Điều trị bệnh ờng giáp
trạng và Basedow
Bệnh cường giáp trạng nói chung và bệnh Basedow nói riêng là loại bệnh
k phổ biến trong các bệnh tuyến giáp.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh Basedow (trong những trường hợp điển hình)
thường là có bướu cổ to ra; mch nhanh; hay những n nóng bừng
mặt, lòng bàn tay thường m hấp m hôi; mắt lồi; rối loạn tiêu hoá (đi
lỏng...); tính tình thay đổi, hay cáu gắt, dễ nổi nóng; run tay...
Về điều trị:
Hiện có 3 phương pháp chính để điều trị bệnh cường giáp Basedow, đó
dùng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trị nội khoa), phẫu thuật iốt
phóng xạ. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng.
Trên thế gii, lần đầu tiên vào m 1942 tại bệnh vin Massachusett - Hoa
Kỳ, iốt phóng xạ đã được sử dụng để điu trị bệnh cường giáp trạng bệnh
Basedow. Cho đến nay trải qua hơn 60 m sdụng I - 131, hàng triệu bệnh
nhân mắc bệnh y trên thế giới đã được điều tr thành công bằng iốt phóng
xạ.
Việt Nam, năm 1978 lần đầu tiên tại khoa Y học hạt nhân và điều trị Ung
bướu - Bệnh viện Bạch Mai, I-131 đã được sử dụng để điều trị bệnh
Basedow và cường giáp trạng. Cho đến nay hầu hết các khoa Y học hạt nhân
trong cnước đã tiến hành trbệnh y bằng I-131, đã tới hàng vạn
bệnh nhân đã được áp dụng phương pháp điều tr y. Do tính chất đơn giản,
hiệu quả, kinh tế và thẩm mỹ... nên hin nay I-131 đang xu hướng ngày
càng được sử dụng rộng rãi trong điều trbệnh cường giáp trạng bệnh
Basedow.
Điều trị bằng iốt phóng xạ thường được chđịnh rất rộng rãi: Tất cả các bệnh
nhân (thuộc mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em) được chẩn đoán xác định là có cường
giáp trạng hay Basedow chưa qua bất kỳ phương pháp điu tr nào (như điều
trị nội khoa, phẫu thuật); hoặc tái phát sau điều trnội khoa, tái phát sau
phẫu thuật; biến chứng sau điều trị nội khoa (dị ng, nhiễm độc gan, giảm
bạch cầu, suy tuỷ xương sau điu trbằng thuốc kháng giáp), hoặc bệnh
nhân không còn chỉ định phẫu thuật...
Quy trình điều trbằng I-131 khá đơn giản. Bệnh nhân sau khi được chẩn
đoán xác định có ch định điu trs được uống I-131 dưới dạng dung
dịch lng hoặc dưới dạng viên con nhộng. Sau đó được trở về sinh hoạt tại
gia đình thể đi lại tn các phương tiên giao thông công cộng nxe
buýt, taxi, tàu hoả..., nếu những bệnh nhân này không c biến chứng
nặng,nh trạng bệnh không ở mức quá nặng.
I-131 thường phát huy hiu quả điều trị từ 6-8 tuần sau khi uống thuốc. Theo
nhiều thống cho thấy có tới hơn 85 % bệnh nhân hết các triệu chứng
cường giáp sau 3-5 tháng nhận liều điều trị bằng I-131. Hơn 95 % bệnh
nhân bướu cổ trvề bình thường hoặc nhỏ lại, và trên 80 % bệnh nhân
lên cân. Các triệu chứng run tay, rối loạn tiêu hoá, ... được cải thiện rõ rệt
100 % các bệnh nhân sau uống I-131.
Một điểm đặc bit của phương pháp điều trị này là I-131 thể làm nhỏ
bướu giáp m mất các triệu chứng cường giáp để đưa bệnh nhân về tình
trạng bình giáp (trvề bình thường). Người ta gi đây là phương pháp phẫu