AGU International Journal of Sciences 2024, Vol. 33 (3), 1 19
1
DI CƯ TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ Ở AN GIANG HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Trn Th Kim Liên(1)
1Trường Đại học An Giang, Đại hc Quc gia TP. HCM
Thông tin chung:
Ngày nhn bài: 16/08/2021
Ngày nhn kết qu bình
duyt:25/03/2022
Ngày chp nhận đăng:
03/2023
Title:
Migration from rural to
urban in An Giang province:
situation and
recommendation
Keywords:
Migration,immigration, social
protection
T khóa:
Di cư, nhập cư, an sinh xã hội
ABSTRACT
The paper uses qualitative and quantitative research methods to examine
the migration from rural to urban areas and the factors pushing people to
migrate in An Giang province. The research findings reaffirm that rural-
urban migration is an indispensable trend in the context of economic
development and urbanization. Most migrants from An Giang are young and
have low levels of skill training. Migration is driven by many factors;
however, economic reasons remain the primary drivers of workers'
decisions to migrate. Based on the research findings, policy implications are
recommended to maximize the socio-economic development of An Giang
province
TÓM TT
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng nhằm tìm
hiểu thực trạng di từ nông thôn ra thành thị c nguyên nhân nh
hưởng đến quyết định di của người dân tỉnh An Giang. Kết quả nghiên
cứu tiếp tục khẳng định di từ ng thôn lên thành thị xu hướng dịch
chuyển mang tính khách quan trong bối cảnh cấu kinh tế đô thị hóa.
Phần lớn người di An Giang người trẻ tuổi, chưa qua đào tạo. Sự di
kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân về
kinh tế nhóm nguyên nhân bản thúc đẩy quyết định di của người
lao động. Trên sở này, bài viết đưa ra những gợi ý chính sách bảo đảm
di cư và đô thị hoá nhằm đóng góp tốt nhất cho sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh An Giang
1. GII THIU
Kinh tế phát triển, quá trình đô thị hoá, công
nghiệp hoá, chuyển đổi cấu nền kinh tế diễn
ra nhanh chóng cùng với chính sách mở cửa, hội
nhập dẫn đến việc di cư nội địa và di cư quốc tế
tăng lên. Di góp phần phát huy các tiềm lực
và làm thay đổi sự phân bố kinh tế - xã hội ở các
địa phương và các vùng kinh tế - xã hội trong cả
nước. Di đóng góp tích cực cho bản thân
người di cư và sự phát triển của nơi đến, nhưng
di cũng góp phần làm gia tăng khoảng cách
kinh tế - hội giữa nơi đi nơi đến, giữa thành
thị nông thôn giữa các vùng kinh tế -
hội (GSO, 2011).
AGU International Journal of Sciences 2024, Vol. 33 (3), 1 19
2
An Giang một trong những địa phương số
lượng người dân xuất cao hơn nhiều so với
người nhập cư với tỷ suất di cư thuần năm 2019
-72,1% (Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số
nhà Trung ương [TĐTDSNO], 2019). An
Giang với gần 70% tổng số dân nguồn lao
động tập trung khu vực nông thôn, sự xuất hiện
xu hướng di cư, đặc biệt là từ nông thôn lên thành
thị một xu thế được dự báo trước, đặc biệt
trong bối cảnh toàn cầu hóa đô thị hóa ngày
càng mở rộng. Di từ nông thôn lên thành thị
bước đầu đem đến các kết quả tích cực như cung
cấp nguồn lao động cho các đô thị, nâng cao mức
sống của phần lớn lao động chân tay, nâng cao
dân trí trình độ thuật, góp phần chuyển dịch
cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tiến tới m
rộng mạng lưới đô thị. Sự dịch chuyển dân cư t
nông thôn sang thành thị cũng p phần quan
trọng trong việc thực hiện mục tiêu xóa bỏ
khoảng cách giàu nghèo của tỉnh, hướng tới xây
dựng An Giang thành một trung tâm kinh tế - xã
hội thuộc nhóm đầu khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long đạt trung bình cả nước vào năm
2025 (An Giang, 2020). Tuy nhiên, bên cạnh các
tác động tích cực, sự dịch chuyển dân từ nông
thôn lên thành thị sang các tỉnh/thành phố
khác cần chú ý đến nhiều hệ lụy về việc làm, khả
năng đáp ng nhu cầu công nghiệp hóa, thất
nghiệp và an sinh xã hội,
Giai đoạn 2021-2025, tỉnh An Giang định hướng
tập trung triển khai thực hiện tốt chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu vào nông
nghiệp, nông thôn để thu hút vốn đầu tư, từng
bước hình thành các doanh nghiệp, phát triển
các nh tổ hợp tác, hợp tác hoạt động
hiệu quả. Nghiên cứu ứng dụng hiệu quả các
chính sách đột phá về khoa học và công nghệ để
nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp; đẩy nhanh tiến trình đô
thị hóa thành thị và nông thôn, phấn đấu tỉ lệ đô
thị hóa đến năm 2025 đạt khoảng 43%, tăng
khoảng 3% so với năm 2020 (tỉ lệ đô thị hóa tỉnh
An Giang năm 2020 khoảng 40%)” (Ủy ban
nhân dân tỉnh An Giang, 2020). Với định hướng
này, An Giang cần xác định thực trạng di
từ nông thôn ra thành thị trên địa bàn hiện nay,
từ đó những giải pháp để pháp huy c mặt
tích cực hạn chế c mặt tiêu cực của hiện
tượng này trong giai đoạn tới.
Bài viết này chỉ tập trung phân tích thực trạng di
từ nông thôn ra thành th của nời dân tỉnh
An Giang từ kết quả nghiên cứu thực địa và đưa
rac hàm ý chính sách liên quan.
2. MT S KHÁI NIM VÀ LÝ THUYT
LIÊN QUAN
Trong bài viết này: Người di cư” được hiểu
người di chuyển từ huyện/quận y sang
huyện/quận khác trong vòng 5 năm trước thời
điểm khảo sát thỏa mãn một trong ba điều
kiện sau: (i) Đã trú ở nơi điều tra từ 1 tháng
trở lên; (ii) Cư trú nơi điều tra mới dưới 1
tháng nhưng có ý định ở từ 1 tháng trở lên; (iii)
trú nơi điều tra mới dưới 1 tháng nhưng
trong vòng 1 năm qua đã rời khỏi nơi thường trú
đến một quận/huyện khác với thời gian tích lũy
từ 1 tháng trở lên để lao động kiếm tiền.
Người không di cư được định nghĩa là người
trú ổn định tại một quận/huyện đang điều tra tính
từ lúc sinh ra hoặc được từ 5 năm trở lên và thỏa
mãn đồng thời các điều kiện sau: (i) Trong vòng
5 năm qua họ không rời khỏi huyện/quận đó ít
nhất 1 tháng liên tục để đến trú một
huyện/quận khác; (ii) Trong 1 năm qua họ không
rời khỏi huyện/quận đó đến các huyện/quận khác
với tổng thời gian tích lũy từ 1 tháng trở lên với
mục đích lao động kiếm tiền. Người không di cư
được xác định qua các hộ gia đình người di
cư.
Lý thuyết về “lực đẩy” và “lực hút”:
Di dân chịu tác động của “lực đẩy” và “lực hút”.
Lực đẩy nơi xuất như: điều kiện sống khó
khăn, không có việc làm, chênh lệch thu nhập
giữa nơi đến nơi đi, mong muốn cải thiện môi
AGU International Journal of Sciences 2024, Vol. 33 (3), 1 19
3
trường sống, học tập… và “lc hút” của nơi đến:
điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu thuận lợi, dễ
kiếm việc làm, thu nhập cao, triển vọng cải thiện
đời sống… Trên sở đó, thuyết “lực hút - lực
đẩy” của Everett Lee đã được hình thành, góp
phần tìm hiểu các quy luật của di phân loại
các nhóm yếu tảnh hưởng đến quá trình này.
Lee lập luận rằng quyết định di cư được dựa trên
bốn nhóm yếu tố: (1) các yếu tố gắn với nơi
gốc; (2) các yếu tố gắn vớii s đến; (3) các
trở ngại di cư; (4) các yếu tố thuộc về người
di cư. Mỗi một địa điểm, nơi đi nơi đến đều
những ưu điểm hạn chế người di cân
nhắc. Các điều kiện kinh tế khó khăn ở nơi đi là
nhân tố “đẩy” chủ yếu của việc xuất cư, trong khi
cải thiện điều kiện kinh tế của nơi đến là nhân tố
“hút” quan trọng nhất của việc nhập cư. Bên
cạnh đó, quyết định di còn phụ thuộc vào
những phẩm chất nhân của từng người. Như
vậy, xét một cách tổng quát, các yếu tố tạo lực
hút - đẩy bao gồm vấn đề kinh tế, điều kiện sống
đặc điểm hộ gia đình nơi đi, hội việc làm,
thu nhập, sinh kế hình thành nên lc hút nơi
đến. (Everett S. Lee, 1966).
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đánh giá thực trạng di từ nông thôn ra
thành thị và ảnh hưởng của nó đến tình trạng an
sinh hội tỉnh An Giang, từ đó đưa ra các giải
pháp phát huy các mặt tích cực hạn chế của
hiện tượng di nông thôn - thành thị An
Giang giai đoạn 2020-2025, nhóm nghiên cứu đã
sử dụng các phương pháp sau:
3.1 Phương pháp nghiên cứu đnh tính
Nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ
các báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu về
tình hình di cư nông thôn - thành thị tại tỉnh An
Giang; các báo cáo về đặc điểm, tình hình di cư,
các loại hình di cư, đô thị hóa, sự phát triển kinh
tế, hội của tỉnh An Giang từ các Sở, ban ngành
liên quan của tỉnh An Giang, các tỉnh/thành
phố ở địa bàn khảo sát; các văn bản, tài liệu thể
hiện quan điểm, chủ trương của Đảng Nhà
nước và của tỉnh An Giang đối với di cư và phát
triển kinh tế nông thôn các quy định pháp luật
hiện hành liên quan đến di cư nông thôn - thành
thị.
Nghiên cứu đã thực hiện 12 cuộc thảo luận nhóm
tại 03 tỉnh/thành phố gồm: 06 cuộc thảo luận
nhóm tại Thành phố (TP) Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Bình Dương; và 06 cuộc thảo luận nhóm tại
3 huyện Châu Thành, Tịnh Biên Phú Tân
thuộc tỉnh An Giang. Mỗi địa bàn thực hiện 2
cuộc thảo luận nhóm mỗi cuộc 10 người
tham dự. Tiêu chí lựa chọn những người tham
gia thảo luận nhóm gồm:
- Đối với 06 cuộc thảo luận nhóm tại TP Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bình Dương: Mỗi tỉnh chọn ra
10 người di từ An Giang đang sinh sống
làm việc tại 3 tỉnh này (đa dạng về giới tính, độ
tuổi, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tình trạng
kinh tế hộ gia đình,…) 10 đại diện các bên
liên quan gồm: công an hộ khẩu, cán bộ chuyên
trách phụ trách vấn đề hộ tịch, tổ trưởng dân phố,
cán bộ Lao động - Thương binh hội, các
doanh nghiệp, chủ nhà trọ,…
- Đối với 06 cuộc thảo luận nhóm tại 3 huyện
Châu Thành, Tịnh Biên Phú Tân thuộc tỉnh
An Giang: Mỗi huyện chọn đại diện 10 hộ gia
đình nông thôn có người di cư từ 6 tháng trở lên
(đa dạng về nh trạng kinh tế hộ gia đình, dân
tộc, giới tính,…) 10 cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên trách và cán bộ đoàn thể, tổ chức xã hội.
Ngoài ra, phương pháp phỏng vấn sâu người di
cư và hộ gia đình có người di cư được thực hiện
nhằm khai thác thêm thông tin về cuộc sống,
công việc của người di làm rõ hơn về các
yếu tảnh hưởng đến di nhằm bổ sung cho
nghiên cứu định lượng.
3.2 Phương pháp nghiên cứu đnh lượng
Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực
hiện đối với 600 hộ gia đình An Giang có người
di 300 người di từ An Giang đến các địa
AGU International Journal of Sciences 2024, Vol. 33 (3), 1 19
4
phương ngoài tỉnh (TP Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai) bằng phiếu hỏi cấu trúc.
Phương pháp chọn mẫu 600 hộ gia đình An
Giang người di như sau: giai đoạn đầu, mỗi
huyện chọn ra 1 1 thị trấn; giai đoạn hai,
chọn ngẫu nhiên từ mỗi xã bốn "điểm xuất phát"
về mặt vị trí bắt đầu với mỗi "điểm xuất phát",
chọn chủ đích 100 hộ gia đình có người di cư từ
6 tháng trở lên. Kết quả chọn được 200 hộ gia
đình mỗi huyện. Theo phương pháp này, nghiên
cứu thu được c mẫu ban đầu là 600 hộ gia đình.
Phương pháp chọn mẫu 300 người di ngoại
tỉnh như sau: Mỗi tỉnh/ thành phố chọn ra 100
mẫu để khảo sát. Mẫu phỏng vấn được lựa chọn
có chủ đích từ danh sách tạm trú tại mỗi địa bàn
do công an hộ khẩu cung cấp. Đối tượng người
lao động từ 18 tuổi trở lên, nhập cư các tỉnh/
thành phố từ 1 tháng trở lên, có hộ khẩu thường
trú ở tỉnh An Giang đến tạm trú có nơi cư trú ổn
định; người lao động hộ khẩu thường t
tỉnh An Giang đến tạm trú nơi trú không
ổn định làm ăn theo thời vụ. Việc lấy mẫu
cũng nh đến các yếu tố giới tính, nhóm độ
tuổi, vùng miền (nông thôn, thành thị), dân tộc
trình độ học vấn, đa dạng ngành nghề, khu
vực làm việc của người lao động (chính thức
phi chính thức). Như vậy, tổng mẫu ngoại tỉnh
300.
Phiếu hỏi đối với hộ gia đình có người di cư trên
địa bàn An Giang nhằm tìm hiểu về việc làm của
người di cư, tác động tích cực và tiêu cực của sự
di từ nông thôn An Giang ra các tỉnh khác,
các nhân tố ảnh hưởng đến di cư.
Phiếu hỏi đối với người dân An Giang di tới
các tỉnh/ thành phố khác nhằm tìm hiểu các yếu
tố liên quan đến nhân khẩu học, trải nghiệm của
người di vào các thành phố lớn, các tỉnh
khu công nghiệp lớn những tác động đến an
sinh xã hội của người di cư.
4. KT QU VÀ THO LUN
Số lượng người di An Giang từ nông thôn
lên thành thị rất lớn với tỷ suất xuất của An
Giang năm 2019 là 77,9% (Tổng cục Thống kê,
2020). Tuy nhiên, bài viết này chủ yếu tập trung
phân tích thực trạng di cư từ nông thôn lên thành
thị từ kết quả khảo sát thực địa.
Đặc điểm của người di cư từ nông thôn ra thành
thị tỉnh An Giang từ kết quả khảo sát 300 người
di cư ngoại tỉnh như sau:
Về tuổi: Theo kết quả khảo sát, tuổi trung vị của
người di cư An Giang 34 tuổi, trong khi tuổi
trung vị của người không di (hộ gia đình được
khảo sát) cao hơn khoảng 5 năm. Người di cư ở
An Giang tập trung chủ yếu ở độ tuổi từ 20 - 35
tuổi, đây nhóm tuổi tham gia chính vào lực
lượng lao động. Điều này cũng đã được minh
chứng và phù hợp với các dữ liệu về di cư trong
Tổng điều tra dân số nhà của nước ta năm
2014 và 2019 khi các dữ liệu cho thấy xu hướng
người trẻ di nhiều hơn so với các đối tượng
lớn tuổi (Tổng cục Thống kê, 2020).
Về giới tính: cấu giới nh của người di
được khảo sát khá cân bằng. Tỉ lệ nam chiếm tỷ
trọng cao hơn 7% so với nữ (55,3% nam so với
44,7% nữ).
Kết quả này tương đồng với các cuộc Tổng điều
tra dân số và nhà ở và Điều tra di cư nội địa của
Tổng cục Thống gần đây. Các cuộc điều tra
này đều cho thấy xu hướng “nữ hóa” di cư. Theo
kết quả Điều tra di nội địa quốc gia năm 2015,
tỉ lệ di của nam 16,8% của nữ 17,7%.
Tuy nhiên, Tây Nam Bộ trường hợp ngoại lệ
khi tỉ lệ di cư của nam và nữ tương ứng là 19,6%
18,6%. Theo Nguyễn Ngọc Toại (2017, tr 77–
78), điều này một phần liên quan ti xu hướng
chuyển đổi tc ngành công nghiệp thâm dụng
lao động (đặc biệt những ngành sdụng nhiều
nữ lao động như dệt may, điện tử,…) từng bước
sang thâm dụng công nghệ và tự động hóa trong
thời gian qua tại các đô thị lớn như TP Hồ Chí
Minh khu vực Đông Nam Bộ nói chung. Do
vậy, sức hút người di lao động phổ thông,
AGU International Journal of Sciences 2024, Vol. 33 (3), 1 19
5
đặc biệt lao động nữ cũng giảm đi tương đối.
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát đề tài “Vấn đề dân
số và di dân trong phát triển bền vững vùng Tây
Nam Bộ” của Thanh Sang (2018, tr 129–130)
khi tỉ lệ người di nam luôn cao hơn nữ tất
cả các địa bàn, đặc biệt tại các cộng đồng dân tộc
thiểu số. Tính chung, tỉ lệ di của nam (30,7%)
là cao hơn khá nhiều so vi nữ (21,3%).
Về tình trạng hôn nhân: người di cư trên địa bàn
tỉnh An Giang chủ yếu chưa lập gia đình, chiếm
tỉ lệ 52,3%, cao hơn so với người di đã lập gia
đình (47,7%). So với người không di cư, tỉ lệ
người di lập gia đình thấp. Những sự khác biệt
này phần lớn do cấu trúc tuổi người di trẻ
hơn so với người không di cư. Một nguyên nhân
khác thể việc di với mục đích lao động
hay học tập dẫn đến trì hoãn hôn nhân hoặc còn
chịu nhiều ảnh hưởng của lối sống thành thị.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật: Kết quả khảo sát
cho thấy, tỉ lệ người di chưa qua đào tạo chiếm
tỷ trọng lớn (78,3%), trong khi tỉ lệ người đào
tạo ở các cấp (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại
học trở lên) còn hạn chế. Điều này xuất phát từ
thực tế, khu vực nông thôn khó tiếp cận với
mạng lưới các trường đào tạo nghề so với khu
vực thành thị. Điều này cho thấy lợi thế về nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn của các điểm
nhập cư so với điểm xuất cư.
Tuy nhiên, kết quả này cũng phản ánh thách thức
đối với các đô thị khi tỉ lệ đào tạo nghề còn thấp
gây áp lực lớn đối với sở sản xuất doanh
nghiệp trong việc tiếp nhận đối tượng di cư.
4.1 Xu ớng di cư từ nông thôn ra thành th
An Giang
An Giang một trong những địa phương tỷ
suất di thuần thay đổi lớn trong giai đoạn
2009 - 2019. Năm 2009, tỷ suất di thuần của
An Giang là (-41,2%), năm 2014 là (-42,8%) và
đến năm 2019, tỷ suất di cư thuần của An Giang
(-72,1%) thuộc một trong các tỉnh tỷ suất
di thuần cao nhất cả nước, trong đó, tsuất
xuất cư là 77,9% và tỷ suất nhập cư chỉ đạt 5,8%
(Tổng cục Thống kê, 2020).
Bảng 1. Tình hình di cư ở An Giang giai đoạn 2009 - 2019
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2009
2014
2019
Tỷ suất nhập cư
8,4
9,4
5,8
Tỷ suất xuất cư
49,6
52,2
77,9
Tỷ suất di cư thuần
-41,2
-42,8
-72,1
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009, 2014 và 2019
Giai đoạn 2014 - 2019, tỷ suất xuất tăng mạnh
do sức hút ngày càng lớn của các trung tâm công
nghiệp vùng Đông Nam Bộ đối với các địa
phương lân cận, bên cạnh đó, một trong những
nguyên nhân quan trọng sự hình thành của
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng TP. Hồ
Chí Minh, điều kiện thuận lợi về giao thông đối
với việc di cư. Trong giai đoạn này, ở An Giang
xuất hiện xu hướng di chủ yếu di lao
động học tập lên các trung tâm kinh tế, giáo
dục phía Nam. Mặt khác, các luồng di trong
tỉnh vẫn tiếp tục diễn ra song quy xu
hướng nhỏ, chủ yếu từ các địa phương đến TP.
Long Xuyên và TP. Châu Đốc.
Liên quan đến xu hướng quy di từ nông
thôn lên thành thị An Giang, nghiên cứu tập
trung làm rõ một số đặc trưng cơ bản của người