30 Trần Minh Thắng và cộng sự. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(5): 30-36.
doi: 10.46755/vjog.2024.5.1787
Nghiên cứu giá trị của xét nghiệm NIPT dương tính kết quả chọc ối tại
Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Trung ương Huế
Trần Minh Thắng1*, Lê Thị Loan Trinh1, Nguyễn Tuyết Trinh2, Đặng Văn Tân1, Trần Thị Thuỳ Trang1
Nguyễn Trần Thảo Nguyên2, Võ Văn Đức2
1 Bệnh viện Trung ương Huế
2 Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế
doi: 10.46755/vjog.2022.5.1787
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Trần Minh Thắng; Email: bsminhthang76@gmail.com
Nhận bài (received): 29/11/2024 - Chấp nhận đăng (accepted): 25/12/2024
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: (1) Khảo sát các đặc điểm lâm sàng cận lâm sàng của các trường hợp xét nghiệm sàng lọc
trước sinh không xâm lấn dương tính. (2) Nghiên cứu giá trị của xét nghiệm NIPT dương tính và kết quả chọc ối.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với 83 thai phụ mang đơn thai từ 10 – 22 tuần
kết quả NIPT dương tính và được chỉ định chọc ối để chẩn đoán xác định tại Trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước sinh
Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 06 năm 2024. Chỉ định chọc ối khi
thai phụ mang thai ≥ 16 tuần thai, nuôi cấy tế bào, lập karyotype phân tích bộ NST thai được thực hiện theo chuẩn băng
G như là một tiêu chuẩn vàng để đối chứng với phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới.
Kết quả: Các bất thường nhiễm sắc thể thường gặp nhất theo kết quả NIPT dương tính Trisomy 21, Trisomy 13
Trisomy 18 với tỷ lệ 44,5%, 19,3%, 12,1%. Giá trị dư báo dương tính (PPV) của NIPT đối với Trisomy 21, 18 và 13 lần lượt
là 97,3%, 100% và 62,5%. Đối với Trisomy 21, giá trị Z-score ở điểm 1,32 thì PPV của NIPT đạt 97,7%, và từ 2,1 trở đi thì
PPV đạt 100%. Đối với Trisomy 18 thì PPV của NIPT đạt 100%. PPV của NIPT đối với Trisomy 13 dao động từ 62,5 - 85,7%
khi Z-score dao động từ 2,02 - 6,08 và đạt 100% khi Z-score ≥ 8,57.
Kết luận: Xét nghiệm NIPTphương pháp sàng lọc không xâm lấn có giá trị cao trong phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể.
Tkhoá: t nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn, chọc ối, sàng lọc trước sinh, bất thường nhiễm sắc
thể thai nhi
The value of positive NIPT test and amniocentesis results at the Obstetrics
and Gynecology Center - Hue Central Hospital
Tran Minh Thang1*, Le Thi Loan Trinh1, Nguyen Tuyet Trinh2, Dang Van Tan1, Tran Thi Thuy Trang1
Nguyen Tran Thao Nguyen2, Vo Van Duc2
1 Hue Central Hospital
2 University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Abstract
Objective: (1) To survey the clinical and ultrasound characteristics of positive noninvasive prenatal screening cases. (2)
To study the value of positive NIPT tests and amniocentesis results.
Materials and methods: A cross-sectional descriptive study with 83 pregnant women with singleton pregnancies
from 10 to 22 weeks with positive NIPT results and indicated for amniocentesis for diagnostic testing at the Prenatal
Screening and Diagnosis Center, the Obstetrics and Gynecology Center, Hue Central Hospital from April 2022 to June
2024. Amniocentesis was indicated when the pregnant woman was ≥ 16 weeks pregnant. Cell culture, karyotyping and
fetal chromosome analysis are performed according to the G-band standard as a gold standard to compare with the
alternative gene sequencing method.
Results: The most common chromosomal abnormalities according to positive NIPT results were Trisomy 21, Trisomy
13 and Trisomy 18 with rates of 44.6%, 19.3% and 12.1%, correspondingly. The positive predictive value (PPV) of NIPT
for Trisomy 21, 18 and 13 were 97.3%, 100% and 62.5%, respectively. About Trisomy 21, the PPV of NIPT was 97.7% at a
Z-score of 1.32, and from 2.1 onwards, the PPV was 100%. About Trisomy 18, the PPV of NIPT was 100%. The positive
predictive value of NIPT test for Trisomy 13 ranges from 62.5 - 85.7% when Z-score ranges from 2.02 - 6.08 and reaches
100% when Z-score ≥ 8.57.
SẢN KHOA - SƠ SINH
31
Trần Minh Thắng và cộng sự. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(5): 30-36.
doi: 10.46755/vjog.2024.5.1787
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Liên đoàn Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG), bất
thường nhiễm sắc thể (NST) ảnh hưởng đến 1/150 thai
kỳ và là nguyên nhân gây sẩy thai sớm trong 50% trường
hợp [1] với nguy tăng tỷ lệ thuận với tuổi mẹ. Các
trường hợp lệch bội thể gây ra các biến chứng sản
khoa nghiêm trọng như thai lưu, sẩy thai, thai đa dị tật
hoặc các khiếm khuyết về thể chất và trí tuệ [2]. Vì những
do trên, các tổ chức y tế khuyến cáo sàng lọc trước sinh
trong quý 1 để giảm thiểu các biến chứng khi mang thai.
Xét nghiệm trước sinh không xâm lấn (NIPT) được
phát triển lần đầu vào năm 1988 với mục đích ban đầu
để phát hiện các bất thường số lượng NST như hội chứng
Patau (T13), hội chứng Edward (T18) và hội chứng Down
(T21). Đây là một xét nghiệm sàng lọc trước sinh không
xâm lấn sử dụng công nghệ giải trình tự gen thế hệ mới
(NGS) để giải trình tự các đoạn cffDNA nhằm phát hiện
các biến thể di truyền của NST. Phương pháp này được
thương mại hoá lần đầu tiên tại Hồng Kông [3], nơi đã
chứng minh NIPT độ nhạy độ đặc hiệu cao khi
sàng lọc những thai kỳ có nguy cơ cao Trisomy 21.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá
độ chính xác và khả năng phát hiện của NIPT trong việc
phát hiện T13, T18, T21. Một nghiên cứu phân tích tổng
hợp của 37 nghiên cứu đã so sánh kết quả cffDNA các
phương pháp sàng lọc xâm lấn của T13, T18, T21 và các
lệch bội khác ở thai kỳ đơn thai và song thai với kết quả:
tỷ lệ phát hiện T21 đối với đơn thai là 99,2% và 93,7% đối
với đa thai, trong khi đó, tỷ lệ phát hiện T13 T18 lần
lượt 91% 96,3%. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, NIPT
tỷ lệ phát hiện lệch bội tốt hơn so với các kỹ thuật truyền
thống [4]. Một nghiên cứu khác từ Bỉ so sánh nhóm bệnh
nhân thực hiện NIPT ban đầu với combined test quý I
hoặc triple test quý II cho thấy rằng, tỷ lệ phát hiện T13,
T18 và T21 cao nhất trong nhóm thực hiện NIPT và NIPT
cũng làm giảm tỷ lệ các can thiệp xâm lấn không cần
thiết lên tới 92,8% [5].
Nhờ độ nhạy độ đặc hiệu cao như trên, hiện tại
NIPT đã nhanh chóng trở nên phổ biến kể từ khi được
đưa vào thực hành lâm sàng tại nhiều nước trên thế giới
cũng như tại Việt Nam. Và trong tương lai, để nhiều hơn
các thai phụ được hưởng lợi từ công nghệ tiên tiến này,
giảm thiểu tối đa thai phụ phải chịu các thủ thuật xâm
lấn không cần thiết thì liệu rằng NIPT thể trở thành
một phương pháp sàng lọc đầu tay không? Chính vì vậy,
nghiên cứu giá trị của xét nghiệm NIPT dương tính
kết quả chọc ối là thực sự cần thiết, nhằm cung cấp cho
thầy thuốc chuyên khoa một số thông tin chính về xét
nghiệm NIPT và những thách thức khi tư vấn xét nghiệm
trong thực hành lâm sàng. Để tìm hiểu thêm về vấn đề
trên nên chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu giá trị của xét
nghiệm NIPT dương tính và kết quả chọc ối” với hai mục
tiêu như sau:
1. Khảo sát các đặc điểm lâm sàng cận lâm sàng
của các trường hợp xét nghiệm sàng lọc trước sinh không
xâm lấn dương tính.
2. Nghiên cứu giá trị của xét nghiệm NIPT dương tính
và kết quả chọc ối.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Thai phụ mang đơn thai từ 10 - 22 tuần kết quả
NIPT dương tính được chỉ định chọc ối để làm xét
nghiệm chẩn đoán.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Đa thai hoặc mất một thai trong song thai.
- Thai phụ tiền sử truyền máu, phẫu thuật ghép
tạng, điều trị tế bào gốc, liệu pháp miễn dịch phóng xạ,
xạ trị trong vòng 3 tháng.
- Thai kỳ xin trứng, mang thai hộ.
- Thai phụ có lệch bội nhiễm sắc thể.
- Thai phụ có chống chỉ định chọc ối.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm sàng lọc, chẩn
đoán trước sinh Trung tâm Sản Phụ Khoa, Bệnh viện
Trung Ương Huế
- Thời gian nghiên cứu: Ttháng 4 năm 2022 đến
tháng 06 năm 2024.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Cỡ mẫu được tính theo công thức cỡ mẫu cho ước
lượng một tỷ lệ trong quần thể theo công thức:
Trong đó: n : cỡ mẫu
α : mức ý nghĩa thống kê (chọn α = 0,05)
Z1-α/2: giá trị của Z1-α/2 tương ứng là 1,96 với mức
tin cậy 95%
p = 4,79% tỷ lệ NIPT dương tính theo nghiên cứu
của Hoàng Hải Yến và cộng sự (2020) [18].
- Cỡ mẫu tối thiểu tính được 70. Nghiên cứu thu
thập được 83 trường hợp đạt các tiêu chuẩn chọn bệnh.
2.2.3. Các bước tiến hành
- Phỏng vấn để thu thập thông tin về đặc điểm
nhân, tiền sử phụ khoa tiền sử mắc các bệnh trong
tiêu chuẩn loại trừ đã nêu ở trên.
- Thu thập các thông tin xét nghiệm sàng lọc trước
sinh kết hợp quý 1 (CFTS) và siêu âm hình thái, phân loại
nhóm thai phụ về đặc điểm ngưỡng nguy sàng lọc,
đặc điểm siêu âm hình thái.
Conclusion: NIPT is a non-invasive screening method with high value in detecting chromosomal aneuploidy.
Keywords: Non-invasive prenatal screening, amniocentesis, prenatal screening, fetal chromosomal
abnormalities.
32 Trần Minh Thắng và cộng sự. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(5): 30-36.
doi: 10.46755/vjog.2024.5.1787
- Thu thập 10 mL mẫu máu toàn phần thai phụ vào
ống chuyên dụng Streck BCTs bảo quản mẫu ở nhiệt
độ phòng, tối đa trong vòng 14 ngày. Quy trình lấy mẫu
máu thai phụ.
- Chẩn đoán xác định đối với thai phụ kết quả xét
nghiệm NIPT dương tính: Chỉ định thủ thuật hút dịch ối
khi thai phụ mang thai 16 tuần thai, nuôi cấy tế bào,
lập karyotype phân tích bộ NST thai được thực hiện theo
chuẩn băng G như một tiêu chuẩn vàng để đối chứng
với phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới. Quy trình
lấy mẫu ối.
2.2.4. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2020 SPSS
26.0 để nhập phân tích số liệu. Phân loại kết quả NIPT
theo hệ số Z-score. Mức ý nghĩa thống kê được thiết lập
khi p<0,05. Đánh giá giá trị của phương pháp sàng lọc
NIPT bằng thông số: Giá trị dự đoán dương tính - PPV
(Số bị bệnh trong nhóm dương tính).
3. KẾT QUẢ
Kết thúc thời gian nghiên cứu từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 06 năm 2024 tại Trung tâm Sản Phụ khoa – Bệnh
viện Trung ương Huế 83 trường hợp NIPT dương tính thoả mãn điều kiện chọn bệnh, trong đó 68 ca chọc ối
dương tính và 15 ca chọc ối âm tính.
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
Đặc điểm N = 83
Tuổi (Trung bình, GTNN - GTLN) 34 (20 - 45)
BMI (kg/m2) (Mean ± SD) 21,01 ± 1,98
Số lần mang thai (n,%)
Thai con so 21 (25,3%)
1 - 2 lần 49 (59,0%)
Từ lần 3 trở đi 13 (15,7%)
Tiền sử sản khoa (n,%)
Sẩy thai, thai lưu 18 (21,7%)
Sinh non 3 (3,6%)
Hình thức mang thai (n,%)
Hỗ trợ sinh sản 2 (2,4%)
Tự nhiên 81 (97,6%)
Độ tuổi thai phụ trung bình là 34 tuổi với tuổi lớn nhất là 45 và nhỏ nhất là 20. Tỷ lệ sẩy thai, thai lưu chiếm 21,7%.
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các trường hợp có NIPT dương tính.
Đặc điểm Phân nhóm Số lượng (N = 83)
Tuổi thai (tuần)
(Tại thời điểm xét nghiệm NIPT)
10 - 13 tuần 6 ngày 18 ( 21,7%)
>14 tuần 65 (78,3%)
Tuổi thai (tuần)
(Tại thời điểm chọc ối)
16 - 20 tuần 75 (90,4%)
>20 tuần 8 (9,6%)
Yếu tố nguy cơ
Tuổi thai phụ ≥ 35 32 (38,6%)
Siêu âm bất thường hình thái thai nhi 38 (45,7%)
Sàng lọc quý I nguy cơ cao 46 (55,2%)
Tiền sử thai phụ/gia đình 6 (7,2%)
Có hơn 1 yếu tố nguy cơ 49 (59,0%)
Phân bố bất thường NST
theo kết quả NIPT (+)
Trisomy 21 37 (44,6%)
Trisomy 18 10 (12,1%)
Trisomy 13 16 (19,3%)
NST khác 20 ( 24,1%)
33
Trần Minh Thắng và cộng sự. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(5): 30-36.
doi: 10.46755/vjog.2024.5.1787
Dấu hiệu siêu âm
Không bất thường 45 (54,2%)
Bất/thiểu sản xương mũi 5 (6,0 %)
Nếp gấp da gáy dày 6 (7,2%)
Bất thường tim 4 (4,8%)
Dãn bể thận 2 (2,4%)
Đa dị tật 18 (21,7%)
Nang đám rối mạng mạch 3 (3,6%)
Đa số các trường hợp xét nghiệm NIPT dương tính ở tuổi thai từ 14 tuần trở lên (78,3%) và thời điểm chọc ối tập
trung ở tuổi thai từ 16 đến 20 tuổi (90,4%).
Trường hợp NIPT dương tính chiếm tỷ lệ cao nhất Trisomy 21 (44,6%), tiếp theo bất thường các NST khác,
Trisomy 13 và Trisomy 18 lần lượt là 24,1%, 19,3% và 12,1%.
Đa dị tật hay gặp nhất trong các dấu hiệu bất thường về hình thái trên siêu âm thai chiếm tỷ lệ 21,7%, tiếp theo là
nếp gấp da gáy dày (7,2%).
Bảng 3. Mối tương quan giữa kết quả NIPT dương tính và chọc ối.
Kết quả NIPT (+) Chọc ối (+) Chọc ối (-) Tổng PPV
n % n % n %
Trisomy 21 36 43,4 1 1,2 37 44,5 97,3
Trisomy 18 10 12,1 0 0 10 12,1 100
Trisomy 13 10 12,1 6 7,2 16 19,3 62,5
Trisomy 12 1 1,2 0 0 1 1,2 100
Trisomy 10 0 0 1 1,2 1 1,2 0
Trisomy X 5 6,0 0 0 5 6,0 100
Monosomy X 3 3,6 6 7,2 9 10,9 33,3
XXY 2 2,4 1 1,2 3 3,6 66,7
XYY 1 1,2 0 0 1 1,2 100
Tổng 68 82,0 15 18,0 83 100
Giá trị tiên đoán dương của NIPT đối với Trisomy 18, Trisomy 12 Trisomy X 47,XYY chiếm tỷ lệ tuyệt đối
(100%), tiếp theo là Trisomy 21 chiếm tỷ lệ tương đối cao (97,3%). Trong 16 ca trisomy 13 thì 6 ca chọc ối (-), trong
37 trisomy 21 thì có 1 ca chọc ối (-).
Bảng 4. Bất thường hình thái thai nhi trên siêu âm theo bất thường kết quả chọc ối.
NST bất thường (n) Dấu hiệu Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Trisomy 21 (n = 36)
Bất/thiểu sản xương mũi 4 11,1
Nếp gấp da gáy dày 5 13,9
Bất thường tim 1 2,8
Dãn bể thận 1 2,8
Đa dị tật 9 25,0
Nang đám rối mạng mạch 1 2,8
Nếp gấp da gáy dày 1 10,0
Trisomy 18 (n = 10)
Bất thường tim 1 10,0
Đa dị tật 4 40,0
Nang đám rối mạng mạch 1 10,0
Bất/thiểu sản xương mũi 1 10,0
34 Trần Minh Thắng và cộng sự. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(5): 30-36.
doi: 10.46755/vjog.2024.5.1787
Trisomy 13 (n = 10) Bất thường tim 2 20,0
Đa dị tật 6 60,0
Đa dị tật là dấu hiệu thường gặp nhất ở cả 3 trường hợp lệch bội nhiễm sắc thể Trisomy 21, Trisomy 18 Trisomy 13.
Biểu đồ 1. Giá trị Z-score và kết quả chọc ối ở các trường hợp Trisomy 13.
Giá trị dự báo dương tính của NIPT test đối với Trisomy 13 dao động từ 62,5 - 85,7% khi Z-score dao động từ 2,02
- 6,08 và đạt 100% khi Z-score ≥ 8,57.
Biểu đồ 2. Giá trị Z-score và kết quả chọc ối ở các trường hợp Trisomy 18.
Giá trị dự báo dương tính của NIPT test đối với Trisomy 18 là 100%.
Biểu đồ 3. Giá trị Z-score và kết quả chọc ối ở các trường hợp Trisomy 21.
Giá trị Z-score ở điểm 1,32 thì PPV của NIPT test đạt 97,7%, ở điểm 1,79 thì PPV của NIPT test đạt 96,7% và từ 2,1
trở đi thì giá trị này đạt 100%.