
HƯỚNG DẪN QUY TRÌNH KỸ THUẬT NỘI KHOA, CHUYÊN NGÀNH TIM MẠCH
242
ĐIỀU TRỊ SUY TĨNH MẠCH BẰNG LASER NỘI MẠCH
I. ĐẠI CƯƠNG
Laser là tên viết tắt của cụm từ Light Amplification by Stimulated Emission of
Radiation, có nghĩa là "khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ kích thích”. Nguyên lý chung
của phương pháp điều trị nội tĩnh mạch bằng laser là phóng thích một năng lượng vừa
đủ vào trong lòng tĩnh mạch để phá hủy tĩnh mạch bằng những phản ứng sinh lý không
thể đảo ngược.
Laser với bước sóng 1064 nm được sử dụng lần đầu tiên để điều trị giãn tĩnh mạch
nông dưới da vào năm 1989. Nhưng phải đợi đến những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ
21 mới có thêm nhiều nghiên cứu của các tác giả như Navarro, Proebstle, Meyers…
công bố kết quả điều trị suy tĩnh mạch mạn tính bằng laser nội tĩnh mạch, với hiệu quả
điều trị lên tới 97-100%.
II. CHỈ ĐỊNH
Suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính có triệu chứng. Phân loại trên lâm sàng theo
phân loại CEAP từ C2 đến C6.
Có dòng trào ngược tĩnh mạch hiển phát hiện trên siêu âm Doppler.
Đáp ứng kém với điều trị nội khoa.
III. CHỐNG CHỈ ĐỊNH
1. Chống chỉ định tuyệt đối
Người bệnh không có khả năng đi lại.
Có thai.
Huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới.
Dị dạng động tĩnh mạch.
2. Chống chỉ định tương đối
Suy tĩnh mạch sâu chi dưới.
Tĩnh mạch bị suy ở quá nông trên da (dưới 5 mm tính từ mặt da).
Kích thước tĩnh mạch quá nhỏ (dưới 3 mm) hoặc quá lớn (trên 12 mm).
Người bệnh đang điều trị thuốc chống đông hoặc hormon thay thế.
Tĩnh mạch quá xoắn vặn, gấp khúc hoặc phình tĩnh mạch từng đoạn.