“Dọn dẹp những khoản n xấu
Đúngkhi nhìn vào đề án tái cấu cũng như những động thái đã triển khai,
chúng ta thấy chuyện sắp xếp lại, hợp nhất, sáp nhập hay thâu tóm cũng ch nhm
mục đích làm giảm s lượng ngân hàng. Nghĩa là mới ch yếu chú ý đến s lượng,
ch chưa đi vào thực chất.
Ví d như hợp nhất 3 ngân hàng vừa qua, đâu phải c hợp nhất xong là xong, mà
trong đề án hợp nhất nêu rõ: hợp nhất xong, SCB s tái cấu trúc với s tham gia
của BIDV. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, mặcvừa mới hợp nhất xong đã có
thông tin SCB hoạt động bình thường, đi vào n định. Thông tin như vậy liệu
phảikhông phải tái cấu nữa? Thực tế, SCB vẫn đang n BIDV, cũng như n
nhiều ngân hàng khác, nên vẫn cần phải tái cấu. Do vậy, vấn đềphải tái
cấu ngân hàng vừa hợp nhất như thế nào?
Theo quan điểm của ông, mục tiêu tái cu ngân hàng là gì?
Trước mắt, phải xnhững ngân hàng yếu kém, vì hiện kinh tế vĩ mô của Việt
Nam chưa ổn định, mọi người không th yên tâm, doanh nghiệp không th hết khó
khăn nếu như vẫn còn những ngân hàng yếu kém. V lâu dài, phải xây dựng được
một h thống ngân hàng lành mạnh và loại b được những nguyên nhân sâu xa dn
tới yếu kém của h thống, những trục trặc trong thời gian vừa qua, trong đó bao
gồm h thống quản lý rủi ro chhình thức, s hữu chéo, vốn ch s hữu ảo…
Vậy làm thế nào để x lý các ngân hàng yếu kém, thưa ông?
Vấn đề đầu tiên là “dọn dẹp” tất c những khoản n xấu để làm sạch bảng cân đối
tài sản. Tiếp đó, cần cải thiện năng lực quản trị, điều hành và tái cấu hoạt động
theo hướng lành mạnh, hiệu quả. Để làm được điều đó, có th do t thân các ngân
hàng, hoặc thông qua mua bán, sáp nhập.
MặcNHNN ch trương khuyến khích các ngân hàng sáp nhập, hợp nhất
theo hướng t nguyện, nhưng v như các ngân hàng không mặn mà?
Đúngnhư vậy. Nguyên nhân xuất phát t vấn đề lợi ích của các c đông lớn, c
đông nội bộ. Ch cần ảnh hưởng đến li ích của hh phản ứng, trong khi việc
sáp nhập có th khiến h b mất chức. Tuy nhiên, bản thân th trường t vận động
khi các đợt thâu tóm ngầm đã diễn ra. Nhưng bên cạnh mặt tích cực thì cũng tồn
tại những mặt không tích cực. Bi khi diễn ra như vậy, h thống ngân hàng không
được tái cấu trúc theo hướng hiện đại, lành mạnh như mong muốn, có khi còn
khiến mức độ s hữu chéo trong h thống ngân hàng trầm trọng hơn. Vì vậy,
NHNN cũng như UBCK cần nghiên cứu m rộng giới hn v t l s hữu của đối
tác chiến lược trong ngân hàng và buộc hoạt động thâu tóm phải minh bạch, đúng
luật.
Có nghĩa là ông không ủng h quan điểm sáp nhập t nguyện?
Như trên tôi đã nói, để cho t nguyệnrất khó, vì vấp phải rào cản lợi ích của các
c đông lớn. Bên cạnh đó, mỗi ngân hàng lại yếu kém theo một hình thức khác
nhau, nên việc sáp nhập, hợp nhất hai ngân hàng yếu khó có th tr thành một
ngân hàng mạnh, nếu không có s biến đổi v chất trong năng lực qun trị, điều
hành. Nhưng cũng rất kđể một ngân hàng mạnh t nguyện “gánh vác” một
ngân hàng yếu.
Vậy theo ông nên làm thế nào?
Nhất thiết NHNN phải tham gia vào quá trình sáp nhập, hp nhất, mua bán các
ngân hàng yếu kém thì quá trình này mới đạt hiệu qu như mong muốn. Bởi ch
NHNN mới hiu rõ nhất những ngân hàng yếu kém như thế nào và cần phải sáp
nhập với ngân hàng nào, sau quá trình sáp nhập cần phải làm gì để mạnh lên. Với
những ngân hàng quá yếu, đến mức không một đối tác nào muốn thâu tóm, thì
NHNN phải đứng ra mua lại. Sau khi cấu lại để những ngân hàng này lành
mạnh hơn s bán lại cho ngân hàng, nhà đầu khác.
Tại sao phải làm như vậy? Phải chăng Nhà nước đã cam kết trong quá trình
tái cấu trúc h thống ngân hàng s “không đ một người dân nào mất tin” hay
“không để một ngân hàng nào đổ vỡ”?
Đúngnhư vậy. Việc không để người dân mất tiền hay không để ngân hàng đổ
v ch là chuyện câu chữ, bản chất cuối cùng vẫn là không để người dân nào mất
tiền. Nhà nước đã cam kết không để ngân hàng nào sụp đổ, tứcđảm bảo tiền gửi
s hoàn tr đầy đủ cho người gửi tiền, thì Nhà nước phải lĩnh trách nhiệm mua lại.
“không để người dân nào mất tiền” thì hay hơn, vì khi nói “không để ngân hàng
nào đổ vỡ”tạo k vọng rằng, một ngân hàng dù làm ăn thế nào cũng được N
nước đỡ. Như thế là một cách làm không công bằng, s tạo ra những h lụy, rủi ro
đạo đức trong tương lai.
Cũngnhiều ý kiến nhận xét, quá trình tái cấu trúc h thống ngân hàng
đang tập trung vào NHTMCP, mà lơi lỏng NHTM quốc doanh?
Th nhất, vấn đề tái cấu trúc NHTM quốc doanh đã được xem là một phần quan
trọng trong đề án tái cấu trúc. Đứng v mặt nội dung trên văn bản thì không có
chuyện là. Trong phần phân tích hiện trng khi soạn thảo đề án cũng phân tích
rấtnhững nguyên nhân dẫn đến yếu kém của các NHTM quốc doanh. Tuy
nhiên, hiện ngoại tr MHB, những NHTM quc doanh khác đều có quy mô rất
lớn, có mạng lưới giao dịch s tiền gi rất rộng,n cho dù yếu kém nhưng
thanh khoản vẫn được đảm bảo. Chính vì thế, sức ép để tái cấu trúc các ngân hàng
này ngay là chưa lớn so với khối NHTMCP, những ngân hàng yếu kém đều nằm
trong khối này.
Th hai, hiện hầu hết DNNN, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty là khách hàng
của các NHTM quốc doanh. Dư n của khối này chiếm t trọng khá lớn trong tổng
n của các NHTM quốc doanh. Vì vậy, việc tái cấu trúc các NHTM quốc
doanh không th tách rời quá trình tái cấu trúc DNNN và đầu công.
Một điểm nữa cũng rất quan trọng trước khi tái cấu các NHTM quốc doanh là
phải thay đổi quan điểm xem các ngân hàng này quan tài chính th hai của
Chính phủ. Hiện tại, mặcmang danh là NHTM, song tính thương mại của các
NHTM quốc doanh là không đầy đủ, khi phần nào đó vẫn phải thực hiện hoạt
động cho vay và đầu theo ch định đối với các d án của Nhà nước hay được
các quan nhà nước bảo trợ.
Tóm lại, việc tái cấu trúc các NHTM quốc doanh phải giải quyết được 3 vấn đề.
Một là, các NHTM quốc doanh không còn quan tài chính của Chính phủ,
không ch trên giấy tờ, mà là thực chất. Hai là, làmđại diện vốn ch s hữu
trong các NHTM quốc doanh như thế nào, trách nhiệm giải trình ra sao? Ba là,
gắn kết tái cơ cấu NHTM quốc doanh với tái cấu DNNN và đầu công.