Luận văn thạc sĩ 1 Kinh tế TNTN và Môi trường

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối với bất cứ một quốc gia nào, muốn nền kinh tế phát triển bền vững thì

trước hết Nhà nước luôn luôn phải quan tâm huy động mọi nguồn vốn trong và

ngoài nước để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng các công trình công nghiệp;

công trình cơ sở hạ tầng; công trình y tế, giáo dục, phúc lợi công cộng; công trình

du lịch, dịch vụ; công trình an ninh, quốc phòng,… theo một quy hoạch tổng thể và

định hướng phát triển kinh tế dài hạn sao cho có hiệu quả cao nhất. Đối với Việt

Nam điều đó không phải là ngoại lệ, nhất là nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp

lạc hậu và trải qua thời gian chiến tranh kéo dài.

Đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quyết định

trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay

đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, thúc đẩy sự tăng trưởng

và phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tốc độ và

quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP

hàng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân. Nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước có

vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút các nguồn vốn của xã hội vào đầu tư phát triển.

Đầu tư phát triển nói chung và công tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) nói

riêng luôn có một vị trí vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội của

mỗi nước, điều đó mọi người đều khẳng định; song việc đầu tư xây dựng các công

trình sao cho có hiệu quả cao lại càng quan trọng hơn. Bản thân mỗi dự án tự nó

không thể hiện hiệu quả cao hay thấp, mà chính do con người phải căn cứ vào

những đặc điểm riêng có của sản phẩm xây dựng cơ bản để đề ra các giải pháp quản

lý đúng đắn hợp lý, đồng thời phải thường xuyên hoàn thiện nâng cao các giải pháp

quản lý sao cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế, ở tất cả các giai đoạn

hoạt động đầu tư, nhất là trong công tác quản lý chi vốn đầu tư phát triển sao cho

hiệu quả nhất, tránh lãng phí, thất thoát vốn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 2 Kinh tế TNTN và Môi trường

Ở Việt Nam trong những năm qua, quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển nói

chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng có một số mặt tiến bộ hơn. Việc sửa đổi,

bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý

hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành lập, tổ chức

thực hiện quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra giám sát được quan tâm. Cơ chế quản lý

đầu tư được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các

Bộ, ngành và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc

phân bổ vốn đầu tư phát triển theo Luật Ngân sách Nhà nước mới (năm 2002) đã

được quan tâm hơn. Những đổi mới này đã giảm thiểu sự bao cấp của ngân sách

Nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm, mở rộng quyền hạn cho các cấp, các ngành,

địa phương trong quản lý đầu tư và xây dựng.

Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, cơ cấu nền kinh tế còn

chuyển biến chậm, tình trạng phân tán, lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư xây

dựng thuộc nguồn ngân sách Nhà nước còn khá phổ biến. Hệ thống cơ chế quản lý

chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước đã được bổ sung, song

chưa thật phù hợp với sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, việc

thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước rất phức tạp

và mang tính chất phân tán rộng, dẫn đến sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện

cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham nhũng tiền của Nhà nước, đồng thời dễ dẫn

đến khuynh hướng quản lý cứng nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ, làm

vốn bị ứ đọng, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, gây lãng phí và kém hiệu

quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

Xuất phát từ yêu cầu bức xúc nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Đề xuất một

số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các

dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước” để làm Luận văn

thạc sĩ kinh tế.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở nhận thức những vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển,

đánh giá thực trạng quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách

Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thiết

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 3 Kinh tế TNTN và Môi trường

thực, hữu hiệu, khả thi góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý sử dụng vốn ngân sách

Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng trong thời gian tới.

3. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: nghiên

cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, dự báo để

làm sáng tỏ những nội dung lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất một số giải

pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư

xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Đề tài là sự tổng hợp cơ sở lý luận khoa học đã được nghiên cứu và khẳng

định trong cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng

thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

Nghiên cứu của đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ

chức hoặc cơ quan quản lý vận dụng để quản lý tốt hơn các dự án đầu tư xây dựng

được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước của đơn vị mình.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề về đầu tư phát triển và

quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn

ngân sách Nhà nước; trong đó tập trung vào nghiên cứu quản lý chi vốn đầu tư phát

triển trong nước giai đoạn từ 2006 - 2010.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế quản

lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn đầu tư phát

triển từ nguồn vốn trong nước của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn

từ 2006 - 2010, các giải pháp đề xuất giai đoạn 2011 - 2015 và các năm tiếp theo.

6. Kết quả dự kiến đạt được

- Hệ thống hóa và phân tích sáng tỏ nhận thức luận cơ bản về đầu tư phát

triển, vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của ngân sách

Nhà nước.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 4 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Tổng hợp và phân tích làm r thực trạng đầu tư, quản lý và cơ chế quản lý

vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn trong nước thuộc

nguồn vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

- Trên cơ sở phân tích lý nguyên lý chung về đầu tư (qua Luật và các văn bản

Pháp quy khác), tình hình quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn

ngân sách Nhà nước (qua thực tiễn); Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp

phần hoàn thiện những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý chi vốn

đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn trong nước của

ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó góp phần vào việc

nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế nói chung.

7. Nội dung của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được cấu trúc

từ 3 chương nội dung chính:

- Chương 1: Lý luận chung về cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho

các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

- Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự

án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

- Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi

vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 5 Kinh tế TNTN và Môi trường

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT

TRIỂN CHO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THUỘC NGUỒN VỐN

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT

TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1.1. Khái niệm về cơ chế

Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le

Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" nghĩa là cơ chế, là "cách thức hoạt

động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Còn Từ điển Tiếng Việt

(Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình

thực hiện".

Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những

năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh

tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Nói một cách khác, cơ chế quản lý

một vấn đề gì đó cũng đồng nghĩa với những quy định về quản lý vấn đề đó.

1.1.2. Khái niệm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư

xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước

Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng

thuộc nguồn ngân sách nhà nước được quy định thực hiện thông qua hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp ban hành như

Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư, Chỉ thị. Song hành với các văn bản này là

bộ máy quản lý và các bước tiến hành triển khai thực hiện một dự án đầu tư xây

dựng, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu, bước đi của

một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập và ghi kế hoạch vốn,

phân bổ vốn, lập báo cáo đầu tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công

trình, quyết định phê duyệt thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 6 Kinh tế TNTN và Môi trường

bằng, đấu thầu, tạm ứng, thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự

án đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng.

Tóm lại, có thể hiểu một cách chung nhất về quản lý chi vốn đầu tư phát

triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước như sau:

quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà

nước là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành, thông qua

hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy định các

biện pháp cụ thể, cách thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp nhằm

thực hiện các mục tiêu của chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định.

1.1.3. Nội dung, phân loại cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn

ngân sách Nhà nước

Quản lý vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước được chia thành 2

nhóm cơ chế sau đây:

1.1.2.1. Nhóm cơ chế có liên quan đến việc đảm bảo và sử dụng vốn đầu tư - Cơ chế huy động vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển.

- Cơ chế phân bổ và phân cấp quản lý vốn ngân sách đầu tư (cơ chế quản lý

chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước).

Nội dung chủ yếu của quy chế, quy trình quản lý đầu tư bao gồm:

- Những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án đầu tư, nhất là các tiêu chuẩn

thiết kế, định mức dự toán phù hợp nhằm vừa hạ thấp được chi phí đầu tư nhưng

vừa đảm bảo chất lượng của dự án.

- Thực hiện thẩm định dự án dầu tư, lựa chọn được phương án khả thi để phê

duyệt. Đây là khâu quyết định mức vốn đầu tư cho công trình.

- Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, khoán gọn góp phần tích cực trong

việc chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.

- Quản lý các nguồn vốn đầu tư, xây dựng quy trình và quản lý cấp phát,

thanh toán, quyết toán vốn đầu tư.

- Quy định các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như: giấy cấp đất,

giấy phép hành nghề, giấy phép xây dựng, hợp đồng xây dựng.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 7 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Quản lý quá trình đầu tư xây dựng cơ bản dự án đảm bảo chất lượng công

trình.

- Thẩm định quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành, xác định giá trị tài sản

hình thành qua đầu tư, bàn giao cho đơn vị sử dụng.

Sự hoạt động của những cơ chế này được dựa trên hàng loại các căn cứ như:

quan điểm, mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư 5

năm và kế hoạch phân kỳ hàng năm đối với nền kinh tế và từng ngành, địa phương,

khả năng thu ngân sách Nhà nước, khả năng vay trong nước và nước ngoài, những

quy định về phân cấp quản lý vốn đầu tư theo Luật Ngân sách Nhà nước. Nguyên

tắc hoạt động của nhóm cơ chế này là đảm bảo cung ứng đủ vốn đầu tư cho nền

kinh tế và đảm bảo tính dân chủ, tập trung, công khai và minh bạch trong phân bổ

vốn.

1.1.2.2. Nhóm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc phạm vi một dự án

Để giúp cho việc điều hành thống nhất, hệ thống cơ chế quản lý vốn đầu tư

thuộc phạm vi một dự án được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng và các Nghị định hướng dẫn

Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng.

1.2.3. Nguyên tắc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước

Việc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải đảm bảo những

nguyên tắc sau:

a. Quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải tiết kiệm, hiệu

quả.

b. Phân định r chức năng quản lý của Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu

tư và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và chủ đầu tư.

Phân định r trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước, của

chủ đầu tư, của tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình thực hiện dự án

đầu tư xây dựng.

c. Các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách Nhà nước phải được quản lý chặt

chẽ theo trình tự thủ tục đầu tư và xây dựng do Nhà nước ban hành. Các

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 8 Kinh tế TNTN và Môi trường

thủ tục này được ban hành theo hướng tăng cường cải cách thủ tục hành

chính, triệt tiêu cơ chế “xin - cho”.

d. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong xã hội cùng tham gia

đầu tư phát triển nền kinh tế trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây chính

là chủ trương xã hội hoá đầu tư của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện

nguyên tắc này trên các mặt: vốn ngân sách Nhà nước đóng vai trò là “vốn

mồi” để thu hút vốn của xã hội; Nhà nước mở rộng, đa dạng hoá các hình

thức đầu tư, từng bước giao cho thị trường điều tiết một số khâu của quá

trình đầu tư nhằm chống tình trạng “khép kín” trong đầu tư.

e. Việc phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng cũng như sử dụng nguồn vốn

đầu tư cho các cấp, các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư luôn đi đôi với

công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

1.2.4. Đặc điểm và yêu cầu của cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án

đầu tư xây dựng thuộc ngân sách Nhà nước

Là một bộ phận hợp thành của cơ chế quản lý tài chính Nhà nước, trước hết,

quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước chịu sự ràng buộc bởi cơ

chế quản lý tài chính Nhà nước, song mặt khác, nó lại chịu sự chi phối bởi các yếu

tố kinh tế - xã hội, tự nhiên và kỹ thuật, những đặc điểm riêng có trong lĩnh vực đầu

tư và xây dựng. Do bị tác động bởi nhiều yếu tố nêu trên, nên quản lý chi vốn đầu

tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có những đặc điểm chính sau đây:

Một là, đối tượng quản lý là nguồn ngân sách rất lớn, chúng được huy động

từ nhiều kênh khác nhau (từ khoản tích luỹ ngân sách Nhà nước, vay trong nước và

vay nước ngoài qua nguồn viện trợ và ODA).

Với đối tượng quản lý rộng lớn nên quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân

sách Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và rất nhạy cảm đối với tốc độ tăng trưởng

nền kinh tế nói chung, sự phát triển của các ngành, lĩnh vực, vùng và lãnh thổ nói

riêng. Từ đặc điểm trên, yêu cầu đặt ra cho quản lý chi loại nguồn vốn này là phải

hết sức chặt chẽ, tuân thủ Luật Ngân sách Nhà nước, nhưng mặt khác lại phải đảm

bảo độ thông thoáng, giải ngân nhanh, cung cấp đủ nguồn và thực hiện, đáp ứng các

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 9 Kinh tế TNTN và Môi trường

Hai là, quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có liên quan

và được vận hành trên một phạm vi rất rộng, do đó có tính chất phân tán: hiệu lực

của cơ chế phủ khắp từ 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ, ngành trung ương đến 63

tỉnh, thành phố, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu,

bước đi của một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập báo cáo đầu

tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, quyết định phê duyệt

thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, tạm ứng,

thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án đầu tư hoàn thành

đưa vào khai thác, sử dụng.

Gắn liền với những khâu trên là các khoản chi đầu tư. Quá trình thực hiện dự

án đến bước nào thì vốn đầu tư chi ra đến bước đó (thậm chí vốn phải đi trước một

bước trong trường hợp tạm ứng vốn).

Tính phức tạp và phân tán trong vận hành của cơ chế này thường sẽ dẫn tới

sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham

nhũng tiền của Nhà nước, mặt khác cũng có thể dẫn tới khuynh hướng quản lý cứng

nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ dẫn tới tình trạng “vốn chờ công trình”

hoặc “công trình chờ vốn”, làm vốn bị ứ đọng, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến

độ, gây lãng phí và kém hiệu quả trong sử dụng vốn và công trình đầu tư.

Từ tính phức tạp và phân tán trong quản lý nêu trên, đòi hỏi việc thiết kế mô

hình quản lý chi đầu tư phát triển phải rất khoa học, theo hướng mở rộng phân cấp

nhưng phải gắn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp, tăng cường thẩm định, kiểm

tra, giám sát ở từng khâu, đồng thời phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm,

cải cách thủ tục hành chính, tinh giản bộ máy, giảm bớt các đầu mối quản lý, nhưng

vẫn nâng cao được chất lượng và hiệu quả quản lý chi đầu tư phát triển.

Trong thời gian qua, việc huy động và sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà

nước đã đóng góp quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội, tạo môi trường thuận lợi góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, xóa đói giảm

nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do phân cấp quá rộng lại thiếu các

biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt quá

khả năng cân đối vốn, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, thời gian thi công

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 10 Kinh tế TNTN và Môi trường

kéo dài, đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực

của Nhà nước.

1.2. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.2.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và đầu tư phát triển

1.2.1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư

Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước năm 2002 thì ngân sách Nhà

nước là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của

ngân sách Nhà nước các cấp.

Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu từ

hàng năm lại rất lớn, nên vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ở nước ta trong những

năm qua ở nước ta được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay

trong nước và nước ngoài.

Vốn ngân sách Nhà nước bao gồm vốn trong nước (vốn tích luỹ của Ngân

sách Nhà nước) và vốn nước ngoài (vay nợ, viện trợ). Số tiền này được thanh toán

trực tiếp cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế

hoạch chi đầu tư phát triển được duyệt hàng năm.

- Vốn trong nước: là phần chênh lệch giữa tổng các khoản thu (không kể vay

nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách Nhà nước. Đối với vốn tích luỹ

của ngân sách Nhà nước, áp dụng cơ chế huy động, tiết kiệm triệt để và có hiệu quả

(vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nước, vừa ra sức tiết kiệm trong chi tiêu dùng của

ngân sách), ngân sách Nhà nước phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới

góp phần nâng cao tỷ trọng tích luỹ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế.

- Vốn nước ngoài: gồm các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ

nước ngoài thông qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế

được đưa vào ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn quan trọng để bù đắp thiếu hụt

ngân sách và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Đa số các dự án sử dụng vốn ODA được quản lý theo cơ chế riêng và các điều

khoản cam kết trong hiệp định ký kết.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 11 Kinh tế TNTN và Môi trường

Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, do nhu cầu đầu tư rất lớn, Chính phủ phải huy

động vốn chi cho đầu tư phát triển bằng cách phát hành Công trái xây dựng tổ quốc,

các loại trái phiếu (trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ) là các công cụ huy

động vốn để đáp ứng kịp thời yêu cầu đầu tư cho các công trình trọng điểm, cấp

bách; ngoài ra, Chính phủ còn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu ra thị trường

quốc tế. Đây là những xu hướng tích cực trong phương thức huy động vốn qua kênh

ngân sách Nhà nước.

Như vậy, nguồn vốn chi đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn tích

luỹ của ngân sách và bội chi ngân sách Nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay

trong nước và ngoài nước được cân đối trong kế hoạch hàng năm của ngân sách

Nhà nước.

1.2.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước

Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá

trình phát triển kinh tế xã hội, là nhân tố quan trọng tác động đến sự tăng trưởng của

nền kinh tế, tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội. Một nền kinh tế sẽ không

thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư. Đầu tư tác động đến tổng cung

và tổng cầu của nền kinh tế, trên góc độ vĩ mô thông qua chỉ tiêu GDP đánh giá sự

phát triển của nền kinh tế,

Khi vốn và tỷ trọng vốn được phân bổ vào các ngành, các vùng, các thành

phần kinh tế khác nhau dẫn đến kết quả và hiệu quả khác nhau đối với từng ngành,

từng vùng, từng thành phần kinh tế đó, dẫn đến thay đổi mối quan hệ tương quan

giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Từ đó dẫn đến chuyển dịch cơ

cấu kinh tế. Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các

vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát

huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của

những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng

khác phát triển.

Đầu tư phát triển gắn liền với phát triển khoa học công nghệ của đất nước,

công nghệ là trung tâm của hiện đại hóa. Đầu tư là điều kiện tiên quyết tới sự phát

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 12 Kinh tế TNTN và Môi trường

triển nền công nghệ nước ta hiện nay. Đầu tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng

trưởng kinh tế và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao

chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế.

Từ nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước đã góp phần hoàn

thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực kinh tế như giao thông, thủy

lợi, công nhiệp. Trong lĩnh vực xã hội đầu tư phát triển đã góp phần phát triển khoa

học công nghệ và tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ cao trong sản

phẩm, cải thiện và nâng cao r rệt chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn

nhân lực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với

người nghèo, dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, tăng cường công

tác bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với các tác động của biến

đổi khí hậu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức,

tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

1.2.1.3. Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển

Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển bao gồm: Vốn Ngân sách

nhà nước, vốn Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn Trái phiếu (Chính phủ,

Chính quyền địa phương), vốn Tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn Đầu tư phát triển

của các Tổng Công ty nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Nội dung chi cho đầu tư phát triển bao gồm:

- Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có

khả năng thu hồi vốn do Nhà nước quản lý, các công trình đầu tư để phát triển và

phục vụ cho hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là các Bộ, ngành trung

ương, các địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội.

- Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài

chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh

vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước.

- Chi bổ sung dự trữ nhà nước.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 13 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật

là các dự án trong các lĩnh vực giao thông (các đường giao thông), các dự án trong

lĩnh vực thuỷ lợi (như các công trình hồ, đập chứa nước); ngoài ra vốn ngân sách

Nhà nước còn đầu tư cho các công trình cho hạ tầng xã hội như các dự án trường

học trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo, các dự án bệnh viện trong lĩnh vực Y tế, các

dự án nhà ở xã hội nhằm hướng tới mục tiêu an sinh xã hội, các công trình văn hoá

mang tính cộng đồng, các công trình công cộng. Đây thường là các dự án đầu tư có

vốn lớn (đường giao thông, hồ, đập thuỷ lợi...) mà tư nhân không thể có đủ vốn để

đầu tư, hoặc là các dự án có tỷ suất lợi nhuận không cao (các dự án nhà ở xã hội),

nên tư nhân không muốn đầu tư.

Như vậy, vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế

hoạch của Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh

tế - xã hội, quốc phòng, an ninh thiết yếu, có vốn đầu tư lớn, không có khả năng thu

hồi vốn hoặc thu hồi vốn chậm là một nội dung quan trọng trong chi đầu tư phát

triển của ngân sách Nhà nước.

1.2.2. Những đặc trưng của đầu tư và đầu tư phát triển

1.2.2.1. Những đặc trưng của đầu tư

Hoạt động đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn ra hôm nay để mong nhận được

một kết quả lớn hơn trong tương lai. Hoạt động đầu tư có đặc trưng cơ bản là:

- Khi thực hiện công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu.

- Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội hoặc hiệu quả kinh

tế - xã hội. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất là loại đầu tư điển hình thể hiện sự gắn

kết giữa hiệu quả kinh tế và xã hội khi xác định mục tiêu đầu tư.

Ở mọi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền

kinh tế, tức phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng (gồm tiêu dùng của cá nhân và tiêu

dùng của Chính phủ) từ GDP. Nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, xét về lâu dài là

nguồn bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định, là điều

kiện đảm bảo tính độc lập và tự chủ của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 14 Kinh tế TNTN và Môi trường

các lĩnh vực khác. Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước, các quốc gia còn có thể

và cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước. Từ đây, có thể thấy các nguồn vốn chính cho đầu tư phát triển, bao gồm:

- Nguồn trong nước: bao gồm tích luỹ từ Ngân sách Nhà nước, vốn tích luỹ

của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư, vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết.

- Nguồn vốn từ nước ngoài: bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp

(ODA) ....

Trong các nguồn vốn trên thì vốn huy động từ nước ngoài đóng vai trò quan

trọng trong những bước đi đầu tiên, là những cú “huých” cho sự phát triển, tạo tích

luỹ cho nền kinh tế để phát triển đất nước. Nhưng xét về lâu dài, nguồn vốn đảm

bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, đưa đất nước đến sự phồn thịnh

một cách chắc chắn và không phụ thuộc lại là nguồn vốn trong nước. Đây chính là

nền tảng để tiếp thu và phát huy tác dụng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

1.2.2.2. Những đặc trưng của đầu tư phát triển

Một là, đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn. Do vậy quyết định đầu tư

thường là và trước hết là quyết định tài chính. Các khía cạnh về tài chính như: Tổng

mức đầu tư là bao nhiêu, nguồn hình thành từ đâu, cơ cấu tài chính ra sao, khả năng,

thời gian hoàn vốn như thế nào, cần phải được phân tích xem xét rất kỹ lưỡng. Vì

vậy, nhiều dự án đầu tư có thể khả thi ở các phương diện khác (kinh tế, xã hội),

nhưng không khả thi trên phương diện tài chính thì cũng cần được xem xét lại.

Hai là, đầu tư phát triển là hoạt động có tính lâu dài, có những dự án đầu tư

kéo dài hàng chục năm. Đây là một đặc điểm khác biệt của đầu tư phát triển so với

các hình thức đầu tư khác. Do tính chất lâu dài, nên mọi sự trù liệu đều phải tính

toán, dự phòng sự thay đổi trong quá trình thực hiện dự án.

Ba là, sản phẩm của các dự án đầu tư phát triển thường có tính đơn chiếc. Do

vậy ngay cả 2 công trình ở liền kề nhau, nhưng chi phí xây dựng thực tế của mỗi

công trình cũng khác nhau. Đây là một đặc điểm cần được lưu ý trong quá trình

quản lý vốn đầu tư.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 15 Kinh tế TNTN và Môi trường

Bốn là, hoạt động đầu tư phát triển luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước

mắt và lợi ích trong tương lai. R ràng rằng, nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận

đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại

mà họ tạm thời phải hy sinh. Hay nói cách khác, mục đích tối cao của đầu tư là hiệu

quả. Hiệu quả vừa là mục tiêu, động lực và phương tiện của hoạt động đầu tư.

Năm là, đầu tư phát triển là hoạt động mang nặng tính rủi ro. Các đặc trưng

nêu trên cho thấy hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nói riêng chứa đựng

nhiều yếu tố rủi ro. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích giữa trước mắt và lâu dài, hơn

nữa hoạt động đầu tư thường kéo dài đã làm thay đổi những dự định của nhà đầu tư

so với tính toán ban đầu. Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư.

Việc nghiên cứu đặc điểm này để tìm biện pháp ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp

nhất khả năng rủi ro khi thực hiện dự án.

Ngoài 5 đặc điểm chung nêu trên, các dự án đầu phát triển kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội từ nguồn ngân sách Nhà nước còn có 2 đặc điểm có tính đặc thù

sau:

Một là, vốn đầu tư lớn: đây là một đặc trưng rất quan trọng của vốn đầu tư

phát triển từ ngân sách Nhà nước. Bởi vì các công trình được đầu tư xây dựng từ

nguồn vốn này đa số là các công trình lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát triển

của toàn bộ nền kinh tế, nên cần một lượng vốn đầu tư tương đối lớn, thậm chí là rất

lớn như xây dựng hệ thống giao thông, hồ đập, thuỷ điện, cải tạo phòng chống thiên

tai, bệnh viện, trường đại học.

Hai là, khả năng thu hồi vốn: có thể nói rằng, mặc dù tất cả các công trình

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước đều là

những công trình rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, song khả

năng thu hồi vốn của chúng lại rất thấp hoặc không có khả năng thu hồi vốn trực

tiếp. Do vậy, các thành phần kinh tế khác hầu như không muốn tham gia xây dựng

các công trình này. Nói cách khác, đây là các công trình được đầu tư xây dựng trong

các lĩnh vực mà các thành phần khác không được phép đầu tư (an ninh, quốc

phòng), không muốn đầu tư như xây dựng đê biển, đầu tư thuỷ lợi lớn, hoặc không

thể đầu tư như dự án Thuỷ điện Hoà Bình, Thuỷ điện Trị An, Thuỷ điện IALY,

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 16 Kinh tế TNTN và Môi trường

Thuỷ điện Sơn La, dự án Đường Hồ Chí Minh, khu công nghiệp khí điện đạm Cà

Mau, nhà máy lọc dầu Dung Quất,…là những dự án đòi hỏi phải có một lượng vốn

đầu tư rất lớn, song khả năng hoàn vốn lại rất khó xác định.

1.2.3. Dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả đầu tư

1.2.3.1. Dự án đầu tư xây dựng

Khác với các hoạt động đầu tư kinh tế, thương mại thông thường, đầu tư phát

triển là một loại hình hoạt động phức tạp có nhiều nét đặc thù, như: thời gian thi

công kéo dài, độ rủi ro lớn, vốn đầu tư lớn, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố (tự

nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội). Do vậy, hoạt động đầu tư phát triển thường được

thực hiện thông qua các dự án đầu tư xây dựng công trình.

Theo quy định tại Luật Xây dựng Việt Nam 2003 thì: dự án đầu tư xây dựng

công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở

rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì,

nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất

định. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm phần thuyết minh và phần thiết kế

cơ sở.

Từ định nghĩa trên cho thấy, yêu cầu của một dự án đầu tư xây dựng là phải

phản ảnh toàn diện các mặt của hoạt động đầu tư. Một dự án đầu tư xây dựng

thường có những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, cơ sở pháp lý của dự án đầu tư: nội dung này nhằm phản ảnh những

căn cứ cho phép để thực hiện dự án đầu tư, như sự phù hợp về pháp luật, về chủ

trương, quy hoạch ngành và lãnh thổ; tư cách pháp nhân, năng lực và khả năng tài

chính của chủ đầu tư, các quy định, chế độ khuyến khích, ưu đãi đầu tư.

Hai là, về mặt công nghệ kỹ thuật: nội dung này quy định các đề xuất về mặt

kỹ thuật, công nghệ để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm việc sử dụng công nghệ,

thiết bị, các tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật, vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên.

Ba là, về kinh tế tài chính: nội dung này quy định các vấn đề về thị trường,

quy mô đầu tư, thời gian đầu tư, thời gian hoạt động, khả năng đảm bảo các nguồn

vốn, cơ cấu chi phí và đặc biệt phản ảnh hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 17 Kinh tế TNTN và Môi trường

Bốn là, về tổ chức thực hiện, vận hành: nội dung này quy định các giải pháp

rất cụ thể để thực hiện dự án như khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào, đầu ra của

dự án, vấn đề tổ chức bộ máy điều hành, chuyển giao công nghệ.

- Phân loại dự án đầu tư:

Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư. Tuy nhiên, để phù hợp với đối tượng

nghiên cứu và những quy định hiện hành (theo Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày

10/2/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình) có thể phân

loại các dự án đầu tư thành các nhóm sau đây:

Thứ nhất, căn cứ vào quy mô (quy mô về vốn) và tính chất (tính chất quan

trọng), dự án đầu tư được phân thành: dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông

qua chủ trương và cho phép đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A,

B, C.

Thứ hai, theo nguồn vốn đầu tư dự án đầu tư xây dựng công trình được phân

thành:

+ Dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước;

+ Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước;

+ Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;

+ Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp

nhiều nguồn vốn.

Thứ ba, theo hình thức đầu tư: theo tiêu chí này, các dự án đầu tư có thể

được chia thành 2 nhóm:

+ Dự án đầu tư thuộc nguồn vốn trong nước: thuộc nhóm này là các dự án

được đầu tư bằng các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng nhà nước, tín dụng

thương mại, vốn đầu tư thuộc doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư thuộc khu vực

dân doanh.

+ Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài nước: thuộc nhóm này là các dự án

được đầu tư bằng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) hoặc ODA.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 18 Kinh tế TNTN và Môi trường

Do các dự án đầu tư thường có quy mô vốn lớn, nên theo xu thế hiện nay,

các dự án này được đầu tư bằng các nguồn vốn hỗn hợp: giữa vốn ngân sách Nhà

nước với vốn vay; giữa vốn trong nước với vốn ngoài nước…

Thứ tư, theo phương thức thực hiện đầu tư: các dự án đầu tư được thực hiện

bằng các hình thức như tự đầu tư, liên doanh; 100% vốn nước ngoài; BOT; BTO;

BT…

Thứ năm, theo lĩnh vực đầu tư: các dự án đầu tư có thể được chia thành dự án

đầu tư thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, văn hoá, y tế,

xã hội.

2.2.3.2. Hiệu quả đầu tư

1. Khái niệm về hiệu quả đầu tư

Không thể nói đến đầu tư mà không nói tới hiệu quả đầu tư vì hiệu quả đầu

tư là mục đích cuối cùng của đầu tư. Hiệu quả đầu tư được thể hiện trong mối quan

hệ giữa lợi ích thu được do đầu tư mang lại và chi phí bỏ ra để thực hiện đầu tư. Do

mục đích đầu tư khác nhau nên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu tư ở mỗi thời kỳ

phát triển và mỗi giai đoạn của quá trình đầu tư cũng khác nhau. Có hoạt động đầu

tư mang lại hiệu quả kinh tế (trồng cây thuốc phiện, phá rừng, nhà máy hoá chất xây

dựng ở khu vực đông dân cư) nhưng lại không mang lại hiệu quả xã hội. Có hoạt

động đầu tư tuy hiệu quả kinh tế thấp, hoặc không có hiệu quả kinh tế trước mắt

những lại có hiệu quả về mặt xã hội lâu dài (trồng rừng, xử lý rác thải công nghiệp,

xây dựng trường học, bệnh viện). Các doanh nghiệp thường đầu tư vào các dự án có

hiệu quả kinh tế, còn các dự án có hiệu quả xã hội thì Nhà nước phải đầu tư.

Đối với vốn ngân sách Nhà nước, mục đích đầu tư không chỉ vì lợi ích kinh

tế trước mắt mà là vì lợi ích kinh tế - xã hội lâu dài. Do đó đối tượng sử dụng vốn

ngân sách Nhà nước để đầu tư là những dự án mang lại lợi ích trực tiếp hoặc mang

lại lợi ích cho toàn xã hội, nhưng thông thường có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích

kinh tế và lợi ích xã hội. Điều đó cho ta một kết luận rằng, trong khi nguồn vốn

ngân sách Nhà nước hạn hẹp thì Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những dự án nào mà

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 19 Kinh tế TNTN và Môi trường

các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác không đầu tư (vì nó nghiêng về

hiệu quả xã hội), hoặc không đủ khả năng để đầu tư (vì vốn đầu tư lớn).

Mục tiêu của hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho nhà đầu

tư và cho nền kinh tế quốc dân cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Để nâng cao hiệu quả

kinh tế, xã hội, trong hoạt động đầu tư, cần coi trọng việc hoàn thiện các cơ chế

quản lý và sử dụng nói chung và cơ chế quản lý tài chính nói riêng ở các khâu của

quá trình đầu tư ở cả tầm vĩ mô và vi mô.

- Trên góc độ quản lý vĩ mô: để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần có chiến

lược đầu tư dài hạn đúng và ổn định. Trên cơ sở đó có quy hoạch hợp lý (quy hoạch

tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy

hoạch xây dựng) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của đất

nước. Căn cứ vào quy hoạch được phê duyệt để xác định bước đi phù hợp với mục

tiêu chiến lược để sắp xếp, bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án theo ngành và theo

vùng đảm bảo cân đối, hợp lý với khả năng vốn cho phép. Chất lượng và hiệu quả

các nội dung trên phụ thuộc nhiều vào việc xác định quyền hạn, trách nhiệm các

cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo

ra các quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư, cơ chế quản lý và điều hành hoạt

động đầu tư như: huy động vốn đầu tư; thẩm định và ra quyết định đầu tư; phê

duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán; phân cấp và kế hoạch; cơ chế giao thầu, giải

ngân và quyết toán đảm bảo thống nhất.

- Trên góc độ quản lý vi mô: hiệu quả hoạt động đầu tư được quyết định bởi

công tác quản lý cụ thể trong từng khâu quản lý và nghiệp vụ quản lý. Để nâng cao

hiệu quả hoạt động đầu tư ở cấp vi mô cần phân định r trách nhiệm (nhiệm vụ và

nội dung công việc, giới hạn công việc, trách nhiệm và quyền hạn) từng khâu công

tác. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý cụ thể cho từng khâu để thực hiện các

mục tiêu cụ thể, mối quan hệ phối kết hợp giữa các cá nhân, tập thể, tổ chức trong

quá trình điều hành và quản lý vốn đầu tư cũng như hoạt động đầu tư.

2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư

Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang

được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 20 Kinh tế TNTN và Môi trường

những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh

tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác

động tới tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công

nghệ,…) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân

tố quan trọng nhất.

Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư thường được biểu hiện dưới

dạng tỷ số so sánh giữa kết quả đầu tư (đầu ra) với chi phí đầu tư (đầu vào). Vì đầu

vào, đầu ra được đo lường bằng nhiều cách khác nhau nên cũng có nhiều chỉ tiêu

phản ánh hiệu quả đầu tư.

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế người ta thường sử

dụng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số vốn/sản lượng tăng

thêm).

+ Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác

định theo công thức:

(1.1)

Trong đó:

- K mức thay đổi vốn sản xuất, K = Kt – Kt-1

- Y là mức thay đổi về kết quả sản xuất và Y = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm

nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.

Hệ số ICOR có ý nghĩa là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì

cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả

thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ

chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm

nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR

thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có

xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết

quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói

riêng và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm

năng. Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 21 Kinh tế TNTN và Môi trường

Một là: xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định

được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ

kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong

xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.

Hai là: khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh

đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt

được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra.

Để đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của một dự án đầu tư người ta

thường sử dụng một số hệ thống các chỉ tiêu sau đây:

+ Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: là quãng thời gian cần thiết để các

khoản thu từ dự án đầu tư (khấu hao và lợi nhuận sau thuế) đủ để bù đắp vốn đầu tư

đã bỏ ra. Có thể gọi chỉ tiêu này là thời gian cần thiết để ngân sách tự chi trả cho

chính bản thân nó.

+ Chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn vay: là quãng thời gian cần thiết để các

khoản thu nhập từ dự án (lợi nhuận trước thuế và lãi vay, khấu hao tài sản cố định

đủ để trả nợ vay gồm gốc và lãi).

+ Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net Present Value): một trong những đặc

trưng của vốn đầu tư là có giá trị về mặt thời gian. Vốn đầu tư phải bỏ ra hôm nay

nhưng các khoản thu lại xảy ra trong tương lai. Do vậy, để đánh giá chính xác hiệu

quả kinh tế đầu tư, người ta thường đưa tất cả các khoản thu, chi gắn với một dự án

về cùng một thời điểm để so sánh. Thời điểm thường được chọn là thời điểm hiện

tại. Chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại của các

khoản chi gọi là giá trị hiện tại ròng. Chỉ tiêu này đo lường trực tiếp giá trị tăng

thêm do vốn đầu tư tạo ra có tính tới sự tác động về mặt thời gian của tiền vốn, do

vậy cho phép người ra quyết định đầu tư nhìn nhận hiệu quả đầu tư chính xác hơn.

Chỉ tiêu NPV được xác định theo công thức:

(1.2)

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 22 Kinh tế TNTN và Môi trường

Trong đó:

Bt – Thu nhập tăng thêm tại thời gian t (bao gồm doanh thu, vốn lưu động ở

cuối dự án).

Ct - Chi phí ở năm thứ t (bao gồm vốn đầu tư, chi phí vận hành không có

khấu hao cơ bản).

H – Giá trị thu hồi khi kết thúc dự án.

t - Thời gian tính dòng tiền

n - tổng thời gian thực hiện dự án

r - tỉ lệ chiết khấu (hay còn gọi là lãi suất chiết khấu)

Điều kiện phương án tốt nhất trong số các phương án là NPV = max

* Ưu nhược điểm của phương pháp tính NPV:

- Ưu điểm: có tính đến sự biến động của chỉ tiêu thời gian, tính toán cho cả

vòng đời của dự án, có tính đến giá trị tiền tệ theo thời gian, có thể tính đến nhân tố

trượt giá và lạm phát thông qua việc điều chỉnh các chỉ tiêu Bt, Ct và r, là xuất phát

điểm để tính nhiều chỉ tiêu khác.

- Nhược điểm: phương pháp dùng chỉ tiêu NPV chỉ chính xác trong thị

trường vốn hoàn hảo. Chỉ tiêu NPV phụ thuộc nhiều vào hệ số chiết khấu.

Hệ quả: Từ chỉ tiêu NPV có thể xác định thời hạn thu hồi vốn đầu tư theo kiểu

động.

+ Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR – Internal Rate of Return): tỷ suất doanh lợi

nội bộ hay còn gọi là tỷ suất hoàn vốn nội bộ, là một lãi suất đóng vai trò như một

tỷ lệ chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại

của các khoản chi. Chỉ tiêu cho phép ta so sánh giữa tỷ lệ sinh lời (đầu vào) với chi

phí sử dụng vốn bình quân dự án (đầu ra), thấy được mối liên hệ giữa việc huy động

vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

Chỉ tiêu IRR được xác định theo công thức:

(1.3)

Trong đó:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 23 Kinh tế TNTN và Môi trường

IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cận nội suy (%)

r1 < r2, NPV1 > NPV2

r1: Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV1 > 0 gần sát 0 nhất

r2: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV2 < 0 gần sát 0 nhất.

NPV: Giá trị hiện tại ròng

IRR cần tìm (ứng với NPV = 0) sẽ nằm giữa r1 và r2

+ Chỉ số sinh lời của vốn đầu tư: đây là một chỉ tiêu dựa vào giá trị thời gian

của tiền tệ để tính toán. Nó phản ánh một đồng giá trị hiện tại của vốn đầu tư tạo ra

mấy đồng giá trị hiện tại thu nhập thuần của dự án.

+ Phân tích độ nhạy của dự án: độ nhạy của dự án phản ánh sự biến động

của các yếu tố (vốn đầu tư, sản lượng tiêu thụ, giá cả một sản phẩm, giá thành một

sản phẩm,...) tới kết quả cuối cùng. Để xác định mức độ giao động của yếu tố nào

đó, ta cho yếu tố đó biến động còn các yếu tố khác cố định. Phân tích độ nhạy của

dự án cho biết giới hạn an toàn của dự án khi có sự biến động của các yếu tố đầu

vào và đầu ra, giúp nhà quản lý có những điều chỉnh cần thiết trong quá trình thực

hiện dự án.

+ Phân tích điểm hòa vốn: điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu bằng chi

phí. Xác định điểm hoà vốn cho biết cần sản xuất và tiêu thụ một sản lượng sản

phẩm là bao nhiêu để không bị lỗ vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn cho biết thời

gian hoà vốn, công suất hoà vốn, doanh thu hoà vốn của dự án. Dựa vào điểm hoà

vốn mà xác định được thời điểm hợp lý chấm dứt hoạt động của dự án, khối lượng

lợi nhuận đạt được cả đời dự án và còn là cơ sở để phân tích độ nhạy của dự án.

Các phương pháp đánh giá hiệu quả trên đây thường được áp dụng đối vối

dự án đầu tư có tính chất sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; còn đối với

các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thường được đánh giá bằng hiệu

quả xã hội, hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội (như dự án đó tạo bao nhiêu việc làm, nhờ

có dự án đó có bao nhiêu người dân được hưởng lợi…) thì khó đánh giá khi áp dụng

các phương pháp trên.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 24 Kinh tế TNTN và Môi trường

1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước

để chi cho đầu tư phát triển

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố

như: nhóm nhân tố về chính trị, kinh tế, xã hội; về thu nhập và tiết kiệm; về định

hướng chiến lược và quy hoạch phát triển; về thị trường vốn; về con người; về cơ

chế đầu tư. Việc nghiên cứu đầy đủ các nhân tố tác động đến quá trình này cho phép

các nhà hoạch định chính sách, các chủ đầu tư lựa chọn phương thức huy động và

sử dụng vốn tối ưu để đầu tư đạt mục tiêu và mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên,

cũng như đối với dự án đầu tư, dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách Nhà

nước luôn là sự lựa chọn khó khăn, phức tạp cho các chủ đầu tư và các nhà quản lý,

vì nó không chỉ đáp ứng những mục tiêu kinh tế đơn thuần mà phải đảm bảo lợi ích

của toàn xã hội. Nghĩa là ngoài hiệu quả kinh tế thì đầu tư công cộng phải đạt được

mục tiêu làm sao dự án tạo lợi ích cho người này và cũng tạo ra điều kiện tốt cho

người kia hoặc không làm phương hại đến lợi ích của người kia.

Một là, các nhân tố về kinh tế:

- Mức độ phát triển của nền kinh tế thị trường: đây là nhân tố tác động có

tính chất bao trùm đến cả công tác huy động và quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà

nước cho đầu tư phát triển; cụ thể:

+ Kinh tế phát triển mạnh làm cho quy mô GDP ngày càng lớn. Từ đó, tạo

khả năng nâng cao mức tích luỹ nội bộ của cả khu vực Nhà nước và khu vực phi

Nhà nước dành cho đầu tư. Sự phát triển các hoạt động của nền kinh tế đặt ra nhu

cầu tăng cường đầu tư vốn phát triển cho tương ứng để phục vụ tốt nhu cầu vận

chuyển, đi lại đặt ra. Như vậy, từ nhu cầu đầu tư kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm

và khai thác tích cực các nguồn vốn.

+ Kinh tế thị trường phát triển cũng có nghĩa là trong nền kinh tế sẽ có nhiều

thành phần kinh tế có thể cùng trực tiếp tham gia đầu tư và quản lý tốt hơn vốn đầu

tư phát triển.

- Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn với nhiều công cụ được sử dụng

linh hoạt thúc đẩy sự lưu chuyển nhanh của các luồng vốn, tạo điều kiện thuận lợi

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 25 Kinh tế TNTN và Môi trường

cho việc khai thác triệt để vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào nhiều lĩnh vực

nói chung và đầu tư phát triển nói riêng.

- Lợi ích kinh tế các nhà đầu tư được hưởng trong việc đầu tư vốn vào lĩnh

vực đầu tư phát triển như lãi suất cho vay để đầu tư, thu nhập từ việc đầu tư vốn

trực tiếp vào các dự án đầu tư xây dựng cơ bản càng lớn sẽ thúc đẩy các tổ chức, cá

nhân tích cực tiết kiệm, dành vốn đầu tư cho đầu tư xây dựng cơ bản.

- Các biện pháp quản lý sử dụng vốn đầu tư được xây dựng dựa trên cơ sở lợi

ích kinh tế sẽ có tác động mạnh đến việc thúc đẩy sử dụng vốn tiết kiệm, nâng cao

hiệu quả của đồng vốn đầu tư.

Hai là, các nhân tố về chính trị, luật pháp:

- Mức độ ổn định về chính trị và sự hoàn thiện của luật pháp. Tác động của

nhân tố này thể hiện:

+ Sự ổn định về chính trị, luật pháp tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm

bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực trong đó có đầu tư phát triển. Đối với các nhà đầu tư

nước ngoài là những đối tác có khả năng cung cấp số lượng vốn đầu tư lớn thì sự ổn

định về chính trị, luật pháp cùng với sự ưu đãi nhất định sẽ có tác động tích cực đến

việc huy động và sử dụng vốn thông qua các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT.

+ Nhờ có hệ thống luật pháp đồng bộ, hoàn chỉnh, tính pháp lý của các công

cụ huy động vốn trong nước cũng như quy chế đấu thầu, quy chế quản lý sử dụng

vốn đầu tư được nâng cao, tạo điều kiện tốt cho việc tổ chức thực hiện.

- Tính chất phân quyền, phân cấp quản lý của Nhà nước cũng có tác động

mạnh đến việc huy động, quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển. Hiện nay, với cơ

chế tăng tính tự chủ và phân cấp quản lý ngân sách cho các địa phương đã tạo điều

kiện cho ngân sách Trung ương tập trung đầu tư cho các dự án đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng trọng điểm. Đồng thời các địa phương cũng tích cực, chủ động hơn

trong việc khai thác nguồn thu, bố trí vốn đầu tư phát triển ở địa phương. Nhờ có sự

phân quyền, phân cấp r ràng đã tăng cường được tính trách nhiệm của các cơ quan,

đơn vị trong việc quản lý giám sát quá trình sử dụng vốn đầu tư.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 26 Kinh tế TNTN và Môi trường

Cơ chế đầu tư là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến quá trình

khai thác, phân bổ và sử dụng các nguồn lực để tạo nên sự tăng trưởng và phát triển

của một quốc gia, vùng, địa phương.

Cơ chế đầu tư của một quốc gia là một hệ thống đồng bộ các các công cụ

khuyến khích đầu tư như: công cụ về tài chính - tiền tệ, lao động, đất đai, cơ chế thu

hút nguồn nhân lực. Với phạm vi của Luận văn chỉ đề cập đến một số cơ chế chủ

yếu sau:

- Cơ chế tài chính - tiền tệ: trên phương diện tổng thể của nền kinh tế, huy

động và sử dụng vốn đầu tư là quá trình tổ chức khai thác và phân bổ các nguồn lực

tài chính cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Điều khiển quá trình

đó có vai trò rất to lớn của các cơ chế tài chính - tiền tệ. Trong đó:

+ Các sắc luật thuế, quy định tín dụng nhà nước và các quỹ hỗ trợ tài chính là

những công cụ tài chính mà nhà nước có thể sử dụng trực tiếp để khai thác và tập

trung các nguồn lực tài chính của xã hội. Qua đó duy trì tỷ lệ vốn đầu tư của khu

vực nhà nước ở mức cần và đủ sao cho thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế vĩ mô và

thúc đẩy quá trình tiết kiệm - đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và thu hút vốn đầu

tư từ nước ngoài.

+ Đồng thời, để đạt hiệu quả tổng thể cao về huy động và sử dụng vốn, đòi

hỏi nhà nước phải kết hợp sử dụng đồng bộ các công cụ tài chính vĩ mô (công cụ lãi

suất, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và tỷ giá) nhằm hỗ trợ cho quá trình

huy động vốn, sử dụng vốn. Trong quá trình vận hành, chúng không chỉ góp phần

nâng cao khả năng huy động vốn của các tổ chức tín dụng mà còn góp phần thực

hiện tiết kiệm cho đầu tư, kiểm soát lạm phát, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định

cho các khu vực kinh tế khai thác tối đa mọi nguồn lực tài chính đưa vào đầu tư

phát triển.

- Quy chế, quy trình quản lý sử dụng vốn đầu tư: đây là những quy định của

Nhà nước nhằm hướng dẫn, quản lý các dự án đầu tư của các chủ thể kinh tế trong

xã hội. Việc xây dựng và ban hành quy chế quản lý cả quá trình đầu tư, từ giai đoạn

chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc đầu tư cho tất cả các đối tượng đầu

tư, quy mô đầu tư đều phải thực hiện theo phương thức đầu tư nhất định.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 27 Kinh tế TNTN và Môi trường

Ba là, trình độ quản lý:

Trình độ của chủ thể quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô đều có ảnh hưởng đến

công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển, thể hiện:

- Ở tầm vĩ mô, sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan Trung

ương như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác sẽ tạo ra sự

thống nhất trong khâu hoạch định cơ chế và đưa ra các biện pháp thực hiện kế

hoạch huy động vốn đầu tư cho đầu tư phát triển. Đồng thời phân định r trách

nhiệm kiểm tra giữa các khâu trong quá trình sử dụng vốn, giảm thiểu được tình

trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.

- Ở tầm vi mô, trình độ quản lý của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án sẽ ảnh

hưởng trực tiếp đến việc sử dụng vốn tiết kiệm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho

từng dự án cụ thể. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA, trình độ quản lý thực thi dự

án có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ giải ngân, mức độ khai thác số vốn ODA đã

cam kết đưa vào đầu tư thực tế.

Con người với thể chất tốt và hàm lượng tri thức cao luôn đóng vai trò quan

trọng đối với sự phát triển kinh tế. Trong đó lực lượng cán bộ quản lý hành chính

nhà nước và cán bộ quản lý doanh nghiệp liên quan đến hoạt động đầu tư nói chung

và đầu tư phát triển nói riêng trong nền kinh tế tác động trực tiếp đến tình trạng (tốt

lên hoặc xấu đi) huy động, phân bổ và sử dụng vốn đầu tư cho quá trình phát triển

kinh tế. Bởi chính đội ngũ này là những người trực tiếp quyết định đến chất lượng

và hiệu quả của việc hoạch định chiến lược, lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch, đề

ra cơ chế quản lý đầu tư, điều tiết quá trình vận hành của thị trường vốn. Các nhân

tố này phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế tạo nên sự tăng trưởng và phát triển

cao sẽ trực tiếp tác động đến việc gia tăng thu nhập để nâng cao năng lực đầu tư của

nền kinh tế. Do vậy, đội ngũ này phải được đào tạo chuyên nghiệp, có chất lượng tri

thức, làm chủ kiến thức và đủ năng lực nghiêp cứu, tiếp thu, triển khai, ứng dụng

khoa học công nghệ mới vào lĩnh vực công tác của mình; nâng cao năng suất và

chất lượng công việc; có đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời phải có cơ chế đãi ngộ

thoả đáng để họ toàn tâm, toàn ý với công việc.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 28 Kinh tế TNTN và Môi trường

Bốn là, các nhân tố khác: nhận thức của các cấp, các ngành cũng như người

dân về vai trò quan trọng của các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội, ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý làm công tác huy động

và sử dụng vốn đầu tư, uy tín và quan hệ ngoại giao của Nhà nước, yêu cầu hội

nhập quốc tế là những nhân tố có tác động nhất định đến kết quả huy động và quản

lý sử dụng vốn đầu tư phát triển.

Kết luận chương 1

Quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân

sách Nhà nước là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành,

thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy

định các biện pháp cụ thể, cách thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp

nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định.

Nước ta đang trong quá trình phát triển, quy chế quản lý đầu tư đầu tư nói

chung và cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng

thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng có vai trò rất quan trọng góp phần

nâng cao hiệu quả quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát

triển của nền kinh tế. Do vậy, việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu

tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước

có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 29 Kinh tế TNTN và Môi trường

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

THUỘC VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.1. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1999 ĐẾN NAY

Trong thời gian kể từ năm 1999 đến nay, cơ chế quản lý và sử dụng vốn đầu

tư ở nước ta đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát

triển luôn luôn được cập nhật và đổi mới phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn

trong quản lý, phân định r chức năng, nhiệm vụ và nâng cao vai trò trách nhiệm

của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả

các nguồn vốn đầu tư.

2.1.1. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1999

- 2005

Từ khi có Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ về

việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng (Nghị định này được sửa đổi bổ

sung tại các Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và số 07/2003/NĐ-CP

ngày 30/01/2003 của Chính phủ), thì công tác quản lý đầu tư và xây dựng như được

bước sang một trang mới, đây là văn bản quy phạm pháp luật có tính đột phá trong

công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Các Nghị định này ra đời đã bãi bỏ và đơn

giản hoá nhiều thủ tục không cần thiết, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các

cơ quan quản lý hoạt động có hiệu quả hơn như cho phép các dự án nhóm A đã có

trong quy hoạch được duyệt hoặc đã có văn bản quyết định chủ chương đầu tư của

cấp có thẩm quyền thì không phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và lập ngay

báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với các dự án nhỏ, đơn giản chỉ cần lập Báo cáo đầu

tư thay cho Báo cáo nghiên cứu khả thi trước đây; nâng mức vốn phân loại nhóm dự

án theo hướng giảm các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính

phủ, tăng các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của cấp Bộ và địa phương.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 30 Kinh tế TNTN và Môi trường

Trong giai đoạn này, cơ chế đấu thầu cũng được sửa đổi và thay thế cho phù

hợp hơn với công tác quản lý đấu thầu ngày càng nhiều phức tạp. Ngày 01/9/1999,

Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Đấu

thầu, Nghị định này được sửa đổi bổ sung tại các Nghị định số 14/2000/NĐ-CP

ngày 05/5/2000 và số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ. Các Nghị

định này thay thế Quy chế Đấu thầu đã ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP

ngày 16/7/1996 và Nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997 của Chính phủ. Các Nghị

định này ra đời đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc trong quản lý đầu thầu trước

kia, góp phần đảm bảo được tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong quá

trình đấu thầu để lựa chọn được nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của

dự án.

Để tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác quản lý đầu tư và xây dựng, góp

phần cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển, hạn chế thất

thoát, tham nhũng, gây phiền hà và để phù hợp với lộ trình thực hiện hội nhập theo

cam kết của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt

Nam lần thứ X. Tại Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đã thông qua các Luật như Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 (có

hiệu lực từ ngày 01/7/2004), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có

hiệu lực từ ngày 01/7/2006), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có

hiệu lực từ ngày 01/4/2006) để điều chỉnh các hoạt động trong quản lý đầu tư và

xây dựng.

Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, Nghị định số

12/2000/NĐ-CP và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; Nghị định số 16/2005/NĐ-CP,

Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ vể sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP và hiện nay là Nghị định số

12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và

được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009, chúng ta

thấy Chính phủ nhất quán chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho các Bộ chủ quản, địa

phương và các Chủ đầu tư từ việc thẩm định đến phê duyệt dự án đầu tư. Đây là

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 31 Kinh tế TNTN và Môi trường

một chủ trương đúng, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án

đồng thời tăng cường trách nhiệm của cấp dưới đối với dự án đầu tư. Kết quả là các

cấp đã chủ động hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn. Tuy nhiên, không phải Bộ nào,

ngành nào, địa phương nào cũng phát huy được tính năng động tự chủ, tinh thần

trách nhiệm trong thẩm định và phê duyệt dự án, nhiều dự án vẫn được ra đời một

cách gượng ép khi chưa có đủ điều kiện chín muồi để rồi thực hiện nửa chừng phải

điều chỉnh dự án, hoặc lựa chọn công nghệ không phù hợp, không tiên tiến tạo nên

sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chất lượng công trình xây dựng kém, gây lãng phí.

2.1.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006

- 2011

Nhằm nhanh chóng đưa Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu vào đời

sống kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi

phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số

03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ (Nghị định này thay thế các quy

định về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình, về hợp đồng trong hoạt

động xây dựng tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về

Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số

112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006); Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009

và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về

quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (thay thế cho các Nghị định số

16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng

công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày

29/9/2006); Tiếp theo Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày

14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số

99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và

được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính

phủ). Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng dẫn thi hành Luật Đấu

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 32 Kinh tế TNTN và Môi trường

thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng (thay thế Nghị định số

58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008).

- Theo quy định tại Luật Xây dựng, Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày

10/2/2009 của Chính phủ và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-

CP ngày 15/10/2009 thì việc Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình được cụ thể

như sau:

Các dự án quan trọng quốc gia phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình

(hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi) để trình Quốc hội thông qua chủ

trương và cho phép đầu tư; Trường hợp dự án chưa có trong quy hoạch xây dựng thì

vị trí, quy mô xây dựng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận bằng văn

bản đối với các dự án nhóm A hoặc có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan

có thẩm quyền phê duyệt về quy hoạch đối với các dự án nhóm B, C.

Các công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo và các công trình xây dựng

mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao

gồm tiền sử dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch

ngành, quy hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu tư thấy cần thiết

và yêu cầu phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ cần lập Báo cáo kinh tế -

kỹ thuật xây dựng công trình để trình người quyết định đầu tư phê duyệt.

Đối với các dự án còn lại thì phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay

còn gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi).

Những quy định mới trong Nghị định này là ở chỗ việc thẩm định dự án và

thẩm định thiết kế cơ sở được tiến hành đồng thời. Những phần việc tiếp theo của

dự án như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự

toán được phân cấp cho chủ đầu tư. Với những quy định mới này vai trò và năng

lực của chủ đầu tư và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình hết sức quan

trọng. Tư vấn có cách nhìn tổng quát trong lựa chọn sản phẩm, địa điểm xây dựng,

dây chuyền công nghệ thì sẽ có phương án chọn hợp lý cho giai đoạn trước mắt và

phù hợp với quy hoạch lâu dài. Mặt khác tư vấn có cách nhìn cụ thể sâu sắc trong

thiết kế tổng mặt bằng, giải pháp kết cấu, lựa chọn vật liệu thì sẽ đưa ra được

phương án khả thi phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế và lợi ích cho dự án. Chất

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 33 Kinh tế TNTN và Môi trường

lượng dự án xây dựng sẽ phụ thuộc nhiều vào phương án lựa chọn ban đầu trong

quá trình lập dự án đầu tư xây dựng công trình.

Hiện nay, trên cơ sở pháp lý là Luật Xây dựng, các Nghị định đã cụ thể hoá

khá r nhiệm vụ của bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Thiết kế cơ sở là

khái niệm mới, là một phần việc quan trọng trong bước lập dự án đầu tư xây dựng

công trình. Dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ được phê duyệt khi đã có thiết kế

cơ sở được cấp có thẩm quyền thẩm định. Để quản lý và tạo điều kiện thực hiện tốt

chất lượng công trình xây dựng trong quá trình thực hiện dự án thì trước hết trong

bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình phải làm r những quy định về nội dung

thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình, trách nhiệm này thuộc về chủ đầu tư

và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Như vậy, để có được hồ sơ dự án

đầu tư xây dựng công trình có chất lượng trước hết chúng ta cần có đội ngũ tư vấn

có chất lượng.

Vấn đề thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình cần phải được quan tâm

và đánh giá đúng mức. Các cơ quan, đơn vị thẩm định phải xác định được vai trò

trách nhiệm của mình và phải có đủ năng lực thẩm định. Sản phẩm thẩm định phải

đạt được tối ưu về kinh tế - kỹ thuật. Lâu nay các đơn vị thẩm định có tình trạng chỉ

thiên về kỹ thuật với xu hướng bảo toàn mà coi nhẹ tính kinh tế, nhất là các công

trình xây dựng. Việc thẩm định dự án đôi khi chưa đạt yêu cầu, còn hình thức, năng

lực thẩm định của một số hội đồng còn chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó cũng chưa có

chế tài trong quy định trách nhiệm thẩm định dự án. Lập dự án đầu tư xây dựng

công trình là bước khởi đầu của một dự án, nó mang nhiều ý nghĩa quan trọng đặc

biệt trong đó có chất lượng các công trình xây dựng.

- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tăng

cường phân cấp, giao trách nhiệm r ràng cho các Bộ, ngành, các địa phương, chủ

đầu tư. Ngày 13/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2007/NĐ-CP về

quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày

07/01/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP và

mới đây tiếp tục ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản

lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 34 Kinh tế TNTN và Môi trường

13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung

tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ), các Nghị định

này đã quy định cụ thể nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình:

+ Quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình phải bảo đảm mục tiêu,

hiệu quả dự án đầu tư xây dựng công trình và các yêu cầu khách quan của kinh tế

thị trường.

+ Quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình theo từng công trình, phù hợp

với các giai đoạn đầu tư xây dựng công trình, các bước thiết kế, loại nguồn vốn và

các quy định của Nhà nước.

+ Tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình phải được tính đúng, tính

đủ và phù hợp độ dài thời gian xây dựng công trình. Tổng mức đầu tư là chi phí tối

đa mà chủ đầu tư được phép sử dụng để đầu tư xây dựng công trình.

+ Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về chi phí đầu tư xây dựng công

trình thông qua việc ban hành, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định

về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.

+ Chủ đầu tư xây dựng công trình chịu trách nhiệm toàn diện về việc quản lý

chi phí đầu tư xây dựng công trình từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc xây

dựng đưa công trình vào khai thác, sử dụng.

Gần đây để hoàn thiện thêm về công tác quản lý hợp đồng trong hoạt động

xây dựng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 7/5/2010 về

hợp đồng trong hoạt động xây dựng (thay thế quy định về hợp đồng trong hoạt động

xây dựng nêu ở Chương 5 Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007), Nghị định

này cũng đã quy định r các nội dung liên quan đến việc tạm ứng, thanh toán vốn

theo từng loại hợp đồng xây dựng, quy định r thêm điều kiện để được tạm ứng vốn

và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý vốn tạm ứng và thu hồi vốn tạm

ứng như sau:

+ Việc tạm ứng hợp đồng được thực hiện ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực

và bên giao thầu đã nhận được bảo lãnh khoản tiền tạm ứng (nếu có).

+ Mức tạm ứng tối thiểu được quy định như sau: đối với hợp đồng tư vấn là

25% giá hợp đồng; đối với hợp đồng thi công xây dựng: Hợp đồng có giá trị dưới

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 35 Kinh tế TNTN và Môi trường

10 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 20% giá trị hợp đồng; hợp đồng có giá trị từ

10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 15% giá trị hợp đồng; hợp

đồng có giá trị trên 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá trị hợp đồng.

Đối với hợp đồng cung cấp thiết bị công nghệ, hợp đồng EPC, hợp đồng chìa khóa

trao tay và các loại hợp đồng xây dựng khác: mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá

trị hợp đồng.

+ Mức vốn tạm ứng tối đa là 50% giá hợp đồng, trường hợp đặc biệt thì phải

được người quyết định đầu tư cho phép. Tiền tạm ứng được bắt đầu thu hồi từ lần

thanh toán đầu tiên, mức thu hồi từng lần do hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng,

kết thúc thu hồi khi giá trị thanh toán đạt đến 80% giá hợp đồng.

+ Vốn tạm ứng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích phải được

thu hồi. Nghiêm cấm tạm ứng nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục

đích.

+ Đối với công việc giải phóng mặt bằng: Mức vốn tạm ứng theo tiến độ

thực hiện trong kế hoạch giải phóng mặt bằng. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp

phải bố trí đủ vốn cho công tác giải phóng mặt bằng.

- Về thanh toán và hồ sơ thanh toán: đối tượng thanh toán là theo từng loại

hình hợp đồng xây dựng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng đơn giản

hoá thủ tục hành chính.

Quy định r thời hạn thanh toán vốn đầu tư là kế hoạch vốn năm chỉ thanh

toán cho khối lượng được nghiệm thu đến ngày 31 tháng 12, thời hạn thanh toán

đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau.

2.1.3. Cơ chế quy định hiện nay về bộ máy, tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển

thuộc nguồn ngân sách Nhà nước

2.1.3.1. Bộ máy lập và giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển hàng năm:

Hiện nay tổ chức bộ máy thực hiện công tác xây dựng kế hoạch và ghi vốn

đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước do 2 cơ quan là Bộ Kế hoạch và

Đầu tư và Bộ Tài chính, trong đó cơ quan Kế hoạch và Đầu tư là đơn vị chủ trì.

Hàng năm, căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế theo Nghị quyết Quốc hội và chỉ

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 36 Kinh tế TNTN và Môi trường

đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân

sách Nhà nước hàng năm. Sau khi cân đối thu - chi ngân sách nhà nước, Bộ Tài

chính thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tổng nguồn vốn chi cho đầu tư phát

triển của năm xây dựng kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì báo cáo Thủ

tướng Chính phủ về đánh giá tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển của kế hoạch

năm trước, tổng hợp nhu cầu sử dụng vốn đầu tư phát triển của các bộ, ngành, địa

phương năm xây dựng kế hoạch, căn cứ vào khả năng cân đối tổng mức vốn đầu tư

phát triển; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế. Bộ Kế

hoạch và Đầu tư dự kiến kế hoạch vốn đầu tư phát triển trình Thủ tướng Chính phủ,

trình Quốc hội thông qua và tiến hành giao kế hoạch vốn cho các bộ, ngành, địa

phương.

- Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: sau khi Thủ tướng Chính

phủ giao kế hoạch, các Bộ phân bổ kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm

vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao

về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế;

mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước giao.

- Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập

phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế

hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy

định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn

trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng

của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều

hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.

2.1.3.1. Bộ máy, tổ chức lập, phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng:

- Sau khi được giao kế hoạch vốn các bộ, ngành, địa phương sẽ phân bổ vốn

cho từng dự án và giao nhiệm vụ cho từng chủ đầu tư. Chủ đầu tư xây dựng công

trình là người sở hữu vốn hoặc là người được giao nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn

để đầu tư xây dựng công trình, đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 37 Kinh tế TNTN và Môi trường

chủ đầu tư do người quyết định đầu tư quyết định trước khi lập dự án đầu tư, thông

thường chủ đầu tư cũng sẽ là đơn vị quản lý và sử dụng công trình.

- Người quyết định đầu tư sẽ quyết định hình thức quản lý dự án. Hiện nay

có các hình thức quản lý dự án sau:

+ Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án: trường hợp này thì chủ đầu tư thành lập

Ban Quản lý dự án để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý dự án. Ban Quản lý dự

án phải có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý dự án theo yêu cầu của chủ

đầu tư. Ban Quản lý dự án có thể thuê tư vấn quản lý, giám sát một số phần việc mà

Ban Quản lý dự án không đủ điều kiện, năng lực để thực hiện.

+ Chủ đầu tư thuê tư tổ chức tư vấn quản lý điều hành dự án: trường hợp này

thì tổ chức tư vấn đó phải có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý phù hợp với quy

mô, tính chất của dự án. Trách nhiệm, quyền hạn của tư vấn quản lý dự án được

thực hiện hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên.

- Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đầu tư và Ban Quản lý dự án trong trường

hợp chủ đầu tư thành lập Ban Quản lý dự án: Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa

công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và

tuân thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra và

chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Quản lý dự án.

- Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đầu tư và tư vấn quản lý dự án trong trường hợp

chủ đầu tư thuê tư vấn quản lý dự án: Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn từ

giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa công

trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và tuân

thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng

với tổ chức tư vấn quản lý dự án có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý để giúp

chủ đầu tư quản lý dự án. Chủ đầu tư có trách nhiệm kiểm tra, theo d i việc thực

hiện hợp đồng của tư vấn quản lý dự án.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 38 Kinh tế TNTN và Môi trường

2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.2.1. Cơ chế phân cấp, phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà

nước

Cơ chế phân cấp phân bổ vốn đầu tư phụ thuộc và chịu sự điều chỉnh của

Nhà nước về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội theo ngành và lãnh thổ sau khi thực

thi Luật Ngân sách Nhà nước (2002), cơ chế này phụ thuộc nhiều vào cơ chế phân

cấp quản lý Ngân sách Nhà nước. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước bao

gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương gắn với

chức năng về thẩm quyền quản lý của cấp có thẩm quyền theo ngành và lãnh thổ.

Tuy vậy, chi đầu tư phát triển mà đối tượng của nó là các dự án đầu tư xây dựng rất

đa dạng, phong phú cả về quy mô về hình thực, các cơ chế về phân cấp quản lý vốn

đầu tư cũng không hoàn toàn giống như cơ chế phân cấp quản lý vốn ngân sách Nhà

nước. Cơ chế phân cấp phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước

hiện nay bao gồm các nội dung sau:

2.2.1.1. Về nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư

Trên cơ sở tổng mức vốn được Quốc hội phê duyệt hàng năm (thường vào

trung tuần tháng 11 năm trước năm kế hoạch), Thủ tướng Chính phủ giao các bộ,

ngành phân bổ vốn cho các công trình dự án cụ thể. Việc phân bổ vốn cho các công

trình, dự án phải được thực hiện trên các nguyên tắc sau:

- Thực hiện đúng theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Vốn đầu tư

thuộc ngân sách Nhà nước chỉ bố trí cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.

- Các công trình dự án phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

của ngành đề ra.

- Các công trình, dự án được bố trí vốn phải nằm trong quy hoạch đã được

phê duyệt; có đủ các thủ tục đầu tư theo các quy định về quản lý đầu tư và xây

dựng.

- Bố trí vốn tập trung, bảo đảm hiệu quả đầu tư. Ưu tiên bố trí cho các dự án

quan trọng quốc gia và các dự án lớn khác, các công trình, dự án hoàn thành trong

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 39 Kinh tế TNTN và Môi trường

kỳ kế hoạch, vốn đối ứng cho các dự án ODA; không bố trí vốn cho các dự án khi

chưa xác định được r nguồn vốn.

- Phải dành đủ vốn để thanh toán các khoản nợ và ứng trước năm kế hoạch.

- Bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư

phát triển.

2.2.1.2. Về điều kiện phân bổ vốn cho dự án đầu tư

Hiện tại, các cơ quan có thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư phải căn cứ theo

từng dự án. Các dự án chỉ được bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm của Nhà nước

khi có đủ các điều kiện sau:

- Đối với các dự án chuẩn bị đầu tư: phải phù hợp với quy hoạch phát triển

ngành và lãnh thổ được duyệt theo thẩm quyền.

- Đối với các dự án thực hiện đầu tư: phải có quyết định đầu tư từ thời điểm

trước 31 tháng 10 năm trước năm kế hoạch.

- Đảm bảo thời gian từ khi khởi công đến khi hoàn thành các dự án nhóm B

không quá 5 năm, dự án nhóm C không quá 3 năm.

2.2.1.3. Thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư

- Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: các Bộ phân bổ kế hoạch

vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm

bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước,

vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước

và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.

- Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập

phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế

hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy

định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn

trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 40 Kinh tế TNTN và Môi trường

của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều

hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.

Sở Tài chính có trách nhiệm cùng với Sở Kế hoạch và Đầu tư dự kiến phân

bổ vốn đầu tư cho từng dự án do tỉnh quản lý trước khi báo cáo Ủy ban nhân dân

tỉnh quyết định. Phòng Tài chính kế hoạch huyện có trách nhiệm cùng với các cơ

quan chức năng của huyện tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện phân bổ vốn đầu

tư cho từng dự án do huyện quản lý.

Riêng đối với các dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn được để lại theo

Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và vốn bổ sung

có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương còn phải tuân thủ

các quy định về đối tượng đầu tư và mục tiêu sử dụng của từng nguồn vốn đầu tư.

2.2.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước liên quan

đến dự án đầu tư

2.2.2.1. Quyết định chủ trương đầu tư

Việc đầu tư xây dựng công trình phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng, bảo đảm an ninh, an

toàn xã hội và an toàn môi trường, phù hợp với các quy định của pháp luật về đất

đai và pháp luật khác có liên quan.

Đối với dự án do Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và dự án nhóm A

gồm nhiều dự án thành phần, nếu từng dự án thành phần có thể độc lập vận hành,

khai thác hoặc thực hiện theo phân kỳ đầu tư được ghi trong văn bản phê duyệt báo

cáo đầu tư thì mỗi dự án thành phần được quản lý, thực hiện như một dự án độc lập.

Để quyết định chủ trương đầu tư cho một dự án đầu tư quan trọng của Nhà

nước (công trình do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư), các chương trình hoặc

các dự án đầu tư, các dự án phát triển của mỗi thành phần kinh tế đều phải căn cứ

vào các quy hoạch phát triển. Các quy hoạch (dù là quy hoạch chung hay các quy

hoạch cụ thể) phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,

vùng lãnh thổ hoặc ngành.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 41 Kinh tế TNTN và Môi trường

Các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thường được xây dựng cho khoảng

thời gian từ 10 - 20 năm, được Đại hội Đảng toàn quốc hoặc do Đại hội Đảng bộ

các địa phương thông qua.

Các quy hoạch được sử dụng làm căn cứ quyết định chủ trương đầu tư bao

gồm: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành,

quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, sau đó là các quy hoạch chi tiết về xây

dựng, quản lý đất đai, quy hoạch trong khu công nghiệp, khu đô thị….

Tuy nhiên có một điều là, công tác quy hoạch của ta, tuy đã có chú ý hơn

trước, nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Vẫn còn nhiều ngành, địa

phương chưa có quy hoạch tổng thể, do đó, các dự án đầu tư không có căn cứ vững

chắc, thậm chí mới đầu tư được một thời gian ngắn đã phải thay đổi.

2.2.2.2. Hình thành và thực hiện dự án đầu tư

Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước kể cả các dự án thành

phần, Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng từ việc xác định chủ

trương đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự

toán, lựa chọn nhà thầu, thi công xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa

công trình vào khai thác sử dụng.

Một là, đối với cơ chế lập dự án đầu tư: chủ đầu tư có nhiệm vụ, quyền hạn

theo quy định của pháp luật về xây dựng kể từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện

dự án và nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng. Chủ đầu tư có

quyền thành lập ban quản lý dự án hoặc thuê tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư phải

chịu trách nhiệm toàn diện về những công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của

mình theo quy định của pháp luật, kể cả những công việc đã giao cho Ban quản lý

dự án hoặc nhà thầu tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư là người có trách nhiệm lập

hoặc thuê tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình (trong trường hợp thuê tư

vấn lập dự án đầu tư, chủ đầu tư vẫn là người chịu trách nhiệm báo cáo giải trình dự

án đầu tư trong bước thẩm định đánh giá dự án đầu tư).

Theo quy định hiện hành, việc lập dự án đầu tư được quy định như sau:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 42 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Các dự án phải lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình (Báo cáo nghiên cứu

tiền khả thi) là các dự án quan trọng quốc gia chủ đầu tư phải lập Báo cáo đầu tư

xây dựng công trình Quốc hội xem xét, quyết định về chủ trương đầu tư. Đối với

các dự án khác, chủ đầu tư không phải lập Báo cáo đầu tư.

- Các dự án chỉ phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình là:

các Công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo; các công trình xây dựng mới, cải

tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao gồm tiền sử

dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy

hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu tư thấy cần thiết và yêu cầu

phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình.

- Các dự án phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay còn gọi là Báo

cáo nghiên cứu khả thi) là các dự án đầu tư xây dựng công trình còn lại. Khi đầu tư

xây dựng công trình, chủ đầu tư phải tổ chức lập dự án đầu tư và trình người quyết

định đầu tư thẩm định, phê duyệt.

Hai là, đối với cơ chế thẩm định dự án đầu tư: song song với cơ chế lập dự

án đầu tư là cơ chế thẩm định dự án đầu tư. Đó là cơ chế quy định về trách nhiệm và

thẩm quyền mà chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn cơ quan có thẩm quyền về tổ chức

lập dự án đầu tư, thẩm định đánh giá dự án đầu tư và quyết định đầu tư.

Thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình

- Người quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức thẩm định dự án trước khi

phê duyệt. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị chuyên môn trực thuộc cấp quyết

định đầu tư. Đối với các dự án đã được phân cấp hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư

thì người được phân cấp hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức

thẩm định dự án.

- Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng Thẩm định nhà nước về các dự án

đầu tư để tổ chức thẩm định dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và dự

án khác nếu thấy cần thiết. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Chủ tịch Hội đồng

Thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư.

- Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước: Cơ quan cấp Bộ tổ chức

thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Đầu mối tổ chức thẩm định dự án là

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 43 Kinh tế TNTN và Môi trường

đơn vị chuyên môn trực thuộc người quyết định đầu tư; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ

chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu

mối tổ chức thẩm định dự án.

Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã tổ chức thẩm định dự án do mình quyết

định đầu tư. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị có chức năng quản lý kế hoạch

ngân sách trực thuộc người quyết định đầu tư.

Ba là, thẩm quyền quyết định đầu tư:

Không hoàn toàn giống như thẩm quyền quyết định dự toán Ngân sách Nhà

nước, thẩm quyền quyết định đầu tư hiện nay vẫn còn khác nhau. Ngày 10/02/2009,

sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2009/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung

tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 thì thẩm quyền phê duyệt dự án

đầu tư xây dựng công trình được quy định cụ thể và được mở rộng hơn.

- Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:

Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia theo

Nghị quyết của Quốc hội và các dự án quan trọng khác;

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan cấp Bộ quyết định đầu tư các dự án nhóm A,

B, C. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan cấp Bộ được uỷ quyền hoặc phân cấp quyết

định đầu tư đối với các dự án nhóm B, C cho cơ quan cấp dưới trực tiếp;

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp quyết định đầu tư các dự án nhóm A, B, C

trong phạm vi và khả năng cân đối ngân sách của địa phương sau khi thông qua Hội

đồng nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được uỷ

quyền hoặc phân cấp quyết định đầu tư đối với các dự án nhóm B, C cho cơ quan

cấp dưới trực tiếp.

2.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LIÊN QUAN ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÂN BỔ

VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.3.1. Cơ chế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X về kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010, với việc triển khai

thực hiện khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển (trong

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 44 Kinh tế TNTN và Môi trường

đó có đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước) như trên, Đảng và Nhà nước

ta đã cụ thể hoá vào các Nghị quyết, hệ thống luật pháp như: ổn định chính trị, xã

hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế được mở rộng, ổn định môi trường kinh

tế vĩ mô, cải cách hành chính trong mọi lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, tạo

môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài; bước đầu đã hình thành và phát

triển thị trường vốn, đó là hệ thống các ngân hàng đầu tư và thương mại, các công

ty tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư đã giúp cho nền kinh tế nước ta duy

trì tốc độ tăng trưởng khá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới thời gian qua gặp

nhiều khó khăn, GDP của nước ta giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 7,5%/năm và

giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 7%/năm. Cụ thể:

- Trong cơ cấu tổng nguồn vốn đầu tư xã hội, thời gian vừa qua, có sự tham

gia của rất nhiều các nguồn vốn khác nhau mà trong đó nguồn vốn đầu tư từ ngân

sách Nhà nước chỉ là một phần trong số đó. Nói cách khác, việc đa dạng hoá trong

khai thác và huy động vốn đầu tư, đầu tư xây dựng cơ bản đã được vận dụng trong

thực tiễn hoạt động khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn trong nền kinh tế

cùng tham gia đầu tư xây dựng cơ bản.

- Nhờ huy động tốt các nguồn lực, khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh, cho

phép dành được một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư vào một số công trình chủ

yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương; chi đầu tư chuyển đổi

mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng

ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chi chuyển đổi cơ

cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; chi đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết

bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp; đã và đang đầu tư nhiều cơ cở

sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông - vận tải, viễn thông,

thuỷ lợi, công nghiệp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường,

giảm nhẹ thiên tai…

Bên cạnh đó, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đã được tập trung chi đầu tư

cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường, y tế, các

chương trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 45 Kinh tế TNTN và Môi trường

kinh tế, xã hội các tỉnh Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long,

các tỉnh còn khó khăn, các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt.

- Tính chung trong 11 năm (2001 - 2011), tổng chi vốn đầu tư phát triển toàn

xã hội đã thực hiện được khoảng 4.336,5 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 41,6% GDP

của cả thời kỳ. Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

toàn cầu, nhưng giai đoạn 2006 - 2010 vẫn huy động được một khối lượng khá lớn

vốn đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước 5 năm 2006 - 2010

huy động đạt khoảng 3.092,6 nghìn tỷ đồng, gấp khoảng 2,5 lần so với giai đoạn

2001 – 2005 và tăng 15,5% so với kế hoạch đề ra, đạt 42,7% GDP, trong đó: vốn

đầu tư từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2020 ước thực hiện 657,1 nghìn tỷ

đồng, vốn trái phiếu Chính phủ ước đạt khoảng 169,2 nghìn tỷ đồng. Trong thời

gian vừa qua, chúng ta đã phát huy tốt nguồn lực cho đầu tư phát triển; tổng vốn chi

cho đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá nhanh, bình quân giai đoạn 2001-2005 so

với GDP đạt 39,1%, giai đoạn 2006-2010 đạt 42,7% GDP và năm 2011 đạt 42%

GDP. Riêng đối với vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước về số tuyệt đối lại tăng lên

đáng kể (tổng giai đoạn 2001-2005 là 285,3 nghìn tỷ đồng, giai đoạn 2006-2010 là

657,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3 lần so với giai đoạn 2001-2005 và năm 2011 thì số

vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là 180 nghìn tỷ đồng); tuy nhiên, nguồn vốn này

cũng có sự giảm đi về số tương đối (từ 22,9% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn

2001-2005 xuống còn khoảng 21,2% giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2011 thì

giảm xuống còn 20,5%); điều này chứng tỏ do môi trường đầu tư thuận lợi nên các

thành phần kinh tế trong xã hội đã tham gia đầu tư mạnh mẽ, vốn ngân sách Nhà

nước đã làm được vai trò là “vốn mồi” cho nền kinh tế.

Kết quả của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội nói chung và chi vốn

đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng trong giai đoạn 2001-2011 là rất

tích cực, nhờ thu hút được một khối lượng lớn các nguồn vốn đầu tư phát triển, hệ

thống kết cấu hạ tầng đã được cải thiện đáng kể, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng,

đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân (Chi tiết xem bảng 2.1).

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 46 Kinh tế TNTN và Môi trường

Bảng 2.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 và 2006-2011

Thực hiện giai đoạn 2006 – 2010

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Số TT

Thực hiện 2001-2005

Năm 2011

Tổng số

2006

2007

2009

2010

Chia ra 2008

Nghìn tỷ đồng

I

Tổng sản phẩm nội địa (GDP)

3.183,7

7.242,3

974,3

1.143,7

1.485,0

1.658,4

1.980,9

2.097,6

Nghìn tỷ đồng

II Vốn ĐTPT toàn xã hội

1.243,9

3.092,6

404,6

532,2

616,7

708,8

830,3

880,0

% so với GDP

%

39,1

42,7

41,5

46,5

41,5

42,7

41,9

42,0

Nghìn tỷ đồng

1 Vốn đầu tư thuộc NSNN

285,3

657,1

88,3

104,3

119,5

172,0

173,0

180,0

So với tổng số

%

22,9

21,2

21,8

19,6

19,4

24,3

20,8

20,5

Nghìn tỷ đồng

2 Vốn trái phiếu Chính phủ

19,5

169,2

10,3

16,7

26,9

52,9

62,4

45,0

So với tổng số

%

1,6

5,5

2,5

3,1

4,4

7,5

7,5

5,1

Nghìn tỷ đồng

3 Vốn tín dụng đầu tư

174,2

199,0

34,9

35,1

35,0

42,0

52,0

50,0

So với tổng số

%

14,0

6,4

8,6

6,6

5,7

5,9

6,3

5,7

Nghìn tỷ đồng

4 Vốn đầu tư của DNNN

185,2

313,8

58,1

61,2

53,8

62,3

78,4

82,0

So với tổng số

%

14,9

10,1

14,4

11,5

8,7

8,8

9,4

9,3

Nghìn tỷ đồng

5 Vốn ĐT của dân cư và tư nhân

403,7

1.115,3

154,0

204,7

217,0

240,1

299,5

349,0

So với tổng số

%

32,5

36,1

38,1

38,5

35,2

33,9

36,1

39,7

6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghìn tỷ đồng

176,0

608,7

59,0

103,7

157,5

132,5

156,0

165,0

So với tổng số

%

14,1

19,7

14,6

19,5

25,5

18,7

18,8

18,8

Nghìn tỷ đồng

7 Vốn đầu tư khác

0,0

29,5

0,0

6,5

7,0

7,0

9,0

9,0

1,0

So với tổng số

1,0

0,0

1,2

1,1

1,0

1,1

%

0,0 Nguồn: Báo cáo thực hiện kế hoạch vốn đầu tư phát triển 5 năm 2006-2010 và kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015 của Bộ KH và ĐT.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 47 Kinh tế TNTN và Môi trường

2.3.2. Tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước

Các cơ chế về phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư

phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng đều phải xuất phát từ yêu cầu của chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020.

Để thực hiện có hiệu quả các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo xu hướng công

nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế r rệt

để đến năm 2015 tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 41% - 42%

GDP; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 17% - 18% GDP; ngành dịch vụ chiếm

40% - 42% GDP.

Cơ cấu chi đầu tư vào các ngành và lĩnh vực như sau:

Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính

phủ dành cho chi đầu tư phát triển của nền kinh tế trong 5 năm 2006 - 2010, đạt

khoảng 826 nghìn tỷ đồng, năm 2011 là 225 nghìn tỷ đồng.

Cơ cấu chi đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung cho

những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời quan tâm đầu tư

nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo. Chi đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 57,5%

tổng mức vốn đầu tư 5 năm 2006 - 2010, trong đó: ngành nông nghiệp, lâm nghiệp

và thuỷ sản 20,9%, giao thông vận tải 28,1%, thông tin và truyền thông 1,1%; Lĩnh

vực xã hội chiếm 39,4%, trong đó: cấp nước và xử lý rác thải, nước thải 3,1%, khoa

học công nghệ và công nghệ thông tin 2,5%, tài nguyên và môi trường 1,5%, giáo

dục - đào tạo 14,7%, y tế 6%, xã hội 2,6%, văn hoá 2%, thể thao 0,8%, quản lý nhà

nước 6,1%; Lĩnh vực quốc phòng 2,4% và lĩnh vực an ninh 0,7%.

Qua đó, chúng ta thấy vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính

phủ trong thời gian qua đã tập trung chi cho các ngành trọng điểm phục vụ cho các

mục tiêu công như: nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, giao thông vận tải, giáo dục và

đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thể thao, khoa học và công nghệ.

Giao thông vận tải: tiếp tục duy trì tổng chi đầu tư cho ngành giao thông vận

tải ở mức 28,1% vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu

Chính phủ. Đã tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng,

hạ tầng giao thông nông thôn, đặc biệt ở vùng núi, biên giới, Tây Nguyên. Đã hoàn

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 48 Kinh tế TNTN và Môi trường

thành một số đoạn đường quan trọng trên các trục quốc lộ như dự án đường Hồ Chí

Minh giai đoạn I, đường cao tốc Long Thành - Dầu Giây, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh

Tuy, cầu Cần Thơ, các dự án đường tuần tra biên giới…, đồng thời đang triển khai

đầu tư một số dự án lớn như: đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lào Cai,

Cầu Giẽ - Ninh Bình, cảng Cái Mép – Thị Vải, nhà ga T2 Nội Bài...

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: chi đầu tư giai đoạn 2006-2010 được duy trì ở

mức từ 20,2%-21,5% vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiếu

Chính phủ. Tính chung trong giai đoạn 2006-2010, tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực

này ước đạt 172,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,9%; riêng năm 2011 vốn đầu tư vào lĩnh

vực này đạt 48,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,5% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân

sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Trong giai đoạn này đã thực hiện đầu tư

xây dựng một số dự án lớn thuộc lĩnh vực thủy lợi như Hồ chứa nước Cửa Đạt,

Krông Buk Hạ, Nước Trong, Định Bình, Sông Ray. Kết quả về kinh tế là mặc dù

chịu nhiều thiên tai trong những năm vừa qua, giá trị sản xuất ngành, nông, lâm

nghiệp và thủy sản luôn đạt ở mức cao, bình quân năm năm tăng 4,7%, vượt mục

tiêu đề ra là 4,5%.

Đầu tư vào lĩnh vực xã hội: tỷ lệ chi đầu tư trong giai đoạn 2006-2010 đạt

khoảng 325,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,4% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân

sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ, trong đó tập trung chủ yểu vào một số lĩnh

vực sau:

Giáo dục - đào tạo: tổng chi đầu tư cho ngành giáo dục và đào tạo giai đoạn

2006-2010 đạt khoảng 121,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư phát triển

nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Huy động nhiều nguồn lực

thuộc các thành phần kinh tế tham gia, tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho lĩnh

vực giáo dục. Tập trung đầu tư các dự án lớn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cho

các trường đại học trọng điểm. Tăng đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào

dân tộc, đồng bằng sông Cửu Long.

Khoa học và công nghệ: đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

cho các cơ sở khoa học và công nghệ, hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và

khu công nghệ cao.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 49 Kinh tế TNTN và Môi trường

Y tế: trong các năm qua, Nhà nước đã chú ý nâng cấp đầu tư các cơ sở y tế

nói chung và hệ thống khám chữa bệnh nói riêng, đặc biệt là các bệnh viện y tế

chuyên sâu. Chú trọng đầu tư cả về cơ sở vật chất và trang thiết bị cho hệ thống y tế

tuyến tỉnh, huyện và y tế cơ sở. Triển khai một số dự án trung tâm y tế vùng. Đầu tư

nâng cấp hệ thống trung tâm y tế tuyến huyện.

Quốc phòng - an ninh: Việc đầu tư cho lĩnh vực an ninh - quốc phòng được

quan tâm, tập trung bố trí vốn năm sau cao hơn năm trước. Nhằm giữ vững độc lập

chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị.

Việc bố trí hợp lý chi vốn đầu tư của toàn xã hội nói chung, chi vốn đầu tư

phát triển từ ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ nói riêng theo cơ cấu

ngành kinh tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cạnh tranh và xuất khẩu chung

của nền kinh tế. Tình hình cơ cấu chi vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước

theo ngành kinh tế trong giai đoạn 2006 – 2011 thể hiện trong Bảng 2.2.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 50 Kinh tế TNTN và Môi trường

Bảng 2.2. Vốn đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và Trái phiếu Chính phủ theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 2006-2011

Giai đoạn 2006 – 2010

Chia ra

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Số TT

Năm 2011

Tổng số

2006

2007

2008

2009

2010

TỔNG SỐ

121,0

146,3

224,9

235,3

225,0

826,0

98,6

Nghìn tỷ đồng

Nghìn tỷ đồng

I

Lĩnh vực kinh tế

128,4

133,2

125,8

73,2

85,1

474,6

54,8

So với tổng số

56,6

55,9

60,5

58,2

57,1

57,5

55,6

%

Nghìn tỷ đồng

1

Công nghiệp

13,4

13,6

12,6

9,4

9,7

53,5

4,5

So với tổng số

11,1

9,3

5,6

4,0

4,3

6,5

4,5

%

Nghìn tỷ đồng

2

Nông, lâm nghiệp và thủy sản

24,8

29,5

47,2

50,1

48,4

172,7

21,2

So với tổng số

20,5

20,2

21,0

21,3

21,5

20,9

21,5

%

Nghìn tỷ đồng

3

Giao thông vận tải

32,7

39,1

64,1

69,2

63,7

232,3

27,2

So với tổng số

27,0

26,7

28,5

29,4

28,3

28,1

27,6

%

Nghìn tỷ đồng

4

Thông tin và truyền thông

1,4

1,6

2,5

2,5

2,3

9,1

1,2

So với tổng số

1,1

1,1

1,1

1,1

1,0

1,1

1,2

%

Nghìn tỷ đồng

5

Thương mại, kho tàng và du lịch

0,9

1,3

1,9

2,0

1,8

6,9

0,8

So với tổng số

0,8

0,9

0,9

0,8

0,8

0,8

0,8

%

Nghìn tỷ đồng

II Lĩnh vực xã hội

43,8

56,4

89,9

95,0

92,0

325,5

40,3

So với tổng số

36,2

38,5

40,0

40,4

40,9

39,4

40,9

%

Nghìn tỷ đồng

1

4,2

4,6

6,8

6,7

6,8

26,0

3,7

Cấp nước và xử lý rác thải, nước thải

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 51 Kinh tế TNTN và Môi trường

So với tổng số

%

3,1

3,7

3,5

3,2

3,0

2,9

3,0

Nghìn tỷ đồng

Khoa học, công nghệ và công nghệ thông tin

2

20,4

2,6

3,0

3,4

5,6

5,8

6,3

So với tổng số

%

2,5

2,7

2,5

2,3

2,5

2,5

2,8

Nghìn tỷ đồng

Tài nguyên và môi trường

3

12,8

1,7

2,0

2,2

3,4

3,6

3,8

So với tổng số

%

1,5

1,7

1,7

1,5

1,5

1,5

1,7

Nghìn tỷ đồng

Giáo dục và đào tạo

4

121,5

14,0

15,3

20,7

34,1

37,4

35,6

So với tổng số

%

14,7

14,2

12,7

14,1

15,1

15,9

15,8

Nghìn tỷ đồng

Y tế

5

49,4

4,6

5,2

9,4

14,6

15,6

13,7

So với tổng số

%

6,0

4,7

4,3

6,4

6,5

6,6

6,1

Nghìn tỷ đồng

Xã hội

6

21,5

2,8

3,2

3,7

5,7

6,1

6,3

So với tổng số

%

2,6

2,9

2,7

2,5

2,5

2,6

2,8

Nghìn tỷ đồng

Văn hóa

7

16,7

2,2

2,5

3,0

4,4

4,5

4,3

So với tổng số

%

2,0

2,2

2,0

2,1

2,0

1,9

1,9

Nghìn tỷ đồng

Thể thao

8

6,4

0,8

0,9

1,2

1,8

1,8

1,8

So với tổng số

%

0,8

0,8

0,7

0,8

0,8

0,7

0,8

Nghìn tỷ đồng

9

Quản lý nhà nước

50,7

7,9

7,5

8,1

13,6

13,6

13,5

So với tổng số

%

6,1

8,0

6,2

5,6

6,1

5,8

6,0

Nghìn tỷ đồng

III Quốc phòng

19,8

2,7

3,0

3,7

5,0

5,3

5,4

So với tổng số

%

2,4

2,7

2,5

2,5

2,2

2,3

2,4

Nghìn tỷ đồng

IV An ninh

6,2

0,8

0,9

1,1

1,5

1,8

1,8

0,8

So với tổng số

0,7

0,8

0,8

0,8

0,7

%

0,8 Nguồn: Báo cáo thực hiện kế hoạch vốn đầu tư phát triển 5 năm 2006-2010 và dự kiến giai đoạn 2011-2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 52 Kinh tế TNTN và Môi trường

2.4. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ

PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN

VỪA QUA

2.4.1. Một số kết quả hoạt động đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trong thời

gian qua

Thứ nhất, về cơ chế, chính sách:

- Quốc hội đã thông qua được các văn bản Luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho

hoạt động đầu tư xây dựng nói chung và cho chi đầu tư phát triển nói riêng; cụ thể

tại Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua các

Luật như Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 (có hiệu lực từ ngày

01/7/2004), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có hiệu lực từ ngày

01/7/2006), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có hiệu lực từ ngày

01/4/2006), Luật số 38/2009/QH12 ngày 19/6/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều

của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản để điều chỉnh các hoạt động

trong quản lý đầu tư và xây dựng.

- Để triển khai các Luật nêu trên, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định

hướng dẫn cụ thể cho các tổ chức, cá nhân thực hiện, đưa việc thực hiện các Luật

Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu vào đời sống kinh tế xã hội của đất nước,

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 về quản lý dự

án đầu tư xây dựng công trình (thay thế cho các Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày

07/02/2005 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được

sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006) và được sửa

đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009; Nghị định số

108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi

phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số

03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ (Nghị định này thay thế các quy

định về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình, về hợp đồng trong hoạt

động xây dựng tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về

Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 53 Kinh tế TNTN và Môi trường

112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006), Tiếp theo Chính phủ đã ban hành Nghị định số

112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình

(thay thế các quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình quy định tại

Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng

công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày

07/01/2008 của Chính phủ); Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng

dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng

(Nghị định này thay thế Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008). Nghị định

số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tưu theo hình thức Hợp

đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao -

Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (thay thế Nghị định số

78/2007/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức

Hợp đồng BOT, Hợp đồng BTO và Hợp đồng BT). Nghị định số 48/NĐ-CP ngày

7/5/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng (thay thế các quy

định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày

13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình).

Thứ hai, việc quy định các thủ tục đầu tư được r ràng và đơn giản hơn:

Theo quy định tại Luật Xây dựng và Nghị định số 12/2009/NĐ-CP của

Chính phủ thì việc Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình được cụ thể như sau:

Các dự án quan trọng quốc gia phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình

(hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi) để trình Quốc hội thông qua chủ

trương và cho phép đầu tư; các công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo và các

công trình xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ

đồng (không bao gồm tiền sử dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế -

xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu

tư thấy cần thiết và yêu cầu phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ cần lập

Báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình để trình người quyết định đầu tư phê

duyệt; các dự án đầu tư còn lại thì phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay

còn gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi).

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 54 Kinh tế TNTN và Môi trường

Những quy định mới trong Nghị định này là ở chỗ việc thẩm định dự án và

thẩm định thiết kế cơ sở được tiến hành đồng thời. Những phần việc tiếp theo của

dự án như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự

toán được phân cấp cho chủ đầu tư. Với những quy định mới này vai trò và năng

lực của chủ đầu tư và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình hết sức quan

trọng.

Thứ ba, đã quy định r trách nhiệm của các cấp trong thẩm quyền quyết định

phê duyệt dự án đầu tư:

Tại Nghị định số 12/2009/NĐ-CP, chúng ta thấy Chính phủ chủ trương đẩy

mạnh phân cấp cho các Bộ chủ quản, địa phương và các Chủ đầu tư từ việc thẩm

định đến phê duyệt dự án đầu tư. Đây là một chủ trương đúng, tạo điều kiện thuận

lợi đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đồng thời tăng cường trách nhiệm của cấp

dưới đối với dự án đầu tư. Kết quả là các cấp đã chủ động hơn, có tinh thần trách

nhiệm hơn. Ngoài ra, Nghị định số 12/2009/NĐ-CP đã có những quy định khá r về

nội dung trình tự lập, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình.

Thứ tư, về quản lý chi phí xây dựng:

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về

quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số 99/2007/NĐ-CP

ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ

sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ); Nghị định

này đã quy định cụ thể nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình theo

hướng phân giao nhiệm vụ, quyền hạn cho chủ đầu tư; chủ đầu tư là nguời quyết

định chi phí công trình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình;

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý chi phí thông qua việc ban hành, hướng dẫn

và kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý chi phí.

Thứ 5, về công tác quản lý trong hoạt động hợp đồng xây dựng:

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 7/5/2010 về hợp đồng

trong hoạt động xây dựng (thay thế các quy định về hợp đồng trong hoạt động xây

dựng của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 55 Kinh tế TNTN và Môi trường

xây dựng công trình). Nghị định này cũng đã quy định r các nội dung liên quan

đến việc tạm ứng, thanh toán các dự án đầu tư, cụ thể:

- Về tạm ứng vốn và thu hồi vốn tạm ứng: quy định r thêm điều kiện để

được tạm ứng vốn và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý vốn tạm ứng và

thu hồi vốn tạm ứng như sau:

+ Việc tạm ứng hợp đồng được thực hiện ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực

và bên giao thầu đã nhận được bảo lãnh khoản tiền tạm ứng (nếu có).

+ Mức tạm ứng tối thiểu được quy định như sau: đối với hợp đồng tư vấn là

25% giá hợp đồng; đối với hợp đồng thi công xây dựng: Hợp đồng có giá trị dưới

10 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 20% giá trị hợp đồng; hợp đồng có giá trị từ

10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 15% giá trị hợp đồng; hợp

đồng có giá trị trên 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá trị hợp đồng.

Đối với hợp đồng cung cấp thiết bị công nghệ, hợp đồng EPC, hợp đồng chìa khóa

trao tay và các loại hợp đồng xây dựng khác: mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá

trị hợp đồng.

+ Mức vốn tạm ứng tối đa là 50% giá hợp đồng, trường hợp đặc biệt thì phải

được người quyết định đầu tư cho phép. Tiền tạm ứng được bắt đầu thu hồi từ lần

thanh toán đầu tiên, mức thu hồi từng lần do hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng,

kết thúc thu hồi khi giá trị thanh toán đạt đến 80% giá hợp đồng.

+ Vốn tạm ứng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích phải được

thu hồi. Nghiêm cấm tạm ứng nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục

đích.

+ Đối với công việc giải phóng mặt bằng: Mức vốn tạm ứng theo tiến độ

thực hiện trong kế hoạch giải phóng mặt bằng. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp

phải bố trí đủ vốn cho công tác giải phóng mặt bằng.

- Về thanh toán và hồ sơ thanh toán: đối tượng thanh toán là theo từng loại

hình hợp đồng xây dựng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng đơn giản

hoá thủ tục hành chính.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 56 Kinh tế TNTN và Môi trường

Quy định r thời hạn thanh toán vốn đầu tư là kế hoạch vốn năm chỉ thanh

toán cho khối lượng được nghiệm thu đến ngày 31 tháng 12, thời hạn thanh toán

đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau.

Thứ 6, huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Những kết quả đổi mới cơ chế chính sách và cải thiện môi trường

đầu tư đã tạo điều kiện để huy động được một khối lượng vốn lớn phục vụ cho đầu

tư phát triển kinh tế đất nước. Đáng chú ý trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và

suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt

mức khá cao. Bình quân 5 năm huy động vốn đầu tư toàn xã hội đạt 42,7% GDP,

vượt kế hoạch đề ra. Nguồn vốn ODA cam kết năm sau cao hơn năm trước, giải

ngân vượt mức kế hoạch.

Với việc mở rộng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế trên cơ sở có sự tham

gia của mọi thành phần, ngân sách Nhà nước đã thu hẹp phạm vi bao cấp, chỉ tập

trung vào những lĩnh vực cụ thể; do vậy, xét chung trong toàn xã hội hiệu quả của

đồng vốn đã tăng lên đáng kể. Kết quả của hoạt động đầu tư của nền kinh tế nói

chung và hoạt động chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng là

hàng loạt công trình quan trọng của nền kinh tế được hoàn thành đưa vào sử dụng

và nhanh chóng phát huy tác dụng, góp phần tăng năng lực sản xuất của nhiều

ngành kinh tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, ngành như Nhà

máy thuỷ điện Trị An có công suất là 400 MW, Nhà máy thủy điện Ialy có công

suất 720 MW, Sê San 3 có công suất 260 MW, PleiKrông có công suất 100 MW, Sê

San 3A có công suất 108 MW, Sê San 4 có công suất 360 MW, Thượng Kon Tum

có công suất 220 MW, Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ có công suất 1.655 MW, Nhà

máy nhiệt điện Ninh Bình có công suất 100 MW, đường dây tải điện 500 KV với

1.487 km dài, đường ống dẫn khí Bạch Hổ - Thủ Đức 1,5 tỷ m3/năm.

Bên cạnh đó, hệ thống thủy lợi khá hoàn chỉnh phục vụ ngày càng tốt hơn sự

phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung đã và đang

được hình thành. Các dự án thủy lợi lớn như Đại Ninh, Thạch Nham, Dầu Tiếng,

Sông Quao, Yazun Hạ, Cửa Đạt, Krông Buk Hạ, các công trình thủy lợi đồng bằng

sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng đã tạo điều kiện khai hoang tăng vụ, tăng

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 57 Kinh tế TNTN và Môi trường

năng suất. Các công trình thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên đã góp phần làm thay

đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của vùng.

Hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc đã được từng

bước hiện đại hóa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Các tuyến trục giao thông

chính trải dài đất nước nối kết các khu, trục phát triển kinh tế được xây dựng đã góp

phần to lớn làm lên sự chuyển mình mạnh mẽ như tam giác Hà Nội – Hải Phòng –

Quảng Ninh với trục giao thông Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, Quốc lộ 10, thành phố Hồ

Chí Minh – Vũng Tầu, tuyến quốc lộ 1A dọc đất nước từ Lạng Sơn đến Cà Mau,

các đường như Bắc Thăng Long – Nội Bài, Nội Bài – Bắc Ninh, đường Láng – Hoà

Lạc, xây dựng mới các cầu Việt Trì, Phú Lương, Lai Vu, Sông Gianh, Hiền Lương,

Mỹ Thuận, cầu Rạch Miễu…; Đặc biệt, kết quả của việc đầu tư cho giao thông

nông thôn cùng với các chương trình khác đã góp phần tạo thêm nhiều cơ hội mới

cho việc phát triển kinh tế, từng bước xóa đói giàm nghèo thu hẹp khoảng cách phát

triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, đã hoàn thành nâng cấp các quốc

lộ quan trọng như Đường Hồ Chí Minh giai đoạn I, đường cao tốc Long Thành -

Dầu Giây, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, cầu Cần Thơ. Hiện nay, đang tiếp tục đầu

tư vào một số dự án lớn như: đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lào Cai,

Cầu Giẽ - Ninh Bình, cảng Cái Mép – Thị Vải, nhà ga T2 Nội Bài...

Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp nên những kết quả đã đạt

được vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt khi mở cửa hội nhập với thế giới, những tác động

từ bên ngoài ngày càng có tính chất quyết định tới hoạt động đầu tư trong nền kinh

tế nước ta.

2.4.2. Những hạn chế, yếu kém trong đầu tư phát triển

2.4.2.1. Về quy hoạch

Quy hoạch phát triển nhiều ngành chất lượng chưa cao hoặc chậm được phê

duyệt. Chưa gắn kết chặt chẽ quy hoạch phát triển ngành với vùng và địa phương.

Quy hoạch chưa sát với thực tế, chồng chéo, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa chú trọng

thoả đáng đến yếu tố môi trường và xã hội.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 58 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Trong ngành giao thông vận tải, quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển,

sân bay để đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách, phục vụ phát triển kinh

tế - xã hội là cần thiết, nhưng việc bố trí nhiều sân bay, bến cảng ở các vùng, địa

phương quá gần nhau mà chưa tính hết sự gắn kết trong khai thác hiệu quả tổng hợp

kết cấu hạ tầng các loại hình vận tải hiện có, chưa phù hợp với khả năng phát triển

kinh tế và nguồn vốn đầu tư. Chưa quan tâm đúng mức đến quy hoạch phát triển

giao thông đường sắt và đường thuỷ nội địa. Nhiều đường bay nội địa, nhiều cảng

biển và cảng sông bị lỗ, phải tăng phí qua cảng dẫn tới năng lực cạnh tranh kém.

Hiện nay, cả nước có hơn 100 cảng biển ở 24 tỉnh, thành phố với công suất

khối lượng hàng hoá thông qua cảng khoảng 64 triệu tấn/năm. Nhiều cảng biển

được xây dựng quá gần nhau như cảng Hòn La (Quảng Bình) cách cảng Vũng Áng

(Hà Tĩnh) 25 km, cảng Chân Mây (Thừa Thiên – Huế) cách cảng Tiên Sa (Đà

Nẵng) 30 km; cảng Dung Quất (Quảng Ngãi) cách cảng Kỳ Hà (Quảng Nam) 10

km; cho đến nay chưa tập trung xây dựng được những cảng lớn có tầm cỡ khu vực

và quốc tế. Một số địa phương triển khai dự án đầu tư cảng biển không phù hợp với

quy hoạch được duyệt hoặc không có sự thoả thuận của Bộ Giao thông Vận tải như

công trình bến số 2 cảng Hải Thịnh (Nam Định), cảng Diêm Điền (Thái Bình), Cửa

Việt (Quảng Trị), cảng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi),... Ngược lại, Cảng Sài Gòn vừa

mới dồn sức tu bổ lớn, nâng cấp, mở rộng, nay lại phải di dời đi chỗ khác.

- Trong ngành công nghiệp, còn có tình trạng quy hoạch ngành chưa thống

nhất với quy hoạch vùng, địa phương. Một số dự án không nằm trong quy hoạch

ngành vẫn được các địa phương phê duyệt. Quy hoạch phát triển các khu, cụm công

nghiệp ở các địa phương thời gian qua có phần tràn lan và chưa được tính toán kỹ,

cân đối các mặt; nhiều địa phương chưa phối hợp tốt với các Bộ, ngành trong việc

xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các khu, cụm công nghiệp; xử lý chưa tốt

giữa quy hoạch trong khu công nghiệp với ngoài hàng rào khu công nghiệp.

- Trong ngành nông nghiệp, không ít trường hợp, quy hoạch đầu tư nhà máy

chế biến lương thực, thực phẩm, rau quả chưa gắn kết hoặc không phù hợp với vùng

nguyên liệu và thị trường. Một số nhà máy đường (Phú Thọ, Linh Cảm – Hà Tĩnh,

Quảng Bình, Thừa Thiên – Huế) xây dựng xong nhưng không có đủ vùng nguyên

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 59 Kinh tế TNTN và Môi trường

liệu, hoạt động cầm chừng hoặc phải di chuyển đi địa phương khác, gây tốn kém,

lãng phí. Tình hình trên cũng xảy ra ở nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế

biến rau quả, hải sản (Sa Pa – Lao Cai, Hải Phòng, Thanh Hoá, Bắc Giang, Quảng

Ngãi, Kiên Giang), công suất khai thác rất thấp.

- Ngành thuỷ sản còn thiếu nhiều quy hoạch; một số quy hoạch chậm được

xây dựng, thời gian kéo dài nhiều năm, có dự án quy hoạch xây dựng 10 năm,

không còn ý nghĩa định hướng của quy hoạch, dẫn đến tình trạng phát triển tự phát

nuôi trồng thuỷ sản, trại tôm giống, cơ sở chế biến đông lạnh. Quy hoạch cơ sở hạ

tầng nghề cá cũng có sự bất hợp lý trong lựa chọn địa diểm đầu tư tại một số địa

phương, phát huy hiệu quả rất hạn chế (như ở Cà Mau, Xuân Phổ - Nghệ An, Trần

Đề - Sóc Trăng, Phan Thiết – Bình Thuận).

- Quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng xã hội ở các tỉnh, thành

phố thiếu đồng bộ, triển khai chậm, chưa theo kịp tốc độ đô thị hoá. Hiện chỉ

khoảng gần 30% thành phố có quy hoạch xây dựng chi tiết được duyệt. Ở các thành

phố lớn, thực chất vẫn chưa có quy hoạch giao thông công cộng một cách đồng bộ.

Ở các đô thị chưa có phối hợp tốt giữa các ngành giao thông công chính, bưu chính

– viễn thông, điện lực, làm cho hạ tầng giao thông thường xuyên bị đào xới, hư hại,

gây lãng phí lớn và ảnh hưởng đến sức phát triển đô thị, kéo dài tình trạng ách tắc

giao thông, gia tăng tai nạn giao thông. Hệ thống bệnh viện của Trung ương và các

tỉnh, thành phố lớn quá tải, chậm được khắc phục. Đã và đang có xu hướng nhiều

địa phương trình Chính phủ cho xây dựng trường đại học, trong khi nhu cầu sử

dụng của địa phương và khu vực chưa được tính toán kỹ cho trước mắt và lâu dài.

Quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng xã hội chưa gắn liền với quy

hoạch sử dụng đất đai, dẫn đến việc tổ chức, cá nhân lấn chiếm đất công, không

được xử lý nghiêm và kịp thời; chính quyền một số nơi giao đất, cho chuyển

nhượng đất không theo quy hoạch gây khó khăn, tốn kém trong đền bù giải phóng

mặt bằng.

Những tồn tại trên là do công tác lập và phê duyệt quy hoạch và dự án còn

nhiều bất cập, cụ thể:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 60 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Công tác lập, phê duyệt quy hoạch xây dựng, phát triển dài hạn, trung hạn

và ngắn hạn (10 năm, 5 năm, hàng năm) của các ngành, địa phương thường không

chú trọng đến vấn đề tính khả thi của nguồn lực, cụ thể:

+ Chất lượng công tác tư vấn lập quy hoạch, lập dự án đầu tư chưa cao, đánh

giá thẩm định và nhất là nhận thức về quy hoạch dài hạn của các Bộ, ngành chưa

được quan tâm nên chất lượng quy hoạch, dự án đầu tư được phê duyệt không đảm

bảo yêu cầu, xa dời thực tế, phải điều chỉnh nhiều lần.

+ Tính pháp lý của quy hoạch thấp, tình trạng không tuân thủ nghiêm theo

quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt; thay đổi, bổ sung không đúng thẩm quyền,

làm sai lệch quy hoạch chung, chưa tôn trọng quy hoạch của các ngành khác nhưng

không được xử lý. Chất lượng quy hoạch hạn chế, thiếu tầm nhìn dài hạn và đồng

bộ, chưa tuân thủ tính khách quan của quy luật thị trường, chậm được phê duyệt; kế

hoạch đầu tư phải chờ điều chỉnh quy hoạch, trong khi quy hoạch không sát, dẫn

đến có công trình xây dựng xong hiệu quả rất thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn.

+ Vốn đầu tư bố trí cho công tác quy hoạch hàng năm quá thấp, cụ thể năm

2006 vốn đầu tư bố trí cho công tác này là 398,5 tỷ đồng, chỉ đạt khoảng 0,007% so

với tổng mức vốn hàng năm dành cho đầu tư xây dựng (là 56.100 tỷ đồng); năm

2007, vốn đầu tư bố trí cho công tác này là 476,6 tỷ đồng, chỉ bằng 0,005% của

tổng mức vốn hàng năm dành cho đầu tư phát triển (là 92.430 tỷ đồng); do vốn đầu

tư bố trí cho công tác này quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu đề ra, nên năm

2008 Chính phủ đã chỉ đạo chuyển nguồn vốn bố trí cho công tác quy hoạch từ vốn

đầu tư sang sử dụng nguồn vốn sự nghiệp kinh tế.

- Việc mở rộng phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương quyền tự chủ, tự

quyết trong lựa chọn, phê duyệt dự án đầu tư đã tạo chủ động cho các Bộ, ngành,

địa phương nhưng dẫn tới một số tình hình sau:

+ Số lượng các dự án đầu tư được phê duyệt quá nhiều và nhiều dự án có

tổng mức đầu tư lớn, vượt quá khả năng cân đối vốn của ngân sách Nhà nước được

giao hàng năm, gây áp lực đối với ngân sách Nhà nước. Nhất là ở một số địa

phương đã quyết định đầu tư vượt quá khả năng cân đối vốn, dẫn đến tình trạng dàn

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 61 Kinh tế TNTN và Môi trường

trải không tập trung bố trí cho các dự án đã có khối lượng hoàn thành, gây nợ đọng

lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản.

+ Thời gian duyệt dự án đầu tư cách quá xa thời gian khởi công, khi triển

khai thực hiện tổng mức và nội dung đầu tư không còn phù hợp, phải điều chỉnh dự

án, dự toán, tổng dự toán nhiều lần, tăng chi phí, ảnh hưởng lớn đến tiến độ thi công

công trình, giảm hiệu quả đầu tư. Việc tăng chi phí cho dự án vượt quá mức dự

phòng dẫn đến bị động cho ngân sách bố trí kế hoạch hàng năm.

+ Hiệu quả trong việc xây dựng dự án chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều

dự án làm theo “phong trào” triển khai trên diện rộng, nhiều địa phương học hỏi

máy móc các địa phương khác…mà không tính đến hiệu quả đầu tư; một số dự án

được xây dựng khi chủ trương đầu tư chưa r , quy hoạch chưa có nên rất lãng phí.

2.4.2.2. Về xây dựng cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển chưa đồng bộ

Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian đã luôn được bổ sung, sửa

đổi nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra đã tạo cơ sở, hành lang pháp lý quan trọng

cho việc quản lý vốn đầu tư phát triển, từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế

trong quá trình hội nhập. Đã ban hành kịp thời hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật quản lý vốn đầu tư phù hợp với Luật, các Nghị định của Chính phủ về quản lý

vốn đầu tư thuộc nguồn ngân sách Nhà nước, là căn cứ để cấp có thẩm quyền ở các

cấp các ngành, các chủ đầu tư, cơ quan thanh toán áp dụng trong thực hiện quản lý

vốn đầu tư được giao. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những tồn tại, hạn chế sau:

- Việc xây dựng ban hành cơ chế và sửa đổi bổ sung cơ chế trong quản lý

đầu tư và xây dựng trong những năm qua thường xuyên biến động, vì vậy có thời kỳ

cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng không đồng bộ, không thống nhất. Hiện nay, chỉ

riêng việc quản lý chi vốn đầu tư của Nhà nước (nhất là chi vốn đầu tư phát triển từ

Ngân sách Nhà nước) cũng đã tồn tại rất nhiều văn bản pháp lý hướng dẫn: Quy chế

quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày

08/7/1999 của Chính phủ và các Nghị định sửa đổi, bổ sung là Nghị định số

12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003;

cùng đồng thời là Luật Xây dựng và các Nghị định hướng dẫn (Nghị định số

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 62 Kinh tế TNTN và Môi trường

12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 và

Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 sửa đổi Nghị định này). Việc tồn tại

nhiều văn bản quy phạm pháp pháp luật nêu trên đã gây không ít khó khăn trong

quản lý đầu tư và xây dựng và gây khó khăn cho các đối tượng thực hiện. Do đó,

cần thiết phải sớm ban hành Luật Đầu tư công để thống nhất quá trình quản lý đầu

tư và xây dựng của các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn đầu tư nguồn ngân sách

Nhà nước.

- Trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định được các chế tài đủ

mạnh, đủ sức răn đe đối với những đối tượng cố tình vi phạm quy trình quản l‎ý vốn

đầu tư và hiện tượng khép kín trong quản lý đầu tư (chủ đầu tư, tư vấn, nhà thầu

cùng trong một Bộ, ngành, địa phương), cũng như quy định trách nhiệm đi đối với

chế tài cụ thể cho những người tham gia quản lý đầu tư chưa r ràng trong từng

khâu đây chính là nguyên nhân xẩy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong vốn

đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước.

- Còn lúng túng trong quy định về tổ chức quản lý đầu tư đối với cấp quản lý

đầu tư là chủ đầu tư, ban quản lý trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.

- Các cơ chế trong đền bù giải phóng mặt bằng chưa đồng bộ, thiếu công

bằng, hợp lý, không sát với thực tế, chưa có cơ chế chủ động tạo quỹ đất, quỹ nhà

khi giải phóng mặt bằng, tái định cư, dẫn đến nhiều khó khăn ách tắc, làm chậm tiến

độ triển khai dự án, tiêu cực, thất thoát, lãng phí lớn về nguồn lực nhà nước.

- Hệ thống văn bản pháp luật thiếu cụ thể, thiếu những chế tài cần thiết; văn

bản pháp luật chưa đầy đủ, đồng bộ, tính pháp lý chưa cao. Một số nội dung trong

Luật Xây dựng, Luật Đất Đai và các luật có liên quan trực tiếp đến đầu tư phát triển

yêu cầu phải được hướng dẫn cụ thể, nhưng các văn bản hướng dẫn thực hiện luật,

pháp lệnh, nghị định thường chậm.

Riêng trong lĩnh vực quản lý đầu tư công, hệ thống văn bản pháp luật hiện

hành quy định về đầu tư xây dựng cơ bản mới chủ yếu là các văn bản dưới luật,

trong khi lĩnh vực này đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản pháp

luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, làm cơ sở cho công tác chỉ đạo điều hành của

Chính phủ, công tác giám sát của các cơ quan dân cử và các cơ quan tư pháp trong

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 63 Kinh tế TNTN và Môi trường

việc xử lý vi phạm. Các chế tài để xử phạt khi có vi phạm còn thiếu hoặc chưa đủ

mạnh, chưa quy định được r trách nhiệm của cá nhân trong lĩnh vực đầu tư xây

dựng cơ bản.

- Một số văn bản pháp luật không còn phù hợp thực tế, chậm được sửa đổi,

trong khi đó một số văn bản lại thường xuyên phải thay đổi, gây khó khăn cho quá

trình thực hiện; cụ thể:

+ Một số văn bản hướng dẫn thực hiện các Luật, Nghị định của Chính phủ về

đầu tư, xây dựng, đấu thầu, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư chưa được thống nhất

và thiếu cụ thể, gây khó khăn cho việc thực hiện ở các đơn vị cơ sở. Việc đổi mới tổ

chức quản lý dự án thì việc chuyển đổi các ban quản lý dự án thành tổ chức tư vấn

quản lý dự án chuyên nghiệp hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh

nghiệp và giao cho các Cục thuộc các Bộ nhiệm vụ làm chủ đầu tư là một chủ

trương đúng, nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư và hiệu quả hoạt động

của các Ban quản lý dự án, nhưng do chưa chuẩn bị kịp cả về tổ chức, cán bộ

chuyên môn đáp ứng yêu cầu công việc, nên gặp nhiều khó khăn lúng túng trong

triển khai, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch đầu tư.

+ Về quyết định khung giá để lập dự toán: Việc thông báo giá của địa

phương thường không đầy đủ, và không cập nhật thường xuyên, nên khi lập dự toán

các chủ đầu tư phải triển khai thêm nhiệm vụ thoả thuận với địa phương để bổ sung

vào thông báo giá, gây lãng phí và chậm trễ trong công tác đấu thầu. Việc tính trượt

giá chưa được quy định thống nhất, cũng là nguyên nhân kéo dài thời gian lập, thẩm

định và phê duyệt dự án.

Thực tế cho thấy, nhiều định mức, đơn giá trong đầu tư xây dựng cơ bản

chưa thật phù hợp với thực tế giá cả ở các vùng miền khác nhau. Dự toán lập trên cơ

sở đơn giá, định mức không phù hợp, dẫn đến thường xuyên phải thay đổi dự toán,

rất khó khăn trong việc kiểm tra, thanh tra.

+ Một số văn bản ban hành không sát thực tế phải bổ sung, sửa đổi nhiều lần

gây khó khăn trong thực hiện, điển hình là các quy định của pháp luật đất đai về đền

bù giải phóng mặt bằng.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 64 Kinh tế TNTN và Môi trường

Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là hiệu lực và hiệu quả thực thi pháp luật

rất yếu; ý thức tôn trọng pháp luật kém, vẫn có nhiều cá nhân coi thường và khi vi

phạm pháp luật lại không được xử lý nghiêm và kịp thời, do đó không có hoặc ít có

tác dụng răn đe.

2.4.2.3. Tình trạng kế hoạch vốn đầu tư phát triển còn phân bổ dàn trải

Số dự án, công trình sử dụng vốn đầu tư trong cân đối Ngân sách Nhà nước

tăng lên qua các năm, không tương xứng với tốc độ tăng của vốn đầu tư; nhiều dự

án, công trình được phê duyệt không dựa vào khả năng cân đối nguồn vốn, chưa đủ

thủ tục vẫn được ghi vốn; việc triển khai thực hiện dự án, công trình kéo dài, không

theo kế hoạch, khối lượng đầu tư dở dang nhiều.

Do bố trí quá nhiều dự án, công trình không tương xứng với nguồn vốn đầu

tư, nên dẫn đến tình trạng nhiều dự án thi công kéo dài, khối lượng đầu tư dở dang

lớn. Theo quy định, dự án Nhóm B phải hoàn thành trong 5 năm, Nhóm C hoàn

thành trong 3 năm, nhưng vẫn còn nhiều dự án không được bố trí đủ vốn để hoàn

thành đúng thời hạn trên.

2.4.2.4. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong chi đầu tư phát triển còn phổ biến

Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn chi cho đầu tư phát triển diễn ra trong các

dự án đầu tư, thuộc các nguồn vốn, ở các ngành, các địa phương và trong tất cả các

giai đoạn của quá trình đầu tư.

- Qua kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán một số dự án đầu tư phát triển

trong các năm 2002 và 2003 cho thấy, tình trạng thất thoát, lãng phí xảy ra ở các

ngành và các địa phương, các dự án được kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Năm 2002,

Thanh tra Chính phủ thanh tra 17 dự án lớn, số sai phạm về kinh tế và tài chính

được phát hiện chiếm 13,4% tổng giá trị vốn được kiểm tra; năm 2003, thanh tra 14

dự án, số sai phạm về kinh tế và tài chính được phát hiện chiếm 19,1% số vốn được

thanh tra. Trong năm 2002 và 2003 các Bộ, ngành, địa phương thanh tra 2.518 dự

án, phát hiện sai phạm bằng 1,6% số vốn được thanh tra. Trong các năm 2002, 2003

và 6 tháng đầu năm 2004, Kiểm toán nhà nước đã kiểm toán 648 dự án, phát hiện

sai phạm 2,6% giá trị được kiểm toán.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 65 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Tình trạng lãng phí, thất thoát còn thể hiện trong các dự án sử dụng các

nguồn vốn tín dụng ưu đãi, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, Công trái giáo dục và

nguồn vốn ODA cho vay lại.

- Đối với các dự án, công trình cụ thể, tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu

tư phát triển xảy ra trong các giai đoạn của quá trình đầu tư.

- Nhiều dự án, công trình, do chất lượng thẩm định thấp, dẫn đến trong quá

trình thực hiện đầu tư phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, mất thêm chi phí, làm

tăng chi phí đầu tư một cách không hợp lý:

+ Đầu tư thiếu tập trung, không đồng bộ, công trình dở dang, có những công

trình ngừng thi công không có thời hạn như Hồ chứa nước Ái Tử (Quảng Trị) làm

xong nhưng kênh mương dở dang, hồ nước không khai thác được; Hồ chứa nước

Thanh Lanh (Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) làm xong chân đập thì hết vốn; một số công

trình thoát lũ ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng xảy ra tương tự, đã

gây lãng phí không nhỏ.

+ Tình trạng lãng phí, thất thoát do vi phạm quy định của pháp luật về đấu

thầu diễn ra với nhiều hình thức, ở nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương. Các vi phạm

chủ yếu được diễn ra ở các khâu trong quy trình đấu thầu, đó là hiện tượng “thông

đồng”, “móc ngoặc”, “chạy thầu”, “vây thầu”, “quân xanh, quân đỏ” để được trúng

thầu.

+ Một số dự án, công trình không được tính toán kỹ, phải thay đổi, bổ sung

nhiều trong quá trình thực hiện, làm tăng tổng mức đầu tư, ví dụ dự án Hồ chứa

nước Cửa Đạt (Thanh Hóa) tổng mức đầu tư tăng từ 2.200 tỷ đồng lên tới 4.600 tỷ

đồng; Hồ chứa nước Tả Trạch (Thừa Thiên – Huế) tổng mức đầu tư tăng từ 1.000 tỷ

đồng lên 3.600 tỷ đồng.

Một số dự án, công trình bị thất thoát lớn do tham nhũng, vụ việc phải khởi

tố hình sự; cán bộ quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật. Điển hình là một

số vụ án đã được xét xử hoặc đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: vụ Lã

Thị Kim Oanh làm thất thoát hơn 100 tỷ đồng vốn nhà nước; vụ xây lắp khối nhà

trên dàn công nghệ Trung tâm số 3 mỏ dầu khí Bạch Hổ, giám đốc công ty dịch vụ

kỹ thuật dầu khí lập hợp đồng giả để chiếm đoạt 1,5 triệu đô la Mỹ; vụ đầu tư

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 66 Kinh tế TNTN và Môi trường

đường ống kho Cảng LPG Thị Vải, sai phạm, kê tăng chi phí để chiếm đoạt 3,8

triệu đô la Mỹ, vượt dự toán 14 triệu đô la Mỹ, chậm tiến độ 24 tháng; vụ Cầu chui

Văn Thánh lãng phí hơn 142 tỷ đồng; vụ Bùi Tiến Dũng và đồng bọn tại PMU18...

Báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương về số liệu thất thoát, lãng phí trong

đầu tư xây dựng cơ bản còn ở mức độ rất hạn chế, chủ yếu căn cứ vào công tác

kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử còn trên thực tế khó định

lượng một cách chính xác số liệu về lãng phí, thất thoát. Tuy những con số nói trên

chưa đủ để khẳng định tỷ lệ thất thoát, lãng phí 20% - 30% mà dư luận xã hội hoặc

một số chuyên gia đã phát biểu, nhưng cũng đủ để thấy tính chất rất nghiêm trọng

của tình hình. Do vậy, cần tiếp tục kiểm tra, thanh tra, kiểm toán rộng hơn, sâu hơn

từng dự án, công trình cụ thể thì mới xác định sát hơn mức độ thất thoát, lãng phí

trong đầu tư xây dựng cơ bản.

2.4.2.5. Nợ đọng vốn đầu tư phát triển còn lớn

Số nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn Nhà nước còn ở mức

cao, kéo dài, vẫn tiếp diễn nhất là ở các địa phương. Qua báo cáo của các Bộ, ngành

và địa phương cho thấy, các báo cáo chưa phản ánh đầy đủ số nợ tồn đọng vốn đầu

tư phát triển. Tình hình này sẽ rất khó khăn cho việc tổng hợp, phân loại và xử lý

các khoản nợ, nhất là các khoản nợ giữa các cấp ngân sách ở địa phương.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:

- Các Bộ, ngành và địa phương chưa nghiêm chỉnh thực hiện đúng chế độ

của Nhà nước về quản lý đầu tư ngay trong khâu phê duyệt và phân bổ kế hoạch

năm. Chất lượng lập kế hoạch vốn đầu tư thấp, nhiều dự án đầu tư không đủ thủ tục

đầu tư nhưng vấn được ghi vào kế hoạch vốn đầu tư hàng năm. Nhiều Bộ, ngành và

địa phương không thực hiện chủ trương tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ

vốn kế hoạch hàng năm (như các dự án nhóm B không thể hoàn thành trong 5 năm,

các dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 3 năm).

- Về việc phân bổ vốn đầu tư, theo Luật ngân sách Nhà nước thì chức năng

chính là của cơ quan kế hoạch. Tuy nhiên, do chưa có cơ chế phối hợp, nên vai trò

tham gia của cơ quan tài chính về phân bổ vốn cho từng dự án còn hạn chế. Việc

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 67 Kinh tế TNTN và Môi trường

phân bổ kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, hiện nay đang có sự tách rời giữa người có

thẩm quyền quyết định đầu tư dự án với người bố trí vốn cho dự án. Thể hiện:

+ Ở các Bộ, ngành Trung ương, Bộ trưởng là người quyết định đầu tư dự án

nhưng không quyết định được nguồn vốn đầu tư theo kế hoạch hàng năm (hoặc 5,

10 năm). Do đó dẫn tới số lượng dự án duyệt thì nhiều mà vốn thì ít, tất yếu dẫn đến

việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư dàn trải, kéo dài.

+ Ở các địa phương, mặc dù Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh biết r hơn tổng

số vốn đầu tư mà địa phương có trong 3 - 4 năm nhất định, nhưng nhiều địa phương

còn có “tâm lý trông chờ” Trung ương hỗ trợ, vì vậy vẫn duyệt nhiều dự án hơn so

với khả năng cân đối vốn, dẫn đến việc dự án bố trí kế hoạch vốn đầu tư phân tán,

dàn trải, kéo dài. Điển hình là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và

nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương.

- Việc bố trí vốn để hoàn ứng cho ngân sách Nhà nước: Cơ bản các Bộ,

ngành, địa phương đã thực hiện đúng quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tuy

nhiên vẫn còn vướng mắc do vốn giao hàng năm cho bộ, ngành, địa phương quá

thấp, không đủ để thu hồi hoặc nếu thu hồi thì không còn vốn để triển khai tiếp

nhiệm vụ (như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Toà án nhân dân tối cao…), nên để có vốn tiếp

tục đầu tư, các cơ quan trên không thể bố trí vốn hoàn ứng được theo đúng quy

định.

Từ những vấn đề nêu trên, dẫn tới việc phân bổ vốn đầu tư phát triển vẫn còn

mang tính bao cấp, ỷ lại vào nguồn vốn của Nhà nước, chưa đẩy mạnh khai thác các

nguồn vốn, các phương thức đầu tư khác, như vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp,

tư nhân, hợp vốn để đầu tư, hợp tác trong đầu tư. Cơ chế phân bổ vốn đầu tư phát

triển chủ yếu là ngắn hạn, chưa có cơ chế phân bổ vốn trung, dài hạn do vậy các cơ

quan không chủ động phân bổ được kế hoạch; kế hoạch vốn bố trí theo từng năm,

trong khi đó việc thực hiện các dự án đầu tư thường kéo dài trong nhiều năm, chưa

có cơ chế phân bổ vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện của dự án.

2.4.2.6. Hiệu quả đầu tư phát triển thấp

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 68 Kinh tế TNTN và Môi trường

Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế và ở tầm vi mô

của từng dự án, công trình, hạng mục công trình thuộc các Bộ, ngành, địa phương.

Trong những năm qua, đầu tư phát triển mới chủ yếu góp phần phát triển

kinh tế - xã hội theo chiều rộng, chưa tạo được bước chuyển tích cực về chất lượng

tăng trưởng, chi phí sản xuất cao, giá trị tăng thêm của sản phẩm còn ít, chưa có tác

động mạnh đến phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, kiến trúc và cảnh quan đô

thị. Đầu tư xây dựng cơ bản trong các chương trình mục tiêu cũng chưa đạt kết quả

cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiệu quả đầu tư thấp là trong công tác chỉ đạo,

điều hành và quản lý, thực hiện dự án của các Bộ, ngành, địa phương còn nhiều hạn

chế; cụ thể:

- Tuy có chung cùng một khuôn khổ pháp lý, nhưng một số Bộ, ngành và địa

phương thực hiện giải ngân tốt, nguồn vốn Ngân sách Nhà nước giải ngân đạt tỷ lệ

cao, nhưng một số Bộ, ngành lại giải ngân nguồn vốn đạt thấp là do trong tổ chức

chỉ đạo, điều hành ở một số nơi chưa tốt, chưa quan tâm đúng mức, còn phó mặc

cho ban quản lý dự án; không tổ chức giao ban thường xuyên, định kỳ để đôn đốc

giải quyết khó khăn trong việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản.

- Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, dự toán, tổng dự toán và

thiết kế - kỹ thuật, chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Công tác khảo sát ban đầu

thiếu chính xác, không xác định đầy đủ các yếu tố liên quan. Do vậy, nhiều dự án

được duyệt tính khả thi chưa cao, dẫn đến các dự án phải điều chỉnh thiết kế, tổng

dự toán, kéo dài thời gian thi công xây dựng công trình. Trong một số trường hợp

bố trí vốn đầu tư nhưng chưa có thủ tục đầu tư theo quy định (chưa phê duyệt dự án

đầu tư, dự toán) cũng gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn cho

công trình. Nhiều dự án đã có khối lượng xây dựng nhưng do thủ tục đầu tư chưa

hoàn chỉnh nên không đủ cơ sở để giải ngân và nhiều dự án đầu tư do sai lầm trong

quá trình triển khai đã dẫn tới việc lãng phí vốn đầu tư; cụ thể:

+ Sai lầm trong chủ trương đầu tư, bắt nguồn từ quy hoạch sai hay không có

quy hoạch, chất lượng báo cáo đầu tư thấp, thường “bỏ qua điều tra xã hội học, môi

trường, các công trình hạ tầng hoặc điều tra không kỹ thị trường tiêu thụ và các yếu

tố cho sản xuất kinh doanh”.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 69 Kinh tế TNTN và Môi trường

+ Sai lầm trong quyết định đầu tư bắt nguồn từ chủ trương đầu tư sai: đầu tư

theo “phong trào”, theo ý muốn chủ quan, chạy theo thành tích, và còn do sai lầm

trong lập và thẩm định báo cáo đầu tư dẫn đến sai lầm trong việc chọn địa điểm đầu

tư, xác định quy mô đầu tư không phù hợp, không đồng bộ, lựa chọn công nghệ sản

xuất không phù hợp hoặc lạc hậu.

+ Sai lầm thiếu sót trong quyết định đầu tư: công trình xây dựng xong đưa

vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội, thậm chí không có hiệu quả (nhà

máy không có đủ nguyên liệu, chợ không có người họp, cảng không khai thác hết

công suất); công trình xây dựng với chi phí quá cao dẫn đến giá thành sản phẩm

cao, không đủ sức cạnh tranh hoạt động cầm chừng, có tình trạng càng sản xuất

càng lỗ.

- Các quy định hướng dẫn tính toán điều chỉnh chi phí, định mức đầu tư

thường chậm được xử lý của các cấp có thẩm quyền và không đồng bộ với các biến

động thị trường, như trượt giá ngoại tệ, do giá vật tư và tiền lương thay đổi.

- Thủ tục phê duyệt dự toán, tổng dự toán, kế hoạch đấu thầu, tiêu chuẩn

đánh giá thầu, kết quả trúng thầu của một số Bộ, ngành và địa phương còn rất rườm

rà và phức tạp cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ các dự án khởi công mới.

2.4.2.7. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước còn

bất cập

Nhìn chung, trong thời gian qua cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển

thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước đang được hoàn thiện theo hướng tăng dần

trách nhiệm, quyền hạn cho các cấp vĩ mô quản lý, từng bước gắn với các công

trình, dự án đầu tư nhằm phục vụ trực tiếp cho những đối tượng quản lý và hưởng

lợi. Sự phân công, phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm giữa Trung ương và địa

phương đã và đang được triển khai mạnh mẽ hơn, điều này một mặt đã làm giảm

gánh nặng cho Trung ương, mặt khác tạo ra sự chủ động sáng tạo cho các cấp địa

phương. Công tác quản lý tài chính vốn đầu tư thời gian qua đã có nhiều cố gắng

góp phần quan trọng vào sự nghiệp đầu tư phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 70 Kinh tế TNTN và Môi trường

kết quả đạt được, công tác quản lý tài chính vốn đầu tư còn nhiều hạn chế, tồn tại;

cụ thể như sau:

Thứ nhất, về công tác thanh toán vốn đầu tư:

Việc thanh toán vốn đầu tư trong năm nhìn chung còn chậm, không đồng

đều, khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành thanh toán trong quý I và quý II đạt

thấp (chỉ khoảng hơn 30% kế hoạch năm), quý III và quý IV khối lượng xây dựng

cơ bản hoàn thành thanh toán rất lớn, bằng 60% - 70% giá trị khối lượng thanh toán

trong năm. Giá trị khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành chuyển giao năm sau

thanh toán còn lớn (thường giải ngân trong tháng 1 năm sau là khoảng 20% kế

hoạch năm), gây khó khăn trong công tác quản lý và tác động mạnh thị trường xây

dựng. Khối lượng đề xuất thanh toán không đúng dự toán, hợp đồng vẫn còn, nợ

đọng vốn thanh toán do thiếu thủ tục đầu tư nghiệm thu khối lượng hoàn thành vẫn

còn chậm, gây khó khăn cho nhà thầu.

Một số nguyên nhân thanh toán chậm:

- Về phía cơ quan chủ quản và chủ đầu tư: triển khai phân bổ kế hoạch vốn

đầu tư hàng năm chậm so với thời gian quy định; chậm hoàn chỉnh các thủ tục về

đầu tư và thủ tục đấu thầu, nhất là các dự án phải điều chỉnh tổng mức đầu tư, điều

chỉnh thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, trình duyệt khối lượng phát sinh của

dự án, gói thầu; vướng mắc trong khâu giải phóng mặt bằng; chậm chễ trong khâu

nghiệm thu A - B để hoàn tất thủ tục thanh toán vốn.

- Về phía các cơ quan quản lý: chậm và thiếu tính đồng bộ và thống nhất

trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, vì thế nhiều nội dung vướng mắc về cơ

chế cũng chưa có hướng dẫn cụ thể. Trong quá trình thực hiện cơ chế mới về đầu tư

và xây dựng thì nhiều chủ đầu tư còn lúng túng, chưa được các cơ quan quản lý tập

huấn hướng dẫn đầy đủ, kịp thời.

- Việc lập dự toán chất lượng còn hạn chế và chưa được quan tâm đúng

mức, nhiều khi mang tính hình thức. Nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thực

hiện dự án (như khối lượng thay đổi, chênh lệch giá vật liệu, giá thiết bị nhập ngoại)

cần rất nhiều thủ tục ảnh hướng lớn tới thanh toán vốn.

Thứ hai, về công tác quyết toán:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 71 Kinh tế TNTN và Môi trường

Quyết toán niên độ ngân sách hàng năm: hầu hết các đơn vị sử dụng ngân

sách Nhà nước không thực hiện đầy đủ theo quy định.

Quyết toán dự án đầu tư hoàn thành:

- Trong những năm gần đây, với sự chỉ đạo điều hành kiên quyết của Chính

phủ, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước, công tác quyết toán

dự án hoàn thành ngày càng đạt kết quả cao cả về chất lượng cũng như về số lượng;

cụ thể như sau năm 2003, số dự án được thẩm tra, phê duyệt quyết toán của cả nước

là 4.236 dự án, đạt tỷ lệ phê duyệt là 52% với số vốn đầu tư được quyết toán là

4.205 tỷ đồng; năm 2004, số dự án hoàn thành được thẩm tra, phê duyệt quyết toán

là 6.288 dự án, bằng 150% so với năm 2002, đạt tỷ lệ phê duyệt là 65,8% số vốn

đầu tư được quyết toán là 8.564 tỷ đồng; năm 2005, số dự án được quyết toán là

14.637 dự án với số vốn là 42.339 tỷ đồng; năm 2006, số dự án được quyết toán là

26.539 dự án (lớn hơn tổng số dự án được phê duyệt trong 3 năm từ năm 2003 đến

năm 2005), số vốn đầu tư được quyết toán là 60.187,8 tỷ đồng; năm 2007, số dự án

được quyết toán là 37.577 dự án, số vốn đầu tư được quyết toán là 83.673 tỷ đồng;

năm 2008, số dự án được quyết toán là 41.430 dự án, số vốn đầu tư được quyết toán

là 74.681 tỷ đồng; năm 2009, số dự án được quyết toán là 43.973 dự án, số vốn đầu

tư được quyết toán là 86.099 tỷ đồng; năm 2010, số dự án được quyết toán là

44.488 dự án, số vốn đầu tư được quyết toán là 110.263,6 tỷ đồng. Như vây, công

tác quyết toán dự án hoàn thành ngày càng được chú trọng, quan tâm, năm sau số

dự án, số vốn được quyết toán cao hơn năm trước. Tuy nhiên, việc quyết toán vốn

đầu tư dự án hoàn thành nhìn chung còn chậm chưa đáp ứng được nhu cầu bởi số

lượng dự án cũng như tổng mức đầu tư của các dự án ngày càng tăng cao, nhiều dự

án hoàn thành đã nộp báo cáo quyết toán nhưng chưa thẩm tra, phê duyệt vẫn

chiếm khoảng 22%.

- Còn nhiều chủ đầu tư chưa nhận thức đúng, đầy đủ về công tác quyết toán

vốn đầu tư, còn trì trệ trong công tác lập báo cáo quyết toán; lúng túng trong quá

trình lập báo cáo quyết toán.

- Nhìn chung trong cả nước, lực lượng cán bộ đảm nhiệm công tác thẩm tra

quyết toán dự án hoàn thành còn quá mỏng chưa đủ đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ ngày

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 72 Kinh tế TNTN và Môi trường

một cao; bình quân ở một tỉnh mỗi năm có khoảng 130 – 180 dự án hoàn thành đưa

vào sử dụng, trong khi đó lực lượng cán bộ bố trí làm công tác thẩm tra quyết toán

vốn đầu tư của tỉnh chỉ có từ 3 – 8 người.

- Cả nước hiện nay mới có 154 doanh nghiệp kiểm toán độc lập, tuy nhiên

lực lượng này tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Hà Nội (62 đơn vị), thành phố

Hồ Chí Minh (72 đơn vị) và một số thành phố lớn khác; còn nhiều tỉnh hiện chưa có

đơn vị kiểm toán nào đăng ký hoạt động cũng là một vướng mắc trong quá trình

thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành.

Như vậy, qua đó chúng ta thấy công tác quản lý các dự án đầu tư còn tồn tại

nhiều yếu kém trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư.

2.4.2.8. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát và xử lý vi phạm trong

lĩnh vực chi đầu tư phát triển chưa được thường xuyên

Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan nhà nước chưa

thường xuyên, liên tục, số lượng dự án, công trình được kiểm tra, thanh tra, kiểm

toán so với tổng số còn rất ít. Việc xử lý vi phạm thiếu kiên quyết và nghiêm minh.

Các con số về sai phạm kinh tế, tài chính mà cơ quan thanh tra các cấp, cơ quan

kiểm toán, các Bộ, địa phương báo cáo không phản ánh đúng thực trạng thất thoát,

lãng phí nghiêm trọng trong đầu tư xây dựng cơ bản thời gian qua. Do thiếu điều

kiện về nhân lực và thiết bị phục vụ thanh tra, kiểm toán nên chủ yếu chỉ thanh tra,

kiểm toán trên hồ sơ, tài liệu, chứng từ liên quan đến các dự án mà chưa đi sâu vào

thanh tra, kiểm toán đánh giá chủ trương và hiệu quả đầu tư, chất lượng công tác

thiết kế, lập tổng dự toán, thẩm định thiết kế tổng dự toán, việc sử dụng vật tư vào

công trình, khối lượng thực tế thi công các công trình và chất lượng công trình, nên

kết quả chỉ ở mức độ nhất định.

Công tác giám sát của các cơ quan dân cử, của các tổ chức xã hội và hiệp hội

nghề nghiệp hiệu quả còn rất thấp. Cho đến nay, các cơ quan của Quốc hội mới tiến

hành giám sát chuyên đề về đầu tư xây dựng cơ bản là chậm. Việc phối hợp trong

giám sát với Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức xã hội và hiệp hội nghề nghiệp

còn chưa có cơ chế r ràng.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 73 Kinh tế TNTN và Môi trường

2.4.2.9. Năng lực của chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu xây dựng còn hạn chế

Tình trạng vi phạm trật tự kỷ cương trong đầu tư và xây dựng diễn ra phổ

biến. Vốn Ngân sách Nhà nước thì hạn hẹp, luôn nằm trong tình trạng bị “co kéo”

bởi hàng loạt các dự án đầu tư trong cả nước nên các chủ đầu tư luôn tìm mọi cách

kể cả thiết lập những “quan hệ ngầm” để có thể được ghi vào kế hoạch đầu tư, để có

quyết định đầu tư và để được “xin” vốn ngân sách. Và khi đã “xin” được vốn, thì do

vốn Ngân sách Nhà nước có đặc điểm là nguồn vốn không hoàn lại trực tiếp nên

trách nhiệm đối với vốn của Nhà nước, đối với công trình xây dựng của các chủ đầu

tư là rất thấp.

- Một số chủ đầu tư chưa nắm chắc các quy định về quản lý đầu tư và xây

dựng nên ý thức chấp hành chưa cao, thiếu nghiên cứu kỹ về mục đích đầu tư, khả

năng sử dụng và khai thác dự án cho nên phải điều chỉnh và duyệt lại dự án. Ở một

số nơi, chủ đầu tư, ban quản lý dự án các công trình xây dựng bằng nguồn vốn từ

ngân sách, năng lực yếu, không có trình độ chuyên môn về xây dựng (như một số

đơn vị sự nghiệp) dẫn đến lúng túng trong việc triển khai thực hiện dự án, quản lý

chất lượng lỏng lẻo, gây thất thoát vốn Nhà nước, việc hiệu quả sử dụng vốn không

cao.

- Về phía các đơn vị tư vấn chất lượng công tác khảo sát, thiết kế của các đơn

vị tư vấn chưa cao, nên trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư, báo cáo kinh tế

kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán còn nhiều sai sót trong quá trình

thực hiện, dẫn đến việc phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều lần, vừa tốn tiền bạc, vừa tốn

công sức.

- Việc thực hiện giám sát kỹ thuật của chủ đầu tư và đơn vị tư vấn còn lỏng

lẻo, chưa triệt để tuân thủ các quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng

nên nhiều công trình sảy ra hiện tượng đơn vị thi công thay đổi nguyên vật liệu, cấu

kiện công trình, khai khống khối lượng, làm chất lượng công trình không đảm bảo

và lãng phí. Sự yếu kém về tài chính và năng lực thi công của nhiều nhà thầu cũng

là nguyên nhân chậm tiến độ đầu tư xây dựng công trình.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 74 Kinh tế TNTN và Môi trường

2.4.2.10. Tổ chức bộ máy thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển còn chưa

phù hợp với thực tiễn

Về tổ chức bộ máy phục vụ công tác phân bổ, thực hiện chi vốn đầu tư phát

triển còn nhiều bất cập; trách nhiệm của các cơ quan “chồng chéo” với nhau. Hiện

nay, có 2 cơ quan là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính được phân công phân

bổ vốn đầu tư phát triển, trong đó cơ quan Kế hoạch và Đầu tư là chủ trì. Việc này

có các bất cập sau:

- Cơ quan Tài chính nắm vốn, nguồn vốn lại không phải cơ quan chủ trì,

ngược lại cơ quan Kế hoạch và Đầu tư không nắm vốn, nguồn vốn lại được giao

chủ trì. Do vậy trong việc tham mưu điều hành phân bổ vốn đầu tư của hai cơ quan

Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đều bị động và nhiều khi mâu thuẫn.

- Cơ quan cấp trên và các đơn vị cấp dưới buộc phải làm việc về vốn đầu tư

với cả 2 cơ quan Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính gây tăng thủ tục hành

chính, chậm trễ công việc và quy trách nhiệm khó.

Như vậy, cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp trong công tác quản lý Nhà

nước về đầu tư xây dựng cơ bản còn bất cập, chồng chéo, chưa r ràng.

Sự phân công, phân cấp giữa các Bộ tổng hợp với các Bộ quản lý ngành,

giữa các Bộ quản lý ngành với nhau, giữa Bộ với địa phương, giữa các địa phương

trong mối quan hệ vùng, lãnh thổ hiện nay chưa r ràng, còn chồng chéo, dẫn đến

không quy r được trách nhiệm của Bộ tổng hợp, Bộ quản lý ngành và địa phương.

Việc mở rộng phân cấp quyết định đầu tư cho các Bộ, địa phương, doanh

nghiệp nhà nước, một mặt tạo chủ động cho các Bộ, địa phương và doanh nghiệp,

mặt khác cũng là một trong số các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải,

do thiếu ràng buộc các điều kiện và thiếu cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt

chẽ.

Việc phân công cho một số Bộ chuyên ngành không đủ cán bộ chuyên sâu

trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản trực tiếp làm chủ đầu tư dự án, công trình lớn

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 75 Kinh tế TNTN và Môi trường

là chưa hợp lý, ví dụ như: Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch...

- Tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của

ngành, địa phương và vì thành tích đã có những quyết định chủ trương đầu tư sai, là

nguyên nhân quan trọng gây ra dàn trải, thất thoát, lãng phí không nhỏ, ảnh hưởng

về lâu dài.

- Tình trạng cố ý làm sai, vi phạm pháp luật, vụ lợi trong đầu tư xây dựng cơ

bản còn diễn ra ở nhiều dự án, công trình, biện pháp ngăn ngừa kém hiệu quả, phát

hiện chậm, xử lý không nghiêm. Nhiều vụ việc sau khi báo chí, công luận nêu lên

mới được xử lý.

- Việc bố trí cán bộ ít hiểu biết về chuyên môn đầu tư xây dựng cơ bản làm

công tác điều hành, quản lý và thực hiện dự án ở nhiều Bộ, ngành, địa phương diễn

ra khá phổ biến; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được nhận thức đầy

đủ và thực hiện không nghiêm.

- Công tác chỉ đạo, điều hành của cả cấp Trung ương, địa phương có nơi, có

lúc thiếu kiên quyết, nhất quán, có trường hợp không đúng với quy hoạch, kế hoạch

đã được phê duyệt, ngược lại có trường hợp có chủ trương, kế hoạch, nhưng thiếu

quyết tâm thực hiện.

Kết luận chương 2

Trong những năm vừa qua, ở nước ta công tác quản lý Nhà nước về đầu tư

phát triển nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng đã có nhiều tiến bộ và đạt

được những thành tựu đáng kể. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về

quản lý đầu tư xây dựng đã tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ

bản. Công tác chỉ đạo, điều hành lập, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch và

kiểm tra giám sát được tăng cường. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước

theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành và địa phương,...

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 76 Kinh tế TNTN và Môi trường

Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, những kết quả đạt

được trong còn rất khiêm tốn, cơ cấu nền kinh tế còn chuyển biến chậm, tình trạng

phân tán, lãng phí, kém hiệu quả trong quản lý chi vốn đầu tư xây dựng thuộc ngân

sách Nhà nước còn khá phổ biến. Hệ thống cơ chế quản lý chi chưa thật phù hợp

với yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường, còn lỏng lẻo trong

quản lý, cứng nhắc, máy móc trong tổ chức thực hiện. Hiện tượng tham nhũng tiền

của, chậm tiến độ, chất lượng thực hiện dự án không cao còn rất phổ biến. Việc

nghiên cứu tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý chi vốn đầu tư

phát triển thuộc ngân sách Nhà nước đang là một đồi hỏi hết sức bức thiết.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 77 Kinh tế TNTN và Môi trường

CHƯƠNG 3

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ

CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC

3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 CỦA VIỆT NAM

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra những mục tiêu

định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu trong 5 năm 2011 - 2015, tốc độ

tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2015 mức tăng GDP bình quân đạt 7% -

7,5%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP đến năm 2015:

ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 17 – 18%; công nghiệp và xây dựng 41 -

42%; dịch vụ 41 – 42%. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở

thành thị dưới 5%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10% - 11%.

Để thực hiện được định hướng trên, mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và

bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu

quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện khâu đột phá về xây

dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tập trung vào hệ thống giao

thông hạ tầng đô thị lớn. Phát triển khoa học công nghệ và tăng nhanh hàm lượng

khoa học và công nghệ cao trong sản phẩm. Cải thiện và nâng cao r rệt chất lượng

giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, dân tộc thiểu số, vùng miền núi,

vùng sâu, vùng xa. Tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động

ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành

một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính

trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh

thổ và an ninh quốc gia.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 78 Kinh tế TNTN và Môi trường

Để đạt được các mục tiêu tổng quát trên, trong giai đoạn tới cần tập trung

vào các nhiệm vụ chủ yếu, trước hết là ba đột phá lớn: Hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh

tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn

nhân lực có chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục

toàn dân; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại,

tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

Từ các mục tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu trong 5

năm 2011 - 2015 và những nhiệm vụ đã đề ra nêu trên, chúng ta đưa ra định hướng

phát triển một số ngành, lĩnh vực chủ yếu sau:

3.1.1. Phát triển công nghiệp và xây dựng

Với định hướng đầu tư phải đạt mục tiêu: nhịp độ tăng trưởng bình quân

hàng năm của công nghiệp đạt 14% - 15,5%/năm; đến 2015 công nghiệp và xây

dựng chiếm 41% - 42% GDP và thu hút khoảng 28% - 29% lao động có việc làm.

Tỷ trọng công nhiệp chế biến trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 90%.

Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả

nước đạt khoảng 87%. Phát triển các ngành công nghiệp là chuyển dịch nhanh cơ

cấu công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, đa dạng hoá chủng

loại sản phẩm. Chú trọng đầu tư công nghiệp năng lượng như điện (tập trung đẩy

nhanh tiến độ hoàn thành các nhà máy điện đảm bảo cung cấp đủ điện năng), dầu

khí, than, công nghiệp sản xuất vật liệu, công nghiệp có công nghệ cao, ưu tiên phát

triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, sản xuất các loại sản phẩm chất

lượng cao, tiêu tốn ít nhiên liệu, năng lượng, nhiên liệu, các sản phẩm tiết kiệm

năng lượng, thân thiện với môi trường, công nghiệp tái chế, công nghệ nano.

3.1.2. Phát triển nông nghiệp, nông thôn

Với mục tiêu đầu tư phát triển ngành nông nghiệp đảm bảo nhịp độ tăng

trưởng bình quân hàng năm khoảng 4-5%; tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng

17 - 18%; tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2015 chiếm 40-41%

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 79 Kinh tế TNTN và Môi trường

lao động toàn xã hội, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn gấp 1,8-2 lần so

với năm 2010.

Đầu tư hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, thâm canh tăng năng

suất gắn với phát triển công nghiệp chế biến; phát triển cơ sở chế biến tại các vùng

sản xuất nguyên liệu. Tăng cường đầu tư phục vụ công tác khuyến nông, khuyến

lâm, khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho sản xuất nông

nghiệp. Đầu tư chiều sâu các cơ sở nghiên cứu khoa học giống cây trồng, vật nuôi

có năng suất cao, chất lượng tốt. Ưu tiên các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái

phiếu Chính phủ và huy động các nguồn vốn trong dân để đầu tư chương trình phát

triển nông nghiệp, nông thôn, hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi và công trình bổ sung

nước ngầm để có đủ năng lực tưới, tiêu, khắc phục nhanh chóng tình hình hạn hán

nếu xảy ra, đảm bảo yêu cấp cấp nước cho công nghiệp dân sinh và nuôi trồng thủy

sản. Phấn đấu đến năm 2015 hoàn thiện cơ bản hệ thống thủy lợi các vùng trong cả

nước và hoàn thành các hồ chứa nước lớn.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:

- Tốc độ tăng trưởng nông lâm thuỷ sản đạt 4-5%/ năm, duy trì diện tích đất

trồng lúa đủ bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài;

kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết

cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp 2,5 lần so với hiện

nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% trong tổng lực lượng lao động, tỷ lệ

nông động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới

khoảng 50%.

3.1.3. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải

Huy động cao nhất nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ,

ODA và các thành phần kinh tế khác…để hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông

vận tải thiết yếu đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và hành khách giữa các

vùng và với các nước trong khu vực, đường tuần tra biên giới, góp phần đảm bảo

quốc phòng, an ninh. Hoàn thành cơ bản và đưa vào hoạt động hệ thống đường cao

tốc, quốc lộ, các tuyến đường sắt, các tuyến đường sông chủ yếu. Tiếp tục xây dựng

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 80 Kinh tế TNTN và Môi trường

đồng bộ hệ thống giao thông ở các vùng kinh tế trọng điểm. Mở rộng và hiện đại

hoá các đầu mối giao lưu quốc tế - các cảng biển, cảng hàng không quốc tế. Phát

triển mạnh mẽ giao thông đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để từng bước

giải quyết nạn ùn tắc giao thông. Rà soát, cập nhật chiến lược và các quy hoạch

chuyên ngành (đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển, hàng không)

cho phù hợp với định dướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.

3.1.4. Phát triển hạ tầng đô thị và khu dân cư

Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị,

hoàn thiện hệ thống cấp nước sinh hoạt, cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công

nghiệp. Tiếp tục thực hiện cải tạo và xây dựng mới hệ thống cấp nước sạch ở nông

thôn, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền núi. Giải quyết cơ bản vấn đề

thoát nước, xử lý nước thải, chất thải rắn ở các khu đô thị, các khu công nghiệp và

một số khu đô thị, các làng nghề và các khu dân cư tập trung đang ô nhiễm nặng.

Cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông đô thị ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh và các đô thị trực thuộc trung ương. Phát triển mạnh các khu đô thị mới

đặc biệt là các khu dân cư ngoại thành để tăng diện tích nhà ở, vừa phát triển các đô

thị vừa đáp ứng nhu cầu chỉnh trang các khu đô thị hiện có. Xoá nhà tạm tại các đô

thị, giải quyết cơ bản các khu nhà ở không an toàn trong đô thị. Phát triển các đô thị

mới theo hướng hiện đại. Tiếp tục triển khai hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tộc

thiểu số tại chỗ có khó khăn về nhà ở. Bổ sung một số cơ chế để đầu tư đồng bộ cơ

sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, gắn với giải quyết việc làm mới phù hợp với

điều kiện tự nhiên và tập quán địa phương, đảm bảo cho nhân dân yên tâm sinh

sống tại các cụm tuyến dân cư.

3.1.5. Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội

- Khoa học và công nghệ: tập trung đầu tư trang thiết bị để tạo điều kiện

thuận lợi cho cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học. Đầu tư tăng cường trang

thiết bị thu thập, xử lý, khai thác và truyền bá thông tin. Đầu tư có trọng tâm, trọng

điểm, tạo sự bứt phá từng thời kỳ và giai đoạn cụ thể để phục vụ xây dựng đường

lối chính sách, phát triển kinh tế xã hội. Tập trung các nguồn vốn trước hết cho các

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 81 Kinh tế TNTN và Môi trường

viện nghiên cứu đầu ngành, hai trung tâm khoa học, các phòng thí nghiệm trọng

điểm; các khu công nghệ cao; một số trung tâm công nghệ phần mềm; tăng cường

đầu tư cho các cơ sở ứng dụng chuyển giao công nghệ và tiến tới phát triển công

nghệ cao có lợi thế. Đầu tư xây dựng các khu công nghệ cao ở Hoà Lạc và ở thành

phố Hồ Chí Minh.

- Giáo dục đào tạo: tập trung vốn đầu tư cho việc xây dựng các trường Đại

học quốc gia, một số trường đại học trọng điểm và các trường đại học vùng. Thu hút

thêm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước để đầu tư hệ thống các trường

dạy nghề. Chú trọng việc đầu tư chiều sâu, nâng cấp và tăng cường cơ sở vật chất

của các trường đại học và cao đẳng, các trường trung học và dạy nghề. Đầu tư hoàn

thiện và hiện đại hoá các phòng thí nghiệm thuộc các trường đại học quan trọng, các

trường kỹ thuật. Tăng cường đầu tư bổ sung thêm các thiết bị dạy và học để nâng

cao chất lượng đào tạo. Xây dựng thêm ký túc xá cho sinh viên. Hỗ trợ đầu tư các

trường ngoài công lập. Xây dựng mới các trường đại học ở các vùng miền núi phía

Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long như: Đại học Tây Bắc, Đại học văn

hoá miền Tây và đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đại học Y dược Cần Thơ. Phát hành

trái phiếu Chính phủ để đầu tư kiên cố hoá hệ thống trường lớp học phổ thông; đầu

tư bổ sung phòng học cho các trường tiểu học để tạo điều kiện cho học sinh học 2

buổi một ngày.

- Y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: cần tập trung đầu tư để nâng cấp và

hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; đầu tư hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc gia: trạm y

tế xã, phường, thị trấn. Đầu tư mạng lưới khám chữa bệnh theo địa bàn dân cư. Hỗ

trợ vốn đầu tư cho các bệnh viện lao, các viện nghiên cứu và phòng chống sốt rét;

các bệnh viện tâm thần; các cơ sở sản xuất vắc xin. Hoàn thành đầu tư cho các trung

tâm y tế chuyên sâu Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và miền Trung (Huế-Đà

Nẵng) và thành phố Cần Thơ.

3.2. DỰ BÁO VỀ CÂN ĐỐI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7%-7,5% và thực hiện khâu đột

phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, trong đó tập trung

vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn…Do đó, đòi hỏi giai đoạn 2011-2015

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 82 Kinh tế TNTN và Môi trường

phải tiếp tục huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển.

Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011-2015 tình hình kinh tế thế giới và trong nước có

nhiều khó khăn, dự báo khả năng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội sẽ

khó khăn hơn giai đoạn trước và để đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu lại nền kinh tế,

trong đó một trong các trọng tâm cần thực hiện là tái cơ cấu đầu tư. Giai đoạn

2011-2015 dự kiến huy động tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khoảng

37-38% GDP. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2011-2015

theo giá thực tế dự kiến khoảng 6.660 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 290 tỷ

USD. Trong đó: nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 75-80%, nguồn vốn ngoài

nước chiếm khoảng 20-25%.

Trong tổng số nguồn vốn đầu tư toàn xã hội nói trên, đầu tư từ nguồn vốn

ngân sách Nhà nước dự kiến khoảng 1.300 nghìn tỷ đồng, chiếm 19 -20%; đầu tư

từ trái phiếu Chính phủ dự kiến khoảng 225 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,6-3,8%; đầu

tư từ vốn tín dụng nhà nước dự kiến khoảng 295 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng

4,6-4,8%; đầu tư từ vốn doanh nghiệp nhà nước dự kiến khoảng 582 nghìn tỷ

đồng, chiếm khoảng 8,8-9,2%; đầu tư từ vốn của khu vực dân cư và doanh nhiệp

tư nhân dự kiến 3.170 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 46-50%; đầu tư từ nguồn vốn

đầu tư trực tiếp của nước ngoài dự kiến khoảng 950 nghìn tỷ đồng, tương đương

khoảng 41,2 tỷ USD (không bao gồm phần đóng góp ở trong nước), chiếm

khoảng 14,5-16%;…Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong 5 năm

2011-2015 dự kiến vốn cam kết khoảng 32-34 tỷ USD, giải ngân khoảng 14-16 tỷ

USD. Đầu tư gián tiếp của nước ngoài 5 năm dự kiến khoảng 9-12 tỷ USD.

Cân đối ngân sách Nhà nước: Với mục tiêu cân đối ngân sách Nhà nước

một cách tích cực, theo hướng giảm dần bội chi, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và

đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phấn đấu mức động viên vào ngân sách Nhà nước

bình quân 5 năm khoảng 25-26% GDP, trong đó thuế và phí đạt mức 24-25%; dự

kiến tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước trong 5 năm 2011-2015 khoảng 4.000

nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006-2010; tốc độ tăng thu ngân sách

bình quân khoảng 16-18%/năm. Cơ cấu thu dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng tỷ

trọng các nguồn thu nội địa tăng lên cùng với quá trình nâng cáo chất lượng và

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 83 Kinh tế TNTN và Môi trường

hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế; tỷ trong thu từ dầu thô và hoạt động xuất

nhập khẩu giảm xuống cùng với quá trình hội nhập và giảm thuế nhập khẩu.

Chi ngân sách được xây dựng trên cơ sở cân đối với nguồn thu, đồng thời

đáp ứng các yêu cầu ưu tiên cho đầu tư phát triển, đảm bảo trả được nợ của Chính

phủ và kiểm soát mức nợ trong và ngoài nước trong giới hạn an toàn. Quy mô chi

ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011-2015 trên 5.000 nghìn tỷ đồng, bằng 30-31%

so với GDP. Tốc độ tăng chi ngân sách Nhà nước tăng bình quân khoảng

16%/năm. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng,

tăng tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nhằm hoàn thiện xây dựng hệ

thống kế cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại, đảm bảo mục tiêu an ninh- quốc phòng.

Chi đầu tư phát triển bình quân 5 năm tối thiểu bằng 26-27% tổng chi ngân sách

Nhà nước.

Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước trong GDP phấn đấu theo hướng giảm

dần, bình quân 5 năm duy trì mức 5% GDP, phấn đấu đến năm 2015 đưa bội chi

ngân sách Nhà nước xuống còn 4,5% GDP. Bội chi ngân sách Nhà nước sẽ được

bù đắp bằng 2 nguồn là vay trong nước và vay nước ngoài.

3.3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ

CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

3.3.1. Nghiên cứu ban hành văn bản luật riêng để quy định về quản lý đầu tư phát

triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước

Như đã phân tích trong chương 2, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành

chưa xác định r yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư công, đối tượng và

nội dung quản lý trong các khâu quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển khai

thực hiện dự án, quản lý sử dụng vốn, quản lý khai thác dự án và một số vấn đề

khác. Luật Xây dựng năm 2003 được ban hành và các nghị định hướng dẫn Luật

này chỉ hướng dẫn về các công việc liên quan đến hoạt động xây dựng; còn vấn đề

về đầu tư tuy đã được điều chỉnh tại Luật Đầu tư năm 2005 nhưng riêng lĩnh vực

đầu tư công thì Luật này quy định chưa cụ thể, chưa r và vẫn đang phải thực hiện

theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 84 Kinh tế TNTN và Môi trường

52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ và các Nghị định sửa đổi, bổ sung

quy chế nói trên gồm Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000, Nghị định số

07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003.

Hiện nay các nội dung của hoạt động đầu tư công gồm: kế hoạch đầu tư,

phân bổ và quản lý các nguồn lực đầu tư qua các chương trình, dự án đầu tư, tổ

chức quản lý quá trình đầu tư từ khâu quy hoạch, kế hoạch đến khâu khai thác sử

dụng các dự án đầu tư, kiểm tra, giám sát, đánh giá các dự án đầu tư để đảm bảo

hiệu quả đầu tư chưa được văn bản Luật nào quy định. Do vậy, việc ban hành văn

bản luật để quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước (có

thể gọi là Luật Đầu tư công) sẽ bổ sung kịp thời những nội dung còn thiếu cho phù

hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, góp phần vào hoàn thiện hệ thống pháp luật

về đầu tư; đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quản lý, chống thất thoát và

lãng phí trong đầu tư sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước là một vấn đề hết sức

cấp bách, có ý nghĩa quan trọng.

3.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư xây dựng cơ

bản và thực hiện quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo quy hoạch

Nhà nước cần giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng với các Bộ Xây

dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công

thương,… và các địa phương rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công

tác quy hoạch một số ngành lớn (Giao thông, Thuỷ lợi…) cũng như quy hoạch phát

triển kinh tế chung trên phạm vi cả nước, một số vùng và địa phương trọng điểm.

Trên cơ sở rà soát, đánh giá tiến hành điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, Nhà nước

phải có một quyết định về hệ thống quy hoạch tổng thể đồng bộ một số ngành lớn

và quy hoạch phát triển kinh tế trong phạm vi cả nước cho giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2050. Quy hoạch mới được quyết định phải đáp ứng nhiệm vụ chiến lược trong việc phát triển kinh tế - xã hội - quốc phòng của Việt Nam; song phải phù hợp với các điều kiện thực tế của nước ta nhất là vấn đề sử dụng đất nông nghiệp. Đồng thời phải đưa ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng trên phạm

vi cả nước để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trung

và dài hạn.

- Hoàn thiện chế độ và quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm,

quyền hạn nhất là mối quan hệ về công tác quy hoạch giữa các tổ chức làm công tác

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 85 Kinh tế TNTN và Môi trường

quy hoạch như các Viện quy hoạch của các Bộ, ngành Trung ương với nhau và các Viện của Bộ với các tổ chức làm công tác quy hoạch ở địa phương. Một số quy

hoạch cần thiết phải thuê nước ngoài làm.

- Đối với công tác quy hoạch phải được thực hiện quản lý từ khâu kế hoạch

hoá, cấp phát vốn, quyết toán vốn như các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp hiện nay. Trong chế độ cần quy định r loại quy hoạch nào là đề tài cấp Nhà nước, quy

hoạch nào cấp Bộ, ngành, cấp địa phương; đồng thời quy định r về trách nhiệm vật chất đối với chủ nhiệm đề tài.

- Nhà nước cần ban hành chế độ bắt buộc trong đầu tư: Bất cứ một dự án nào

(không phân biệt nguồn vốn, cấp quản lý) nếu không có trong quy hoạch hoặc

không đáp ứng yêu cầu cơ bản của quy hoạch đã được duyệt sẽ không được bố trí

vốn và không được tiến hành đầu tư xây dựng. Kiên quyết không được điều chỉnh quy hoạch theo dự án, nếu cố tình thực hiện đầu tư xây dựng thì người đứng đầu

cao nhất (không phân biệt chức vụ) của dự án sẽ bị xử lý theo pháp luật.

- Ban hành cơ chế, quy định công khai quy hoạch và định kỳ các Bộ, ngành,

địa phương báo cáo Quốc hội, Hội đồng nhân dân tiến độ thực hiện quy hoạch.

3.3.3. Nâng cao chất lượng của công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án

đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách Nhà nước

Để nâng cao chất lượng công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu

tư công, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:

Thứ nhất, thường xuyên rà soát việc thực hiện các dự án đầu tư đã được cấp

vốn tại các bộ, ngành, địa phương nhằm đánh giá tiến độ, khối lượng và khả năng

hoàn thành đúng thời hạn quy định của các dự án, từ đó có những điều chỉnh thích

hợp, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của chủ dự án đối với công trình đầu tư

đã được cấp phép. Kiên quyết cắt, giảm, đình chỉ đối với những dự án, công trình

chậm trễ về tiến độ (do nguyên nhân chủ quan), dự án chưa cần thiết, dự án thiếu về

trình tự, thủ tục đầu tư và tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ các dự án đang thi

công, sớm đưa dự án vào sử dụng, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội. Cần phải

nghiêm khắc trong xử lý sai phạm. Người đứng đầu cao nhất của các tổ chức thẩm

định và cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư, phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật về kết quả các quyết định thẩm định, quyết định đầu tư dự án.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 86 Kinh tế TNTN và Môi trường

Thứ hai, Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư. Đối với các công trình, dự án có tầm quan trọng đối với đời sống nhân dân, chương

trình mục tiêu quốc gia như “Chương trình Xoá đói giảm nghèo và việc làm”,

“Chương trình Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn” thì cần tập trung vốn

đầu tư cho hiệu quả, đưa các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có khả năng thu hồi vốn ra khỏi danh mục tín dụng đầu tư ưu đãi của Nhà nước, để tập trung cho

các công trình phúc lợi xã hội và các công trình hạ tầng xã hội. Theo đó, các dự án đầu tư phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy

hoạch phát triển ngành, quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng v.v… đảm bảo tính

hợp lý trong thiết kế và năng lực của các chủ thể lập dự án - là các Bộ, ngành, địa

phương, tránh tình trạng các dự án chồng chéo lên nhau, hoặc có dự án nhưng

không giải ngân được vốn do năng lực kém, phải chuyển nguồn vốn năm sau.

Thứ ba, cần hình thành cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ đủ thẩm quyền

và có tính chịu trách nhiệm cao, không bị ràng buộc bởi những lợi ích cục bộ của

ngành và của địa phương để đánh giá tính hiệu quả của các dự án đầu tư. Kết quả

khảo sát, đánh giá sau đó cần phải được công bố công khai, minh bạch nhằm đảm

bảo tính khách quan của công tác giám sát và nhận sự phản biện, góp ý từ người dân

- là người bỏ tiền và thụ hưởng những công trình, dự án đó. Đây là nhiệm vụ có ý

nghĩa quan trọng nhằm loại bỏ dần tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng, tách

chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong tất cả các khâu trong

quản lý đầu tư, xây dựng, người ra quyết định đầu tư sẽ không còn “kiêm nhiệm”

chủ đầu tư. Có như vậy mới có thể đánh giá được chính xác kết quả hoạt động và

hiệu quả thực tế của các dự án đầu tư, loại bỏ tình trạng cả nể, chủ quan, buông xuôi trong quản lý. Ngoài ra, cần phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các dự án

đầu tư công: dự án thế nào là hiệu quả, chưa hiệu quả, dự án chậm trễ, sai phạm ở

mức độ nào thì cần phải đình hoãn, cắt giảm vốn hoặc thu hồi, xoá bỏ.

3.3.4. Hoàn thiện công tác lập và quản lý thực hiện kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát

triển thuộc ngân sách Nhà nước

Việc thực hiện tốt công tác lập và quản lý thực hiện kế hoạch phân bổ vốn

đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước góp phần giải quyết tránh tình

trạng đầu tư dàn trải, có kế hoạch khắc phục tình hình nợ đọng trong xây dựng cơ

bản, gây lãng phí cho ngân sách Nhà nước. Để làm tốt công tác này chúng ta cần

thực hiện các bước như sau:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 87 Kinh tế TNTN và Môi trường

Thứ nhất, xây dựng tốt kế hoạch định hướng đầu tư 5 năm:

Kế hoạch đầu tư 5 năm là công cụ quản lý về đầu tư xây dựng các dự án,

công trình, nó đảm bảo sử dụng tập trung, có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước

và địa phương. Kế hoạch 5 năm cần đặt ra nhiệm vụ giải quyết vấn đề nguồn lực,

phân bổ nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển tối ưu của một số ngành, lĩnh vực vừa

đảm bảo các yêu cầu tối thiểu cần thiết cho các lĩnh vực khác. Vì vậy kế hoạch 5

năm cần có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương, các

ngành kinh tế và các tổ chức kinh tế - xã hội, mọi tầng lớp dân cư tham gia. Mọi

hoạt động đầu tư xây dựng phải được thể hiện trong kế hoạch đầu tư 5 năm và hàng

năm của các Bộ, ngành và địa phương.

Kiên quyết không phê duyệt các dự án khi chưa r nguồn vốn và đình hoãn

thực hiện các công trình dự án không r phương án tài chính và khả năng huy động

vốn; thiếu hiệu quả chưa sát với yêu cầu thiết thực của ngành và địa phương. Các

cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư cần tiến hành soát xét và chịu trách nhiệm đối

với các công trình đang xây dựng và dự định khởi công để đảm bảo hiệu quả đầu tư,

tránh tình trạng đầu tư dàn trải, có kế hoạch khắc phục tình hình nợ đọng trong xây

dựng cơ bản.

Thứ hai, tiến tới thực hiện công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư trung hạn - hoàn

thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư theo niên độ sang cơ chế quản lý theo giai đoạn và

theo dự án

Kế hoạch hoá đầu tư xây dựng cơ bản trung hạn (3 hoặc 5 năm) là một căn

cứ quan trọng, là định hướng và kim chỉ nam cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư

hàng năm.

Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư trung

hạn và cơ chế quản lý theo niên độ và theo tiến độ thực hiện dự án, cụ thể:

- Trong những năm tới Nhà nước phải khôi phục bổ sung chế độ kế hoạch

hoá vốn đầu tư trung hạn thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Việc xác định kế

hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trung hạn 3 hoặc 5 năm phải phù hợp với các kỳ kế

hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn của cả nước và nhiệm kỳ Đại hội Đảng Cộng

sản Việt Nam. Kế hoạch này sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm từ khâu

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 88 Kinh tế TNTN và Môi trường

tổ chức lập, tổng hợp trình Nhà nước quyết định và chịu trách nhiệm về mọi mặt với

những quyết định của mình trước Chính phủ.

Trong chế độ kế hoạch hoá vốn đầu tư trung hạn cần phải quy định r những

căn cứ để tính toán trong quá trình xây dựng kế hoạch của cả nước, cũng như từng

ngành, từng địa phương - những căn cứ này phải đảm bảo tính khoa học và thực

tiễn, song phải đơn giản trong phương pháp tính toán. Đồng thời trong kế hoạch đầu

tư trung hạn của các ngành, các địa phương phải thể hiện danh mục một số dự án và

mức vốn đầu tư hàng năm từng dự án được khởi công hoặc hoàn thành (trong kỳ kế

hoạch trung hạn).

- Nhà nước ban hành mới quy chế quản lý vốn đầu tư theo niên độ và theo dự

án. Trong chế độ cần quy định bắt buộc cơ quan các cấp từ Trung ương đến địa

phương có chức năng tham gia quản lý vốn đầu tư phải thực hiện theo một số

nguyên tắc sau:

+ Trong kế hoạch đầu tư theo dự án phải thể hiện mức vốn đầu tư hàng năm

(thuộc kỳ kế hoạch).

+ Trong kế hoạch đầu tư hàng năm đối với các dự án chuyển tiếp phải bố trí

bằng hoặc cao hơn mức vốn đầu tư của năm đó đã được ghi trong kế hoạch đầu tư

theo dự án (được cấp có thẩm quyền phê duyệt).

- Để đảm bảo việc phân bổ vốn tập trung vào một đầu mối đề nghị chuyển

chức năng bố trí, phân bổ vốn đầu tư từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Bộ Tài chính.

3.3.5. Hoàn thiện công tác tư vấn trong đầu tư xây dựng cơ bản

Để nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án có nhiều giải pháp, trong đó kết quả

của các công tác tư vấn trong tất cả các giai đoạn hoạt động đầu tư rất quan trọng vì

đó là cơ sở để các chủ dự án cũng như cấp trên chủ dự án đưa ra những kết luận,

quyết định đúng mang lại hiệu quả cao trong quá trình đầu tư dự án.

Để có những kết quả đúng trong công tác tư vấn, những năm tới công tác tư

vấn đầu tư (trong đó có tư vấn quản lý dự án, tư vấn giám sát) cần phải hoàn thiện

một số giải pháp sau:

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 89 Kinh tế TNTN và Môi trường

Một là, trên cơ sở hiện có về các tổ chức tư vấn đối với mọi lĩnh vực trong

hoạt động đầu tư (từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, xây dựng dự án, khai thác sử dụng

dự án) ở các ngành, địa phương - Nhà nước nghiên cứu tổ chức sắp xếp lại để xây

dựng một hệ thống tổ chức tư vấn hoạt động theo quy định của pháp luật, phải có đủ

năng lực (nhất là năng lực cán bộ) am hiểu trong mỗi lĩnh vực của quá trình hoạt

động đầu tư.

Hai là, Nhà nước cần ban hành các văn bản quy định r trách nhiệm về kết

quả tư vấn của các tổ chức tư vấn, chủ đầu tư, người đứng đầu cơ quan thẩm định

và phê duyệt dự án đầu tư theo nguyên tắc:

- Chủ đầu tư bị xử lý hành chính tuỳ theo mức độ thiệt hại do sử dụng tư vấn

không phù hợp với điều kiện về năng lực lập dự án đầu tư, cung cấp thông tin sai

lệch, thẩm định, nghiệm thu không theo đúng quy định và những hành vi vi phạm

khác gây thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

- Tổ chức và các cá nhân tư vấn: chịu trách nhiệm về kết quả công tác tư vấn;

bồi thường thiệt hại khi sử dụng các thông tin, tài liệu, quy chuẩn, tiêu chuẩn xây

dựng, các giải pháp kỹ thuật không đúng làm cho kết quả của công tác tư vấn sai

lệch, cũng như các vi phạm khác gây thiệt hại cho dự án do lỗi của tổ chức tư vấn

gây ra.

3.3.6. Thực hiện tốt cơ chế giám sát, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng của

hoạt động đầu tư công

Thứ nhất, về giám sát, đánh giá đầu tư: thực hiện giám sát trong tất cả các

khâu trong quá trình đầu tư, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xem xét, đánh giá

cụ thể tình hình, kết quả trong đầu tư và kịp thời rút kinh nghiệm chấn chỉnh trong

quản lý. Dự án chỉ được bố trí kế hoạch và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư khi thực

hiện đầy đủ các quy định giám sát, đánh giá đầu tư. Các Bộ, ngành, địa phương,

đơn vị nghiêm chỉnh thực hiện các quy định về giám sát, đánh giá đầu tư năm 2011

theo Quy định tại Nghị định số 113/2009/NĐ-CP ngày 15/12/2009 của Chính phủ

về giám sát và đánh giá đầu tư, Thông tư số 13/2010/TT-BKH ngày 2/6/2010 của

Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 90 Kinh tế TNTN và Môi trường

Thứ hai, về giám sát cộng đồng: Cơ chế giám sát cộng đồng trong hoạt động

đầu tư xây dựng của các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp nhà nước được

Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày

18/4/2005. Qua giám sát, cộng đồng có thể phát hiện và báo cáo cho cơ quan có

thẩm quyền về những việc làm xâm hại đến lợi ích của mình; những tác động tiêu

cực của dự án đến môi trường sinh sống của cộng đồng trong quá trình thực hiện

đầu tư, vận hành dự án, từ đó góp phần làm giảm thiểu các hành vi gian lận, sai trái

của các cơ quan, đơn vị thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, nâng cao hiệu quả

đầu tư công. Để cơ chế này đi vào thực tế và phát huy tác dụng, cần thực hiện

những giải pháp sau:

- Công khai hoá các thông tin về hoạt động đầu tư công theo quy định của

Nhà nước. Chỉ khi nào công tác công khai hoá thông tin tốt thì người dân mới biết

để tham gia và giám sát cộng đồng mới đạt hiệu quả. Ví dụ như đầu tư sau khi có

quyết định được duyệt, phải công khai quyết định ở nơi thực hiện dự án về chủ đầu

tư, diện tích sử dụng đất, nguồn vốn, ai thiết kế, ai thi công và công khai ở nơi công

cộng như trụ sở uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố - nơi thực hiện dự án.

- Cần có một tổ chức đủ mạnh và có uy tín (như Mặt trận Tổ quốc) ở địa

phương sở tại để thu thập, thẩm định lại ý kiến đóng góp (vì nhiều khi ý kiến của

cộng đồng không thực sự chuẩn xác) và tổ chức để cho người dân, cộng đồng thực

hiện ý kiến đóng góp cho dự án. Phản ánh của người dân, theo quy chế, phải được

thực hiện qua Ban giám sát là để phần nào đó tránh gây phiền hà, phức tạp trong

quá trình quản lý điều hành, triển khai dự án của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà

thầu, đồng thời tránh chuyện người dân biết sai phạm mà không biết phản ánh với ai

hoặc họ tiến hành những hoạt động giám sát mang tính tự phát. Ngoài ra, cộng đồng

cũng cần giám sát việc giải quyết này phải giải quyết đến nơi đến chốn. Đây là quy chế dành cho cộng đồng, nên cần phải được tuyên truyền, phổ biến sâu đến tất cả cộng đồng dân cư biết để thực hiện. - Có cơ chế khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với các cá nhân, tổ

chức, báo chí, cơ quan ngôn luận có công khám phá ra những sai phạm trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Có như vậy, chất lượng của các dự án đầu tư công mới được cải thiện, góp phần giảm thất thoát lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư công.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 91 Kinh tế TNTN và Môi trường

- Cần đặc biệt đề cao và thực hiện tốt vai trò của các cơ quan dân cử là Hội đồng nhân dân các cấp cho đến Quốc hội trong việc quyết định và giám sát các hoạt

động đầu tư công theo đúng quy định của pháp luật.

3.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán đối với nguồn vốn

đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước

- Nhà nước cần phải sớm ban hành một quy chế về việc phối hợp trong công

tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán giữa các tổ chức như ban thanh tra, vụ thanh tra…

của các bộ, ngành trung ương; giữa các tổ chức có chức năng kiểm tra, thanh tra,

kiểm toán của các sở, ban, ngành ở địa phương. Ví dụ, hàng năm các tổ chức kiểm

tra, thanh tra, kiểm toán nói trên phải xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra để cùng

trao đổi, nếu có sự chồng chéo ở một số dự án nào phải có kế hoạch phối hợp cụ thể

để cùng nhau thực hiện. Đồng thời phải quy định nếu một dự án không có một vụ việc gì nghiêm trọng xảy ra, thì các tổ chức có chức năng kiểm tra, thanh tra các cấp

cùng phối hợp chỉ tiến hành công tác thanh tra một số lần trong một năm.

- Cần phải bổ sung trong tất cả các chế độ về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ

bản nội dung: Cơ quan thanh tra các cấp có quyền và phải thực hiện thanh tra việc

phân bổ kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân

sách nhà nước của các bộ, ngành, địa phương.

- Đối với công tác thanh quyết toán, cần ban hành quy định: nếu thanh toán

khống thì ngoài việc giảm trừ khi thanh quyết toán cần đưa ra điều tra truy tố trước

pháp luật. Nếu kết luận thanh tra sai, trưởng đoàn công tác thanh tra phải hoàn toàn

chịu trách nhiệm theo pháp luật hiện hành.

3.3.8. Xây dựng, hoàn thiện tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách

Nhà nước .

Qua việc tìm hiểu và phân tích quá trình quản lý chi vốn ngân sách Nhà nước

cho hoạt động đầu tư phát triển ở nước ta trong thời gian qua và qua những phân

tích ở trên, tác giả xin kiến nghị một mô hình quản lý chi vốn ngân sách Nhà nước

cho hoạt động đầu tư phát triển trong giai đoạn tới đây như sau:

3.3.8.1. Nhà nước thống nhất quản lý đối với chi vốn đầu tư phát triển thuộc

ngân sách Nhà nước

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 92 Kinh tế TNTN và Môi trường

Nguyên tắc quản lý Nhà nước thống nhất đối với chi ngân sách Nhà nước, đề

nghị sửa đổi theo hướng quy định thống nhất một đầu mối tổng hợp dự toán Ngân

sách Nhà nước; theo đó Bộ Kế hoạch và đầu tư lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội, các cân đối chủ yếu của nền kinh tế làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài

chính và lập dự toán ngân sách. Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc lập dự toán

ngân sách và phương án phân bổ ngân sách trung ương hàng năm. Đồng thời, quy

định r nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tài chính các cấp chịu trách nhiệm lập dự

toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách, bao gồm dự toán và phương án

phân bổ chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi thường xuyên.

3.3.8.2. Phân định rõ trách nhiệm các bộ trong quản lý các chương trình mục

tiêu quốc gia

Quyền hạn, trách nhiệm về lập dự toán và phân bổ vốn chương trình mục tiêu

quốc gia bị phân tán giữa Bộ quản lý ngành, lĩnh vực với Bộ Tài chính và Bộ Kế

hoạch và đầu tư; giữa Bộ Tài chính với Bộ Kế hoạch và đầu tư; giữa các Bộ với Hội

đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân địa phương. Phức tạp về thủ tục hành chính (các

Bộ quản lý chương trình báo cáo, giải trình với nhiều cơ quan), không gắn trách

nhiệm phân bổ, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia với trách nhiệm giải

trình trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Vì vậy khó đảm bảo sự tập trung, thống

nhất cao, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả thực hiện chương trình.

Do vậy, đề nghị quy định thống nhất nhiệm vụ quản lý các chương trình mục

tiêu quốc gia, theo đó:

- Bộ quản lý chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng chương trình (mục

tiêu, kinh phí, lộ trình); Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính thẩm định trình Thủ

tướng Chính phủ để trình Quốc hội phê duyệt.

- Hàng năm, Bộ quản lý chương trình mục tiêu quốc gia đề xuất với Bộ Tài

chính mức cân đối ngân sách cho từng chương trình mục tiêu quốc gia và dự kiến

phân bổ kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia cho từng Bộ, cơ quan trung ương,

địa phương; Bộ Tài chính thẩm định, tổng hợp chung vào dự toán ngân sách của

Bộ, ngành, địa phương báo cáo Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 93 Kinh tế TNTN và Môi trường

3.3.8.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước

Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính là cơ

quan quản lý nhà nước về thu, chi ngân sách Nhà nước nhưng chỉ mới thực hiện

chức năng quản lý đối với chi thường xuyên; riêng lĩnh vực chi ngân sách cho đầu

tư xây dựng cơ bản vẫn chủ yếu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Để thực hiện

cải cách hành chính, cần tập trung một đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về chi ngân sách Nhà nước (bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư xây

dựng cơ bản) do Bộ Tài chính đảm nhiệm.

Để đáp ứng được yêu cầu trên, phải thống nhất tất cả các khâu của quá trình

quản lý dự án đầu tư về cùng một tổ chức, có thể gọi tên là Cục quản lý vốn đầu tư

(trực thuộc Bộ Tài chính); dưới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là các

Phòng quản lý vốn đầu tư (thuộc Sở Tài chính); cụ thể:

- Thành lập Cục Quản lý vốn đầu tư trên cơ sở Vụ Đầu tư của Bộ Tài chính

hiện nay và giao thêm một số nhiệm vụ mới về phân bổ vốn đầu tư. Theo đó, ngoài

chức năng, nhiệm vụ như các Vụ tham mưu thuộc Bộ, Cục có đặc điểm riêng và

thực hiện một số nhiệm vụ khác biệt như:

Là một tổ chức độc lập quản lý vốn đầu tư của Nhà nước, cần có vị trí tương

đối độc lập trong công tác quản lý tài chính đầu tư để trực tiếp thực hiện một số

công việc cụ thể về quản lý vốn đầu tư, gồm:

+ Phân bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm;

+ Thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành (dự án trọng điểm quốc gia);

+ Tham gia thẩm định các dự án đầu tư theo quy định;

+ Thực hiện kiểm tra, trực tiếp trả lời, xử lý các vướng mắc trong quá trình

quản lý vốn đầu tư (ở tất cả các khâu: thẩm định dự án, phân bổ dự toán, điều hành

vốn, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư) đối với các đơn vị, cơ quan, tổ chức ở

Trung ương và địa phương.

Mô hình tổ chức như trên có thể tạo ra những ưu điểm:

Thứ nhất, có thể thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về tài chính đầu tư.

Thứ hai, có thực tế để nghiên cứu xây dựng hoàn thiện chế độ chung về quản lý

tài chính đầu tư phát triển, huy động và sử dụng các nguồn vốn.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 94 Kinh tế TNTN và Môi trường

Thứ ba, có thể tổ chức tốt công tác hướng dẫn thực hiện các chế độ chung liên

quan đến nhiều Bộ, ngành và vùng lãnh thổ về quản lý tài chính đầu tư.

Thứ tư, hạn chế, ngăn chặn được phần lớn tệ quan liêu, tham nhũng trong đầu

tư xây dựng cơ bản.

Thứ năm, khắc phục được những hạn chế và tình trạng cắt khúc quản lý như

hiện nay.

Kết luận chương 3

Dựa trên hệ thống cơ sở lý luận về đầu tư, đầu tư phát triển, về cơ chế quản

lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước và những nội dung, nguyên

tắc quản lý chi vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của

ngân sách nhà nước. Đồng thời căn cứ vào những kết quả phân tích, đánh giá thực

trạng đầu tư, quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng vốn

ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1999 đến nay. Tác giả luận

văn đã nghiên cứu đề xuất 8 giải pháp cụ thể và khả thi nhằm hoàn thiện hoàn thiện

cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn

vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn tới.

Vấn đề xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho

các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước là một vấn đề lớn,

khó khăn và phức tạp, liên quan đến một hệ thống văn bản luật định đồ sộ, thường

xuyên đổi mới và tổ chức quản lý, thực hiện nhiều cấp liên quan đến nhiều bộ

ngành,... Tuy nhiên, để giải quyết được những bất cập, tồn tại và yếu kém trong

thực tiễn quản lý hoạt động này trong thời gian vừa qua, chúng ta rất cần sự đồng

tâm, hiệp lực và kiên quyết trong việc tiến hành áp dụng các giải pháp hoàn thiện

công tác quản lý chi ngân sách nói riêng, công tác quản lý hoạt động đầu tư xây

dựng cơ bản nói chung.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 95 Kinh tế TNTN và Môi trường

KẾT LUẬN

Thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện đất nước, những năm

qua nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng ổn định, đời sống nhân dân từng bước

được cải thiện, đầu tư xã hội tăng cao, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ

thuật. Việc ưu tiên sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước để chi đầu tư

xây dựng cơ sở hạ tầng đã thực sự tạo ra đòn bẩy quan trọng để tăng trưởng và phát

triển kinh tế - xã hội, tăng năng lực sản xuất cho các ngành kinh tế trong nền kinh tế

quốc dân, tăng tiềm lực cho quốc phòng - an ninh. Với những công trình giao thông,

cảng biển hiện đại, cơ sở công nghiệp đa dạng đã và đang phục vụ có hiệu quả công

cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần tạo nên vóc dáng

mới cho đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý chi vốn đầu tư phát

triển thuộc ngân sách Nhà nước cũng còn những hạn chế, bất cập, trong đó vấn đề

vốn đầu tư sử dụng lãng phí, kém hiệu quả đang diễn ra hết sức phức tạp. Do vậy,

việc nghiên cứu tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư

phát triển của ngân sách Nhà nước là một yêu cầu cấp thiết đối với tiến trình phát

triển của đất nước ta và cũng là mục đích nghiên cứu của luận văn.

Bản luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:

- Đã hệ thống và cập nhật một các đầy đủ cơ sở lý luận về đầu tư phát triển,

như: các khái niệm liên quan đến cơ chế, cơ chế quản lý chi, vốn đầu tư phát triển,

vốn ngân sách Nhà nước, dự án đầu tư, hiệu quả đầu tư; Nội dung, nguyên tắc quản

lý chi vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của ngân sách

nhà nước;

- Phân tích, đánh giá làm r thực trạng đầu tư, quản lý chi vốn đầu tư phát

triển cho các dự án đầu tư xây dựng vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai

đoạn từ năm 1999 đến nay. Quan đó đánh giá khách quan, trung thực những kết quả

đạt được và chỉ r những tồn tại, nhược điểm cần tập trung khắc phục;

- Luận văn đã nêu được những quan điểm định hướng và đề xuất một số giải

pháp cụ thể và khả thi nhằm hoàn thiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 96 Kinh tế TNTN và Môi trường

vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; nhằm mục đích tiếp tục phát

huy hơn nữa vai trò đặc biệt của nguồn vốn này trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước.

Với mong muốn đạt được bản luận văn có chất lượng, thể hiện những kiến

thức đã thu nhận và tìm hiểu được trong quá trình học tập, để góp phần đóng góp

giải pháp thiết thực cho công tác quản lý tại cơ quan công tác, tác giả đã hết sức

nghiêm túc, tập trung, cố gắng đến mức cao nhất trong quá trình nghiên cứu viết

Bản luận văn này. Tuy vậy, tác giả hiểu rằng, trong công trình khoa học đầu tiên

của mình, khó tránh khỏ những tồn tại và nhược điểm. Tác giả vô cùng biết ơn sự

đóng góp ý kiến của quý thầy cô và độc giả./.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 97 Kinh tế TNTN và Môi trường

LỜI CẢM ƠN

Với tất cả sự kính trọng biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng

biết ơn của mình tới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của thầy giáo hướng dẫn

khoa học là Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Uân, các thầy cô trong Phòng Đào tạo

Đại học và Sau đại học, các thầy cô trong khoa Kinh tế và Quản lý cùng toàn thể

các thầy cô giáo Trường Đại học thủy lợi, cùng với các đồng nghiệp trong Vụ Đầu

tư - Bộ Tài chính. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động

viên, tạo điều kiện giúp tác giả hoàn thành luận văn này.

Do thời gian và điều kiện chuyên môn còn hạn chế nên luận văn không tránh

khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn và

đóng góp ý của các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học và toàn thể các đồng

nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2012

Người viết luận văn

Trương Thị Hương Giang

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 98 Kinh tế TNTN và Môi trường

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Trang Hình Công thức 1.1: Công thức tính hệ số ICOR - Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả 20

của vốn đầu tư.

Công thức 1.2: Công thức tính chỉ tiêu NPV - Giá trị hiện tại ròng. 21

Công thức 1.3: Công thức tính chỉ tiêu IRR - Tỷ suất doanh lợi nội bộ. 22

Bảng 2.1: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân 46

theo nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 và 2006-2011.

Bảng 2.2: Vốn đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái 50

phiếu Chính phủ theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 2006-2011.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 99 Kinh tế TNTN và Môi trường

DANH MỤC VIẾT TẮT

ODA : Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nước ngoài

FDI : Đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

BOT : Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao

BTO : Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh

BT

: Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao

GDP : Tổng sản phẩm quốc nội

WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 100 Kinh tế TNTN và Môi trường

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010). Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 -

2015;

2. Bộ xây dựng (2007), Thông tư số 05/2007/TT-BXD hướng dẫn lập và quản lý

chi phí đầu tư xây dựng công trình;

3. Bộ xây dựng (2010), Thông tư số 04/2010/TT-BXD hướng dẫn lập và quản lý

chi phí đầu tư xây dựng công trình;

4. Bộ tài chính (2011), Thông tư số 86/2011/TT-BTC ngày 17 tháng 06 năm 2011

quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư

thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước;

5. Bộ tài chính (2011), Thông tư số 19/2011/TT-BTC ngày 14 tháng 02 năm 2011

quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước;

6. Bộ tài chính (2011), Thông tư số 10/2011/TT-BTC ngày 26 tháng 01 năm 2011

quy định về quản lý sử dụng chi phí quản lý dự án của các dự án đầu tư xây

dựng sử dụng vốn ngân sách nhà nước;

7. Bộ Tài chính (2010). Thông tư số 210/2010/TT-BTC ngày 20/12/2010 quy định

việc quyết toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước theo

niên độ ngân sách hàng năm;

8. Bộ Tài chính (2010). Báo cáo tình hình quyết toán dự án hoàn thành thuộc vốn

đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006-2010;

9. Chính phủ (1999, 2000, 2003). Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 về

Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng; Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày

05/5/2000, Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003;

10. Chính phủ (2004). Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 về quản lý

chất lượng công trình xây dựng; Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18/4/2008

về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày

16/12/2004 về quản lý chất lượng công trình xây dựng;

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 101 Kinh tế TNTN và Môi trường

11. Chính phủ (2005). Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 về quản lý dự

án đầu tư xây dựng công trình;

12. Chính phủ (2006). Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi,

bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 về quản lý

dự án đầu tư xây dựng công trình;

13. Chính phủ (2009). Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi

phí đầu tư xây dựng công trình;

14. Chính phủ (2006). Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;

15. Chính phủ (2009). Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 về quản lý dự

án đầu tư xây dựng công trình;

16. Chính phủ (2009). Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng dẫn thi

hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng;

17. Chính phủ (2009). Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý

chi phí đầu tư xây dựng công trình;

18. Chính phủ (2010). Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ về hợp

đồng trong hoạt động xây dựng;

19. Nguyễn Xuân Phú (2007), Bài giảng kinh tế xây dựng, trường Đại học Thủy Lợi,

Hà Nội;

20. Nguyễn Bá Uân (2010), Tập bài giảng quản lý dự án, trường Đại học Thủy Lợi,

Hà Nội.

21. Quốc hội khoá XI (2002). Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11;

22. Quốc hội khoá XI (2003). Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 10/12/2003;

23. Quốc hội khoá XI (2003). Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 10/12/2003;

24. Quốc hội khoá XI (2005). Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 12/12/2005;

25. Quốc hội khoá XI (2005). Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 12/12/2005.

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 102 Kinh tế TNTN và Môi trường

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1................................................................................................................ 5

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ........................... 5 1.1.1. Khái niệm về cơ chế ..................................................................................... 5 1.1.2. Khái niệm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước .................................................... 5 1.1.3. Nội dung, phân loại cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ......................................................................................... 6 1.1.2.1. Nhóm cơ chế có liên quan đến việc đảm bảo và sử dụng vốn đầu tư .... 6 1.1.2.2. Nhóm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc phạm vi một dự án ............................................................................................................................ 7 1.2.3. Nguyên tắc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ......................... 7 1.2.4. Đặc điểm và yêu cầu của cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc ngân sách Nhà nước ................................................. 8

1.2. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC .......................................................... 10 1.2.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và đầu tư phát triển ........................................10 1.2.1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư .....................................................................10 1.2.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước .......11 1.2.1.3. Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển .................................12 1.2.2. Những đặc trưng của đầu tư và đầu tư phát triển .......................................13 1.2.2.1. Những đặc trưng của đầu tư ..................................................................13 1.2.2.2. Những đặc trưng của đầu tư phát triển .................................................14 1.2.3. Dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả đầu tư .................................................16 1.2.3.1. Dự án đầu tư xây dựng ............................................................................16 2.2.3.2. Hiệu quả đầu tư ........................................................................................18 1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để chi cho đầu tư phát triển ......................................................................................24

CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 29

2.1. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1999 ĐẾN NAY .......................... 29 2.1.1. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1999 - 2005 ...........................................................................................................29 2.1.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2011 ...........................................................................................................31

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 103 Kinh tế TNTN và Môi trường

2.1.3. Cơ chế quy định hiện nay về bộ máy, tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước ................................................................35

2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ................................................................................................................................... 38 2.2.1. Cơ chế phân cấp, phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước ...............................................................................................................38 2.2.1.1. Về nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư ..........................................................38 2.2.1.2. Về điều kiện phân bổ vốn cho dự án đầu tư ............................................39 2.2.1.3. Thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư .............................................................39 2.2.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước liên quan đến dự án đầu tư ...........................................................................................40 2.2.2.1. Quyết định chủ trương đầu tư ..................................................................40 2.2.2.2. Hình thành và thực hiện dự án đầu tư ......................................................41

2.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LIÊN QUAN ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ............................................................................................................. 43 2.3.1. Cơ chế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển...............................43 2.3.2. Tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước ...............47

2.4. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN VỪA QUA ................................................................... 52 2.4.1. Một số kết quả hoạt động đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trong thời gian qua .........................................................................................................52 2.4.2. Những hạn chế, yếu kém trong đầu tư phát triển........................................57 2.4.2.1. Về quy hoạch ...........................................................................................57 2.4.2.2. Về xây dựng cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển chưa đồng bộ ...........61 2.4.2.3. Tình trạng kế hoạch vốn đầu tư phát triển còn phân bổ dàn trải .............64 2.4.2.4. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong chi đầu tư phát triển còn phổ biến .64 2.4.2.5. Nợ đọng vốn đầu tư phát triển còn lớn ....................................................66 2.4.2.6. Hiệu quả đầu tư phát triển thấp ................................................................67 2.4.2.7. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước còn bất cập .........................................................................................................................69 2.4.2.8. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chi đầu tư phát triển chưa được thường xuyên .......................................72 2.4.2.9. Năng lực của chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu xây dựng còn hạn chế.......73 2.4.2.10. Tổ chức bộ máy thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển còn chưa phù hợp với thực tiễn ............................................................................................74

CHƯƠNG 3.............................................................................................................. 77

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11

Luận văn thạc sĩ 104 Kinh tế TNTN và Môi trường

3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 CỦA VIỆT NAM ..... 77 3.1.1. Phát triển công nghiệp và xây dựng ...........................................................78 3.1.2. Phát triển nông nghiệp, nông thôn ..............................................................78 3.1.3. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải ..............................................79 3.1.4. Phát triển hạ tầng đô thị và khu dân cư ......................................................80 3.1.5. Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội .................................................................80

3.2. DỰ BÁO VỀ CÂN ĐỐI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ............................... 81

3.3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ....................................................................................................................... 83 3.3.1. Nghiên cứu ban hành văn bản luật riêng để quy định về quản lý đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ...............................................................83 3.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và thực hiện quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo quy hoạch .............................. 84 3.3.3. Nâng cao chất lượng của công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách Nhà nước .............................................. 85 3.3.4. Hoàn thiện công tác lập và quản lý thực hiện kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước ....................................................................86 3.3.5. Hoàn thiện công tác tư vấn trong đầu tư xây dựng cơ bản .......................... 88 3.3.6. Thực hiện tốt cơ chế giám sát, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư công ................................................................................................... 89 3.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán đối với nguồn vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước ...................................................................... 91 3.3.8. Xây dựng, hoàn thiện tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước . .....................................................................................................91 3.3.8.1. Nhà nước thống nhất quản lý đối với chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước .......................................................................................................91 3.3.8.2. Phân định r trách nhiệm các bộ trong quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia .................................................................................................................92 3.3.8.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước ....93

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95

Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11