ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT SƠN

MÀI VIỆT NAM

HUỲNH VĂN GẤM-Giờ giải lao-Sơn mài

Cũng không thể phủ nhận một điều, đó là thông qua sự thể nghiệm tìm

tòi với không ít những yếu tố bản lĩnh và dũng cảm, các họa sĩ trẻ Việt

Nam đã góp phần tạo nên một bộ mặt khá đa dạng cho hội họa sơn mài

truyền thống. Họ đã cách tân, mở mang nhiều từ phương thức biểu hiện

sáng tạo với những nội dung mới mang nhiều phong cách. Bên cạnh

(hoặc là nối tiếp) những nội dung truyền thống văn hóa, tôn giáo, tín

ngưỡng, họ còn mạnh dạn đưa những chủ đề như tình yêu hiện đại,

những nỗi bức xúc, ám ảnh chủ quan đầy nội tâm phức tạp... và thể

hiện chúng trên nền chất liệu sơn mài truyền thống.

Trong lịch sử dân tộc, nghề sơn xuất hiện khá sớm. Cư dân Việt cổ từ

khoảng 2.500 năm trước đã tìm thấy cây sơn mọc hoang dã và đã biết

cách sử dụng nhựa cây để trám thuyền hay dùng để phủ lên các vật

dụng khác nhằm tăng độ bền chắc cho vật dụng. Trong quá trình phát

triển, có thể nói, nghề sơn hầu như luôn song hành với nghề tạc tượng,

các chạm khắc trang trí trong các công trình kiến trúc. Vì vậy, suốt thời

kỳ phong kiến Đại Việt, nghề sơn khá hoàn hảo. Khắp các xứ Đông,

Nam, Đoài, Bắc, đâu đâu cũng có nghề sơn. Xứ Đông có làng Hà Cầu

(Đồng Minh, Vĩnh Bảo, Hải Phòng) nổi tiếng bởi hai nghề sơn và tạc

tượng; Xứ Bắc có Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi danh nhờ độc

quyền chất sơn then bóng mịn không đâu bằng; Vùng Sơn Nam Hạ có

làng sơn quang Cát Đằng (nay thuộc ý Yên, Nam Định); Vùng Hà Tây

(thuộc xứ Đoài xưa) có mật độ các làng nghề sơn khá dầy đặc: Chuyên

Mĩ, Bối Khê, Bình Vọng, Hạ Thái, Văn Giáp...

Tranh sơn mài của những nghệ nhân xưa thường được vẽ trực tiếp hoặc

gián tiếp lên gỗ (nhưng không có công đoạn mài) với các mảng màu

được vẽ riêng rẽ. Ngoài kỹ thuật pha chế nhựa sơn mầu và nước sơn, sở

trường vẽ và sáng tác các mẫu trang trí hoa văn có thể nói là rất điêu

luyện đi kèm với kỹ thuật chạm trổ, đắp sơn. Nếu chia theo đề tài, ta có

thể thấy có mấy dạng tranh sơn cổ như sau: Tranh nằm trong kết cấu

kiến trúc cổ bao gồm tranh trần thiết (có ở chùa Dâu, chùa Mía, đình

Chèm...), tranh cửa (có ở đình Chèm, chùa Vĩnh Phúc...), bích họa có

bộ tranh ...Nhị thập tứ hiếu ở lăng Đồng Khánh... Ngoài ra, còn có một

số bức vẽ nằm ở dạng khác như vẽ trên ván nong, cốn hay trong khám

thờ... Thực chất mà nói, nó chưa hẳn là tranh mà là những cấu kiện nằm

trong kiến trúc, chỉ là những mô-típ, đồ án hoa văn trang trí; Dạng

tranh sơn cổ thứ hai chính là tranh thờ, chủ yếu là tranh chân dung và

tranh nhân vật, dân gian quen gọi là tranh Thần, có thể được vẽ đơn

chiếc hay theo bộ; Cuối cùng, không thể không kể đến thể loại tranh

liên hoàn, bao gồm các dạng tranh có nội dung khuyến giáo, ngâm vịnh

hoặc kể chuyện. Đặc tính của loại tranh này là tính liên hoàn có kế tục,

thường được vẽ dưới dạng “Nhất thư nhất họa”, đậm nét mô tả.

Sự hấp dẫn của chất liệu độc đáo, vừa bền lại vừa có vẻ đẹp lộng lẫy

vàng sơn này đã thu hút các họa sĩ Việt Nam ra công nghiên cứu tìm

tòi, khai thác mọi khả năng biểu hiện của chất liệu sơn cổ truyền để áp

dụng vào trong nghệ thuật tạo hình hiện đại. Công cuộc cách tân trong

nghệ thuật sơn mài gắn liền với sự ra đời của trường Cao đẳng Mĩ thuật

Đông Dương (nay là trường Đại học Mĩ thuật Hà Nội). Vào khoảng

những năm đầu của thập kỷ 30 (thế kỷ 20), thầy và trò của trường Cao

đẳng Mĩ thuật Đông Dương bắt đầu làm quen với chất liệu sơn truyền

thống với sự cộng tác của các nghệ nhân, trong đó có cụ Đinh Văn

Thành - nghệ nhân quê làng Hạ Thái (Hà Tây). Vừa tiếp xúc với nền mĩ

thuật châu Âu, nghệ nhân Đinh Văn Thành cùng các họa sĩ, các sinh

viên của trường vừa mạnh dạn tiến hành những thử nghiệm đối với chất

liệu sơn, nhằm khắc phục những hạn chế về bảng màu vốn chưa được

phong phú, chỉ hạn chế trong các màu đen, đỏ, vàng kim hoặc bạc phủ

hoàn kim mà thôi. Nhờ quá trình tìm tòi thể nghiệm đó, các họa sĩ Việt

Nam đã nắm bắt được kĩ thuật pha chế các loại sơn chín, kĩ thuật sử

dụng các chất liệu sơn (son trai, son tươi, son nhì), biết cách sử dụng

vàng bạc quỳ được rây nhỏ thành bột, pha trộn vào sơn cánh gián được

pha nhựa thông hoặc dầu trẩu. Với cách pha chế mới này, người ta có

thể vẽ nhiều lớp sơn màu chồng lên nhau, sau mỗi lớp sơn lại mài nhiều

lần trong nước sạch, tạo ra nhiều màu sắc. Ngoài ra, với kĩ thuật sử

dụng tài tình chất liệu dân dã như vỏ trứng, vỏ trai... các họa sĩ đã tạo

được nhiều hòa sắc trắng với dạng một nền men rạn hấp dẫn, hoặc ánh

sắc muôn màu của xà cừ (vỏ trai) rất phong phú.

Bước ngoặt này đã mở ra cho ngành nghề sơn cổ truyền sang một kỷ

nguyên mới, mang đến cho diện mạo mĩ thuật hiện đại Việt Nam một

sắc thái mới. Người ta gọi cuộc cách tân trong nghệ thuật sơn mài cũng

chính là cuộc cách mạng trong nền hội họa Việt Nam. Bản thân danh từ

“sơn mài” đã được ra đời trong thời kỳ này để khỏi lẫn với lối làm sơn

cổ truyền thường vẫn quen gọi là “sơn ta”, “sơn quang dầu”. Sơn mài

thực sự bước chân vào lĩnh vực hội họa tạo hình và ngày càng chiếm

một vị trí quan trọng trên thị trường tranh quốc tế. Ngoài ra, kỹ thuật

mài và pha chế màu của sơn mài cũng dần dần được ứng dụng vào

trong ngành sơn mĩ nghệ cổ truyền, tạo hiệu quả kĩ thuật, mĩ thuật cao.

Đi tiên phong trong việc áp dụng kỹ thuật sơn cổ truyền với các sắc

đen, đỏ, vàng, bạc... để tạo nên các tác phẩm hội họa hiện đại là họa sĩ

Trần Văn Cẩn, là họa sĩ Nguyễn Gia Trí, là họa sĩ Nguyễn Tường

Lân... Và bên cạnh đó, còn có không ít các tác phẩm đã đạt được những

thành công nhất định trong thời kì đầu này của các họa sĩ như: Hoàng

Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Lê Quốc Lộc, Phạm Hậu, Nguyễn Đỗ

Cung, Nguyễn Khang... Hầu hết, đề tài thường xoay quanh phong cảnh

nông thôn êm đềm với bụi tre, ao làng, đình chùa, hội hè, đình đám,

cảnh sông nước, cảnh lao động nơi nông thôn dân dã...

Cùng với thời gian, nghệ thuật sáng tác tranh sơn mài ngày càng tiến

tới bởi đội ngũ ngày càng đông các họa sĩ tham gia nghiên cứu tìm tòi,

thể nghiệm thêm về chất liệu, về màu sắc cũng như về kỹ thuật thể hiện

và phương cách thể hiện với những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao.

Nhiều tác phẩm được lưu giữ ở Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam như tranh

của các họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, Sĩ Ngọc, Phạm Văn Đôn... và của

các họa sĩ khác với những bảng màu phong phú, thể hiện nhiều phong

cách với những đề tài đa dạng, muôn màu muôn vẻ.

Khoảng tới năm 1932, sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông

Dương học thêm được phương pháp rắc bột vàng bạc rồi cải tiến cả

phương pháp mài bóng. Việc gắn vỏ trứng dựa theo truyền thống khảm

xà cừ, rồi đánh bóng cũng là một phát kiến mới. Những tiến bộ về pha

chế màu sơn cũng làm cho bảng màu sơn mài phong phú và đa dạng

hơn, đặc biệt là khả năng mô tả không gian, ánh sáng và tạo khối nhờ

có sự chuyển đổi sắc độ linh hoạt.

Sau năm 1954, một loạt tác phẩm sơn mài thành công ra đời, đánh dấu

một giai đoạn hoàn toàn mới của nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Đồng

thời, dẫn tới một giai đoạn mới cao hơn hẳn về chất lượng của toàn bộ

nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Chính các tác phẩm sơn mài này

làm cho chất liệu sơn mài trở thành một chất liệu tạo hình dẫn đầu, đặc

sắc và độc đáo của mĩ thuật Việt Nam đó là: Tát nước đồng chiêm

(Trần Văn Cẩn), Qua bản cũ (Lê Quốc Lộc), Nhớ một chiều Tây Bắc

(Phan Kế An), Đi chợ Bắc Hà (Mai Văn Nam), Kết nạp Đảng ở Điện

Biên Phủ (Nguyễn Sáng), Nhà tranh gốc mít (Nguyễn Văn Tỵ), Tre

(Trần Đình Thọ), Bình minh trên nông trang (Nguyễn Đức Nùng, ...

Không dừng lại ở đó, các thế hệ họa sĩ nối tiếp nhau vẫn luôn luôn tìm

cách khai thác các thế mạnh của loại chất liệu, nội dung cho đến cách

biểu hiện. Nhưng cũng không ít họa sĩ trẻ đã tạo cho mình một sự phá

cách: Trên nền vóc cổ xưa, họ đưa vào hàng loạt những chất liệu mới

mà gọi tóm lại là “chất liệu tổng hợp”, với mong muốn tạo nên hiệu

quả thẩm mĩ mới lạ. Tất nhiên, không phải lúc nào những thử nghiệm

cũng có thể thành công mà thậm chí, đôi khi, chúng còn góp phần làm

lệch hướng, phá đi vẻ đẹp nền nã, cao sang của sơn mài truyền thống.

Cũng không thể phủ nhận một điều, đó là thông qua sự thể nghiệm tìm

tòi với không ít những yếu tố bản lĩnh và dũng cảm, các họa sĩ trẻ Việt

Nam đã góp phần tạo nên một bộ mặt khá đa dạng cho hội họa sơn mài

truyền thống. Họ đã cách tân, mở mang nhiều từ phương thức biểu hiện

sáng tạo với những nội dung mới mang nhiều phong cách. Bên cạnh

(hoặc là nối tiếp) những nội dung truyền thống văn hóa, tôn giáo, tín

ngưỡng, họ còn mạnh dạn đưa những chủ đề như tình yêu hiện đại,

những nỗi bức xúc, ám ảnh chủ quan đầy nội tâm phức tạp... và thể

hiện chúng trên nền chất liệu sơn mài truyền thống. Công bằng mà nói

thì cũng không ít các tác phẩm của họ cũng đạt đến những thành công

nhất định, được mọi người công nhận. Có thể kể đến một vài họa sĩ trẻ

vẽ tranh sơn mài hiện đại như Đinh Quân, Vũ Thăng, Mai Đắc Linh,

Xuân Việt, Trịnh Quốc Chiến... Họ và nhiều, rất nhiều những họa sĩ già

và trẻ khác vẫn luôn luôn tìm tòi, luôn luôn thể nghiệm trên chất liệu

sơn mài truyền thống của dân tộc mình để khai thác, khám phá, sáng

tạo... góp phần thúc đẩy sự phát triển nền nghệ thuật tạo hình của đất

nước bằng chính tài năng và nhiệt huyết của mình.

Lê Thanh Hương