
vietnam medical journal n01&2 - MARCH - 2019
134
lâu ngày, do đó, tỷ lệ nhiễm vi khuẩn đa kháng
cao và tình trạng bệnh nặng. Nghiên cứu của
Phạm Thị Ngọc Thảo đánh giá tình hình tử vong
tại 150 khoa ICU với 1285 bệnh nhân tại 16
nước Châu Á trên bệnh nhân nhiễm khuẩn nặng
và sốc nhiễm khuẩn, cho thấy tỷ lệ tử vong là
44,9% mặc dù 64% có điều trị kháng sinh phổ
rộng [6]. Viêm phổi bệnh viện chiếm 0,5 – 1%
bệnh nhân nằm viện và nhiễm trùng gây tử vong
cao nhất. Tử vong tăng lên 76% nếu do tác
nhân đa kháng thuốc và điều trị kháng sinh
không hiệu quả [6].
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh
nhân VPBV cao nhất là ở khoa Hồi sức tích cực –
chống độc, với tác nhân gây bệnh chủ yếu là
Acinetobacter baumannii.
Nhóm kháng sinh được
lựa chọn nhiều nhất là quinolon và carbapenem
.
Tỷ lệ chọn lựa kháng sinh, liều dùng và khoảng
cách liều hợp lý còn thấp. Sử dụng kháng sinh
không hợp lý chủ yếu là với kháng sinh
teicoplanin, levofloxacin và clindamycin. Tỷ lệ
bệnh nhân được điều trị có hiệu quả, giảm/khỏi
bệnh còn thấp. Do đó, chúng tôi nhận thấy, cần
xây dựng một phác đồ điều trị VPBV phù hợp với
tình hình đề kháng tại bệnh viện, giúp lựa chọn
sử dụng kháng sinh hợp lý hơn nhằm cải thiện
hiệu quả điều trị cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Văn Ân (2012). Thực trạng sử dụng
kháng sinh trong viêm phổi bệnh viện tại Khoa hồi
sức tích cực BV Nhân Dân Gia Định. Hội thảo khoa
học ngày 21/4/2012 tại TP. Hồ Chí Minh.
2. Bộ Y tế (2015). “Hướng dẫn sử dụng kháng
sinh”, NXB Y học. tr 39-44, 93-98.
3. Lê Thị Hồng Chung (2011). Điều tra tình hình
viêm phổi bệnh tại khoa HSCC. Bệnh viện Đà
Nẵng. Tài liệu hội nghị phòng ngừa và kiểm soát
nhiễm khuẩn bệnh viện khu vực miền trung -Tây
nguyên lần thứ I. tr 47- 51.
4. Nguyễn Thanh Bảo, Cao Minh Nga, Trần Thị
Thanh Nga, Vũ Thị Kim Cương, Nguyễn Sử
Minh Tuyết, Vũ Bảo Châu, Huỳnh Minh Tuấn
(2012). Chọn lưa kháng sinh ban đầu trong điều
trị nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện.TP
HCM. Tạp chí Y học TP HCM. 16(1): tr 206-214.
5. Thái Thị Kim Nga (2003). Đánh giá viêm phổi
bệnh viện tại khoa săn sóc đặc biệt ngoại thần kinh
Bệnh viện Chợ Rẫy. Hội thảo Điều dưỡng trong công
tác chống nhiễm khuẩn bệnh viện. tr 69-70.
6. Phạm Thị Ngọc Thảo (2011). Nghiên cứu tình
hình điều trị nhiễm khuẩn nặng và sốc nhiễm
khuẩn các khoa hồi sức tích cực khu vực Châu Á.
Tạp chí Y học TP HCM. 15(1): tr 28-35.
7. Apatcha P., Terapong T. (2011). Assessment of
appropriateness of restricted antibiotic use in
Charoenkrung Pacharak Hospital, a tertiary care
hoapital in Bangkok, Thailand. Southeast Asian J
Trop Med Public Health, 42 (4): pp. 926-935.
8. IDSA guideline (2016). Management of adults
with Hospital-acquired and Ventilator – associated
Pneumonia: 2016. Clinical Practice Guidelines by
the IDSA and the ATS.
DUY TRÌ THỰC HIỆN CÁC TIÊU CHUẨN THỰC HÀNH
NHÀ THUỐC TỐT (GPP) CỦA CÁC NHÀ THUỐC TẠI HÀ NỘI NĂM 2017
Hà Văn Thúy1, Nguyễn Phương Chi2, Tô Hoài Nam3
TÓM TẮT37
Tiêu chuẩn Thực hành Nhà thuốc tốt (GPP) là một
yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo cung cấp chất lượng
dịch vụ toàn diện, cũng như giúp người dân và xã hội
sử dụng thuốc đạt hiệu quả cao nhất. Do đó, nghiên
cứu này được thực hiện để so sánh và đánh giá việc
duy trì hoạt động của nhà thuốc đúng theo tiêu chuẩn
GPP tại các nhà thuốc đang hoạt động tại Hà Nội.
Nghiên cứu đã được tiến hành trên 108 nhà thuốc, số
liệu về các trường hợp vi phạm tiêu chuẩn GPP được
lấy từ các báo cáo thanh kiểm tra các nhà thuốc của
1Bộ Y tế,
2Trường Đại học Dược Hà Nội,
3Sở Y tế Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Hà Văn Thúy
Email:
Hvthuy@yahoo.com
Ngày nhận bài: 14.01.2019
Ngày phản biện khoa học: 28.2.2019
Ngày duyệt bài: 7.3.2019
Sở Y tế Hà Nội vào năm 2017. Chi-square test hoặc
Fisher’s exact test được sử dụng để so sánh vi phạm
tiêu chuẩn GPP giữa các trường hợp tái thẩm định
(thẩm định tiêu chuẩn GPP có thông báo trước) và
hậu kiểm (không báo trước). Kết quả cho thấy hầu hết
các trường hợp vi phạm tiêu chuẩn GPP của các nhà
thuốc tư nhân thuộc diện hậu kiểm cao hơn đáng kể
so với diện thẩm định, bao gồm các quy định về nhân
sự, cơ sở vật chất, trang thiết bị, duy trì hồ sơ, sổ
sách và các quy định về chuyên môn.
SUMMARY
MAINTENANCE OF GOOD PHARMACY
PRACTICE (GPP) STANDARDS OF HANOI
PHARMACIES IN 2017
Good Pharmacy Practice (GPP) standard is an
important factor that provides comprehensive
pharmacy service while helping people and society to
make best use of medicines. The study, therefore, was
conducted to compare and assess the maintenance of
GPP standards in active pharmacies in Hanoi. 108