977) đã tính toán một cách sơ bộ sự chênh lệch giữa lãi suất tại các thị trường tiền tệ có tổ

chức và không có tổ chức, dựa trên các số liệu đối với tín dụng cho nông dân bị quá hạn, ông đã kết luận

rằng các nhân tố rủi ro và lợi nhuận độc quyền cho mỗi tài khoản là khoảng 1/6 tổng chênh lệch, nhu cầu

cấp thiết là 1/3, với phần còn lại là do các nhân tố khác, chủ yếu do thiếu vốn và thế chấp không an toàn.

Chi phí cao và khan hiếm tín dụng trong khu vực không chính thức đã buộc nhiều nước đang phát

triển phải thiết lập tổ chức tín dụng nông nghiệp và nông thôn. Tài trợ ngoài nước đã động viên quá trình

này với trợ giúp về kỹ thuật và bằng việc sử dụng các tổ chức để thực hiện các chương trình phát triển

nông thôn. Mục tiêu của các tổ chức tín dụng này là cung cấp thêm các tín dụng ở lãi suất thấp hơn lãi

suất hiện hành trên thị trường không chính thức. Wai (1977) thấy rằng trong 13 nước, mục tiêu này đều

đạt được ở một mức độ nào đó nếu so sánh giai đoạn 1948- 51 với 1968- 71. Chênh lệch giữa lãi suất

không chính thức và lãi suất chính thức đã thu hẹp từ 34% ở giai đoạn trước đến 19% ở giai đoạn sau, cho

thấy 2 thị trường đã xích lại gần nhau. Mặt khác, ông cho thấy, các luật nhằm giảm lãi suất không chính

thức không thành công.

Nhiều tổ chức đã được thiết lập, với sở hữu, tài trợ và trợ cấp bởi chính phủ. Tuy vậy ở một số

nước, ví dụ Brazil, Ấn Độ, khu vực tư nhân đã dẫn vai trò chủ đạo, mặc cho việc chính phủ khuyến khích

hay kìm hãm. Các Ngân hàng thương mại thường đóng vai trò nhỏ. Một ngoại lệ là cố gắng của chính phủ

Nigeria vào năm 1977, đã ra lệnh cho các ngân hàng thương mại mở các chi nhánh tại vùng nông thôn.

Trong giai đoạn 1977 - 80, 200 chi nhánh nông thôn và sau đó 266 đã được mở. Mặc dầu việc này đã dân

tới việc tăng tín dụng nông thôn và cung cấp nhiều cơ hội hơn cho tiết kiệm nông thôn nhưng chương

trình này đã đem lại lỗ rất lớn cho ngân hàng. Ví dụ vấn đề đi lại, nhân viên, ăn ở, lượng kinh doanh nhỏ

và thế chấp thiếu bảo đảm (Osuntogun và Adewunmi, 1983). Việc tăng nhanh các chi nhánh của các ngân

hàng thương mại đã xẩy ra ở Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Sri Lanka. Về mặt lâu dài, người ta hy

vọng rằng hệ thống tín dụng nông thôn sẽ hòa nhập vào thị trường tiền tệ quốc gia thông qua hệ thống

ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quá trình này sẽ không dễ dàng và Wilson (1980) đã nhấn mạnh yêu

cầu cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ và ngân hàng thương mại nếu muốn thiết lập thành công

hệ thống ngân hàng ở nông thôn.

Việc chính phủ cấp tín dụng lãi suất thông qua các tổ chức tín dụng nông thôn mới đầu có vẻ là

một phương án tối ưu. Nỗ lực nhằm xóa bỏ lợi nhuận độc quyền trên thị trường tín dụng không chính

thức là rất đáng trọng, và người ta thông cảm với những cố gắng làm giảm khó khăn cho người nghèo.

Tuy nhiên, những chương trình này thường gặp phải những khó khăn như lãi suất cố định cao, hệ thống

quản lý tín dụng sơ sài và tốn kém, việc phân bổ tín dụng sai chỗ làm cho tín dụng sai chỗ làm cho tín

dụng chủ yếu đến với các phú nông hoặc chỉ được sử dụng như tín dụng tiêu dùng và việc các tổ chức tín 23

dụng không khuyến khích hoạt động tiết kiệm ở địa phương. Nhiều tổ chức thậm chí còn không nhận tiền

gửi và nếu họ có nhận thì mức lãi suất cũng thường thấp. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là họ làm hỏng

thị trường tài chính, dẫn đến sự phân bổ sai các nguồn lực, và theo ý kiến của tôi tình hình này chưa được

làm một cách đầy đủ để hỗ trợ lớn đối với tín dụng nông thôn bằng chi phí của các ngành khác trong nền

kinh tế. Tôi thấy có vẻ như mức lãi suất mà những người cho vay đặt ra chủ yếu phản ánh những rủi ro và

chi phí thực tế của việc cung cấp tín dụng nông thôn, không kể yếu tố lợi nhuận độc quyền mà theo Wai

(1977) thì cũng có thể không lớn lắm. Thực tế là sản xuất nông nghiệp nhỏ và manh mún lại có rủi ro rất

cao. Đây không phải là lỗi của thị trường tín dụng, mà đúng hơn là lỗi của cơ cấu nông nghiệp. Nếu nông

thôn đang tiến hành phát triển kinh tế lớn thì nhiều khả năng là giá hàng nông nghiệp ở nhiều nước sẽ

phải tăng, và các chủ đất sẽ phải liên kết lại với nhau để thiết lập những nông nghiệp ở nhiều nước đang

tiến hành phát triển kinh tế lớn thì nhiều khả năng là giá hàng nông nghiệp ở nhiều nước sẽ phải tăng và

các chủ đất sẽ phải liên kết lại với nhau để thiết lập những nông trang có qui mô hợp lý, được vận hành

tốt cũng như được cấp vốn đầy đủ và có đánh giá rủi ro tín dụng tốt hơn nhiều so với nhiều người hiện

đang đi vay. Lúc đó thì việc cạnh tranh để cho vay sẽ tăng lên và lãi suất sẽ giảm xuống. Tất nhiên đây sẽ

là một quá trình không dễ dàng, và việc thu hút tầng lớp những người không có đất là nước công nghiệp

phát triển, và nếu ai đó nghĩ rằng có thể đạt được sự phát triển kinh tế mà không phải trải qua những khó

khăn đó thì người đó đang tự lừa dối mình. Việc cấp tín dụng lãi suất thấp chỉ kéo dài cơ cấu nông nghiệp

không thỏa đáng hiện thời, và nếu chính phủ muốn giúp đỡ nông dân nghèo thì tốt hơn cả là chính phủ có

thể làm việc đó bằng cách trợ cấp trực tiếp (bằng tiền hay các hình thức khác) hoặc bằng cách đưa ra giá

cao hơn đối với hàng nông nghiệp. Adarns (1980) nhận xét rằng "Quá nhiều chính sách dành cho thị

trường tài chính nông thôn có tính chất rất lỗi thời và đang nhận được nhiều ý kiến về vấn đề nay, và tôi

cho rằng đã đến lúc phải kéo các chính sách thị trường tài chính nông thôn sang thế kỷ hai mươi", và

chúng ta thông cảm với quan điểm này.

(d) Tín dụng đô thị không chính thức.

Trong khi một số lượng hợp lsy các khảo sát về thị trường tín dụng nông thôn được tiến hành: do

tầm quan trọng của nó đối với nông nghiệp thì những thông tin về thị trường tín dụng đô thị lại rất hạn

chế.

Một nghiên cứu của Timberg và Aiyar (1984) cho thấy thị trường đô thị không chính thức đồng

một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho thương mại và công nghiệp ở các vùng đô thị, cung cấp

khoảng 20% tổng dự nợ tín dụng thương mại của những thị trường được nghiên cứu. Những tổ chức công

nghiệp nhỏ tham gia trên thị trường này rất nhiều. Theo Rao (1981), một cuộc điều tra của Ngân hàng Dự

trữ Ấn Độ đã cho thấy nguồn vốn tín dụng của những tổ chức phi tài chính đã đáp ứng được:

24

- 39% tổng số vay nợ của những tổ chức công nghiệp nhỏ mà phần đầu tư vào nhà xưởng và thiết

bị lên tới 1000 Rupi;

- 25% tổng số vay nợ của tất cả các tổ chức công nghiệp nhỏ;

- 3,5% tổng số vay nợ của các công ty tư nhân sở hữu những tổ chức công nghiệp nhỏ;

- 21,4% những khoản vay liên quan đến vốn cổ phần trong lĩnh vực công nghiệp nhỏ.

Lãi suát trên thị trường không chính thức nói chung thường cao hơn lãi suất cho vay của ngân

hàng khoảng 2- 4%, có khi tới 10%. Một điều thú vị là, theo Timberg và Aiyar so với tín dụng ngân hàng

thì tín dụng của thị trường không chính thức có chi phí hoạt động thấp hơn. So với các ngân hàng thương

mại thì những ngườic cho vay trên thị trường không chính thức có những lợi thế sau:

- Họ không phải để một phần vốn nằm im không sinh lời vì không phải dự trữ bắt buộc theo luật

định.

- Họ có mối quan hệ gần gũi và thường xuyên với khách hàng của mình và với cả cộng đồng kinh

tế nối chung nên có thể cho vay mà không cần đảm bảo.

- Họ có ít công việc giấy tờ và các thủ tục hành chính quan liêu.

Từ những lợi thế này và từ kinh nghiệm của Ấn Độ có thể thấy rằng thị trường không chính thức

có một vai trò quan trọng tài trợ cho kinh doanh ở các đô thị của những nước đang phát triển. Tuy là thiếu

những bằng chứng có hệ thống nhưng những bằng chứng cá biệt có thể chúng mình cho kết luận này.

3. KẾT LUẬN

Ở nhiều nước đang phát triển những tổ chức tài chính chính thức vẫn còn lạc hậu và không có khả

năng cạnh tranh. Những tổ chức này ít về mặt số lượng và đối với phần đông dân cư thì việc tiếp nhận

những tổ chức này lại không phải là chuyên đề dễ dàng. Kết quả là các công cụ tiết kiệm bị hạn chế, và vì

vậy việc huy động tiết kiệm cũng bị hạn chế theo. Do đó các tổ chức tín dụng không chính thức có điều

kiện phát triển và chiếm lĩnh những mảng thị trường mà các tổ chức chính thức còn bỏ ngõ. Tuy nhiên thị

trường tài hcính không chính thức cũng có nhiều điểm yếu và chưa hoàn thiện hạn chế những tác dụng

của nó. Mặc dù nhiều chính phủ đã cố gắng khắc phục tình trạng kém hiệu quả về mặt tổ chức bằng cách

thiết lập các tổ chức tài chín, những tổ chức này, đến lượt nó lại không có hiệu quả. Các tổ chức tài chính

25

tư nhân thường xuyên cần được khuyến khích để phát triển và mở rộng, và những nỗ lực của chính phủ

nên hướng vào việc giảm bớt các quy định ngặt nghèo và có lẽ nên có những động cơ thúc đẩy sự phát

triển của các tổ chức này.

Câu 3: Một số học thuyết cầu về tiền (2 lý thuyết cơ bản là Cầu tiền của

Mak và cầu tiền mặt theo Keynes)

Các yếu tố nào tác động cầu của tiền trong nền kinh tế

1. Cầu về tiền theo quan điểm của C.Mác

Cầu tiền tệ:

- Tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế

- Tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ (tức là số vòng luân chuyển trong một năm của mức

cung tiền giao dịch)

Quan điểm về cân đối cung cầu tiền tệ:

- Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông là do số lượng hàng hóa đang lưu thông, mức giá cả hàng

hóa cao hay thấp và tốc độ lưu thông tiền tệ nhanh hay chậm. Hai nhân tố số lượng hàng hóa và

mức giá cả gộp lại thành khái niệm tổng giá cả hàng hóa

- Trên thực tế số lượng tiền trong lưu thông ít hơn nhiều so với tổng số giá cả hàng hóa bán ra, do

mỗi đơn vị tiền tệ trong một thời gian nhất định được luân chuyển nhiều lần. Như vậy, tốc độ lưu

thông tiền tệ có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lượng tiền cần thiết.

- C.Mác đưa ra một quy luật về lượng tiền cần thiêt trong lưu thông như sau:

Kc = H/V

Trong đó: Kc: khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông

H: Là tổng giá cả hàng hóa

V: là tốc độ lưu thông tiền tệ

Nếu gọi Kt là lượng tiền thực có trong lưu thông

26

- Kt > Kc dẫn tới thừa tiền

- Kt < Kc dẫn tới thiếu tiền, đều có ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế xã hội

Vì vậy để đảm bảo tôn trọng quy luật lưu thông tiền tệ theo quan điểm của C.Mác đòi hỏi chúng

ta phải nắm bắt nhu cầu về tiền trong lưu thông, qua đó đưa tiền vào lưu thông cho phù hợp

2. Cầu tiền tệ theo Keynes

Theo Keynes, có cầu tiền gồm các thành phần:

- Cầu giao dịch: các cá nhân, tổ chức nắm giữ tiền vì đó là phương tiện trao đổi có thể tiến hành

các giao dịch hàng ngày. Cầu giao dịch phụ thuộc vào thu nhập, giá cả, tần suất thanh toán…

- Cầu dự phòng: phụ thuộc vào thu nhập và các yếu tố xã hội khác

- Cầu đầu tư: phụ thuộc vào thu nhập, lãi suất và các yếu tố khác

Vì vậy mà hàm cầu theo quan điểm của Keynes:

Md = (Y, P, f, i, Z)

Trong đó: Y là thu nhập

P là mức giá

F là tần suất nhận được các khoản thu nhập

i là lãi suất của nền kinh tế

Z là các yếu tố khác của nền kinh tế xã hội

3. Cầu tiền theo M.Friedman: Có thể coi đây là sự phát triển quan điểm của Keynes trong đó:

- Giống quan điểm của Keynes: Về thành phần và nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ

- Khác quan điểm của Keynes: Cầu tiền còn phụ thuộc vào lợi tức kỳ vọng của các tài sản liên

quan đến tiền (cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản…) và tỷ lệ lạm phát. Và do vậy, hàm cầu tiền tệ của

M.FriedMan là:

Md = (Y, P, f, i, ia, ib, is, Z)

27

Trong đó: ia, ib, is lần lượt là lợi tức kỳ vọng khi đầu tư vào bất động sản, trái phiếu và cổ phiếu

SO SÁNH CÁC HỌC THUYẾT VỀ CẦU TIỀN TỆ

* Giống nhau:

-Cầu tiền của trường phái Cambridge có phương trình giống hệt với học thuyết lượng

tiền.

-Học thuyết của trường phái Cambridge và học thuyết lượng tiền đều phát triển một

phương pháp tiếp cận cổ điển tới cầu tiền,trong đó cầu tiền là tỷ lệ với thu nhập.

-Cả bốn học thuyết đều nghiên cứu các nhân tố liên quan đến cầu tiền tệ,dưới những góc

độ tiếp cận khác nhau.

* Khác nhau:

Học thuyết lượng tiền hiện đại Friedman Học H Học

iêu thuyết lượng ọc thuyết thuyết ưu tiên

chí tiền thanh khoản trường

phái

Cambridg

e

Khôn N Lãi Những thay đổi về lãi suất ít tác động

ác g xem lãi suất hấn mạnh suất là nhân tố đến cầu tiền và nhu cầu về những khoản tiền

động là nhân tố tác lựa chọn quan trọng xác nhỏ.Nhu cầu về tiền bạc có thể dự đoán một cách

chính xác theo chức năng của tiền. lãi động tới cầu cá nhân và định mức cầu

suất tiền.Nhấn không tiền.Cầu tiền

đến mạnh yếu tố chịu tác tỷ lệ nghịch

cầu công nghệ và động của với mức lãi

tiền lãi suất suất hiện hành. chính sách có

thể tác động

đến lãi suất

trong cầu tiền

ngắn hạn

28

Vòng V Vòng

òng quay tiền tệ là òng quay quay tiền tệ

hằng số quay tiền tệ là không phải là

tiền tệ hằng số hằng số và

thay đổi tích

cực liên quan

đến lãi

suất,dao động

đáng kể.

Chỉ Có ba Không phân tích các động cơ giữ

ý do nhằm mục động cơ giữ tiền,đơn giản chỉ ra rằng:Cầu tiền phải chịu ảnh

dân đích duy nhất tiền: động cơ hưởng bởi các nhân tố như cầu của bất kì tài sản

cho giao dịch chúng giao dịch,động nào.Cho rằng tiền bạc và hàng hóa có thể thay

thế cho nhau. cơ đầu quyết

cơ,động cơ dự định

phòng nắm

giữ

tiền

d

e

M d

.

PY

,

)

b

m

e

m

m

Gi

ống học àm

r

r

r

r

r

YiL ,( 

M P

 

 

 

M d P

  

 ,  

  

  ,    

  

  

 Yp   

1 V thuyết cầu

lượng tiền tiền

Cầu Số dư Cầu tiền phụ thuộc vào giá trị hiện tại

hân tố tiền phụ tiền thực mới của tất cả các khoản thu nhập trong tương lai

ảnh thuộc duy là nhu cầu tiền (đồng biến),nghịch biến với tỷ lệ sinh lời trái

hưởn nhất vào tổng thực sự của phiếu,cổ phiếu so với tiền,nghịch biến với tỷ lệ

sinh lời của tài sản hữu hình so với tiền. g đến sản phẩm dân chúng.Cầu

danh nghĩa lượng tiền thực phụ

29

tiền thuộc vào thu

nhập thực Y

(đồng biến),lãi

suất (nghịch

biến),mức

giá(đồng biến),

và vòng quay

tiền(nghịch

biến

Câu 4: Chính sách tài chính kiềm chế và tự do hóa tài chính có ưu,

nhược điểm gì? Liên hệ tại VN? Đặc biệt là tự do hóa lãi suất ở Việt Nam?

1. Chính sách tài chính kiềm chế:

a. Khái niệm: Kiềm chế tài chính là khái niệm để chỉ luật và chính sách của chính phủ hoặc những

biện pháp phi thị trường nhằm ngăn chặn các tổ chức trung gian tài chính của một nền kinh tế vận

hành tối đa năng lực.

Các chính sách: trần lãi suất, yêu cầu tỷ lệ thanh khoản, kiểm soát vốn, trần tín dụng,…

b. Ưu điểm của kiềm chế tài chính:

- Làm tăng tiết kiệm: do lãi suất giảm sẽ dẫn tới việc thu nhập chuyển từ các hộ gia đình sang công

ty và do khu vực công ty có hưởng tiết kiệm cao hơn.

- Khắc phục vấn đề lựa chọn bất lợi trong danh mục cho vay của khách hàng.

- Tạo giá trị thặng dư cho doanh nghiệp được vay vốn.

c. Nhược điểm của kiềm chế tài chính:

Kiềm chế tài chính dẫn đến việc phân phối kém hiệu quả nguồn vốn, làm tăng chi phí tài chính

trung gian và tỷ lệ lãi từ tiết kiệm thâp. Theo lý thuyết thì chính đó làm cản trở sự phát triển

2. Tự do hóa tài chính:

30

a. Khái niệm: Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của

nhà nước với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do

hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.

b. Ưu điểm:

- Trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh, lợi ích lớn nhất của tự do hóa thương mại là thúc đẩy ngày

càng nhiều nước tham gia buôn bán, trao đổi hàng hóa, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Đối với người tiêu dùng, hàng hóa lưu thông dễ dàng hơn đem lại cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt

với giá rẻ.

c. Nhược điểm:

- Không bảo hộ được hàng hóa trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa bên ngoài.

- Không thực hiện được việc áp đặt thuế quan dẫn đến mất đi nguồn thu cho ngân sách, tiết giảm

ngoại tệ do chi cho mua sắm hàng hóa nước ngoài.

- Khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng hàng hóa để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.

3. Liên hệ tại VN:

Việt Nam chúng ta trước đây là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, khép kín và mang tính

chất tự cung, tự cấp. Tuy nhiên, để hòa nhập vào xu hướng quốc tế và với những lợi ích do hội nhập quốc

tế mang lại mà ngày nay chúng ta đang theo đuổi chính sách tự do hóa thương mại.

Thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường này

đã trải qua một quá trình tự do hóa dần dần từ những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 khi ngành ngân

hàng chuyển sang 2 cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường. Thể hiện qua các động thái: nới lỏng quan

hệ lãi suất từ áp đặt sang trần- sàn, đến khống chế trần và cuối cùng là thỏa thuận.

Là quá trình thay đổi từ tỷ giá cố định sang tỷ giá cố định có điều chỉnh.

Từ phân phối tín dụng cho số ít khách hàng đến tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế, từ

tín dụng đan xen đến tín dụng tách bạch với thị trường để mở rộng khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng

cho nền kinh tế.

31

Là quá trình Nhà nước độc quyền mở ngân hàng đến ngân hàng của mọi thành phần kinh tế, kể cả

ngân hàng thuộc sở hữu nước ngoài.

Là quá trình ngành ngân hàng độc quyền cung ứng dịch vụ tin dụng, thanh toán,… đến một thị

trường tài chính đa ngành cùng tham gia cung ứng vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.

Nền kinh tế VN chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập với nền

kinh tế thế giới.

Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và tự do hóa theo cơ chế thị trường.

Các giao dịch vãng lai được tự do hóa hoàn toàn và các giao dịch vốn được nới lỏng.

Hình thành và phát triển các hệ thống điều hành tiền tệ dựa trên cơ sở thị trường và các công cụ

gián tiếp.

4. Tự do hóa lãi suất:

a. Khái niệm: Là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định

lãi suất cân bằng.

Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều chỉnh theo định hướng mà thôi.

b. Ưu điểm:

- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng huy động cho vay vốn với lãi suất phù hợp, đáp

ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người đi vay.

- Tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao năng

lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn, khả năng hội nhập với thị trường tài

chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng VN.

c. Nhược điểm:

- Ở một môi trường chưa thuận lợi nào đó, tổ chức tín dụng có thể đưa ra lãi suất cao.

- Cán bộ tín dụng không thận trọng trong việc cho vay dẫn đến rủi ro nên ngân hàng phải chặt chẽ

hơn trong thẩm định dự án và ra quyết định cho vay.

d. Liên hệ Việt Nam:

32

Hiện nay, lãi suất tại VN được tác động bởi các yếu tô:

- chính sách tiền tệ của NHNN tác động đến lãi suất thông qua thị trưởng mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,

lãi suất tái chiết khấu.

- Nền kinh tế có lạm phát cao, lãi suất cao và ngược lại.

- Nền kinh tế đi vào suy thoái, lãi suất sẽ giảm.

Thực tế quá trình tự do hóa lãi suất ở VN:

- NHNN chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương của các ngân hàng.

- Chuyển từ cơ chế NHNN trực tiếp ấn định lãi suất của các NHTM sang cơ chế khung lãi suất.

- NHNN VN chuyển từ cơ chế khung lãi suất sang cơ chế trần lãi suất.

- NHNN chuyên từ cơ chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản đó được tính trên cơ sở

bình quân của 15 NHTM quy mô lớn nhất, tốt nhât tại VN.

- Chuyển từ lãi suất cơ bản sang lãi suất thỏa thuận từ 2002-2008. Do khủng hoảng kinh tế toàn

cầu, từ 2009,2010, NHNN VN lại quay lại áp dụng lãi suất cơ bản.

- Năm 2011-2012, kinh tế ổn định trở lại, NHNN VN dần áp dụng lãi suất tự do trở lại với một số

lãi suất: cho vay tiêu dùng.

Nhận định là VN xu hướng sẽ áp dụng lãi suất thị trường từng bước 1.

5. Cấu trúc tài chính? Những nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính

trong nền kinh tế?

CƠ BẢN VỀ CẤU TRÚC TÀI CHÍNH

Hệ thống tài chính bao gồm 4 tụ điểm vốn và 1 bộ phận dẫn vốn:

1. Các tụ điểm vốn

Là bộ phận mà ở đó nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn

vốn, tuy nhiên ở các mức độ phạm vi khác nhau, bao gồm :

Tài chính doanh nghiệp. -

33

Ngân sách nhà nước. -

Tài chính dân cư( tài chính hộ gia đình) và các tổ chức xã hội khác -

Tài chính đối ngoại. -

a. Tài chính doanh nghiệp :

- Đây là nơi nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời cũng là nơi thu hut trở lại các nguồn tài chính quan

trọng trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có

khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính.

- Do vậy nó có khả năng tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản

xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong quá

trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác nhau.

- Đặc trưng của bộ phận tài chính doanh nghiệp: gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh -

doanh hướng tới lợi nhuận cao

b. Ngân sách nhà nước :

- Đây là khâu tài chính giữ vị trí trung tâm và chủ đạo trong toàn bộ hệ thống tài chính bởi vì nó chi phối và

điều chỉnh các bộ phận tài chính khác.

- Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời là phương tiện vật

chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện được nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện của

nền Kinh tế thị trường, ngân sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô của nền kinh tế - xã

hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống

xã hội.. Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn được tập trung từ các

tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu nhập( thuế ) thích hợp.

c. Tài chính hộ gia đình và các tổ chức XH khác :

- Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Nếu có những biện pháp thích hợp, chúng ta

có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển

kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và tiêu

dùng của nhà nước.

- Việc huy động và sử dụng quỹ tích lũy trong các hộ gia đình là dựa trên nguyên tắc tự nguyện.

34

d. Tài chính đối ngoại :

- Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hoá thì hệ thống tài chính cũng là một hệ

thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức phong phú. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị

trí đặc biệt quan trọng của quan hệ tài chính đối ngoại cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một bộ

phận tài chính có tính chất độc lập tương đối.

- Những kênh vận động của tài chính đối ngoại:

+ Nhận viện trợ, vay vốn nước ngoài.

+ Tiếp nhận vốn đầu tư.

+ Thanh toán XNK

+ Thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển phí bảo hiểm, thanh toán bảo hiểm hoặc nhận phí

bảo hiểm, nhận bồi thường từ các tổ chức nước ngoài.

+ Quá trình chuyển tiền, tài sản của cá nhân trong và ngoài nước

e. Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian :

- Đây là bộ phận luân chuyển vốn trong nền kinh tế, là cầu nối trung gian giữa nhứng người cần vốn và

những người có vốn nhàn rỗi thông qua hoạt động tài chính trung gian hoặc hoạt động trực tiếp trên thị

trường tài chính

- Trong hệ thống tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông qua hoạt động tài chính

gián tiếp. Trước hết các trung gian tài chính huy động vốn từ những người có vốn (người tiết kiệm) bằng

nhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh của mình. Sau đó, sử dụng vốn kinh doanh này để cho người

cần vốn vay lại hoặc thực hiện các hình thức đầu tư khác. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập

trung được các nguồn vốn nhỏ, từ các hộ gia đình các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp ứng

nhu cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến những khối lượng vay lớn, từ những cá nhân

chưa từng ai biết đến tới những công ty lớn có tiếng trên thị trường.

2. Bộ phận dẫn vốn :

Đây là bộ phận thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài

chính, bao gồm : thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian.

35

a. Các tổ chức tài chính trung gian : có nhiệm vụ tiết kiệm cho nền kinh tế các chi phí giao dịch

và chi phí thông tin, bao gồm các tổ chức tài chính chính thức và các tổ chức tài chính không chính thức.

a.1. Các tổ chức tài chính chính thức:

- Các Ngân hàng thương mại: Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các ngân hàng thương

mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô và về thành phần các nghiệp vụ (có và nợ).

+ Hoạt động của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: nghiệp vụ nợ ( huy động vốn), nghiệp vụ

có (cho vay vốn), nghiệp vụ mô giới trung gian (dịc vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng

từ và vật quý giá…).

+ Ở nước ta hiện nay, đa số các Ngân hàng hiện nay là Ngân hàng chuyển doanh do Nhà nước

cấp vốn hoạt động (NH Nông nghiệp, NH công thương, NH ngoại thương…), hệ thống các chi nhánh của

chúng lại được bố trí theo địa giới hành chính nên chưa phát huy được vai trò của mình do nọi dung hoạt

đọng bị hạn chế, chất lượng và kỹ thuật phục vụ thấp, không có yếu tố cạnh tranh và không bám sát được

sự phát triển của thị trường. Để khắc phục cần sớm hình thành và phát triển các NH cổ phần đặc biệt là

các NH kinh doanh tổng hợp.

- Các Công ty tài chính:

+ Các công ty tài chính thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu hoặc cổ phiếu, trái phiếu

và dùng tiền thu được để cho vay, đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu

dùng.

+ Quá trình trung gian tài chính của các CTTC có thể được mô tả bằng cách nói rằng họ vay

những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ - một quá trình hoàn toàn khác với quá

trình của những ngân hàng thương mại, các NH này phát hành các món tiền gửi với số lượng tiền nhỏ và

sau đó thường cho vay với món tiền lớn.

- Các quỹ tín dụng: Các quỹ tín dụng là tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được thành lập chủ yếu theo

nguyên tắc góp cổ phần.

a.2. Các tổ chức tài chính không chính thức:

Các tổ chức tài chính không chính thức tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau mà trước hết và

quan trọng nhất là các công ty bảo hiểm.

36

b. Thị trường tài chính :

- Trong thị trường Tài chính có hai bộ phận là: Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn

- Thị trường tiền tệ( thị trường tài chính ngắn hạn ) :

Thị trường vốn( thị trường tài chính dài hạn ) : bao gồm : Thị trường tín dụng trung và dài hạn

(thị trường cầm cố); thị trường cho thuê tài chính; và Thị trường chứng khoán.

Câu 6: Vai trò của NHTU trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô như

thế nào?

Góp phần tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm?

Khái niệm về chính sách tiền tệ

- Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện

việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn

nhất định.

- Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính

sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến

4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức

mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối

lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh

tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá .

Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành phần. Kết cấu các

mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả năng

thanh toán cho toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tần cung ứng cho lưu thông, điều

khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt

động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng

thương mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và

kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định

giá cả hàng hoá .

37

Chính vì vậy chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá hữu hiệu trong việc

kiểm soát lạm phát.

Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát

Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công cụ một của chính

sách tiền tệ.

Dự trữ bắt buộc

Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền

gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả

năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải

trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được

hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn

chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống chế (bị "vô hiệu hoá" về

mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các

ngân hàng thương mại.

Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh

toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm

(cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm

phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo

tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng

thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như

trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ DTBB mang tính

hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt

động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái

chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ

dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền

tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để

kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản

ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng

cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc

38

để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước

phát triển , có nền kinh tế ổn định)

Tái chiết khấu

Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người

cho vay cuối cùng.Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ

thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là

đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá

trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ

thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách "nới

lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết

khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai

đoạn đó.Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải

nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín

dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi

dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng

trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ

nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ

rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để

thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết

khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế.Cho nên có thể ví

công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy.Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền

kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng

lạm phát.

Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến động lớn trong

khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến

động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi

trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công

cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.

Hoạt động thị trường mở

39

Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM

đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu... đến để xin "tái cấp vốn" thì nghiệp vụ thị trường mở là công

cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.

Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền

khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến

khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín

dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ

chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát

, việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.

Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín

dụng thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng

công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo",

điều khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ

dàng đảo ngược lại.Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung

tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái

phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại.

Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn

định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.

Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng.Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có môi trường

pháp lý nhất định.Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi

lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng biệt của lạm phát ở Việt nam). Chúng ta sẽ nghiên cứu

xem chính sách lãi suất tác động tới lạm phát như thế nào.

Lãi suất

Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ

và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu

cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu

tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.Thật vậy, khi có lạm phát. Ngân hàng nhà nước sẽ tăng

lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng)

có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho

tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết rằng in= ii + ir trong đó in là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa,

40

il: tỷ lệ lãi suất thực tế và ii là tỷ lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây

chính là việc tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương) qua

đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì

động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM và ngược lại.NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất

kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng.Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng

người vay vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể

tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ

lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát.

Ở Việt nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong việc giảm

tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở

cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng Việt nam đồng chứ quốc tế ít đầu

tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ

lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài .Trong việc

kiểm soát lạm phát đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn.Tuy đây là một công cụ rất

quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng như cung cấp vốn.

Hạn mức tín dụng

Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nước còn sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để điều

hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức cho phép để từ đó bảo đảm mức

lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng

cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ. Đây là

một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối

với các NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm làm cho tổng

cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và chống lạm phát được coi là mục

tiêu số 1, thì công cụ hạn mức tín dụng là cần thiết.Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là

vấn đề khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng thương mại. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu

nhận hàng ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà

không có đầu ra.Như vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng.Việc xác định hạn mức

tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát.Song nó cũng có những mặt trái gây khó

khăn cho NHTM.Cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn đó.

41

Câu 7: Vai trò của lãi suất tín dụng NH đối với sự phát triển KT- XH như thế

nào? Liên hệ đến chính sách ở Việt Nam

Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác

và đóng vai trò như là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén trong mỗi doanh nghiệp và đời sống cá nhân

và hơn cả là một công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia. Một chính sách lăi suất có hiệu quả

là chính sách được áp dụng nhất quán trong một lănh thổ và đưọc NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo

theo từng thời ḱỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn

nhàn rỗi trong dân cư phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời bảo đảm được cho hoạt động của các

NHTM thực sự có hiệu quả. Do đó, có thể thấy rằng lãi suất nói chung và lãi suất tín dụng có vai trò to

lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Lăi suất tín dụng như nhiều người nói là giá cả của tín dụng hay nói một cách khác là tỷ lệ phần

trăm tính theo một thời gian xác định (ngày, tuần, tháng, quí, năm..) dùng làm căn cứ để tính toán số lợi

tức tín dụng mà các chủ thể đi vay phải trả hoặc các chủ thể cho vay phải nhận được,nhằm điều hoà lợi

ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia quan hệ tín dông

Lãi suất, nói một cách dễ hiểu, chính là giá của đồng tiền mà người sử dụng vốn phải trả thông

qua hành vi vay và cho vay, do vậy lãi suất chính là giá cả của tín dụng. Nói cách khác, lãi suất chính là

giá bán và giá mua quyền sử dụng vốn, là một phạm trù của giá cả, đòi hỏi phải được đối xử như bất kỳ

loại giá nào của nền kinh tế, tùy thuộc vào sự tương tác qua lại giữa lực cung và lực cầu. Với lãi suất tín

dụng, đó là sự tương tác giữa cung và cầu của quỹ cho vay tập trung, theo hướng cung tăng làm cho lãi

suất giảm và ngược lại. Và đến lượt nó, lãi suất lại quyết định đến cung và cầu của quỹ cho vay tập trung.

Như vậy mọi biến động về lãi suất cho vay sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh và ngược lại. Lãi

suất vay cao, nguồn cung tín dụng bị hạn chế dẫn đến các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, giảm đầu

tư thậm chí ngừng hoạt động hoặc phá sản.

Lãi suất có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội do sự tác động tới mọi thành phần, mọi mặt

của nền kinh tế xã hội:

Lãi suất tác động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp, tác động tới việc mở rộng hay thu hẹp đầu

tư trong nền kinh tế. Để hiểu hơn về vai trò của lãi suất trong nền kinh tế, trước hết phải hiểu rõ mối

quan hệ giữa lãi suất và lợi nhuận doanh nghiệp. Lãi suất và lợi nhuận doanh nghiệp có mối quan hệ hết

sức chặt chẽ với nhau. Mặc dù chúng ta coi lãi suất chính là giá của tiền và đã là giá thì sự biến động lên

hay xuống trong nền kinh tế thị trường là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, xét trong mối quan hệ với lợi nhuận

42

doanh nghiệp, lãi suất bao giờ cũng được coi là một hàm số bị chặn: chặn trên bởi lợi nhuận bình quân tối

đa và chặn dưới bởi lãi suất bình quân tối thiểu. Cơ sở lý luận này là hết sức quan trọng và là nền tảng của

việc vận hành lãi suất: Nếu lãi suất vượt quá lợi nhuận tối đa bình quân của nền kinh tế thì sẽ dẫn đến

doanh nghiệp bị phá sản do phải sử dụng phần lớn hay toàn bộ lợi nhuận của doanh nghiệp có được để trả

lãi vay và do vậy, lãi suất đã thu tóm phần lớn lợi nhuận doanh nghiệp có được, dẫn đến hiện tượng phá

sản doanh nghiệp là không thể tránh khỏi. Ngược lại, nếu lãi suất giảm đến mức dưới lãi suất tối thiểu

bình quân thì các tổ chức tín dụng lại rơi vào tình trạng như các doanh nghiệp nói trên.

Lăi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc gia đ́ình như dùng

vốn đầu tư vào nhà máy mới, mua thêm tư liệu sản xuất, đầu cơ chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân

hàng. Mỗi mức lãi suất đều có tác động trực tiếp đến tiết kiệm, đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, giá cả, tỷ giá

hối đoái và lạm phát. Khi lãi suất ổn định, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư ổn định, nền kinh tế phát triển theo

kế hoạch. Khi lăi suất tăng, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư tăng, việc làm tăng, sản lượng tăng, thu nhập

tăng. Tóm lại, lăi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế v́à nó tác động đến chi phí đầu

tư, quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu tiền tệ.

Thời gian qua, do lãi suất cao dẫn nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn lớn, trong đó có nhiều

doanh nghiệp do phải chấp nhận mức lãi suất cao, vượt trên lợi nhuận mà họ thu được nên khó có khả

năng tiếp tục duy trì sản xuất, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản, thị trường đang đóng băng khả năng

trả nợ của doanh nghiệp trở nên vô cùng khó khăn, doanh nghiệp đang đứng trước câu hỏi tồn tại hay phá

sản.

 Vai trò của lãi suất thể hiện ở những điểm sau:

- Lãi suất chính là cơ sở để dung hòa lợi ích của người tiết kiệm (người có vốn) và người vay

(người sử dụng vốn), là cơ sở để tiến hành việc cung ứng vốn cho những người có nhu cầu.

- Khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế (vì lãi suất đem lại lợi ích cho nhà tiết kiệm, nên với

mức lăi suất hợp lư sẽ khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế). Theo một mô thức logic, tiết

kiệm tăng sẽ khiến cho đầu tư cũng tăng và thúc đẩy sản xuất xă hội phát triển

- Là một công cụ vĩ mô quan trọng để nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhằm điều

chỉnh cung cầu tiền tệ, điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế. Nhà nước thực hiện

chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài khoá của ḿình thông qua lãi suất (NHNN tác động

tới lãi suất tín dụng của các NHTM nhằm thực hiện mục tiêu điều tiết nền kinh tế vĩ mô).

43

Đối với chính sách tiền tệ, khi lăi suất tăng sẽ làm cho cung tiền giảm và ngược lại. Lãi suất có vai tṛò

trung tâm trong chính sách tiền tệ của chính phủ. Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính

phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng cung ứng

tiền tệ. Khi mức cung ứng tiền tăng lên, nếu đem số tiền tạm thời thừa ra cho vay, đầu tư thì lăi suất sẽ hạ

xuống. Khi lãi suất giảm, giá thành đầu tư giảm theo, các doanh nghiệp lại tăng đầu tư, nhu cầu đầu tư và

tiêu dùng tăng lên, lăi suất lại tăng lên.

Đối với chính sách tài khoá, lăi suất cao sẽ tác động gián tiếp tới cung cầu của thị trường hàng hóa. Lăi

suất tiền gửi tăng sẽ kéo theo sự tăng lăi suất cho vay. Sự tăng lăi suất sẽ đẩy giá bán của hàng hoá lên,

khi đó nền kinh tế trở nên dư cung hàng hoá, các nhà sản xuất phải thu hẹp sản lượng .Ngược lại, lãi suất

thấp sẽ dẫn tới giá bán hàng hoá giảm, kích thích tiêu dùng, làm cho cầu về hàng hoá đó tăng. Cầu tăng,

trong khi cung không đổi sẽ dẫn tới tình trạng dư cầu hàng hoá, để đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của xă

hội, các nhà sản xuất có thể đẩy được giá bán lên hoặc tiếp tục mở rộng sản xuất, tạo ra hàng hoá ngày

càng đa dạng cho thị trường

Bên cạnh đó, lãi suất chính là một trong số những công cụ quan trọng để kiểm soát lạm phát. Khi

lạm phát xảy ra và đặc biệt là mức lạm phát ở 2 con số thì lãi suất chính là công cụ gián tiếp can thiệp vào

việc kiềm chế lạm phát, theo hướng tăng lãi suất. Mặc dù vậy, việc tăng lãi suất cần coi đó là một biện

pháp tình huống. Biện pháp tình huống cần được hiểu là chỉ được áp dụng trong những tình huống đặc

biệt cụ thể nào đó, và phải sử dụng nó một cách chủ động.

Ngoài ra, lãi suất còn có tác động rất lớn tới chế độ tỉ giá. Nếu lăi suất trên thế giới lớn hơn lăi suất

trong nước th́ì nguồn vốn của tư bản nước ngoài đổ vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng lên, tỉ giá

giảm. Ngược lại, nếu lăi suất thế giới nhỏ hơn lãi suất trong nước sẽ dẫn tới hiện tượng nguồn vốn trong

nước chảy ra nước ngoài, làm cho cung ngoại tệ giảm, tỉ giá tăng.

Như vậy, lãi suất có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế và là một công cụ không thể thiếu

được trong bất kỳ nền kinh tế của nước nào. Do đó một quốc gia cần có chính sách lãi suất phù hợp để đạt

được mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế.

 Liên hệ chính sách lãi suất ở Việt Nam:

Khái quát về chính sách lãi suất:

Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, trước hết nó phải hướng tới

những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích

tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hành thành một thị 44

trường tiền tệ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng, xoá bỏ sự khác biệt

về lăi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính sách lăi suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín

dụng, tránh tình trạng biến tướng chi phí của các TCTD vào giá thành sản xuất của xă hội. ngoài ra, đối

với các TCTD, chính sách lăi suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lăi suất đủ để duy trì và phát triển

hoạt động kinh doanh.

Chính sách lãi suất của NHNN trong thời gian qua

Thời gian qua, việc áp dụng mức lãi suất cao vượt quá lợi nhuận bình quân của nền kinh tế diễn ra trong

thời gian dài, đến mức đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng làm ăn thua lỗ, trong khi các tổ chức tín dụng

không chỉ đứng vững mà còn thu được nhiều lợi nhuận, rõ ràng là điều không bình thường. Xuất phát từ

việc coi sự thành công của các doanh nghiệp chính là nền tảng vững chắc cho hoạt động ngân hàng, cần

thiết phải coi lãi suất không thể là công cụ kiếm lời của các tổ chức tín dụng mà phải là cứu cánh cho sự

ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng cần chia sẻ khó khăn về lãi suất với

doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, tồn tại gắn kết với ngân hàng.

Ngay từ đầu năm, NHNN đã thể hiện rõ mong muốn giảm lãi suất trong năm 2012 bằng thông điệp: “mỗi

quý sẽ giảm 1% lãi suất”. Trong khoảng cuối quý 1 đầu quý 2.2012 thì NHNN đã tiến hành 2 lần điều

chỉnh trần lãi suất huy động và qua đó kéo lãi suất từ 14% về mức 12%. Đây được xem là động thái khá

khẩn trương của NHNN trong bối cảnh lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt và nền kinh tế, đặc biệt là các DN,

đang vật lộn với nhiều khó khăn.

Xét về môi trường tài chính thì việc hạ lãi suất của NHNN đã phần nào cởi một nút thắt cho thị trường tài

chính vốn đang bị co thắt mạnh từ việc thắt chặt chính sách tiền tệ trong suốt năm 2011. Đáng lưu ý là sự

khởi sắc trên TTCK khi chỉ số Vnindex đã tăng khá mạnh trong cuối quý 1 và đầu quý 2 và thanh khoản

thị trường cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình kinh tế còn đang gặp nhiều khó khăn và tình hình kinh doanh của các

DN bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì đà tăng của thị trường trong thời gian qua là chưa chắc chắn. Đối với

hoạt động kinh doanh đầu tư vào vàng thì xu hướng giá vàng thế giới giảm mạnh cũng phần nào tác động

đến giá vàng trong nước. Với hình thức chủ yếu là buôn bán vàng miếng và xu hướng đầu tư 1 chiều như

hiện nay thì hiện nay vàng không phải là kênh thu hút vốn đầu tư. Trên thị trường BĐS, việc NHNN tiến

hành giảm lãi suất đồng thời đưa ra chính sách mới trong việc nới lỏng cung cấp tín dụng cho thị trường

BĐS phần nào cũng tác động tích cực đến thị trường. Các DN sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn để

triển khai dự án trong khi người có nhu cầu mua nhà cũng được hỗ trợ vốn vay hơn so với trước kia. Tuy

nhiên, hiện thị trường này vẫn còn kém thanh khoản và thị trường vẫn kỳ vọng giá nhà sẽ tiếp tục giảm 45

nên chính sách hỗ trợ của NHNN tạm thời sẽ chưa tác động gì nhiều đối với thị trường BĐS. Đối với

kênh tiền gửi tiết kiệm thì lãi suất huy động giảm về 8% phần nào khiến người có tiền không mặn mà với

việc gửi tiền, tuy nhiên, xem xét trong bối cảnh môi trường đầu tư hiện nay thì tiền gửi tiết kiệm vẫn là

kênh đầu tư thu hút phần đông người gửi tiền.

Tóm lại lãi suất giảm đã tạo tín hiệu tốt cho kinh tế, góp phần tháo gõ khó khăn cho các doanh nghiệp

trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Và thực tế nhờ chính sách giảm lãi suất của NHNN, lãi suất trong năm

2012 đã giảm hơn nhiều so với năm 2011: lãi suất cuối năm 2012 trung bình khoảng 15 – 17% giảm hơn

rất nhiều so với mức lãi suất hơn 20% năm 2011.

Tuy nhiên, LS giảm chưa thực sự tạo tình hình khả quan cho hoạt đồng đầu tư tài chính và đầu tư BĐS.

Mặc dù LS huy động chỉ còn 8% thì gửi tiền vẫn là kênh tốt nhất (kết hợp giửa an toàn và thu nhập).

Ngoài ra khi LS giảm xuống 8% có thể dẫn tới việc USD trở nên hấp dẩn và tăng tỷ giá, đó là điểm cần

quan tâm trong 3 tháng tới.

Xét đến những tác động của việc giảm lãi suất đến tình hình kinh doanh của các DN, mặc dù NHNN đưa

ra thông điệp giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế đồng thời đưa ra tuyên bố là DN sẽ tiếp cận với nguồn

vốn giá rẻ (13-15%/năm) và các NHTM cũng đưa ra nhiều gói cho vay với lãi suất ưu đãi trị giá hàng

ngàn tỷ đồng, tuy nhiên số lượng và đối tượng DN tiếp cận với nguồn vốn này vẫn còn rất hạn chế. Hiện

nay lãi suất cho vay, tuy có được hỗ trợ, những cũng vẫn xoay quanh mức 15 – 17%/năm. Đây vẫn là

mức tương đối cao so với sức chịu đựng của DN trong giai đoạn khó khăn như hiện nay. Ngoài ra, hầu hết

các DN đều đang gặp khó khăn cả về vốn và thị trường tiêu thụ. Thị trường tiêu thụ suy giảm khiến tồn

kho tăng mạnh nên dù DN có vay được vốn “rẻ” cũng chưa chắc đã cải thiện được tình hình hoạt động.

Đó là chưa kể đến trường hợp nhiều DN đã vay nợ nhiều trong thời gian trước đây và đã cầm cố hầu hết

các tài sản để vay nợ nên để tiếp cận được với những khoản vay hiện nay, dù các DN rất muốn, nhưng

chưa chắc đã được.

Do đó, việc giảm lãi suất về 8% như hiện nay về cơ bản chưa giúp ích gì nhiều cho các DN. Vấn đề doanh

nghiệp cần hiện này chính là thị trường tiêu thụ khởi sắt trở lại để có thể bán được hàng, mà vấn đề này

thì việc giảm LS như hiện nay chỉ có tác động một phần, phần quan trọng chính là việc chuyển vốn mạnh

mẽ của NHTM vào khu vực vay tiêu dùng và SX hàng hoá cũng như cần phải có một lực cung tiền của

Chính phủ cho lãnh vực này. Khi đó mối quan hệ Doanh nghiệp – thị trường – việc làm mới phát triển tạo

động lực cho nền kinh tế, trong đó có lợi ích của doanh nghiệp.

46

Câu 8: Vai trò của hệ thống tài chính đối với quá trình phát triển KT-XH

(chuyền đề 2)

- Vai trò của thị trường Tài chính đối với phát triển KT-XH?

- Vai trò của NHTM trong quá trình phát triển KT-XH?

Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc

dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau về việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh

tế - xã hội hoạt động trong lĩnh vực đó.

Tìm hiểu vai trò của Hệ thống tài chính với kinh tế xã hội qua các khía cạnh quan trọng sau:

I. Vai trò của thị trường tài chính

Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán các loại tích sản tài chính hay các công vốn

hoặc vốn. Đây cũng là một bộ phận quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính, chi phối toàn bộ hoạt

động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát

triển kinh tế xã hội của một quốc gia.

Thực hiện các chức năng của thị trường tài chính sẽ phát huy được vai trò của thị trường tài chính. Các

vai trò đó là:

1. Vai trò trong thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần quan trọng tài trợ

cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.

Để phát triển kinh tế xã hội cần huy động tối đa các nguồn tài chính cung cấp cho đầu tư phát triển kinh

tế xã hội, trong khi đó nền kinh tế luôn luôn tồn tại các nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi

với thời hạn ngắn, dài và quy mô khác nhau. Sự hoạt động của thị trường tài chính với các công cụ là các

loại chứng khoán, đa dạng về hình thức, phong phú về mệnh giá và thời hạn sử dụng kết hợp với cơ chế

linh hoạt: mua bán chứng khoán thuận lợi nhanh chóng, do đó thị trường tài chính đã thu hút, chuyển giao

các nguồn tài chính nhàn rỗi, quy mô nhỏ, phân tán trong xã hội thành nguồn tài chính to lớn, tài trợ kịp

thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Thị trường tài chính với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, bộ

máy quản lý hữu hiệu và sự phổ biến hướng dẫn rộng rãi về chứng khoán và đầu tư chứng khoán, người

dân sử dụng nguồn tài chính tiết kiệm được của mình để mua chứng khoán với niềm tin là khoản vốn và

lãi của mình sẽ được đảm bảo. Nguồn tiết kiệm này, nếu không có thị trường tài chính sẽ có khả năng tiếp

tục nằm yên dưới dạng tích trữ không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm và cũng không đóng góp gì

47

cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt động có hiệu quả của thị trường tài chính đã giảm bớt được nhu cầu

tiêu dùng cao, dành nguồn tài chính vào đầu tư thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Do chứng khoán

không có tính lỏng như tiền mặt, một khi đã mua chứng khoán, nguồn tài chính đã vận động vào đầu tư,

số tiền mặt trong tay người tiêu dùng giảm xuống nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ

được giảm xuống . Những nhu cầu thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động bán chứng khoán của

người sử dụng chứng khoán. Như vậy tính thanh khoản cao của chứng khoán trên thị trường tài chính đã

thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư.

Thị trường tài chính là kênh huy động vốn đầu tư rất lớn. Nó không chỉ thu hút huy động nguồn tài

chính trong nước mà còn thu hút huy động nguồn tài chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài

chính tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể bỏ

vào đầu tư mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ dàng, nhờ đó nguồn tài chính với

các quy mô khác nhau được vận động từ nước ngoài vào trong nước mà không cần phải qua các thủ tục

phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Thị trường tài chính là nơi các nhà

đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Nó là

cầu nối giữa vốn đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư trong nước, góp phần thực hiện chính sách “mở cửa

nền kinh tế “. Như vậy, thị trường tài chính bổ sung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào trong

nước, tận dụng được nguồn tài chính của nước ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.

2. Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính

Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra trên cơ sở quan hệ cung cầu.

Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải trả giá. Điều đó buộc người cần nguồn tài chính phải quan

tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn bằng việc lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn hình thức

và thời điểm thích hợp để giảm giá của việc tài trợ. Mặt khác, thị trường tài chính bắt buộc các doanh

nghiệp phải công bố các vấn đề tài chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính

xác của các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoán của doanh nghiệp có đủ

điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi và dân chúng chỉ mua chứng khoán

của những doanh nghiệp thành đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự do lựa chọn của người mua chứng

khoán, không còn cách nào khác hơn là các nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng

và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả đi vay phải có hiệu quả.

Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sự dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong từng doanh nghiệp mà

còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế. Sự đa dạng hoá về thời hạn

sử dụng các nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài chính trong nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho

48

nguồn tài chính vận động từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả hơn. với chức

năng cung cấp thông tin chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích và có

quyết định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động đúng đến nơi mà chúng được sử

dụng có hiệu quả.

3. Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước

Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn tài chính cho các doanh

nghiệp, các tổ chứctài chính trung gian bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu... giải quyết khó khăn về

mặt tài chính, phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian. Thị

trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng đầu tư đúng đắn và sử dụng

vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện chính sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài

chính hay chính sách tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính sách ngân sách.

Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu quả, giải quyết bộ chi và cân đối thu chi

ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra trong chính sách tài chính của một quốc gia. Thị trường tài chính lại

là nơi Nhà nước tiên shành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước cũng có thể vay các tổ

chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước, việc

Nhà nước vay tiền của dân đã trở thành thông dụng và tiền vay đã trở thành nguồn thu thường xuyên để

cân đối ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phải phát hành tiền để bù đắp bội

chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết một trong những nguyên nhân chủ yếu của luật pháp, làm

giảm áp lực của lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chínhhoạt động có hiệu quả cũng

giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm cầu

kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ.

II. Vai trò của NHTM với KT-XH

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến nhất hiện nay. Đây là tổ

chức nhận tiền gửi (depository institutions) đóng vài trò là trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi

thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các

khoản vay trực tiếp. Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán

(checkable deposits), tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time deposits). Vốn huy

động được dùng để cho vay: cho vay thương mại (commercial loans), cho vay tiêu dùng (consumer

loans), cho vay bất động sản (mortage loans) và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính

quyền địa phương. Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn

nhất, cũng là trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.

49

Với vị trí quan trọng đó, Ngân hàng thương mại đảm nhiệm những chức năng khác nhau trong nền kinh tế

như:

1. Chức năng trung gian tín dụng

Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người

thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là

người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất

nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người

đi vay: Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền gửi

mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung

cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh

tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực thời gian cho việc

tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ.

Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy

mô sản xuất.

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.

2. Chức năng tạo tiền

Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát hành tiền mới của Ngân hàng

Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có

khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng

tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.

Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương

mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức

mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu

tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công

chúng.

Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng thương mại là chức năng

tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn

huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán

dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận 50

của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống

ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh

toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW

phát hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo

ra.

Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín

dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó

làm tăng lượng tiền cung ứng.

3. Chức năng trung gian thanh toán

Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các

thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng

hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khác thu khác theo

lệnh của họ.

Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn

bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương

tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín

dụng,…Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà

các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán

dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do

vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn.

Chức năng này mô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu

chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân

hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi

phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,… Ngân hàng thương mại thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng

nguồn vốn cho vạy của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng.

Câu 9: Chính sách tài chính của các nước đang phát triển (có Việt Nam) (gợi ý:

có đặc điểm gì, Liên hệ VNam- Hệ thống TC hoạt động như thế nào?Trên cơ sở

đó ra địnhhướng phát triển?).

1. Khái niệm chính sách tài chính quốc gia

51

Chính sách tài chính quốc gia là tổng thể các mục tiêu, các giải pháp và các công cụ mà nhà nước sử dụng

để tạo vốn, phân phối và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả để ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

2. Nội dung của chính sách tài chính quốc gia các nước đang phát triển

a. Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát là tăng cường tiềm lực tài chính của đất nước cụ thể:

- động viên mọi nguồn vốn và mọi tiềm năng phát triển kinh tế xã hội

- nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và nguồn của cải vật chất trong nền kinh tế quốc dân.

- đảm bảo mức độ lạm phát hợp lý

b. Các nguyên tắc thực hiện chủ yếu

- thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế

- tăng nhanh khả năng và tốc độ vốn, tạo mọi điều kiện giải phóng nguồn vốn trong nước, khai thác tối đa

nguồn vốn tiềm năng

- thực hiện và điều chỉnh các cân đối lớn.

- nhà nước vận dụng lý thuyết hệ thống trong quản lý chính sách tài chính; quản lý thống nhất bằng hệ

thống luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ.

c. Các thành phần của chính sách tài chính

- chính sách huy động vốn và phát triển thị trường tài chính

Các nước đang phát triển cần huy động một nguồn vốn lớn để thực hiện chương trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước bao gồm 2 loại nguồn chính: Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Các

loại nguồn vốn ngoài nước bao gồm: vốn đầu tư nước ngoài, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, viện

trợ phát triển, Nợ quốc tế.

- Chính sách thuế:

Các loại thuế chủ yếu: Thuế trực thu, thuế gián thu, thuế tiêu thu đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.

52

Những nước đang phát triển đang ra sức hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tếthế giới phải cần đến một số

thu thuế cao hơn nếu họ theo đuổi vai trò chính phủgần giống với vai trò chính phủ của các quốc gia công

nghiệp, vốn đang tận hưởng sốthu thuế bình quân cao gấp đôi. Để đáp ứng trước những thách thức này,

các nhà hoạch định chính sách tại các nước đang phát triển sẽ phải đặt ưu tiên chính sách một cách đúng

đắn và có sức mạnh chính trị để thực hiện những cuộc cải cách cần thiết. Công tác quản lý thuế phải được

củng cố để đi kèm với những thay đổi về chính sách.

Tại nhiều quốc gia đang phát triểnthuế thu nhập cá nhân đang đóng góp rất ít cho tổng số thu thuế. Ngoài

những xem xét về cơ cấu, chính sách, và quản lý, tình trạng thu nhập cá nhân có thể dễ dàng được đầu tư

ra nước ngoài cũng là một yếu tốđáng kể dẫn đến kết cục này. Do đó, đánh thuế thu nhập cá nhân là một

thách thức gây nản lòng đối với các nước đang phát triển. Điều này đặc biệt là vấn đề khó giải quyết tại

các quốc gia châu Mỹ Latinh mà nói chung hiện đang ngưng đánh thuế thu nhập tài chính để khuyến

khích vốn tài chính được giữ lại trong nước.

- Chính sách ngân sách nhà nước

Đối với các nước đang phát triển, bội chingân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ

tầng ban đầu như:giao thông, điện, nước….. Việc xử lý bội chi NS là 1 nội dungquan trọng của chính

sách tài khóa của các nước đang phát triển, có tác động đến nền kinh tế vĩ mô.Chính những yếu kém trong

ngân sách ( thu NSNN không đủ chi và bù đắp thâmhụt NS, không chỉ vay trong và ngoài nước mà còn

lấy từ nguồn tiền phát hành) là1 yếu tố gây nên lạm phát tại các nước này…

2. Hoạt động của hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay

2.1. Thị trường tài chính

* Dựa vào thời hạn của tín dụng, thị trường tài chính được chia làm hai loại:

- Thị trườngtiền tệ (nơi giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn dưới 1 năm)

- Thị trường vốn (nơigiao dịch các công cụ tài chính có thời hạn trên 1 năm).

Ở các nền kinh tế phát triển nóichung, thị trường tiền tệ thường do các ngân hàng thực hiện. Đối với nhu

cầu vốn trungdài hạn chủ yếu thực hiện theo hình thức trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Ngược

lại,đối với Việt Nam có đặc thù riêng, hầu hết vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều do cácngân hàng

thương mại cung cấp, các loại thị trường khác đang có quy mô rất nhỏ. Haynói cách khác, ở Việt Nam,

53

việc huy động và phân bổ vốn chủ yếu thực hiện qua cáctrung gian tài chính, trong đó các ngân hàng

thương mại đóng vai trò chính.

Dựa trên loại tín dụng, hiện Việt Nam cũng đã có thị trường tín phiếu, thị trường tráiphiếu, thị trường cổ

phiếu; thị trường vay nợ ngân hàng; trong đó thị trường vaynợ ngân hàng là chủ yếu.

* Cách phân chia thị trường tập trung và thị trường phi tập trung: Ở Việt Nam, số lượng các doanh

nghiệpgiao dịch trên thị trường tập trung là rất ít, trong khi các giao dịch trên thị trường phi tậptrung là

chủ yếu.

Ngoài thị trường tài chính chính thức, nơi màcác ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty chứng

khoán … hoạt động, ở Việt Namcòn có thị trường phi chính thức là các hợp tác xã tín dụng, các tổ chức

tín dụng vi mô ởnông thôn, hụi … hoạt động. Các loại hình tín dụng phi chính thức này đóng một vai

tròđáng kể trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.

2.2. Các tổ chức tài chính

2.2.1. Ngân hàng Trung ương

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan của Chính phủ và làngân hàng trung

ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và

hoạt động ngânhàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng

làmdịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm antoàn hoạt động

ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội theo định hướng xã hội

chủ nghĩa.

2.2.1.2. Các tổ chức tín dụng

Các loại hình tổ chức tín dụng (theo sở hữu): Tổ chức tín dụng được thành lậptheo pháp luật Việt Nam

bao gồm tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổphần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng

liên doanh, tổ chức tín dụng100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có chi nhánh, văn phòng đại diện của

ngânhàng nước ngoài tại Việt nam.

Các ngân hàng thương mại: Hiện ở Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại quốc doanhchiếm hơn 70%

thị phần tín dụng và huy động vốn; 37 ngân hàng cổ phần đô thị và nôngthôn, chiếm 11% thị phần tín

54

dụng và huy động vốn; 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài,4 ngân hàng liên doanh chiếm 12% thị phần

huy động vốn và tín dụng.

Các công ty tài chính: Hiện có 5 công ty tài chính trực thuộc các tổng công ty lớn. Cáccông ty tài chính

này chủ yếu là dàn xếp tài chính cho tổng công ty mà nó trực thuộc.Ngoài ra trước năm 2003 còn có Công

ty tài chính Sài gòn là một đơn vị độc lập khôngthuộc bất kỳ một tổng công ty nào. Nhưng do những hạn

chế của mô hình này hiện đãchuyển thành Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á.

Các công ty cho thuê tài chính: Hiện có 9 công ty cho thuê tài chính, trong đó có 3 liêndoanh. Sáu công

ty còn lại trực thuộc 4 ngân hàng thương mại quốc doanh. Trong đó,Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt

Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam có 2 công ty. Nhìn chung hoạt động

thuê mua tài chính còn nhiều hạn chế.

Các quỹ tín dụng: có hai loại hình quỹ tín dụng là quỹ tín dụng trung ương và quỹ tíndụng khu vực.

Tổng số các hợp tác xã tín dụng là 898 và chiếm 1,5% thị phần huy độngvốn và cho vay.

Những rủi ro và yếu kém của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam hiện nay:

- Rủi ro lớn tập trung tại mảng rủi ro tín dụng

Tín dụng tập trung vào lĩnh vực bất động sản quá lớn đặt sự an toàn của hệthống các TCTD phụ thuộc

vào thị trường bất động sản

Mức độ tập trung tín dụng đối với một số khách hàng và nhóm khách hàngliên quan rất lớn

- Quy mô tín dụng của các TCTD rất lớn so với GDP làm cho hệ thống TCTDdễ bị tổn thương từ những

bất ổn vĩ mô và ngược lại

- Nhóm lợi ích và sở hữu chéo giữa các TCTD rất lớn làm cho rủi ro hệ thốngrất cao nếu như một ngân

hàng gặp khó khăn và đổ vỡ

- Năng lực quản trị của các TCTD còn nhiều bất cập so với quy mô, tốc độtăng trưởng và mức độ rủi ro

trong các hoạt động

- Cạnh tranh thiếu lành mạnh, thiếu sự hợp tác giữa các TCTD dẫn đến kỷcương, kỷ luật, chính sách,

pháp luật trong hoạt động ngân hàng không được tôntrọng.

2.2.2. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các tổ chức hoạt động trên TTCK

55

Hiện có 105 công ty chứng khoán hoạt động với chức năng làcác tổ chức môi giới trên thị trường chứng

khoán như lập các thủ tục phát hành, bảo lãnhphát hành chứng khoán …, có 1 ngân hàng chỉ định thanh

toán làNgân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

Năm 2012 là năm khó khăn đối với các công ty chứng khoán (CTCK). Quý I/2012, đã có 54 CTCK lỗ

nâng tổng số công ty có lỗ lũy kế tính đến hết quý I/2012 là 66 CTCK (chiếm 63%), trong đó có 12

CTCK có lỗ lũy kế trên vốn điều lệ hơn 50%, 27 CTCK có vốn chủ sở hữu thâm hụt 50% so với vốn pháp

định. Trong 6 tháng đầu năm 2012, mạng lưới của các CTCK có xu hướng bị thu hẹp lại, đã có 10 chi

nhánh, 7 phòng giao dịch đóng cửa, trong khi chỉ có 3 chi nhánh và 2 phòng giao dịch được mở mới, tổng

số chi nhánh hiện tại là 135 và 73 phòng giao dịch. Quy mô vốn điều lệ tính đến tháng 5/2012 là 35.941

tỷ đồng (không đổi so với thời điểm cuối năm 2011). Số lượng tài khoản nhà đầu tư cả trong và ngoài

nước đều tiếp tục tăng lên. Tính đến nay, tổng cộng có gần 1,2 triệu tài khoản (tăng thêm gần 12 nghìn tài

khoản so với cuối năm 2011).

Tổng số công ty quản lý quỹ là 47 công ty với tổng vốn điều lệ là 2,6 nghìn tỷ đồng, quản lý tổng tài sản

khoảng 98 nghìn tỷ đồng, giảm 23% so với cuối năm 2011; 23 quỹ đầu tư chứng khoán (17 quỹ thành

viên và 6 quỹ đại chúng) và 29 văn phòng đại diện đang hoạt động.

Ngoài ra còn có một số quỹ đầu tư đóng vài trò đáng kể trên thị trường chứng khoán nóiriêng, thị trường

tài chính nói chung là Dragon Capital, Mekong Capital, Vinacapital,Indochina Capital, Quỹ đầu tư mạo

hiểm của tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDG) và một sốcông ty quản lý quỹ như Công ty quản lý quỹ đầu tư

Việt Nam, Công ty quản lý quỹThành Việt, Công ty quản lý quỹ Manulife và Công ty quản lý quỹ

Frudential, Finansa,FXF Vietnam. Các quỹ đầu tư này vừa tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán,

vừađầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp.

2.2.3. Các công ty bảo hiểm

Các công ty bảo hiểm: Hiện có khoảng 24 công ty bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Namvới tổng vốn

điều lệ gần 5.000 tỷ đồng. Trong đó có 4 doanh nghiệp nhà nước, 7 công tybảo hiểm cổ phần, 7 công ty

bảo hiểm liên doanh và 6 doanh nghiệp 100% vốn nướcngoài. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ,

Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (BảoViệt) chiếm thị phần chủ yếu. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân

thọ, ba doanh nghiệp cóthị phần lớn nhất là Bảo Việt, Prudential và AIA. Các công ty bảo hiểm hoạt động

theoLuật bảo hiểm và chịu sự quản lý của Bộ Tài chính.

Quy mô thị trường: Kết thúc năm 2012, theo ước tính của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm - Bộ Tài

chính, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 40.591 tỷ đồng, chỉ tăng 11% so với năm

56

2011; trong đó, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 22.675 tỷ đồng, tăng 10,2% và doanh thu

phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 17.916 tỷ đồng, tăng 12%. Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường và

mức độ tăng trưởng đều thấp hơn so với dự báo.

2.2.4. Một số loại hình tổ chức tài chính khác

Quỹ lương hưu: hiện Việt Nam chưa có quỹ lương hưu, nhưng có một quỹ rất lớn đó làbảo hiểm xã hội

Việt Nam. Phần thặng dư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ yếu chuyểnsang Quỹ Hỗ trợ phát triển.

Tiết kiệm bưu điện: Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết kiệm nhỏ lẻ dựatrên hệ thống

bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.Tổng số vốn Tiết kiệm bưu điện

huy động được gần 30.000 tỷ đồng. Phần huy động nàychủ yếu chuyển giao sang cho Quỹ hỗ trợ Phát

triển.

Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các tỉnh, thành phố: Quỹ hỗ trợphát triển là tổ chức

cấp tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (tín dụng chỉ định) chocác dự án. Quỹ này trực thuộc Bộ tài

chính. Các quỹ đầu tư phát triển địa phương trựcthuộc các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Các quỹ này

có nhiệm vụ cho vay các dự ántheo định hướng phát triển của từng địa phương. Quỹ hỗ trợ phát triển và

các quỹ đầu tưphát triển của các địa phương hoạt động không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức

tíndụng và không chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước.

2.3. Các công cụ tài chính

Hiện tại trên thị trường tài chính Việt Nam có các loại công cụ tài chính sau:

Trái phiếu chính phủ: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ giao dịch trên thị trường chứngkhoán là 24.000

tỷ đồng. Ngoài ra trái phiếu chính phủ còn được phát hành thông qua hệthống các kho bạc nhà nước địa

phương.

Tín phiếu kho bạc: Loại này do Kho bạc nhà nước phát hành và được đấu giá chủ yếuthông qua thị

trường mở của Ngân hàng nhà nước. Đây là một công cụ huy động nguồnvốn cho chi tiêu ngân sách rất

quan trọng của chính phủ.

Trái phiếu đô thị: Do các chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố) phát hành. Hiện tạimới có một số

thành phố lớn phát hành loại trái phiếu này. Các địa phương khác thíchdùng tín dụng qua ngân hàng hơn.

57

Trái phiếu công ty: Loại này tương đối ít, chủ yếu do các ngân hàng thương mại và các tổchức tài chính

phát hành. Hiện nay có hai loại trái phiếu đang được giao dịch tương đốiphổ biến trên thị trường là trái

phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vàTrái phiếu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam.

Chứng chỉ tiền gửi: Theo phân loại trong các giáo trình thì chứng chỉ tiền gửi là công cụtài chính của thị

trường tiền tệ, nhưng đặc trưng của Việt Nam, chứng chỉ tiền gửi là mộtloại giấy tờ có giá do các ngân

hàng phát hành có thời hạn trên 1 năm với những đặc điểmtương tự như trái phiếu. Loại hình giấy tờ có

giá do các ngân hàng thương mại phát hànhcó thời hạn dưới một năm được gọi là kỳ phiếu.

Cổ phiếu: Hiện ở Việt Nam đã có rất nhiều công ty cổ phần nên loại hình này tương đốiphổ biến.

Vay liên ngân hàng: Đây là loại hình giao dịch rất phổ biến giữa các ngân hàng thươngmại với nhau.

Các loại hình cho vay phổ biến gồm, cho vay qua đêm, cho vay có kỳ hạn 3tháng, 6 tháng.

Các loại công cụ tài chính phái sinh

2.4. Cơ sở hạ tầng tài chính

Hệ thống luật pháp và quản lý của nhà nước: Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh vàđiều kiện

thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh giá là tương đối đầy đủđể hệ thống tài chính hoạt

động. Hiện đã có Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ngân hàngnhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật

bảo hiểm, Luật chứngkhoán. Tuy nhiên vấn đề quản lý nhà nướcchưa thực sự đồng bộ và thống nhất.

Nguồn lực và thông lệ giám sát: Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông lệ giám sátchưa đáp ứng nhu

cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát triển bền vững vàhội nhập quốc tế.

Cung cấp thông tin: Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính nói chungđang từng bước

áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫnchưa thực sự đầy đủ và được tuân

thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thốnglưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín

dụng đủ độ tín cậy. Hiện trung tâm thôngtin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đảm

nhận nhiệm vụ này. Tuynhiên để trở thành một tổ chức có độ tin cậy cao thì CIC còn rất nhiều việc phải

làm phải cải tiến rất nhiều.

Hệ thống thanh toán: Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử dụnghệ thống thanh

toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ chức tài chính, nhất làcác ngân hàng thương mại đã

xây dựng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ

thống thanh toán liên ngân hàng. Đây làmột bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh toán của hệ

58

thống tài chính Việt Nam.Khi tất cả các ngân hàng xây dựng xong hệ thống này thì công nghệ thanh toán

của hệthống tài chính Việt Nam là đảm bảo.

Định hướng phát triển hệ thống tài chính của Việt Nam:

- Tái cấu trúc thị trường tài chính việt Nam

- Hình thành đồng bộ các loại hình thị trường tài chính và dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu vốn

cho nền kinh tế.

- giải phóng và huy động hiệu quả mọi nguồn lực tài chính phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội

của đất nước, xem đây là đột phá có ý nghĩa quan trọng trong việc tái cơ cấu nền tài chính quốc gia.

- Tích cực, chủ động mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.

- Nâng cao năng lực và hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính.

- Cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo hoạt động tài chính thông suốt, chất lượng và

hiệu quả, xem đây là khâu đột phá quan trọng mang tính chất chiến lược.

- Hoàn thiện phương thức điều hành chính sách tài chính.

Câu 10: Vai trò của chính sách tiền tệ của NHTW đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội? (Các

vai trò chủ yếu: Kiểm soát lạm phát, công văn việc làm, tăng trưởng kinh tế, giá cả thị trưởng, tỷ

giá, …)

Chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền KT nhằm phân bổ 1 cách

hiệu quả các nguồn tài nguyên nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng,cân đối KT,trên cơ sở ổn định

giá trị đồng tiền quốc gia.Vai trò của CS tiền tệ của NHTW thể hiện ở các điểm sau:

1. Thông qua điều tiết lượng tiền cung ứng,nhờ đó ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm

soát lạm phát.

Khi lạm phát gia tăng,nó tác động đến mọi mặt của nền KT-XH ,làm sai lệch các chỉ tiêu KT,làm phân

phối lại thu nhập,kích thích tâm lý đầu cơ…gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo,giảm sức mua

59

thực tế về hàng hoá tiêu dung.Tuy nhiên,với một tỷ lệ lạm phát vừa phải,lạm phát lại là yếu tố để kích

thích nền KT tăng trưởng.

2.Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ

giá hối đoái.

Một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều xuất hiện những tác động kép : tích cực và tiêu cực.Một tỷ giá hối

đoái thấp có tác dụng khuyến khích nhập khẩu,gây bất lợi cho xuất khẩu.tuy nhiên sẽ gây bất lợi cho cuộc

chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước.Khi đó khối lượng dự trữ ngoại hối bị xói mòn.Ngược

lại,một tỷ giá hối đoái cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu,khuyến khích xuất khẩu,gây khó khăn cho các DN

nhập khẩu mà sản xuất phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và máy móc nhập ngoại.

Vì vậy,NHTW phải can thiệp bằng CSTT để giữ cho tỷ giá hối đoái ko biến động quá lớn,tránh gây sự bất

ổn định trong nền KT vừa nhằm khuyến khích xuất khẩu vừa kiểm soát nhập khẩu.

3.Tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là mục tiêu vĩ mô của bất kì quốc gia nào.Tuy nhiên,thực hiện mục

tiêu này ko có nghĩa là khuyến khích tăng trưởng mà còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của

nền KT nếu KT phát triển quá nóng.Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng KT hiện tại là thấp hay cao để sự điều

tiết của CSTT hướng vào khuyến khích hay kìm hãm tốc độ tăng trưởng KT.

Trường hợp cần khuyến khích tăng trưởng KT,NHTWthực hiện CSTT mở rộng tức là tăng cung ứng tiền

tệ nhằm làm lãi suất giảm xuống,kích thích đầu tư,mở rộng sản xuất, tăng GDP.Mặt khác, tăng khối

lượng tiền tệ làm tăng tổng cầu,sức mua hàng hoá tăng lên,là tiền đề gia tăng sản xuất dẫn đến GDP

tăng.Nếu mức gia tăng GDP cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì nền KT sẽ thực sự có tăng trưởng.

Trường hợp cần kìm hãm tốc độ tăng trưởng KT,NHTWthực hiện CSTT thắt chặt tức là giảm khối lượng

tiền tệ trong lưu thông nhằm làm lãi suất tăng lên,đồng vốn đầu tư đắt lên,làm đầu tư giảm,dẫn đến GDP

giảm xuống.Mặt khác,giảm khối lượng tiền tệ sẽ làm tổng cầu ,sức mua sẽ giảm, làm tăng hoàng hoá tồn

đọng của các DN, do đó các DN không có cơ sở mở rộng sản xuất, vì vậy GDP giảm.

60

4.Tạo việc làm,giảm thất nghiệp

Để đạt đc mục tiêu này,CSTT hướng vào việc khuyến khích đầu tư, gia tăng sản xuất, việc làm sẽ tăng

lên.Mặt khác, khi các hoạt động kinh tế đc mở rộng,sẽ có tác dụng chống suy thoái,nhất là suy thoái chu

kì,để đạt mức tăng trưởng ổn định,góp phần ổn định cuộc sống của ng dân và tạo thêm nhiều việc làm

mới.

Câu 11: Các chính sách tài chính phát triển thị trường BĐS

3.1.1 Các chính sách liên quan đến thuế

3.1.1.1 Thuế sử dụng đất

Đối với thuế nhà đất hiện nay chỉ thu thuế đất nhưng chưa thu thuế nhà, cơ sở tính thuế là dựa trên cơ sở

tính thuế sử dụng đất nông nghiệp. Còn thuế sử dụng đất nông nghiệp được tính trên cơ sở hoa lợi sinh ra

từ việc sử dụng đất, thuế được tính bằng thóc và quy ra tiền để nộp vào ngân sách. Cả hai loại thuế này

suy cho cùng tính theo mục đích sử dụng đất, một bên là thu thuế sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông

nghiệp, còn một bên là thu thuế sử dụng đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp như làm đất làm nhà

ở, đất sử dụng để xây dựng công trình để sản xuất kinh doanh, dịch vụ.Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

được tính như là bội số của thuế sử dụng đất nông nghiệp vì căn cứ tính thuế dựa trên thuế sử dụng đất

nông nghiệp. Mặc khác, thuế sử dụng đất nông nghiệp đóng góp vào ngân sách TP. Hà Nội là không đáng

kể, mà loại thuế này đánh vào đối tượng là người nông dân trong khi đó đại bộ phận nông dân còn nghèo,

do đó loại thuế này sẽ là gánh nặng cho họ. Vì vậy, từ những tồn tại nêu trên, cần phải xây dựng một sắc

thuế mới để thay thế hai loại thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà đất. Sắc thuế đó được gọi là thuế

sử dụng đất. Sắc thuế mới này được xây dựng với quy định tiến bộ, hợp lý, góp phần làm đơn giản hóa hệ

thống thuế hiện hành, đảm bảo thống nhất cho công tác hành thu, bình ổn thị trường, đảm bảo sử dụng đất

tiết kiệm và hiệu quả, đảm bảo tính công bằng cho các đối tượng nộp thuế.

3.1.1.2 Thuế trước bạ

Trong chương hai đã trình bày, việc xác nhận và cấp giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở

chỉ là công tác hành chính, chỉ mang tính quản lý của nhà nước trong các hoạt động giao dịch trên thị

trường bất động sản. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế này thì lệ phí trước bạ cần ấn định một số tiền

cố định thấp như là loại phí hành chính bình thường khác nhằm tạo điều kiện và khuyến khích các giao

dịch bất động sản được thực hiện trên thị trường chính thức, nhằm giúp nhà nước quản lý chặt chẽ thị

trường bất động sản, ổn định nguồn thu cho ngân sách. Lệ phí trước bạ được tính bằng 1% trên giá trị

61

chuyển nhượng thực tế là quá cao, bởi vì ngoài lệ phí trước bạ, tổ chức, cá nhân còn phải nộp thuế chuyển

quyền sử dụng đất là 4%, đối với tổ chức còn phải nộp thêm thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất,

chuyển quyền thuê đất, đối với cá nhân còn phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Nên tổng số thuế phải nộp sẽ

rất cao, đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho giao dịch bất động sản thông qua thị trường

phi chính thức phát triển mạnh trong thời gian qua.

3.1.1.3 Thuế thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản

Xuất phát từ những hạn chế của thị trường bất động sản như đã phân tích trong chương hai, giao dịch

ngầm trên thị trường phi chính thức ngày càng tăng, xuất hiện hiện tượng đầu cơ đất đai, tạo giá làm lũng

đoạn thị trường, nhà nước thì bị thất thu thuế. Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng cần phải có một sắc

thuế để đánh vào các hoạt động đầu cơ trên thị trường bất động sản nhằm hạn chế đến mức thấp nhất hoạt

động này và đưa đất đai về đúng giá trị, giá trị sử dụng của nó, góp phần làm lành mạnh hóa thị trường,

thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phát triển.

Hoạt động đầu cơ tồn tại trên nhiều thị trường, tuy nhiên do đặc điểm của bất động sản có tính chất cố

định, không di chuyển được, do vậy ở chừng mực nhất định có thể kiểm soát được hoạt động đầu cơ

thông qua chính sách thuế này. Hoạt động đầu cơ trên thị trường bất động sản tác động xấu làm ảnh

hưởng đến sự phát triển của thị trường bất động sản và các thị trường có liên quan, đặc biệt là thị trường

vốn.

Hoạt đồng đầu cơ bất động sản đứng dưới góc độ của cá nhân hay tổ chức đó là hoạt động đầu tư bất

động sản, họ kỳ vọng trong tương lai giá bất động sản sẽ tăng và đem bán bất động sản đó đi để kiếm lời.

Vì vậy, mục đích cuối cùng của hoạt động đầu cơ bất động sản là thu nhập ròng từ hoạt động chuyển

nhượng bất động sản, và hiện nay pháp luật không cấm hoạt động này. Do đó, để hạn chế và tiến tới kiểm

soát được hoạt động đầu cơ bất động sản, góp phần làm lành mạnh hóa thị trường, tạo tính minh bạch cho

thị trường bất động sản và điều tiết một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước thì giải pháp đưa ra là cần

phải đánh thuế thu nhập vào hoạt động chuyển nhượng bất động sản.

3.1.2 Giải pháp về chính sách giá cả bất động sản

Trong thời gian tới, TP. Hà Nội cần phải xây dựng lại bảng giá đất theo đúng tin thần Luật đất đai năm

2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, là giá đất phải sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường

nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động sử dụng lãng phí đất đai, tạo nguồn thu ổn định cho ngân

sách Thành phố, ngày càng thu hẹp khoảng cách giữa giá thị trường và giá đất do UBND TP. Hà Nội quy

định, giảm các khiếu kiện của người dân liên quan đến tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.

62

Vì vậy, yêu cầu đặt ra cần phải xác định giá đất nhanh chóng, chính xác, hợp lý sát với giá thị trường là

vấn đề vô cùng quan trọng trong tình hình hiện nay. Để có thể làm việc này, thì vấn đề đặt ra là TP. Hà

Nội cần phải xây dựng một trung tâm lưu trữ toàn bộ các thông số về bất động sản cũng như các giao dịch

bất động sản trên thị trường. Hệ thống thông tin này phải công khai, minh bạch, mọi người có thể sử dụng

thông tin từ hệ thống này để tham khảo, đối chiếu khi có nhu cầu.

3.1.3 Giải pháp về tài chính và thông tin

3.1.3.1 Các chính sách tài chính

Đổi mới cơ chế thế chấp tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, người dân có thể thế chấp BĐS để

vay vốn. Đây là giải pháp quan trọng nhằm huy động tiềm năng của BĐS tạo thành nguồn vốn phát triển

kinh tế. Ngân hàng nhà nước đề xuất các cơ chế mở rộng khả năng cung cấp nguồn tài chính cho thị

trường BĐS từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng để có thể cho vay dài hạn với lãi suất phù hợp. Đặc

biệt là cơ chế cho hộ gia đình, cá nhân vay mua nhà trả góp, xây dựng, xây dựng nhà cho thuê. Nhà nước

cần có chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào phát triển BĐS nhà ở bằng các giải pháp

như miễn giảm thuế, trợ cấp một phần vốn, trợ giúp kỹ thuật, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi. Cho phép

áp dụng thuế suất bằng không trong thuế VAT và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh

nghiệp đầu tư và phát triển BĐS là nhà ở cho các đối tượng hưởng ưu đãi xã hội, người có thu nhập thấp

và người nghèo.

Ta có thể xây dựng mối liên kết với Nhà nước – Ngân hàng – Doanh nghiệp – người sử dụng nhà.

Trong đó Nhà nước hỗ trợ về chính sách, ngân hàng hỗ trợ về vốn, Doanh nghiệp và người mua giao dịch

trả góp Nhà nước sẽ hỗ trợ về lãi suất và bảo lãnh tín dụng. Họ có thể xây các chung cư cho người dân

thuê nhà trả tiền hàng tháng do Nhà nước quản lý hay bán trả góp vốn lâu dài từ 20-25 năm. Xây dựng

các khu chung cư thấp tầng có xuất đầu tư hợp lý nhưng không đầu cơ lũng đoạn nên có biện pháp khống

chế ngăn chặn – chẳng hạn đóng băng khu vực nhà ở này bằng cách những người mua nhà này phải ký

giao ước không chuyển nhượng trong thời gian dài và các văn bản này phải được bảo đảm bởi sự bảo hộ

của cơ quan pháp luật.

3.1.3.2 Tuyên truyền các thông tin pháp luật và xây dựng dịch vụ công.

Việc một thị trường hoạt động hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc thông tin được

cung cấp về các nhu cầu và khả năng cung cấp các mặt hàng đó. Trong thời gian vừa qua thị trường nhà ở

tại TP Hà Nội hoạt động lộn xộn, thị trường ngầm phát triển mạnh vì phần lớn những người tham gia thị

trường đều không có được các thông tin chính xác. Việc xây dựng được một hệ thống thông tin phục vụ

63

cho hoạt động của thị trường sẽ mang lại rất nhiều những lợi ích thiết thực. Phần lớn những người dân

tham gia thị trường một cách không chuyên nghiệp đều rất ít hiểu biết về thông tin pháp luậ. Việc tuyên

truyền các thông tin phát luật về các chính sách về đất đai và nhà ở của nhà nước cho nhân dân là vô cùng

quan trọng, làm cho người dân hiểu rằng việc mua bán đúng theo quy trình sẽ mang lại cho họ lợi ích gì,

được đảm bảo về các vấn đề giá cả cũng như một sự an toàn cao về ngôi nhà, mảnh đất mà họ đã mua.

Xây dựng một ngân hàng dữ liệu, tổ chức một dịch vụ công cung cấp thông tin cho người dân, khi có nhu

cầu về một lô đất hay một căn nhà ở một khu vực nào đó người dân có thể đến trung tâm để mua các

thông tin này với một mức chi phí hợp lý, hoặc có những người có nhu cầu bán hoặc cho thuê cũng có thể

đến trung tâm để niêm yết. Thông tin là một mặt hàng, nếu được cung cấp chính xác thì sẽ hấp dẫn được

người mua và là chất xúc tác để đảm bảo cho hoạt động của thị trường BĐS.

64