
49
TỔNG QUAN Y VĂN
Tổng quan Hành vi tình dục nguy cơ ở trẻ
Vị thành niên
Nguyễn Thái*
Tóm tắt
Bước vào độ tuổi vị thành niên, các em có nhiều biến đổi về tâm sinh lý của cơ thể nên nếu
không được giáo dục, nhận thức đúng về sức khỏe sinh sản, sẽ có những hành vi tình dục
nguy cơ, gây ra những hậu quả đáng tiếc. Các em có thể trở thành những người cha, người
mẹ sớm hơn vì không có kiến thức về tình dục an toàn, dễ lây nhiễm các bệnh qua đường tình
dục. Các em nữ trẻ trong độ tuổi vị thành niên dễ sinh con không mạnh khỏe, sinh non hay
thai nhi dị dạng, tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong cao.
Từ khóa: hành vi tình dục nguy cơ cao, sức khỏe sinh sản, vị thành niên.
HIGH RISK ON SEXUAL BEHAVIOR OF JUVENILES
Abstract
At the age of adolescence, teenagers are going through many body physio-psychological
changes, therefore if lack of education and knowlegde of reproductive health, they might
have high-risk sexual behaviors, which will cause significant consequences. Adolescents may
become premature parents because of lack of knowledge of safe sex, may be infected by
sexual transmitted diseases. Female adolescents may have unhealthy, premature or defective
babies and high rate of infant mortality.
Key words: adolescent, high-risk sexual behavior, reproductive health.
Mở đầu
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO 1975),
vị thành niên (VTN) là giai đoạn chuyển
tiếp của sự phát triển từ trẻ con thành
người lớn. Lứa tuổi 10 -19 tuổi là độ tuổi
VTN. Thanh niên trẻ là lứa tuổi từ 19 – 24
tuổi. Các nhà xã hội học và các nhà nghiên
cứu y học đưa ra giới hạn của tuổi VTN
như sau:4,27
–Tuổi VTN sớm: 10 – 13 tuổi.
–Tuổi VTN trung bình: 14 - 16 tuổi.
–Tuổi VTN muộn: 17 - 19 tuổi.
Sự phân chia trên chỉ có tính chất tương
đối vì còn phụ thuộc vào các yếu tố xã hội,
phong tục tập quán của từng vùng, điều
kiện kinh tế, giữa nông thôn và thành thị,
giữa quốc gia này và quốc gia khác. Các
nhà giáo dục, xã hội học và chuyên viên y
______________________________________________________________________________________________________________________________________
*TT Y tế Q3; DĐ: 0903107115
Email: drngthai@gmail.com
tế đều thống nhất VTN là lứa tuổi dễ tổn
thương, dễ có các hành vi tình dục nguy
cơ, không an toàn, dẫn đến các hậu quả
đáng tiếc cho bản thân, gia đình và xã hội.
Hành vi tình dục
Hành vi tình dục là một hành vi đặc biệt
phức tạp của con người, bị ảnh hưởng bới
nhiều yếu tố như bề ngoài, tâm sinh lý, xã
hội, văn hóa và kinh nghiệm tình dục trong
quá khứ.6 Theo truyền thống, hành vi tình
dục bao gồm tưởng tượng tình dục, thủ
dâm, hành vi tình dục không thâm nhập,
quan hệ tình dục (QHTD) bằng miệng,
giao hợp âm đạo và giao hợp hậu môn.
Trong thời đại điện tử, các hoạt động khác
cũng được xem là hành vi tình dục như
tình dục qua lời nói, qua tin nhắn hoặc gửi
hình ảnh trong điện thoại, tình dục trong
phòng chat (có hoặc không có webcam) và
tình dục ảo với việc sử dụng avatar.

50
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 20, Số 1, Tháng 6 – 2020
Ở giai đoạn VTN, trẻ bắt đầu có những
nhận thức riêng và có những phản ứng
mang màu sắc tình dục. Đây cũng là giai
đoạn trẻ tìm tòi, khám phá để hiểu biết về
tình dục. Tò mò tình dục khiến trẻ VTN
tìm đến những phim và sách báo mang nội
dung khiêu dâm, lạ lẫm, tiếp nhận, tự trải
nghiệm và thậm chí nghiện tình dục.
Hành vi tình dục nguy cơ
Hành vi tình dục nguy cơ là những hành vi
tình dục dẫn đến những kết cục xấu hoặc
gây ảnh hưởng xấu lên sức khỏe sinh sản
(SKSS) của VTN trong tương lai bao gồm:
bệnh lây truyển qua đường tình dục (STD),
mang thai tuổi VTN và làm cha mẹ sớm ở
tuổi VTN. Hành vi tình dục nguy cơ bao
gồm QHTD sớm, QHTD với nhiều bạn
tình, quan hệ đồng tính hoặc giao hợp
không bảo vệ.
Tình hình tại Mỹ và châu Âu
Hành vi QHTD của bạn đồng lứa ảnh
hưởng tới hành vi tình dục của VTN. Phân
tích số liệu điều tra sức khoẻ thanh thiếu
niên Mỹ, Add Health (2006), cho thấy
VTN có bạn bè đã QHTD có tỷ lệ QHTD
cao hơn.21
Một cuộc khảo sát tại Mỹ chỉ ra rằng 46%
học sinh có QHTD với ít nhất một người
và 5,9% sinh viên có QHTD trong lần đầu
tiên trước 13 tuổi. 13% VTN nam từ 15-17
tuổi và 11% VTN nữ 15-17 tuổi có giao
hợp với VTN khác giới bằng miệng,
không giao hợp đường âm đạo và 14%
VTN đã từng quan hệ với ít nhất là 04
người khác nhau trong giai đoạn này. Tỉ lệ
học sinh có sử dụng bao cao su không thay
đổi trong năm 2009 so với năm 2003 tỷ lệ
này chiếm khoảng 61%. Trong 40% VTN
có hoạt động tình dục thường xuyên thì
20% trường hợp có sử dụng thuốc viên
tránh thai trước khi QHTD ở lần gặp sau
cùng.23 Tỉ lệ sử dụng bao cao su ở VTN ở
Mỹ và Châu Âu tương tự nhau. Ở Mỹ,
10% VTN nữ có ngừa thai tích cực bằng
bao cao su kết hợp với thuốc viên tránh
thai hoặc tiêm thuốc tránh thai
Medroxyprogesterone.
Theo một khảo sát mới đây ở Mỹ, nam
giới độ tuổi 15 có tỷ lệ đã quan hệ tình dục
nhiều hơn nữ giới, đến tuổi 17 tỷ lệ có
quan hệ tình dục ở nam với nữ là như
nhau.
Điều tra quốc gia ở Mỹ năm 2017 – 2018.
Tỷ lệ nam giới có quan hệ tình dục trước
năm 13 tuổi là 7,6%. Tỷ lệ có quan hệ tình
dục trước 13 tuổi ở nam thanh niên thay
đổi theo chủng tộc / dân tộc, địa điểm và
trình độ học vấn của bà mẹ. Điều này cho
thấy ý nghĩa quan trọng trong việc giáo
dục giới tính sớm, toàn diện và chăm sóc
sức khỏe sinh sản và tình dục cho trẻ em
nam và thanh thiếu niên.
Điều tra chọn mẫu với VTN 18 tuổi tại các
trường phổ thông trung học ở Thụy Điển
(2007) cho thấy 3/4 VTN đã QHTD và
cảm thấy hài lòng với đời sống tình dục
sớm. Hậu quả là có 5% nữ VTN đã từng
nạo phá thai và 4% VTN đã từng bị STD.
Sử dụng rượu bia có liên quan với không
sử dụng biện pháp tránh thai trong cả lần
đầu và lần QHTD gần nhất.15
Ở Scotland (2008) tỷ lệ VTN học sinh phổ
thông 15-16 tuổi đã QHTD là 42% nữ và
33% nam. Các yếu tố kinh tế, xã hội cá
nhân có liên quan với QHTD ở nữ hơn ở
nam VTN.
Nghiên cứu ở Ý (2009) cho thấy khoảng
1/2 VTN có QHTD, tuổi trung bình QHTD
lần đầu là 15,6 tuổi, biện pháp tránh thai
(BPTT) được sử dụng nhiều nhất trong
QHTD là bao cao su.7
Tình hình tại châu Phi
Ở một số nước Châu Phi, VTN có QHTD
sớm và quan hệ nhiều bạn tình là phổ biến,
cũng như ảnh hưởng của bạn đồng lứa có
vai trò quan trọng tới QHTD ở VTN.11
Nghiên cứu ở Nigeria (2006) thấy rằng
19% nam và 6% nữ VTN học sinh phổ
thông trung học đã QHTD. Tuổi trung
bình QHTD lần đầu ở nam là 15,7 tuổi và
ở nữ là 16,1 tuổi. Khoảng 1/4 VTN có sử
dụng bao cao su trong lần QHTD gần nhất
và 25% VTN QHTD lần đầu là không tự
nguyện.2 Tuổi VTN càng nhỏ càng thiếu

51
TỔNG QUAN Y VĂN
kiến thức về tình dục, về sức khỏe sinh sản
(SKSS).14
Nghiên cứu với nữ VTN 12-19 tuổi ở một
số nước châu Phi (2007) cho thấy tỷ lệ
QHTD lần đầu là 38% ở Malawi, 30% ở
Ghana, 23% ở Uganda và 15% ở Burkina
Faso.16 Nghiên cứu của Ott (2010) cho
thấy rằng nam VTN chủ động hơn nữ
VTN về QHTD, nên cần có các chương
trình can thiệp về tình dục, SKSS tăng
cường hơn với nam VTN.18
Nghiên cứu ở Tanzania (2001) và Uganda
(2010) cho thấy rằng thời gian từ khi VTN
làm quen, hẹn hò đến khi có QHTD
thường ngắn và QHTD để nhận tiền hay
quà là phổ biến. Nam VTN cho rằng phần
lớn nữ QHTD để có vật chất và là đối
tượng khai thác của nam giới trưởng thành
trong khi nữ cho rằng đó chỉ là sự thể hiện,
sự cam kết hoặc tình yêu đối với bạn
tình.18,20 Khoảng 80% nam, 68% nữ VTN
Tanzania không đi học hoặc thôi học đã có
QHTD. Giao hợp qua âm đạo là QHTD
phổ biến, 40% có QHTD đường miệng và
9% có QHTD hậu môn trong QHTD lần
đầu. Hầu hết VTN đã có QHTD với người
trưởng thành. Khoảng 50% VTN từng bị
QHTD ép buộc, 14% VTN có thai, một
nửa trong đó đã nạo phá thai, 1/3 VTN đã
từng mắc STD.
Tình hình tại Việt Nam
Điều tra SAVY1, 2003 trên VTN Việt
Nam cho thấy tỷ lệ đã QHTD khi chưa kết
hôn ở lứa tuổi 14-17 là 1,1% ở nam và là
0,2% ở nữ, tỷ lệ này tăng ở SAVY2 (2009)
là 2,2% nam, 0,5% nữ. Số liệu về thực
trạng QHTD ở VTN có thể không phản
ánh đúng thực tế do tính nhạy cảm của vấn
đề.4,5 Nghiên cứu của Uỷ ban Quốc gia
Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (1999)
cũng thấy tỷ lệ QHTD trước hôn nhân ở
nam cao hơn nữ và nạo phá thai VTN tăng
lên.25 Nghiên cứu của UNFPA (2007) cho
thấy tỷ lệ QHTD ở VTN Việt Nam thấp so
với các nước phương Tây và châu Phi,
Kiến thức về BPTT vẫn còn hạn chế. Các
BPTT được biết nhiều nhất là bao cao su,
thuốc tránh thai nhưng rất ít người biết
đúng cơ chế tránh thai của BPTT và cũng
ít người sử dụng bao cao su trong QHTD
do không chủ động.24
Nghiên cứu Harpern và cộng sự trên
11.000 VTN từ 18-27 tuổi ghi nhận hơn
90% đã có quan hệ trước hôn nhân. Những
người chưa từng QHTD thường gặp ở tuổi
nhỏ hơn, đặc điểm của những đối tượng
này là thể chất kém phát triển, chỉ số khối
cơ thể lớn, tín ngưỡng tôn giáo mạnh và
tiếp nhận tư tưởng nói “không” với sex từ
cha mẹ.22 VTN phơi nhiễm với tình dục
sớm phải đối mặt với nguy cơ STD, HIV/
AIDs, thai kì và làm cha mẹ ở tuổi VTN.3
Ở các nước kém phát triển hoặc đang phát
triển, phong tục tập quán kết hôn sớm là
yếu tố dẫn đến phơi nhiễm tình dục sớm.
Điều này gắn liền với nguy cơ nhiễm HIV,
mang thai sớm và kết cục xấu trên SKSS
của VTN.
VTN muộn (trước 20 tuổi) hầu hết đều đã
trải nghiệm sex miệng và âm đạo, bất kể
có kết hôn hay chưa, làm tăng nguy cơ
STD, và nguy cơ này giảm dần theo tuổi.13
Phụ nữ có giao hợp bằng âm đạo sớm
trong giai đoạn VTN sẽ có số bạn tình
nhiều hơn.
Sự ra đời của Internet tạo sự thay đổi trong
thái độ và nhận thức của VTN về tình dục.
Họ đi tìm những thông tin liên quan đến
tình dục trên Internet. Việc thiếu những
thông tin đúng, thiếu hướng dẫn đúng sẽ
tác động tiêu cực lên hành vi tình dục của
trẻ.12
QHTD đồng tính và lưỡng tính
Các dữ liệu gần đây cho thấy hành vi tình
dục ở VTN hầu hết liên quan đến giao hợp
âm đạo. Chính vì thế, các nghiên cứu đã
bỏ qua hành vi tình dục đường miệng và
hậu môn – là đường giao hợp mang nguy
cơ nhiễm STD như HIV/AIDs, loại bệnh
có thể được ngăn ngừa bằng bao cao su.12
Tổng quan hệ thống được thực hiện từ
năm 1993 đến năm 2013 cho thấy xu
hướng quan hệ tình dục qua đường hậu
môn ngày càng tăng và không sử dụng bao
cao su. Đó là lý do giải thích cho sự tăng

52
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 20, Số 1, Tháng 6 – 2020
lên của tỷ lệ nhiễm HIV. Tại Mỹ, năm
2016, 21% ca nhiễm HIV mới trong năm
2016 là VTN, trong đó 81% là nam đồng
tính hoặc lưỡng giới.
Định hướng tình dục có thể có trước hoặc
sau khi có QHTD, được xác định tùy thuộc
vào sự kích thích thể xác và tình cảm khi
tiếp xúc với một đối tượng khác (cùng giới
hoặc khác giới). Đặc biệt ở tuổi VTN, sở
thích tình dục và sở thích bị ảnh hưởng
không giống nhau. Định dạng giới tính
khác với định hướng tình dục. Định hướng
tình dục bao gồm quan hệ khác giới, quan
hệ lưỡng giới (vừa quan hệ với nam, vừa
quan hệ với nữ) và quan hệ đồng giới
(đồng tính nam hoặc đồng tính nữ).
Chương trình Sức khỏe VTN tại Anh năm
2003 trên 289.767 học sinh tại các trường
công lập ghi nhận mặc dù chỉ có 1,5% tất
cả các chàng trai tự nhận mình là người
lưỡng tính, hầu hết là đồng tính nam, hoặc
100% đồng tính nam, nhưng 3,5% các
chàng trai hoạt động tình dục cho biết họ
đã trải qua QHTD với một người cùng giới
trong năm qua. 3% các cô gái tự nhận
mình là người lưỡng tính, hầu hết là đồng
tính nữ, hoặc 100% đồng tính nữ nhưng
6,4% các cô gái hoạt động tình dục tiết lộ
có QHTD với người cùng giới trong năm
qua.23
Dữ liệu của Hoa Kỳ cho kết quả tương tự,
Remafedi23 báo cáo rằng 1,1% thanh thiếu
niên xác định là đồng tính hoặc lưỡng tính,
nhưng 4,5% cho rằng những điểm hấp dẫn
tình dục chính của họ là cùng giới tính.
Một nghiên cứu ở Massachusetts cho thấy
2,5% thanh thiếu niên tự nhận mình là
đồng tính nam, đồng tính nữ hoặc lưỡng
tính. Một nghiên cứu lớn ở Jamaica cho
thấy 3% nam từ 10 đến 15 tuổi và 22% nữ
trong cùng độ tuổi nói rằng họ đã hôn hoặc
chạm vào người cùng giới. Con số vẫn giữ
nguyên đối với nam giới lớn tuổi, trong
khi số lượng nữ giới trong độ tuổi từ 15
đến 19 tuổi cho biết họ đã hôn một cô gái
giảm xuống còn 4%,23 Nhiều VTN tiết lộ
rằng họ không hề biết họ là người đồng
tính cho đến khi họ có QHTD khác giới
không thỏa mãn.
Do quan hệ đồng tính bị kỳ thị ở nhiều
cộng đồng, đặc biệt dân tộc thiểu số nên
một số VTN có cảm giác bị tổn thương và
căng thẳng. VTN đồng tính nam và lưỡng
tính trải qua những thử thách nặng nề khi
họ làm việc. Cuộc đấu tranh có thể dẫn
đến sự nhầm lẫn, thất vọng và tăng tỷ lệ
các hành vi nguy cơ cao.23
Một số tổ chức cố gắng thực hiện liệu
pháp chuyển đổi hoặc sửa chữa định
hướng tình dục đồng tính ở VTN. Tuy
nhiên không có bằng chứng cho thấy nên
áp dụng liệu pháp này. Do đó, liệu pháp
không được ủng hộ bởi các chuyên gia
chăm sóc sức khỏe.23
Hậu quả của tình dục nguy cơ ở VTN
Bệnh lây truyển qua đường tình dục
VTN từ 15-19 tuổi chỉ chiếm ¼ dân số có
QHTD thường xuyên, nhưng lại chiếm
50% số ca STD mới mỗi năm. Khi có giao
hợp tình dục nhiều lần sẽ dễ mắc các bệnh
STD hơn các nhóm tuổi khác do sự khác
biệt về yếu tố hành vi, sinh học, sinh lý.9
Nhiễm HPV là bệnh STD thường gặp nhất.
Xét nghiệm DNA xác định tình trạng
nhiễm HPV cổ tử cung type nguy cơ cao
như HPV 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52,
56, 58, 59, hay 68 trên 9.657 phụ nữ tuổi
từ 14-65 tuổi cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV cổ
tử cung ở trẻ VTN từ 14-19 tuổi là cao
nhất (35%).
Nhiễm Chlamydia trachomatis cũng
thường gặp ở VTN. Đây là loại bệnh lý
thường được báo cáo nhất ở Mỹ. So với
các nhóm tuổi khác, trẻ từ 15-19 tuổi có tỷ
lệ nhiễm Chlamydia cao nhất. Sự gia tăng
trong tỷ lệ nhiễm Chlamydia làm mở rộng
việc sàng lọc và tăng sử dụng các xét
nghiệm có độ nhạy cao.8
Lậu cầu là bệnh lý thứ hai thường được
báo cáo tại Mỹ. Hơn 350.000 trường hợp
được báo cáo trong năm 2007. Tỷ lệ nhiễm
lậu cầu ở nữ VTN từ 15-19 tuổi là
569/100.000 trường hợp, nam VTN 15-19
tuổi là 250/100.000 ca.
Nhiễm Trichomonas là loại bệnh không do
siêu vi phổ biến ở VTN với tần suất ước
tính tại Mỹ là 5,0 đến 7,4 triệu ca mới mỗi

53
TỔNG QUAN Y VĂN
năm. Tần suất hiện mắc và mới mắc thực
sự khó xác định vì bệnh không được tầm
soát hàng loạt mà phụ thuộc vào xét
nghiệm lâm sàng cá thể hóa từng đối
tượng.8
Giang mai ở VTN nữ có xu hướng gia
tăng, từ 1,5ca/100.000 VTN năm 2004
tăng lên 3,3 ca/100.000 VTN nữ năm
2009. Năm 2010, tỷ lệ này có xu hướng
giảm nhẹ xuống 3,0 ca / 100.000 VTN. Tỷ
lệ giang mai nguyên phát và thứ phát ở
VTN nam là 5,6 ca / 100.000 VTN nam
năm 2010.23
Trong số các báo cáo sàng lọc giang mai,
chẩn đoán giang mai tăng từ 9% năm 2008
lên 11% năm 2014 trong nhóm quan hệ
tình dục đồng giới với nam.
Tỷ lệ nhiễm HIV ở VTN từ 13 đến 19 tuổi
tăng từ 7,1% trong năm 2006 lên 8,8%
trong năm 2009. Trong năm 2009, trong số
các VTN bị nhiễm HIV thì người Mỹ gốc
Phi chiếm tỷ lệ cao nhất, 73%, gấp 5 lần
người Mỹ gốc La Tinh và gấp 23 lần
người Mỹ da trắng.23
Thai kỳ không mong muốn
Mang thai ngoài ý muốn là kết cục thường
gặp ở trẻ VTN có hành vi tình dục không
được bảo vệ. Tại Mỹ, ước tính mỗi năm có
67,8 trường hợp / 1.000 VTN mang thai.
Tại Bệnh viện Từ Dũ, tỷ lệ phá thai to
VTN tăng dần: năm 2005 chỉ có 1,63%
trường hợp phá thai to là VTN nhưng đến
năm 2008, tỷ lệ này tăng lên gấp rưỡi
2,43%. Nguyên nhân chính của phá thai to
ở VTN là do bạn tình ép buộc (30%), do
gia đình ép buộc (80%), chưa có điều kiện
nuôi con (76%), còn đi học (37%).19 Nữ
VTN trẻ tuổi, độc thân, có chí hướng học
tập, có nghề nghiệp, có cơ hội thăng tiến
mà có thai ngoài ý muốn sẽ chọn biện
pháp phá thai. Một nghiên cứu tại
TP.HCM khảo sát học sinh cấp 3 cho thấy
48,3% học sinh đồng ý với quan điểm nếu
lỡ có thai thì sẽ phá thai, các VTN dường
như xem phá thai là một biện pháp tránh
thai phù hợp.19
Ở một số nước đang phát triển hoặc kém
phát triển, chương trình giáo dục SKSS
không tồn tại trong học đường. Nếu có chỉ
mang tính hình thức bởi sự giáo dục tình
dục không mang tính riêng tư dẫn đến
không đạt sự tin cậy của trẻ. Trẻ thiếu
thông tin thiếu giáo dục sẽ dẫn đến hành vi
giao hợp không được bảo vệ mà kết cục là
thai kỳ không mong muốn và STD.26 Ab
Rahman và cộng sự (2010)1 thấy rằng chỉ
1/3 VTN Malaysia biết có thể có thai dù
chỉ QHTD một lần, gần 2/3 trẻ VTN nhận
thông tin về giới tính, tình dục từ bạn bè
đồng trang lứa, nguy cơ tiếp cận những
thông tin không đầy đủ, thông tin sai lệch
dẫn đến những kết cục không mong muốn.
Kết luận
Kiến thức của VTN về phòng tránh thai,
HIV và các STD khác vẫn còn rất hạn chế.
Đây là điều rất đáng lo ngại về SKSS,
chăm sóc SKSS cho trẻ VTN và cần có
biện pháp và hành động kịp thời, hiệu quả
để bảo vệ trẻ VTN Việt Nam. Chúng ta
cần có các chương trình giáo dục giới tính
(như dự án VIE/88/P09, giáo dục giới tính
và giáo dục đời sống gia đình), cần tránh
những bài học SKSS thuộc lòng và vô cảm
và cần phổ cập giáo dục SKSS cho mọi
học sinh trung học phổ thông.
Tài liệu tham khảo
1. Ab Rahman, A., Ab Rahman, R., Ibrahim, M. I.,
Salleh, H., Ismail, S. B., Ali, S. H., Muda, W.
M., Ishak, M. & Ahmad, A. (2011), "Knowledge
of sexual and reproductive health among
adolescents attending school in Kelantan,
Malaysia", Southeast Asian J Trop Med Public
Health, 42(3), pp.717-25.
2. Ajuwon, A. J, Olaleye, A., Faromoju, B. &
Ladipo, O. (2006), "Sexual behavior and
experience of sexual coercion among
secondary school students in three states in
North Eastern Nigeria", BMC Public Health,
6pp. 310.
3. Auslander BA, Rosenthal SL, Blythe MJ.
Understanding sexual behaviors of adolescents
within a biopsychosocial framework. Adolesc
Med State Art Rev. 2007; 18:434-48. v.
PubMed: 18453225
4. Bộ Y Tế và Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình (2010), "Điều tra quốc gia về vị thành
niên, thanh niên SAVY2".
5. Bộ Y tế và Tổng Cục Thống Kê, WHO, (2003),
"Điều tra quốc gia về vị thành niên, thanh niên
SAVY1".
6. Brown RT. Adolescent sexuality at the dawn
ofthe 21st century. Adolesc ed. 2000; 11:19-34.
Pub ed: 10640336