
26
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 20, Số 1, Tháng 6 – 2020
Hướng dẫn điều trị dựa trên y học thực chứng
cho những cặp đôi vô sinh vô căn
Tăng Quang Thái*, Trần Bảo Ngọc
Trích dịch theo Practice Committee of the American Society for Reproductive Medicine.
(2020). Evidence-based treatments for couples with unexplained infertility: a
guideline. Fertility and Sterility, 113(2), 305-322.1
Giới thiệu
Trong số những cặp đôi vô sinh, có đến
30% được chẩn đoán vô sinh vô căn sau khi
trải qua những thăm khám đánh giá chức
năng sinh sản thường quy.2 Việc thăm khám
này thông thường gồm kiểm tra có ít nhất
một vòi trứng bình thường, sự phóng noãn
của người phụ nữ, và phân tích tinh dịch đồ
với số lượng tinh trùng có khả năng di động
trong giới hạn bình thường. Do không xác
định được nguyên nhân có thể điều trị được
đối với những trường hợp này, việc điều trị
sẽ dựa vào kinh nghiệm lâm sàng của bác sĩ.
Những phương pháp điều trị thường được
áp dụng là kích thích buồng trứng (KTBT)
bằng thuốc đường uống (Clomiphene
citrate, hoặc thuốc ức chế men aromatase)
hoặc đường tiêm (gonadotropin ngoại sinh)
kèm với bơm tinh trùng vào buồng tử cung
(intrauterine insemination- IUI). KTBT dựa
vào điều trị bằng thuốc với mục đích làm
phát triển nhiều nang trứng trưởng thành và
trước đây được gọi với thuật ngữ “tăng rụng
trứng”, “kích thích buồng trứng có kiểm
soát”.3 Cần phân biệt KTBT với “gây rụng
trứng” (ovulation induction), gây rụng trứng
nghĩa là sử dụng thuốc ở những phụ nữ
không rụng trứng để gây ra hiện tượng rụng
trứng. KTBT-IUI được xem là để cải thiện
khả năng thụ tinh bằng cách làm tăng số
lượng noãn có thể thụ tinh, đồng thời tăng
số lượng tinh trùng có khả năng di động
trong buồng tử cung thông qua phương
pháp IUI tại thời điểm rụng trứng. Ngoài ra
còn những phương pháp điều trị khác cho
các trường hợp vô sinh vô căn bao gồm IUI
trong những chu kỳ không kích thích (chu
________________________________________________________________________________________________________________________________
*Bv. Phụ Sản Nhi Bình Dương; DĐ: 0989 220 925
Email:quangthaitang@gmail.com
kỳ tự nhiên) và KTBT kèm xác định thời
gian giao hợp.
Trong khi tỉ lệ thành công khi TTON tăng
chóng mặt trong 20 năm gần đây, những
phương pháp điều trị không áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive
technology - ART) thì tỉ lệ sinh-sống
tương đối thấp và không thay đổi trên chu
kỳ.4,5 Việc phát triển một phương pháp tiếp
cận hiện đại, dựa trên y học thực chứng
cho những cặp đôi vô sinh vô căn đòi hỏi
phải hiểu cặn kẽ không chỉ về hiệu quả
điều trị cá nhân mà còn nắm rõ những
nguy cơ như hội chứng quá kích buồng
trứng (ovarian hyperstimulation syndrome
- OHSS) và nguy cơ đa thai (multiple-
gestation pregnancy). Ngoài ra, bác sĩ đưa
ra quyết định điều trị cũng nên cân nhắc
thêm về tỉ lệ mang thai không đáng kể ở
những cặp đôi vô sinh vô căn.6,7 và mong
muốn của gia đình.
Hướng dẫn hiện nay dựa trên một tổng
quan hệ thống y văn với mục tiêu giúp các
bác sĩ lâm sàng biết về hiệu quả và nguy
cơ trong điều trị các trường hợp vô sinh vô
căn. Hướng dẫn thực hành lâm sàng này
tuân theo một phác đồ phương pháp của
đội ngũ ASRM và các nhà lãnh đạo thi
hành, Ủy ban thực hành ASRM, và một tư
vấn dịch tễ học độc lập. Ủy ban thực hành
ASRM xác định tính cấp thiết của hướng
dẫn này đối với những trường hợp vô sinh
vô căn và lập danh sách một nhóm chuyên
viên nhằm đảm bảo sự phát triển của nó.
Các thành viên của nhóm chuyên viên áp
dụng khung PICO (population - dân số,
intervention - can thiệp, comparisons - so
sánh, và outcomes - kết cục lâm sàng)
nhằm đề ra một câu hỏi mang tính tập