Dồn chính sách tiền tệ tới 'điểm chết'

Trả giá tăng trưởng dựa vào đầu tư

Điểm qua bức tranh tổng thể của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012 dẫn tới

những tác động lên thị trường tiền tệ, ngân hàng, ông Lê Xuân Nghĩa chỉ ra thực tế

là trong 3 khu vực của kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng bằng

năm ngoái, dịch vụ có tốc độ tăng xấp xỉ, trong khi đó thì công nghiệp suy giảm

rất là mạnh.

Cụ thể, đỉnh của công nhiệp là 6,61 thì bây giờ còn có 4,36. Điều này giải thích là

toàn bộ ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, của chúng ta bị suy

giảm rất mạnh trong năm nay.

Chỉ số hàng tồn kho tăng mạnh từ năm 2011 và “đỉnh” của tồn kho năm 2012 là

tháng 3, tháng tư bắt đầu dần suy giảm cho đến tháng 8, 9, 10. Nói là suy giảm

năm 2012 nhưng hàng tồn kho vẫn bằng năm ngoái. Lớn nhất của hàng tồn kho

vẫn là bất động sản, thép và khoáng sản. Bất động sản là một loại tồn kho rất khó

xử lý, để xử lý có thể mất khoảng vài ba năm, thậm chí có thể dài hơn.

Về lạm phát, các chuyên gia kinh tế đánh giá rất cao khi VN điều hành chính sách

khi “giúp giảm lạm phát cũng rất nhanh giống như khi để lạm phát tăng nhanh vậy

(!).

Sau khi trừ giá lương thực thực phẩm và giá xăng dầu thì thấy rằng, lạm phát lõi

so với cùng kỳ vẫn ở mức khá cao, so với tháng trước (đặc biệt tháng 8, 9, 10) có

xu hướng tăng lên. Điều này cho thấy dư địa về mặt chính sách để giảm lãi suất là

không còn. Vì lạm phát đang có xu hướng tăng lên rất nhanh.

Điều này cho thấy việc nới lỏng tín dụng là vô cùng cần thiết để cứu doanh nghiệp

và xử lý nợ xấu, tuy nhiên dư địa rất hạn chế. Nói cách khác, chính sách tiền tệ

đang rơi vào tình trạng “điểm chết”. Tăng trưởng tín dụng 10 tháng chỉ đạt 2,8-

3%, điều này cho thấy VN đang rơi vào tình trạng đóng băng tín dụng thực sự.

Quan hệ tín dụng của các NHTM lớn với các NHTM nhỏ và toàn bộ các NHTM

với doanh nghiệp suy giảm lòng tin nghiêm trọng.

Nợ xấu cản bước tín dụng

Còn nợ xấu thì theo báo cáo của các NHTM thì đến tháng 6/2012 ở mức 4,5% và

thời điểm này cũng tương đương cỡ đó. Con số này thấp xa so với con số thông

báo của NHNN (8,6-10%). Như vậy nợ xấu có tốc độ tăng tương đối nhanh. Đi

ngược với tình trạng nợ xấu ngày càng tăng lên thì tình trạng lãi ròng trên vốn tự

có bắt đầu suy giảm. Đặc biệt 2012 suy giảm rất nhanh. Điều nay cho thấy đằng

sau câu chuyện lãi ròng trên vốn tự có là tình trạng của nợ xấu.

Góp phần truy nguyên nguồn gốc của nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại

nói chung trên thế giới và của Việt Nam hiện nay, ông N.C.Raghava, chuyên gia

quốc tế về tư vấn và đào tạo rủi ro tín dụng, cho rằng các khoản vay xấu không

phải mới xuất hiện gần đây mà nó thường được thực hiện trong những thời kỳ

“đẹp” của hệ thống NHTM Việt Nam.

Nghĩa là nợ xấu đã nảy mầm ngay trong thời kỳ cực thịnh của hệ thống NHTM

khi tín dụng đang tăng trưởng cực nóng và khả năng thanh khoản của hệ thống có

vẻ như đang dư thừa. Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo ra nợ xấu tại các

NHTM Việt Nam hiện nay được chuyên gia này chỉ ra là xuất phát từ hiện tượng

“ô nhiễm tín dụng” xuất phát ngay từ các nhân viên ngân hàng khi họ đã: tạo ra sự

cạnh tranh quá mức, theo đuổi những thị phần không hợp lý, hạ chuẩn tín dụng

xuống thấp…

Tuy đã chỉ ra một loạt các nguyên tắc kinh điển trong quản trị nợ xấu của hệ thống

NHTM nói chung nhưng trung thành với triết lý kinh điển trong quản trị nợ xấu,

chuyên gia Raghava cho rằng “phòng bệnh, hơn chữa bệnh”, việc phát hiện nợ xấu

phải được thực thi từ lâu và được kiểm soát một cách chặt chẽ nhất ngay trong thời

kỳ các NHTM đang phát triển thịnh vượng nhất, chứ khi đã phát bệnh thì dẫu có

tìm ra biện pháp khắc phục thì thiệt hại cũng là rất nặng nề.