Luận văn thạc sĩ 1 Kinh tế TNTN và Môi trường
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất cứ một quốc gia nào, muốn nền kinh tế phát triển bền vững thì
trước hết Nhà nước luôn luôn phải quan tâm huy động mọi nguồn vốn trong và
ngoài nước để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng các công trình công nghiệp;
công trình cơ sở hạ tầng; công trình y tế, giáo dục, phúc lợi công cộng; công trình
du lịch, dịch vụ; công trình an ninh, quốc phòng,… theo một quy hoạch tổng thể và
định hướng phát triển kinh tế dài hạn sao cho có hiệu quả cao nhất. Đối với Việt
Nam điều đó không phải là ngoại lệ, nhất là nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp
lạc hậu và trải qua thời gian chiến tranh kéo dài.
Đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quyết định
trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay
đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tốc độ và
quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP
hàng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân. Nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước có
vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút các nguồn vốn của xã hội vào đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển nói chung và công tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) nói
riêng luôn có một vị trí vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội của
mỗi nước, điều đó mọi người đều khẳng định; song việc đầu tư xây dựng các công
trình sao cho có hiệu quả cao lại càng quan trọng hơn. Bản thân mỗi dự án tự nó
không thể hiện hiệu quả cao hay thấp, mà chính do con người phải căn cứ vào
những đặc điểm riêng có của sản phẩm xây dựng cơ bản để đề ra các giải pháp quản
lý đúng đắn hợp lý, đồng thời phải thường xuyên hoàn thiện nâng cao các giải pháp
quản lý sao cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế, ở tất cả các giai đoạn
hoạt động đầu tư, nhất là trong công tác quản lý chi vốn đầu tư phát triển sao cho
hiệu quả nhất, tránh lãng phí, thất thoát vốn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 2 Kinh tế TNTN và Môi trường
Ở Việt Nam trong những năm qua, quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển nói
chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng có một số mặt tiến bộ hơn. Việc sửa đổi,
bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý
hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành lập, tổ chức
thực hiện quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra giám sát được quan tâm. Cơ chế quản lý
đầu tư được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các
Bộ, ngành và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc
phân bổ vốn đầu tư phát triển theo Luật Ngân sách Nhà nước mới (năm 2002) đã
được quan tâm hơn. Những đổi mới này đã giảm thiểu sự bao cấp của ngân sách
Nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm, mở rộng quyền hạn cho các cấp, các ngành,
địa phương trong quản lý đầu tư và xây dựng.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, cơ cấu nền kinh tế còn
chuyển biến chậm, tình trạng phân tán, lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư xây
dựng thuộc nguồn ngân sách Nhà nước còn khá phổ biến. Hệ thống cơ chế quản lý
chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước đã được bổ sung, song
chưa thật phù hợp với sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, việc
thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước rất phức tạp
và mang tính chất phân tán rộng, dẫn đến sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện
cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham nhũng tiền của Nhà nước, đồng thời dễ dẫn
đến khuynh hướng quản lý cứng nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ, làm
vốn bị ứ đọng, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, gây lãng phí và kém hiệu
quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu bức xúc nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các
dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước” để làm Luận văn
thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nhận thức những vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển,
đánh giá thực trạng quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách
Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thiết
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 3 Kinh tế TNTN và Môi trường
thực, hữu hiệu, khả thi góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý sử dụng vốn ngân sách
Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: nghiên
cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, dự báo để
làm sáng tỏ những nội dung lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư
xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài là sự tổng hợp cơ sở lý luận khoa học đã được nghiên cứu và khẳng
định trong cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng
thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Nghiên cứu của đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ
chức hoặc cơ quan quản lý vận dụng để quản lý tốt hơn các dự án đầu tư xây dựng
được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước của đơn vị mình.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề về đầu tư phát triển và
quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước; trong đó tập trung vào nghiên cứu quản lý chi vốn đầu tư phát
triển trong nước giai đoạn từ 2006 - 2010.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế quản
lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn đầu tư phát
triển từ nguồn vốn trong nước của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn
từ 2006 - 2010, các giải pháp đề xuất giai đoạn 2011 - 2015 và các năm tiếp theo.
6. Kết quả dự kiến đạt được
- Hệ thống hóa và phân tích sáng tỏ nhận thức luận cơ bản về đầu tư phát
triển, vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của ngân sách
Nhà nước.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 4 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Tổng hợp và phân tích làm r thực trạng đầu tư, quản lý và cơ chế quản lý
vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn trong nước thuộc
nguồn vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở phân tích lý nguyên lý chung về đầu tư (qua Luật và các văn bản
Pháp quy khác), tình hình quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước (qua thực tiễn); Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý chi vốn
đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn trong nước của
ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó góp phần vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế nói chung.
7. Nội dung của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được cấu trúc
từ 3 chương nội dung chính:
- Chương 1: Lý luận chung về cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho
các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
- Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự
án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
- Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi
vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 5 Kinh tế TNTN và Môi trường
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN CHO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THUỘC NGUỒN VỐN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm về cơ chế
Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le
Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" nghĩa là cơ chế, là "cách thức hoạt
động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Còn Từ điển Tiếng Việt
(Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình
thực hiện".
Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những
năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh
tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Nói một cách khác, cơ chế quản lý
một vấn đề gì đó cũng đồng nghĩa với những quy định về quản lý vấn đề đó.
1.1.2. Khái niệm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư
xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng
thuộc nguồn ngân sách nhà nước được quy định thực hiện thông qua hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp ban hành như
Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư, Chỉ thị. Song hành với các văn bản này là
bộ máy quản lý và các bước tiến hành triển khai thực hiện một dự án đầu tư xây
dựng, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu, bước đi của
một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập và ghi kế hoạch vốn,
phân bổ vốn, lập báo cáo đầu tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công
trình, quyết định phê duyệt thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 6 Kinh tế TNTN và Môi trường
bằng, đấu thầu, tạm ứng, thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự
án đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng.
Tóm lại, có thể hiểu một cách chung nhất về quản lý chi vốn đầu tư phát
triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước như sau:
quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà
nước là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành, thông qua
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy định các
biện pháp cụ thể, cách thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp nhằm
thực hiện các mục tiêu của chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định.
1.1.3. Nội dung, phân loại cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước
Quản lý vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước được chia thành 2
nhóm cơ chế sau đây:
1.1.2.1. Nhóm cơ chế có liên quan đến việc đảm bảo và sử dụng vốn đầu tư - Cơ chế huy động vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển.
- Cơ chế phân bổ và phân cấp quản lý vốn ngân sách đầu tư (cơ chế quản lý
chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước).
Nội dung chủ yếu của quy chế, quy trình quản lý đầu tư bao gồm:
- Những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án đầu tư, nhất là các tiêu chuẩn
thiết kế, định mức dự toán phù hợp nhằm vừa hạ thấp được chi phí đầu tư nhưng
vừa đảm bảo chất lượng của dự án.
- Thực hiện thẩm định dự án dầu tư, lựa chọn được phương án khả thi để phê
duyệt. Đây là khâu quyết định mức vốn đầu tư cho công trình.
- Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, khoán gọn góp phần tích cực trong
việc chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.
- Quản lý các nguồn vốn đầu tư, xây dựng quy trình và quản lý cấp phát,
thanh toán, quyết toán vốn đầu tư.
- Quy định các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như: giấy cấp đất,
giấy phép hành nghề, giấy phép xây dựng, hợp đồng xây dựng.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 7 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Quản lý quá trình đầu tư xây dựng cơ bản dự án đảm bảo chất lượng công
trình.
- Thẩm định quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành, xác định giá trị tài sản
hình thành qua đầu tư, bàn giao cho đơn vị sử dụng.
Sự hoạt động của những cơ chế này được dựa trên hàng loại các căn cứ như:
quan điểm, mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư 5
năm và kế hoạch phân kỳ hàng năm đối với nền kinh tế và từng ngành, địa phương,
khả năng thu ngân sách Nhà nước, khả năng vay trong nước và nước ngoài, những
quy định về phân cấp quản lý vốn đầu tư theo Luật Ngân sách Nhà nước. Nguyên
tắc hoạt động của nhóm cơ chế này là đảm bảo cung ứng đủ vốn đầu tư cho nền
kinh tế và đảm bảo tính dân chủ, tập trung, công khai và minh bạch trong phân bổ
vốn.
1.1.2.2. Nhóm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc phạm vi một dự án
Để giúp cho việc điều hành thống nhất, hệ thống cơ chế quản lý vốn đầu tư
thuộc phạm vi một dự án được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng và các Nghị định hướng dẫn
Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng.
1.2.3. Nguyên tắc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
Việc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải đảm bảo những
nguyên tắc sau:
a. Quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải tiết kiệm, hiệu
quả.
b. Phân định r chức năng quản lý của Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu
tư và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và chủ đầu tư.
Phân định r trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước, của
chủ đầu tư, của tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư xây dựng.
c. Các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách Nhà nước phải được quản lý chặt
chẽ theo trình tự thủ tục đầu tư và xây dựng do Nhà nước ban hành. Các
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 8 Kinh tế TNTN và Môi trường
thủ tục này được ban hành theo hướng tăng cường cải cách thủ tục hành
chính, triệt tiêu cơ chế “xin - cho”.
d. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong xã hội cùng tham gia
đầu tư phát triển nền kinh tế trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây chính
là chủ trương xã hội hoá đầu tư của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện
nguyên tắc này trên các mặt: vốn ngân sách Nhà nước đóng vai trò là “vốn
mồi” để thu hút vốn của xã hội; Nhà nước mở rộng, đa dạng hoá các hình
thức đầu tư, từng bước giao cho thị trường điều tiết một số khâu của quá
trình đầu tư nhằm chống tình trạng “khép kín” trong đầu tư.
e. Việc phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng cũng như sử dụng nguồn vốn
đầu tư cho các cấp, các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư luôn đi đôi với
công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.2.4. Đặc điểm và yêu cầu của cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án
đầu tư xây dựng thuộc ngân sách Nhà nước
Là một bộ phận hợp thành của cơ chế quản lý tài chính Nhà nước, trước hết,
quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước chịu sự ràng buộc bởi cơ
chế quản lý tài chính Nhà nước, song mặt khác, nó lại chịu sự chi phối bởi các yếu
tố kinh tế - xã hội, tự nhiên và kỹ thuật, những đặc điểm riêng có trong lĩnh vực đầu
tư và xây dựng. Do bị tác động bởi nhiều yếu tố nêu trên, nên quản lý chi vốn đầu
tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có những đặc điểm chính sau đây:
Một là, đối tượng quản lý là nguồn ngân sách rất lớn, chúng được huy động
từ nhiều kênh khác nhau (từ khoản tích luỹ ngân sách Nhà nước, vay trong nước và
vay nước ngoài qua nguồn viện trợ và ODA).
Với đối tượng quản lý rộng lớn nên quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân
sách Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và rất nhạy cảm đối với tốc độ tăng trưởng
nền kinh tế nói chung, sự phát triển của các ngành, lĩnh vực, vùng và lãnh thổ nói
riêng. Từ đặc điểm trên, yêu cầu đặt ra cho quản lý chi loại nguồn vốn này là phải
hết sức chặt chẽ, tuân thủ Luật Ngân sách Nhà nước, nhưng mặt khác lại phải đảm
bảo độ thông thoáng, giải ngân nhanh, cung cấp đủ nguồn và thực hiện, đáp ứng các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 9 Kinh tế TNTN và Môi trường
Hai là, quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có liên quan
và được vận hành trên một phạm vi rất rộng, do đó có tính chất phân tán: hiệu lực
của cơ chế phủ khắp từ 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ, ngành trung ương đến 63
tỉnh, thành phố, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu,
bước đi của một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập báo cáo đầu
tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, quyết định phê duyệt
thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, tạm ứng,
thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án đầu tư hoàn thành
đưa vào khai thác, sử dụng.
Gắn liền với những khâu trên là các khoản chi đầu tư. Quá trình thực hiện dự
án đến bước nào thì vốn đầu tư chi ra đến bước đó (thậm chí vốn phải đi trước một
bước trong trường hợp tạm ứng vốn).
Tính phức tạp và phân tán trong vận hành của cơ chế này thường sẽ dẫn tới
sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham
nhũng tiền của Nhà nước, mặt khác cũng có thể dẫn tới khuynh hướng quản lý cứng
nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ dẫn tới tình trạng “vốn chờ công trình”
hoặc “công trình chờ vốn”, làm vốn bị ứ đọng, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến
độ, gây lãng phí và kém hiệu quả trong sử dụng vốn và công trình đầu tư.
Từ tính phức tạp và phân tán trong quản lý nêu trên, đòi hỏi việc thiết kế mô
hình quản lý chi đầu tư phát triển phải rất khoa học, theo hướng mở rộng phân cấp
nhưng phải gắn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp, tăng cường thẩm định, kiểm
tra, giám sát ở từng khâu, đồng thời phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm,
cải cách thủ tục hành chính, tinh giản bộ máy, giảm bớt các đầu mối quản lý, nhưng
vẫn nâng cao được chất lượng và hiệu quả quản lý chi đầu tư phát triển.
Trong thời gian qua, việc huy động và sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà
nước đã đóng góp quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, tạo môi trường thuận lợi góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, xóa đói giảm
nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do phân cấp quá rộng lại thiếu các
biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt quá
khả năng cân đối vốn, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, thời gian thi công
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 10 Kinh tế TNTN và Môi trường
kéo dài, đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực
của Nhà nước.
1.2. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và đầu tư phát triển
1.2.1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư
Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước năm 2002 thì ngân sách Nhà
nước là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của
ngân sách Nhà nước các cấp.
Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu từ
hàng năm lại rất lớn, nên vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ở nước ta trong những
năm qua ở nước ta được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay
trong nước và nước ngoài.
Vốn ngân sách Nhà nước bao gồm vốn trong nước (vốn tích luỹ của Ngân
sách Nhà nước) và vốn nước ngoài (vay nợ, viện trợ). Số tiền này được thanh toán
trực tiếp cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế
hoạch chi đầu tư phát triển được duyệt hàng năm.
- Vốn trong nước: là phần chênh lệch giữa tổng các khoản thu (không kể vay
nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách Nhà nước. Đối với vốn tích luỹ
của ngân sách Nhà nước, áp dụng cơ chế huy động, tiết kiệm triệt để và có hiệu quả
(vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nước, vừa ra sức tiết kiệm trong chi tiêu dùng của
ngân sách), ngân sách Nhà nước phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới
góp phần nâng cao tỷ trọng tích luỹ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế.
- Vốn nước ngoài: gồm các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ
nước ngoài thông qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế
được đưa vào ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn quan trọng để bù đắp thiếu hụt
ngân sách và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Đa số các dự án sử dụng vốn ODA được quản lý theo cơ chế riêng và các điều
khoản cam kết trong hiệp định ký kết.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 11 Kinh tế TNTN và Môi trường
Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, do nhu cầu đầu tư rất lớn, Chính phủ phải huy
động vốn chi cho đầu tư phát triển bằng cách phát hành Công trái xây dựng tổ quốc,
các loại trái phiếu (trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ) là các công cụ huy
động vốn để đáp ứng kịp thời yêu cầu đầu tư cho các công trình trọng điểm, cấp
bách; ngoài ra, Chính phủ còn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu ra thị trường
quốc tế. Đây là những xu hướng tích cực trong phương thức huy động vốn qua kênh
ngân sách Nhà nước.
Như vậy, nguồn vốn chi đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn tích
luỹ của ngân sách và bội chi ngân sách Nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay
trong nước và ngoài nước được cân đối trong kế hoạch hàng năm của ngân sách
Nhà nước.
1.2.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội, là nhân tố quan trọng tác động đến sự tăng trưởng của
nền kinh tế, tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội. Một nền kinh tế sẽ không
thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư. Đầu tư tác động đến tổng cung
và tổng cầu của nền kinh tế, trên góc độ vĩ mô thông qua chỉ tiêu GDP đánh giá sự
phát triển của nền kinh tế,
Khi vốn và tỷ trọng vốn được phân bổ vào các ngành, các vùng, các thành
phần kinh tế khác nhau dẫn đến kết quả và hiệu quả khác nhau đối với từng ngành,
từng vùng, từng thành phần kinh tế đó, dẫn đến thay đổi mối quan hệ tương quan
giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Từ đó dẫn đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát
huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của
những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác phát triển.
Đầu tư phát triển gắn liền với phát triển khoa học công nghệ của đất nước,
công nghệ là trung tâm của hiện đại hóa. Đầu tư là điều kiện tiên quyết tới sự phát
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 12 Kinh tế TNTN và Môi trường
triển nền công nghệ nước ta hiện nay. Đầu tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế.
Từ nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước đã góp phần hoàn
thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực kinh tế như giao thông, thủy
lợi, công nhiệp. Trong lĩnh vực xã hội đầu tư phát triển đã góp phần phát triển khoa
học công nghệ và tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ cao trong sản
phẩm, cải thiện và nâng cao r rệt chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với
người nghèo, dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, tăng cường công
tác bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với các tác động của biến
đổi khí hậu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức,
tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
1.2.1.3. Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển
Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển bao gồm: Vốn Ngân sách
nhà nước, vốn Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn Trái phiếu (Chính phủ,
Chính quyền địa phương), vốn Tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn Đầu tư phát triển
của các Tổng Công ty nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Nội dung chi cho đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có
khả năng thu hồi vốn do Nhà nước quản lý, các công trình đầu tư để phát triển và
phục vụ cho hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là các Bộ, ngành trung
ương, các địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước.
- Chi bổ sung dự trữ nhà nước.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 13 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật
là các dự án trong các lĩnh vực giao thông (các đường giao thông), các dự án trong
lĩnh vực thuỷ lợi (như các công trình hồ, đập chứa nước); ngoài ra vốn ngân sách
Nhà nước còn đầu tư cho các công trình cho hạ tầng xã hội như các dự án trường
học trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo, các dự án bệnh viện trong lĩnh vực Y tế, các
dự án nhà ở xã hội nhằm hướng tới mục tiêu an sinh xã hội, các công trình văn hoá
mang tính cộng đồng, các công trình công cộng. Đây thường là các dự án đầu tư có
vốn lớn (đường giao thông, hồ, đập thuỷ lợi...) mà tư nhân không thể có đủ vốn để
đầu tư, hoặc là các dự án có tỷ suất lợi nhuận không cao (các dự án nhà ở xã hội),
nên tư nhân không muốn đầu tư.
Như vậy, vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế
hoạch của Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh thiết yếu, có vốn đầu tư lớn, không có khả năng thu
hồi vốn hoặc thu hồi vốn chậm là một nội dung quan trọng trong chi đầu tư phát
triển của ngân sách Nhà nước.
1.2.2. Những đặc trưng của đầu tư và đầu tư phát triển
1.2.2.1. Những đặc trưng của đầu tư
Hoạt động đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn ra hôm nay để mong nhận được
một kết quả lớn hơn trong tương lai. Hoạt động đầu tư có đặc trưng cơ bản là:
- Khi thực hiện công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu.
- Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội hoặc hiệu quả kinh
tế - xã hội. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất là loại đầu tư điển hình thể hiện sự gắn
kết giữa hiệu quả kinh tế và xã hội khi xác định mục tiêu đầu tư.
Ở mọi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền
kinh tế, tức phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng (gồm tiêu dùng của cá nhân và tiêu
dùng của Chính phủ) từ GDP. Nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, xét về lâu dài là
nguồn bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định, là điều
kiện đảm bảo tính độc lập và tự chủ của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 14 Kinh tế TNTN và Môi trường
các lĩnh vực khác. Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước, các quốc gia còn có thể
và cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Từ đây, có thể thấy các nguồn vốn chính cho đầu tư phát triển, bao gồm:
- Nguồn trong nước: bao gồm tích luỹ từ Ngân sách Nhà nước, vốn tích luỹ
của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư, vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết.
- Nguồn vốn từ nước ngoài: bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp
(ODA) ....
Trong các nguồn vốn trên thì vốn huy động từ nước ngoài đóng vai trò quan
trọng trong những bước đi đầu tiên, là những cú “huých” cho sự phát triển, tạo tích
luỹ cho nền kinh tế để phát triển đất nước. Nhưng xét về lâu dài, nguồn vốn đảm
bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, đưa đất nước đến sự phồn thịnh
một cách chắc chắn và không phụ thuộc lại là nguồn vốn trong nước. Đây chính là
nền tảng để tiếp thu và phát huy tác dụng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2.2. Những đặc trưng của đầu tư phát triển
Một là, đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn. Do vậy quyết định đầu tư
thường là và trước hết là quyết định tài chính. Các khía cạnh về tài chính như: Tổng
mức đầu tư là bao nhiêu, nguồn hình thành từ đâu, cơ cấu tài chính ra sao, khả năng,
thời gian hoàn vốn như thế nào, cần phải được phân tích xem xét rất kỹ lưỡng. Vì
vậy, nhiều dự án đầu tư có thể khả thi ở các phương diện khác (kinh tế, xã hội),
nhưng không khả thi trên phương diện tài chính thì cũng cần được xem xét lại.
Hai là, đầu tư phát triển là hoạt động có tính lâu dài, có những dự án đầu tư
kéo dài hàng chục năm. Đây là một đặc điểm khác biệt của đầu tư phát triển so với
các hình thức đầu tư khác. Do tính chất lâu dài, nên mọi sự trù liệu đều phải tính
toán, dự phòng sự thay đổi trong quá trình thực hiện dự án.
Ba là, sản phẩm của các dự án đầu tư phát triển thường có tính đơn chiếc. Do
vậy ngay cả 2 công trình ở liền kề nhau, nhưng chi phí xây dựng thực tế của mỗi
công trình cũng khác nhau. Đây là một đặc điểm cần được lưu ý trong quá trình
quản lý vốn đầu tư.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 15 Kinh tế TNTN và Môi trường
Bốn là, hoạt động đầu tư phát triển luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước
mắt và lợi ích trong tương lai. R ràng rằng, nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận
đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại
mà họ tạm thời phải hy sinh. Hay nói cách khác, mục đích tối cao của đầu tư là hiệu
quả. Hiệu quả vừa là mục tiêu, động lực và phương tiện của hoạt động đầu tư.
Năm là, đầu tư phát triển là hoạt động mang nặng tính rủi ro. Các đặc trưng
nêu trên cho thấy hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nói riêng chứa đựng
nhiều yếu tố rủi ro. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích giữa trước mắt và lâu dài, hơn
nữa hoạt động đầu tư thường kéo dài đã làm thay đổi những dự định của nhà đầu tư
so với tính toán ban đầu. Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư.
Việc nghiên cứu đặc điểm này để tìm biện pháp ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp
nhất khả năng rủi ro khi thực hiện dự án.
Ngoài 5 đặc điểm chung nêu trên, các dự án đầu phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội từ nguồn ngân sách Nhà nước còn có 2 đặc điểm có tính đặc thù
sau:
Một là, vốn đầu tư lớn: đây là một đặc trưng rất quan trọng của vốn đầu tư
phát triển từ ngân sách Nhà nước. Bởi vì các công trình được đầu tư xây dựng từ
nguồn vốn này đa số là các công trình lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế, nên cần một lượng vốn đầu tư tương đối lớn, thậm chí là rất
lớn như xây dựng hệ thống giao thông, hồ đập, thuỷ điện, cải tạo phòng chống thiên
tai, bệnh viện, trường đại học.
Hai là, khả năng thu hồi vốn: có thể nói rằng, mặc dù tất cả các công trình
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước đều là
những công trình rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, song khả
năng thu hồi vốn của chúng lại rất thấp hoặc không có khả năng thu hồi vốn trực
tiếp. Do vậy, các thành phần kinh tế khác hầu như không muốn tham gia xây dựng
các công trình này. Nói cách khác, đây là các công trình được đầu tư xây dựng trong
các lĩnh vực mà các thành phần khác không được phép đầu tư (an ninh, quốc
phòng), không muốn đầu tư như xây dựng đê biển, đầu tư thuỷ lợi lớn, hoặc không
thể đầu tư như dự án Thuỷ điện Hoà Bình, Thuỷ điện Trị An, Thuỷ điện IALY,
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 16 Kinh tế TNTN và Môi trường
Thuỷ điện Sơn La, dự án Đường Hồ Chí Minh, khu công nghiệp khí điện đạm Cà
Mau, nhà máy lọc dầu Dung Quất,…là những dự án đòi hỏi phải có một lượng vốn
đầu tư rất lớn, song khả năng hoàn vốn lại rất khó xác định.
1.2.3. Dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả đầu tư
1.2.3.1. Dự án đầu tư xây dựng
Khác với các hoạt động đầu tư kinh tế, thương mại thông thường, đầu tư phát
triển là một loại hình hoạt động phức tạp có nhiều nét đặc thù, như: thời gian thi
công kéo dài, độ rủi ro lớn, vốn đầu tư lớn, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố (tự
nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội). Do vậy, hoạt động đầu tư phát triển thường được
thực hiện thông qua các dự án đầu tư xây dựng công trình.
Theo quy định tại Luật Xây dựng Việt Nam 2003 thì: dự án đầu tư xây dựng
công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở
rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì,
nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất
định. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm phần thuyết minh và phần thiết kế
cơ sở.
Từ định nghĩa trên cho thấy, yêu cầu của một dự án đầu tư xây dựng là phải
phản ảnh toàn diện các mặt của hoạt động đầu tư. Một dự án đầu tư xây dựng
thường có những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, cơ sở pháp lý của dự án đầu tư: nội dung này nhằm phản ảnh những
căn cứ cho phép để thực hiện dự án đầu tư, như sự phù hợp về pháp luật, về chủ
trương, quy hoạch ngành và lãnh thổ; tư cách pháp nhân, năng lực và khả năng tài
chính của chủ đầu tư, các quy định, chế độ khuyến khích, ưu đãi đầu tư.
Hai là, về mặt công nghệ kỹ thuật: nội dung này quy định các đề xuất về mặt
kỹ thuật, công nghệ để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm việc sử dụng công nghệ,
thiết bị, các tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật, vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên.
Ba là, về kinh tế tài chính: nội dung này quy định các vấn đề về thị trường,
quy mô đầu tư, thời gian đầu tư, thời gian hoạt động, khả năng đảm bảo các nguồn
vốn, cơ cấu chi phí và đặc biệt phản ảnh hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 17 Kinh tế TNTN và Môi trường
Bốn là, về tổ chức thực hiện, vận hành: nội dung này quy định các giải pháp
rất cụ thể để thực hiện dự án như khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào, đầu ra của
dự án, vấn đề tổ chức bộ máy điều hành, chuyển giao công nghệ.
- Phân loại dự án đầu tư:
Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư. Tuy nhiên, để phù hợp với đối tượng
nghiên cứu và những quy định hiện hành (theo Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
10/2/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình) có thể phân
loại các dự án đầu tư thành các nhóm sau đây:
Thứ nhất, căn cứ vào quy mô (quy mô về vốn) và tính chất (tính chất quan
trọng), dự án đầu tư được phân thành: dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông
qua chủ trương và cho phép đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A,
B, C.
Thứ hai, theo nguồn vốn đầu tư dự án đầu tư xây dựng công trình được phân
thành:
+ Dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước;
+ Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước;
+ Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
+ Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp
nhiều nguồn vốn.
Thứ ba, theo hình thức đầu tư: theo tiêu chí này, các dự án đầu tư có thể
được chia thành 2 nhóm:
+ Dự án đầu tư thuộc nguồn vốn trong nước: thuộc nhóm này là các dự án
được đầu tư bằng các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng nhà nước, tín dụng
thương mại, vốn đầu tư thuộc doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư thuộc khu vực
dân doanh.
+ Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài nước: thuộc nhóm này là các dự án
được đầu tư bằng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) hoặc ODA.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 18 Kinh tế TNTN và Môi trường
Do các dự án đầu tư thường có quy mô vốn lớn, nên theo xu thế hiện nay,
các dự án này được đầu tư bằng các nguồn vốn hỗn hợp: giữa vốn ngân sách Nhà
nước với vốn vay; giữa vốn trong nước với vốn ngoài nước…
Thứ tư, theo phương thức thực hiện đầu tư: các dự án đầu tư được thực hiện
bằng các hình thức như tự đầu tư, liên doanh; 100% vốn nước ngoài; BOT; BTO;
BT…
Thứ năm, theo lĩnh vực đầu tư: các dự án đầu tư có thể được chia thành dự án
đầu tư thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, văn hoá, y tế,
xã hội.
2.2.3.2. Hiệu quả đầu tư
1. Khái niệm về hiệu quả đầu tư
Không thể nói đến đầu tư mà không nói tới hiệu quả đầu tư vì hiệu quả đầu
tư là mục đích cuối cùng của đầu tư. Hiệu quả đầu tư được thể hiện trong mối quan
hệ giữa lợi ích thu được do đầu tư mang lại và chi phí bỏ ra để thực hiện đầu tư. Do
mục đích đầu tư khác nhau nên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu tư ở mỗi thời kỳ
phát triển và mỗi giai đoạn của quá trình đầu tư cũng khác nhau. Có hoạt động đầu
tư mang lại hiệu quả kinh tế (trồng cây thuốc phiện, phá rừng, nhà máy hoá chất xây
dựng ở khu vực đông dân cư) nhưng lại không mang lại hiệu quả xã hội. Có hoạt
động đầu tư tuy hiệu quả kinh tế thấp, hoặc không có hiệu quả kinh tế trước mắt
những lại có hiệu quả về mặt xã hội lâu dài (trồng rừng, xử lý rác thải công nghiệp,
xây dựng trường học, bệnh viện). Các doanh nghiệp thường đầu tư vào các dự án có
hiệu quả kinh tế, còn các dự án có hiệu quả xã hội thì Nhà nước phải đầu tư.
Đối với vốn ngân sách Nhà nước, mục đích đầu tư không chỉ vì lợi ích kinh
tế trước mắt mà là vì lợi ích kinh tế - xã hội lâu dài. Do đó đối tượng sử dụng vốn
ngân sách Nhà nước để đầu tư là những dự án mang lại lợi ích trực tiếp hoặc mang
lại lợi ích cho toàn xã hội, nhưng thông thường có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích
kinh tế và lợi ích xã hội. Điều đó cho ta một kết luận rằng, trong khi nguồn vốn
ngân sách Nhà nước hạn hẹp thì Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những dự án nào mà
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 19 Kinh tế TNTN và Môi trường
các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác không đầu tư (vì nó nghiêng về
hiệu quả xã hội), hoặc không đủ khả năng để đầu tư (vì vốn đầu tư lớn).
Mục tiêu của hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho nhà đầu
tư và cho nền kinh tế quốc dân cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Để nâng cao hiệu quả
kinh tế, xã hội, trong hoạt động đầu tư, cần coi trọng việc hoàn thiện các cơ chế
quản lý và sử dụng nói chung và cơ chế quản lý tài chính nói riêng ở các khâu của
quá trình đầu tư ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
- Trên góc độ quản lý vĩ mô: để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần có chiến
lược đầu tư dài hạn đúng và ổn định. Trên cơ sở đó có quy hoạch hợp lý (quy hoạch
tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy
hoạch xây dựng) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của đất
nước. Căn cứ vào quy hoạch được phê duyệt để xác định bước đi phù hợp với mục
tiêu chiến lược để sắp xếp, bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án theo ngành và theo
vùng đảm bảo cân đối, hợp lý với khả năng vốn cho phép. Chất lượng và hiệu quả
các nội dung trên phụ thuộc nhiều vào việc xác định quyền hạn, trách nhiệm các
cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo
ra các quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư, cơ chế quản lý và điều hành hoạt
động đầu tư như: huy động vốn đầu tư; thẩm định và ra quyết định đầu tư; phê
duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán; phân cấp và kế hoạch; cơ chế giao thầu, giải
ngân và quyết toán đảm bảo thống nhất.
- Trên góc độ quản lý vi mô: hiệu quả hoạt động đầu tư được quyết định bởi
công tác quản lý cụ thể trong từng khâu quản lý và nghiệp vụ quản lý. Để nâng cao
hiệu quả hoạt động đầu tư ở cấp vi mô cần phân định r trách nhiệm (nhiệm vụ và
nội dung công việc, giới hạn công việc, trách nhiệm và quyền hạn) từng khâu công
tác. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý cụ thể cho từng khâu để thực hiện các
mục tiêu cụ thể, mối quan hệ phối kết hợp giữa các cá nhân, tập thể, tổ chức trong
quá trình điều hành và quản lý vốn đầu tư cũng như hoạt động đầu tư.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang
được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 20 Kinh tế TNTN và Môi trường
những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh
tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác
động tới tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công
nghệ,…) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân
tố quan trọng nhất.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư thường được biểu hiện dưới
dạng tỷ số so sánh giữa kết quả đầu tư (đầu ra) với chi phí đầu tư (đầu vào). Vì đầu
vào, đầu ra được đo lường bằng nhiều cách khác nhau nên cũng có nhiều chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả đầu tư.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế người ta thường sử
dụng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số vốn/sản lượng tăng
thêm).
+ Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác
định theo công thức:
(1.1)
Trong đó:
- K mức thay đổi vốn sản xuất, K = Kt – Kt-1
- Y là mức thay đổi về kết quả sản xuất và Y = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm
nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
Hệ số ICOR có ý nghĩa là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì
cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả
thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ
chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm
nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR
thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có
xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết
quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói
riêng và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm
năng. Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 21 Kinh tế TNTN và Môi trường
Một là: xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định
được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ
kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
Hai là: khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh
đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt
được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của một dự án đầu tư người ta
thường sử dụng một số hệ thống các chỉ tiêu sau đây:
+ Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: là quãng thời gian cần thiết để các
khoản thu từ dự án đầu tư (khấu hao và lợi nhuận sau thuế) đủ để bù đắp vốn đầu tư
đã bỏ ra. Có thể gọi chỉ tiêu này là thời gian cần thiết để ngân sách tự chi trả cho
chính bản thân nó.
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn vay: là quãng thời gian cần thiết để các
khoản thu nhập từ dự án (lợi nhuận trước thuế và lãi vay, khấu hao tài sản cố định
đủ để trả nợ vay gồm gốc và lãi).
+ Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net Present Value): một trong những đặc
trưng của vốn đầu tư là có giá trị về mặt thời gian. Vốn đầu tư phải bỏ ra hôm nay
nhưng các khoản thu lại xảy ra trong tương lai. Do vậy, để đánh giá chính xác hiệu
quả kinh tế đầu tư, người ta thường đưa tất cả các khoản thu, chi gắn với một dự án
về cùng một thời điểm để so sánh. Thời điểm thường được chọn là thời điểm hiện
tại. Chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại của các
khoản chi gọi là giá trị hiện tại ròng. Chỉ tiêu này đo lường trực tiếp giá trị tăng
thêm do vốn đầu tư tạo ra có tính tới sự tác động về mặt thời gian của tiền vốn, do
vậy cho phép người ra quyết định đầu tư nhìn nhận hiệu quả đầu tư chính xác hơn.
Chỉ tiêu NPV được xác định theo công thức:
(1.2)
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 22 Kinh tế TNTN và Môi trường
Trong đó:
Bt – Thu nhập tăng thêm tại thời gian t (bao gồm doanh thu, vốn lưu động ở
cuối dự án).
Ct - Chi phí ở năm thứ t (bao gồm vốn đầu tư, chi phí vận hành không có
khấu hao cơ bản).
H – Giá trị thu hồi khi kết thúc dự án.
t - Thời gian tính dòng tiền
n - tổng thời gian thực hiện dự án
r - tỉ lệ chiết khấu (hay còn gọi là lãi suất chiết khấu)
Điều kiện phương án tốt nhất trong số các phương án là NPV = max
* Ưu nhược điểm của phương pháp tính NPV:
- Ưu điểm: có tính đến sự biến động của chỉ tiêu thời gian, tính toán cho cả
vòng đời của dự án, có tính đến giá trị tiền tệ theo thời gian, có thể tính đến nhân tố
trượt giá và lạm phát thông qua việc điều chỉnh các chỉ tiêu Bt, Ct và r, là xuất phát
điểm để tính nhiều chỉ tiêu khác.
- Nhược điểm: phương pháp dùng chỉ tiêu NPV chỉ chính xác trong thị
trường vốn hoàn hảo. Chỉ tiêu NPV phụ thuộc nhiều vào hệ số chiết khấu.
Hệ quả: Từ chỉ tiêu NPV có thể xác định thời hạn thu hồi vốn đầu tư theo kiểu
động.
+ Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR – Internal Rate of Return): tỷ suất doanh lợi
nội bộ hay còn gọi là tỷ suất hoàn vốn nội bộ, là một lãi suất đóng vai trò như một
tỷ lệ chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại
của các khoản chi. Chỉ tiêu cho phép ta so sánh giữa tỷ lệ sinh lời (đầu vào) với chi
phí sử dụng vốn bình quân dự án (đầu ra), thấy được mối liên hệ giữa việc huy động
vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Chỉ tiêu IRR được xác định theo công thức:
(1.3)
Trong đó:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 23 Kinh tế TNTN và Môi trường
IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cận nội suy (%)
r1 < r2, NPV1 > NPV2
r1: Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV1 > 0 gần sát 0 nhất
r2: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV2 < 0 gần sát 0 nhất.
NPV: Giá trị hiện tại ròng
IRR cần tìm (ứng với NPV = 0) sẽ nằm giữa r1 và r2
+ Chỉ số sinh lời của vốn đầu tư: đây là một chỉ tiêu dựa vào giá trị thời gian
của tiền tệ để tính toán. Nó phản ánh một đồng giá trị hiện tại của vốn đầu tư tạo ra
mấy đồng giá trị hiện tại thu nhập thuần của dự án.
+ Phân tích độ nhạy của dự án: độ nhạy của dự án phản ánh sự biến động
của các yếu tố (vốn đầu tư, sản lượng tiêu thụ, giá cả một sản phẩm, giá thành một
sản phẩm,...) tới kết quả cuối cùng. Để xác định mức độ giao động của yếu tố nào
đó, ta cho yếu tố đó biến động còn các yếu tố khác cố định. Phân tích độ nhạy của
dự án cho biết giới hạn an toàn của dự án khi có sự biến động của các yếu tố đầu
vào và đầu ra, giúp nhà quản lý có những điều chỉnh cần thiết trong quá trình thực
hiện dự án.
+ Phân tích điểm hòa vốn: điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu bằng chi
phí. Xác định điểm hoà vốn cho biết cần sản xuất và tiêu thụ một sản lượng sản
phẩm là bao nhiêu để không bị lỗ vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn cho biết thời
gian hoà vốn, công suất hoà vốn, doanh thu hoà vốn của dự án. Dựa vào điểm hoà
vốn mà xác định được thời điểm hợp lý chấm dứt hoạt động của dự án, khối lượng
lợi nhuận đạt được cả đời dự án và còn là cơ sở để phân tích độ nhạy của dự án.
Các phương pháp đánh giá hiệu quả trên đây thường được áp dụng đối vối
dự án đầu tư có tính chất sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; còn đối với
các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thường được đánh giá bằng hiệu
quả xã hội, hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội (như dự án đó tạo bao nhiêu việc làm, nhờ
có dự án đó có bao nhiêu người dân được hưởng lợi…) thì khó đánh giá khi áp dụng
các phương pháp trên.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 24 Kinh tế TNTN và Môi trường
1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước
để chi cho đầu tư phát triển
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố
như: nhóm nhân tố về chính trị, kinh tế, xã hội; về thu nhập và tiết kiệm; về định
hướng chiến lược và quy hoạch phát triển; về thị trường vốn; về con người; về cơ
chế đầu tư. Việc nghiên cứu đầy đủ các nhân tố tác động đến quá trình này cho phép
các nhà hoạch định chính sách, các chủ đầu tư lựa chọn phương thức huy động và
sử dụng vốn tối ưu để đầu tư đạt mục tiêu và mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên,
cũng như đối với dự án đầu tư, dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách Nhà
nước luôn là sự lựa chọn khó khăn, phức tạp cho các chủ đầu tư và các nhà quản lý,
vì nó không chỉ đáp ứng những mục tiêu kinh tế đơn thuần mà phải đảm bảo lợi ích
của toàn xã hội. Nghĩa là ngoài hiệu quả kinh tế thì đầu tư công cộng phải đạt được
mục tiêu làm sao dự án tạo lợi ích cho người này và cũng tạo ra điều kiện tốt cho
người kia hoặc không làm phương hại đến lợi ích của người kia.
Một là, các nhân tố về kinh tế:
- Mức độ phát triển của nền kinh tế thị trường: đây là nhân tố tác động có
tính chất bao trùm đến cả công tác huy động và quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước cho đầu tư phát triển; cụ thể:
+ Kinh tế phát triển mạnh làm cho quy mô GDP ngày càng lớn. Từ đó, tạo
khả năng nâng cao mức tích luỹ nội bộ của cả khu vực Nhà nước và khu vực phi
Nhà nước dành cho đầu tư. Sự phát triển các hoạt động của nền kinh tế đặt ra nhu
cầu tăng cường đầu tư vốn phát triển cho tương ứng để phục vụ tốt nhu cầu vận
chuyển, đi lại đặt ra. Như vậy, từ nhu cầu đầu tư kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm
và khai thác tích cực các nguồn vốn.
+ Kinh tế thị trường phát triển cũng có nghĩa là trong nền kinh tế sẽ có nhiều
thành phần kinh tế có thể cùng trực tiếp tham gia đầu tư và quản lý tốt hơn vốn đầu
tư phát triển.
- Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn với nhiều công cụ được sử dụng
linh hoạt thúc đẩy sự lưu chuyển nhanh của các luồng vốn, tạo điều kiện thuận lợi
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 25 Kinh tế TNTN và Môi trường
cho việc khai thác triệt để vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào nhiều lĩnh vực
nói chung và đầu tư phát triển nói riêng.
- Lợi ích kinh tế các nhà đầu tư được hưởng trong việc đầu tư vốn vào lĩnh
vực đầu tư phát triển như lãi suất cho vay để đầu tư, thu nhập từ việc đầu tư vốn
trực tiếp vào các dự án đầu tư xây dựng cơ bản càng lớn sẽ thúc đẩy các tổ chức, cá
nhân tích cực tiết kiệm, dành vốn đầu tư cho đầu tư xây dựng cơ bản.
- Các biện pháp quản lý sử dụng vốn đầu tư được xây dựng dựa trên cơ sở lợi
ích kinh tế sẽ có tác động mạnh đến việc thúc đẩy sử dụng vốn tiết kiệm, nâng cao
hiệu quả của đồng vốn đầu tư.
Hai là, các nhân tố về chính trị, luật pháp:
- Mức độ ổn định về chính trị và sự hoàn thiện của luật pháp. Tác động của
nhân tố này thể hiện:
+ Sự ổn định về chính trị, luật pháp tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm
bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực trong đó có đầu tư phát triển. Đối với các nhà đầu tư
nước ngoài là những đối tác có khả năng cung cấp số lượng vốn đầu tư lớn thì sự ổn
định về chính trị, luật pháp cùng với sự ưu đãi nhất định sẽ có tác động tích cực đến
việc huy động và sử dụng vốn thông qua các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT.
+ Nhờ có hệ thống luật pháp đồng bộ, hoàn chỉnh, tính pháp lý của các công
cụ huy động vốn trong nước cũng như quy chế đấu thầu, quy chế quản lý sử dụng
vốn đầu tư được nâng cao, tạo điều kiện tốt cho việc tổ chức thực hiện.
- Tính chất phân quyền, phân cấp quản lý của Nhà nước cũng có tác động
mạnh đến việc huy động, quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển. Hiện nay, với cơ
chế tăng tính tự chủ và phân cấp quản lý ngân sách cho các địa phương đã tạo điều
kiện cho ngân sách Trung ương tập trung đầu tư cho các dự án đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng trọng điểm. Đồng thời các địa phương cũng tích cực, chủ động hơn
trong việc khai thác nguồn thu, bố trí vốn đầu tư phát triển ở địa phương. Nhờ có sự
phân quyền, phân cấp r ràng đã tăng cường được tính trách nhiệm của các cơ quan,
đơn vị trong việc quản lý giám sát quá trình sử dụng vốn đầu tư.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 26 Kinh tế TNTN và Môi trường
Cơ chế đầu tư là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến quá trình
khai thác, phân bổ và sử dụng các nguồn lực để tạo nên sự tăng trưởng và phát triển
của một quốc gia, vùng, địa phương.
Cơ chế đầu tư của một quốc gia là một hệ thống đồng bộ các các công cụ
khuyến khích đầu tư như: công cụ về tài chính - tiền tệ, lao động, đất đai, cơ chế thu
hút nguồn nhân lực. Với phạm vi của Luận văn chỉ đề cập đến một số cơ chế chủ
yếu sau:
- Cơ chế tài chính - tiền tệ: trên phương diện tổng thể của nền kinh tế, huy
động và sử dụng vốn đầu tư là quá trình tổ chức khai thác và phân bổ các nguồn lực
tài chính cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Điều khiển quá trình
đó có vai trò rất to lớn của các cơ chế tài chính - tiền tệ. Trong đó:
+ Các sắc luật thuế, quy định tín dụng nhà nước và các quỹ hỗ trợ tài chính là
những công cụ tài chính mà nhà nước có thể sử dụng trực tiếp để khai thác và tập
trung các nguồn lực tài chính của xã hội. Qua đó duy trì tỷ lệ vốn đầu tư của khu
vực nhà nước ở mức cần và đủ sao cho thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế vĩ mô và
thúc đẩy quá trình tiết kiệm - đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và thu hút vốn đầu
tư từ nước ngoài.
+ Đồng thời, để đạt hiệu quả tổng thể cao về huy động và sử dụng vốn, đòi
hỏi nhà nước phải kết hợp sử dụng đồng bộ các công cụ tài chính vĩ mô (công cụ lãi
suất, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và tỷ giá) nhằm hỗ trợ cho quá trình
huy động vốn, sử dụng vốn. Trong quá trình vận hành, chúng không chỉ góp phần
nâng cao khả năng huy động vốn của các tổ chức tín dụng mà còn góp phần thực
hiện tiết kiệm cho đầu tư, kiểm soát lạm phát, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
cho các khu vực kinh tế khai thác tối đa mọi nguồn lực tài chính đưa vào đầu tư
phát triển.
- Quy chế, quy trình quản lý sử dụng vốn đầu tư: đây là những quy định của
Nhà nước nhằm hướng dẫn, quản lý các dự án đầu tư của các chủ thể kinh tế trong
xã hội. Việc xây dựng và ban hành quy chế quản lý cả quá trình đầu tư, từ giai đoạn
chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc đầu tư cho tất cả các đối tượng đầu
tư, quy mô đầu tư đều phải thực hiện theo phương thức đầu tư nhất định.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 27 Kinh tế TNTN và Môi trường
Ba là, trình độ quản lý:
Trình độ của chủ thể quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô đều có ảnh hưởng đến
công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển, thể hiện:
- Ở tầm vĩ mô, sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan Trung
ương như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác sẽ tạo ra sự
thống nhất trong khâu hoạch định cơ chế và đưa ra các biện pháp thực hiện kế
hoạch huy động vốn đầu tư cho đầu tư phát triển. Đồng thời phân định r trách
nhiệm kiểm tra giữa các khâu trong quá trình sử dụng vốn, giảm thiểu được tình
trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.
- Ở tầm vi mô, trình độ quản lý của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến việc sử dụng vốn tiết kiệm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho
từng dự án cụ thể. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA, trình độ quản lý thực thi dự
án có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ giải ngân, mức độ khai thác số vốn ODA đã
cam kết đưa vào đầu tư thực tế.
Con người với thể chất tốt và hàm lượng tri thức cao luôn đóng vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế. Trong đó lực lượng cán bộ quản lý hành chính
nhà nước và cán bộ quản lý doanh nghiệp liên quan đến hoạt động đầu tư nói chung
và đầu tư phát triển nói riêng trong nền kinh tế tác động trực tiếp đến tình trạng (tốt
lên hoặc xấu đi) huy động, phân bổ và sử dụng vốn đầu tư cho quá trình phát triển
kinh tế. Bởi chính đội ngũ này là những người trực tiếp quyết định đến chất lượng
và hiệu quả của việc hoạch định chiến lược, lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch, đề
ra cơ chế quản lý đầu tư, điều tiết quá trình vận hành của thị trường vốn. Các nhân
tố này phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế tạo nên sự tăng trưởng và phát triển
cao sẽ trực tiếp tác động đến việc gia tăng thu nhập để nâng cao năng lực đầu tư của
nền kinh tế. Do vậy, đội ngũ này phải được đào tạo chuyên nghiệp, có chất lượng tri
thức, làm chủ kiến thức và đủ năng lực nghiêp cứu, tiếp thu, triển khai, ứng dụng
khoa học công nghệ mới vào lĩnh vực công tác của mình; nâng cao năng suất và
chất lượng công việc; có đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời phải có cơ chế đãi ngộ
thoả đáng để họ toàn tâm, toàn ý với công việc.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 28 Kinh tế TNTN và Môi trường
Bốn là, các nhân tố khác: nhận thức của các cấp, các ngành cũng như người
dân về vai trò quan trọng của các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý làm công tác huy động
và sử dụng vốn đầu tư, uy tín và quan hệ ngoại giao của Nhà nước, yêu cầu hội
nhập quốc tế là những nhân tố có tác động nhất định đến kết quả huy động và quản
lý sử dụng vốn đầu tư phát triển.
Kết luận chương 1
Quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân
sách Nhà nước là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành,
thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy
định các biện pháp cụ thể, cách thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp
nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định.
Nước ta đang trong quá trình phát triển, quy chế quản lý đầu tư đầu tư nói
chung và cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng
thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng có vai trò rất quan trọng góp phần
nâng cao hiệu quả quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Do vậy, việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu
tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 29 Kinh tế TNTN và Môi trường
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
THUỘC VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1999 ĐẾN NAY
Trong thời gian kể từ năm 1999 đến nay, cơ chế quản lý và sử dụng vốn đầu
tư ở nước ta đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát
triển luôn luôn được cập nhật và đổi mới phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn
trong quản lý, phân định r chức năng, nhiệm vụ và nâng cao vai trò trách nhiệm
của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn đầu tư.
2.1.1. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1999
- 2005
Từ khi có Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ về
việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng (Nghị định này được sửa đổi bổ
sung tại các Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và số 07/2003/NĐ-CP
ngày 30/01/2003 của Chính phủ), thì công tác quản lý đầu tư và xây dựng như được
bước sang một trang mới, đây là văn bản quy phạm pháp luật có tính đột phá trong
công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Các Nghị định này ra đời đã bãi bỏ và đơn
giản hoá nhiều thủ tục không cần thiết, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các
cơ quan quản lý hoạt động có hiệu quả hơn như cho phép các dự án nhóm A đã có
trong quy hoạch được duyệt hoặc đã có văn bản quyết định chủ chương đầu tư của
cấp có thẩm quyền thì không phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và lập ngay
báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với các dự án nhỏ, đơn giản chỉ cần lập Báo cáo đầu
tư thay cho Báo cáo nghiên cứu khả thi trước đây; nâng mức vốn phân loại nhóm dự
án theo hướng giảm các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, tăng các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của cấp Bộ và địa phương.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 30 Kinh tế TNTN và Môi trường
Trong giai đoạn này, cơ chế đấu thầu cũng được sửa đổi và thay thế cho phù
hợp hơn với công tác quản lý đấu thầu ngày càng nhiều phức tạp. Ngày 01/9/1999,
Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Đấu
thầu, Nghị định này được sửa đổi bổ sung tại các Nghị định số 14/2000/NĐ-CP
ngày 05/5/2000 và số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ. Các Nghị
định này thay thế Quy chế Đấu thầu đã ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP
ngày 16/7/1996 và Nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997 của Chính phủ. Các Nghị
định này ra đời đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc trong quản lý đầu thầu trước
kia, góp phần đảm bảo được tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong quá
trình đấu thầu để lựa chọn được nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của
dự án.
Để tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác quản lý đầu tư và xây dựng, góp
phần cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển, hạn chế thất
thoát, tham nhũng, gây phiền hà và để phù hợp với lộ trình thực hiện hội nhập theo
cam kết của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ X. Tại Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua các Luật như Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 (có
hiệu lực từ ngày 01/7/2004), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có
hiệu lực từ ngày 01/7/2006), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có
hiệu lực từ ngày 01/4/2006) để điều chỉnh các hoạt động trong quản lý đầu tư và
xây dựng.
Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, Nghị định số
12/2000/NĐ-CP và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; Nghị định số 16/2005/NĐ-CP,
Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ vể sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP và hiện nay là Nghị định số
12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và
được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009, chúng ta
thấy Chính phủ nhất quán chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho các Bộ chủ quản, địa
phương và các Chủ đầu tư từ việc thẩm định đến phê duyệt dự án đầu tư. Đây là
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 31 Kinh tế TNTN và Môi trường
một chủ trương đúng, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án
đồng thời tăng cường trách nhiệm của cấp dưới đối với dự án đầu tư. Kết quả là các
cấp đã chủ động hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn. Tuy nhiên, không phải Bộ nào,
ngành nào, địa phương nào cũng phát huy được tính năng động tự chủ, tinh thần
trách nhiệm trong thẩm định và phê duyệt dự án, nhiều dự án vẫn được ra đời một
cách gượng ép khi chưa có đủ điều kiện chín muồi để rồi thực hiện nửa chừng phải
điều chỉnh dự án, hoặc lựa chọn công nghệ không phù hợp, không tiên tiến tạo nên
sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chất lượng công trình xây dựng kém, gây lãng phí.
2.1.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006
- 2011
Nhằm nhanh chóng đưa Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu vào đời
sống kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi
phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ (Nghị định này thay thế các quy
định về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình, về hợp đồng trong hoạt
động xây dựng tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về
Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006); Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009
và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về
quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (thay thế cho các Nghị định số
16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày
29/9/2006); Tiếp theo Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày
14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số
99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và
được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính
phủ). Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng dẫn thi hành Luật Đấu
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 32 Kinh tế TNTN và Môi trường
thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng (thay thế Nghị định số
58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008).
- Theo quy định tại Luật Xây dựng, Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
10/2/2009 của Chính phủ và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-
CP ngày 15/10/2009 thì việc Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình được cụ thể
như sau:
Các dự án quan trọng quốc gia phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình
(hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi) để trình Quốc hội thông qua chủ
trương và cho phép đầu tư; Trường hợp dự án chưa có trong quy hoạch xây dựng thì
vị trí, quy mô xây dựng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận bằng văn
bản đối với các dự án nhóm A hoặc có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt về quy hoạch đối với các dự án nhóm B, C.
Các công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo và các công trình xây dựng
mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao
gồm tiền sử dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch
ngành, quy hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu tư thấy cần thiết
và yêu cầu phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ cần lập Báo cáo kinh tế -
kỹ thuật xây dựng công trình để trình người quyết định đầu tư phê duyệt.
Đối với các dự án còn lại thì phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay
còn gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi).
Những quy định mới trong Nghị định này là ở chỗ việc thẩm định dự án và
thẩm định thiết kế cơ sở được tiến hành đồng thời. Những phần việc tiếp theo của
dự án như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự
toán được phân cấp cho chủ đầu tư. Với những quy định mới này vai trò và năng
lực của chủ đầu tư và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình hết sức quan
trọng. Tư vấn có cách nhìn tổng quát trong lựa chọn sản phẩm, địa điểm xây dựng,
dây chuyền công nghệ thì sẽ có phương án chọn hợp lý cho giai đoạn trước mắt và
phù hợp với quy hoạch lâu dài. Mặt khác tư vấn có cách nhìn cụ thể sâu sắc trong
thiết kế tổng mặt bằng, giải pháp kết cấu, lựa chọn vật liệu thì sẽ đưa ra được
phương án khả thi phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế và lợi ích cho dự án. Chất
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 33 Kinh tế TNTN và Môi trường
lượng dự án xây dựng sẽ phụ thuộc nhiều vào phương án lựa chọn ban đầu trong
quá trình lập dự án đầu tư xây dựng công trình.
Hiện nay, trên cơ sở pháp lý là Luật Xây dựng, các Nghị định đã cụ thể hoá
khá r nhiệm vụ của bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Thiết kế cơ sở là
khái niệm mới, là một phần việc quan trọng trong bước lập dự án đầu tư xây dựng
công trình. Dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ được phê duyệt khi đã có thiết kế
cơ sở được cấp có thẩm quyền thẩm định. Để quản lý và tạo điều kiện thực hiện tốt
chất lượng công trình xây dựng trong quá trình thực hiện dự án thì trước hết trong
bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình phải làm r những quy định về nội dung
thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình, trách nhiệm này thuộc về chủ đầu tư
và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Như vậy, để có được hồ sơ dự án
đầu tư xây dựng công trình có chất lượng trước hết chúng ta cần có đội ngũ tư vấn
có chất lượng.
Vấn đề thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình cần phải được quan tâm
và đánh giá đúng mức. Các cơ quan, đơn vị thẩm định phải xác định được vai trò
trách nhiệm của mình và phải có đủ năng lực thẩm định. Sản phẩm thẩm định phải
đạt được tối ưu về kinh tế - kỹ thuật. Lâu nay các đơn vị thẩm định có tình trạng chỉ
thiên về kỹ thuật với xu hướng bảo toàn mà coi nhẹ tính kinh tế, nhất là các công
trình xây dựng. Việc thẩm định dự án đôi khi chưa đạt yêu cầu, còn hình thức, năng
lực thẩm định của một số hội đồng còn chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó cũng chưa có
chế tài trong quy định trách nhiệm thẩm định dự án. Lập dự án đầu tư xây dựng
công trình là bước khởi đầu của một dự án, nó mang nhiều ý nghĩa quan trọng đặc
biệt trong đó có chất lượng các công trình xây dựng.
- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tăng
cường phân cấp, giao trách nhiệm r ràng cho các Bộ, ngành, các địa phương, chủ
đầu tư. Ngày 13/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2007/NĐ-CP về
quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày
07/01/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP và
mới đây tiếp tục ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản
lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 34 Kinh tế TNTN và Môi trường
13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung
tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ), các Nghị định
này đã quy định cụ thể nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình:
+ Quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình phải bảo đảm mục tiêu,
hiệu quả dự án đầu tư xây dựng công trình và các yêu cầu khách quan của kinh tế
thị trường.
+ Quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình theo từng công trình, phù hợp
với các giai đoạn đầu tư xây dựng công trình, các bước thiết kế, loại nguồn vốn và
các quy định của Nhà nước.
+ Tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình phải được tính đúng, tính
đủ và phù hợp độ dài thời gian xây dựng công trình. Tổng mức đầu tư là chi phí tối
đa mà chủ đầu tư được phép sử dụng để đầu tư xây dựng công trình.
+ Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về chi phí đầu tư xây dựng công
trình thông qua việc ban hành, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định
về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.
+ Chủ đầu tư xây dựng công trình chịu trách nhiệm toàn diện về việc quản lý
chi phí đầu tư xây dựng công trình từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc xây
dựng đưa công trình vào khai thác, sử dụng.
Gần đây để hoàn thiện thêm về công tác quản lý hợp đồng trong hoạt động
xây dựng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 7/5/2010 về
hợp đồng trong hoạt động xây dựng (thay thế quy định về hợp đồng trong hoạt động
xây dựng nêu ở Chương 5 Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007), Nghị định
này cũng đã quy định r các nội dung liên quan đến việc tạm ứng, thanh toán vốn
theo từng loại hợp đồng xây dựng, quy định r thêm điều kiện để được tạm ứng vốn
và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý vốn tạm ứng và thu hồi vốn tạm
ứng như sau:
+ Việc tạm ứng hợp đồng được thực hiện ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực
và bên giao thầu đã nhận được bảo lãnh khoản tiền tạm ứng (nếu có).
+ Mức tạm ứng tối thiểu được quy định như sau: đối với hợp đồng tư vấn là
25% giá hợp đồng; đối với hợp đồng thi công xây dựng: Hợp đồng có giá trị dưới
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 35 Kinh tế TNTN và Môi trường
10 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 20% giá trị hợp đồng; hợp đồng có giá trị từ
10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 15% giá trị hợp đồng; hợp
đồng có giá trị trên 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá trị hợp đồng.
Đối với hợp đồng cung cấp thiết bị công nghệ, hợp đồng EPC, hợp đồng chìa khóa
trao tay và các loại hợp đồng xây dựng khác: mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá
trị hợp đồng.
+ Mức vốn tạm ứng tối đa là 50% giá hợp đồng, trường hợp đặc biệt thì phải
được người quyết định đầu tư cho phép. Tiền tạm ứng được bắt đầu thu hồi từ lần
thanh toán đầu tiên, mức thu hồi từng lần do hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng,
kết thúc thu hồi khi giá trị thanh toán đạt đến 80% giá hợp đồng.
+ Vốn tạm ứng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích phải được
thu hồi. Nghiêm cấm tạm ứng nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục
đích.
+ Đối với công việc giải phóng mặt bằng: Mức vốn tạm ứng theo tiến độ
thực hiện trong kế hoạch giải phóng mặt bằng. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp
phải bố trí đủ vốn cho công tác giải phóng mặt bằng.
- Về thanh toán và hồ sơ thanh toán: đối tượng thanh toán là theo từng loại
hình hợp đồng xây dựng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng đơn giản
hoá thủ tục hành chính.
Quy định r thời hạn thanh toán vốn đầu tư là kế hoạch vốn năm chỉ thanh
toán cho khối lượng được nghiệm thu đến ngày 31 tháng 12, thời hạn thanh toán
đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau.
2.1.3. Cơ chế quy định hiện nay về bộ máy, tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển
thuộc nguồn ngân sách Nhà nước
2.1.3.1. Bộ máy lập và giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển hàng năm:
Hiện nay tổ chức bộ máy thực hiện công tác xây dựng kế hoạch và ghi vốn
đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước do 2 cơ quan là Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Bộ Tài chính, trong đó cơ quan Kế hoạch và Đầu tư là đơn vị chủ trì.
Hàng năm, căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế theo Nghị quyết Quốc hội và chỉ
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 36 Kinh tế TNTN và Môi trường
đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân
sách Nhà nước hàng năm. Sau khi cân đối thu - chi ngân sách nhà nước, Bộ Tài
chính thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tổng nguồn vốn chi cho đầu tư phát
triển của năm xây dựng kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì báo cáo Thủ
tướng Chính phủ về đánh giá tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển của kế hoạch
năm trước, tổng hợp nhu cầu sử dụng vốn đầu tư phát triển của các bộ, ngành, địa
phương năm xây dựng kế hoạch, căn cứ vào khả năng cân đối tổng mức vốn đầu tư
phát triển; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư dự kiến kế hoạch vốn đầu tư phát triển trình Thủ tướng Chính phủ,
trình Quốc hội thông qua và tiến hành giao kế hoạch vốn cho các bộ, ngành, địa
phương.
- Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: sau khi Thủ tướng Chính
phủ giao kế hoạch, các Bộ phân bổ kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm
vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao
về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế;
mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước giao.
- Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập
phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế
hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy
định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn
trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng
của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều
hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.
2.1.3.1. Bộ máy, tổ chức lập, phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng:
- Sau khi được giao kế hoạch vốn các bộ, ngành, địa phương sẽ phân bổ vốn
cho từng dự án và giao nhiệm vụ cho từng chủ đầu tư. Chủ đầu tư xây dựng công
trình là người sở hữu vốn hoặc là người được giao nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn
để đầu tư xây dựng công trình, đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 37 Kinh tế TNTN và Môi trường
chủ đầu tư do người quyết định đầu tư quyết định trước khi lập dự án đầu tư, thông
thường chủ đầu tư cũng sẽ là đơn vị quản lý và sử dụng công trình.
- Người quyết định đầu tư sẽ quyết định hình thức quản lý dự án. Hiện nay
có các hình thức quản lý dự án sau:
+ Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án: trường hợp này thì chủ đầu tư thành lập
Ban Quản lý dự án để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý dự án. Ban Quản lý dự
án phải có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý dự án theo yêu cầu của chủ
đầu tư. Ban Quản lý dự án có thể thuê tư vấn quản lý, giám sát một số phần việc mà
Ban Quản lý dự án không đủ điều kiện, năng lực để thực hiện.
+ Chủ đầu tư thuê tư tổ chức tư vấn quản lý điều hành dự án: trường hợp này
thì tổ chức tư vấn đó phải có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý phù hợp với quy
mô, tính chất của dự án. Trách nhiệm, quyền hạn của tư vấn quản lý dự án được
thực hiện hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đầu tư và Ban Quản lý dự án trong trường
hợp chủ đầu tư thành lập Ban Quản lý dự án: Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa
công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và
tuân thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra và
chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Quản lý dự án.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đầu tư và tư vấn quản lý dự án trong trường hợp
chủ đầu tư thuê tư vấn quản lý dự án: Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn từ
giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa công
trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và tuân
thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng
với tổ chức tư vấn quản lý dự án có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý để giúp
chủ đầu tư quản lý dự án. Chủ đầu tư có trách nhiệm kiểm tra, theo d i việc thực
hiện hợp đồng của tư vấn quản lý dự án.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 38 Kinh tế TNTN và Môi trường
2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.2.1. Cơ chế phân cấp, phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà
nước
Cơ chế phân cấp phân bổ vốn đầu tư phụ thuộc và chịu sự điều chỉnh của
Nhà nước về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội theo ngành và lãnh thổ sau khi thực
thi Luật Ngân sách Nhà nước (2002), cơ chế này phụ thuộc nhiều vào cơ chế phân
cấp quản lý Ngân sách Nhà nước. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước bao
gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương gắn với
chức năng về thẩm quyền quản lý của cấp có thẩm quyền theo ngành và lãnh thổ.
Tuy vậy, chi đầu tư phát triển mà đối tượng của nó là các dự án đầu tư xây dựng rất
đa dạng, phong phú cả về quy mô về hình thực, các cơ chế về phân cấp quản lý vốn
đầu tư cũng không hoàn toàn giống như cơ chế phân cấp quản lý vốn ngân sách Nhà
nước. Cơ chế phân cấp phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước
hiện nay bao gồm các nội dung sau:
2.2.1.1. Về nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư
Trên cơ sở tổng mức vốn được Quốc hội phê duyệt hàng năm (thường vào
trung tuần tháng 11 năm trước năm kế hoạch), Thủ tướng Chính phủ giao các bộ,
ngành phân bổ vốn cho các công trình dự án cụ thể. Việc phân bổ vốn cho các công
trình, dự án phải được thực hiện trên các nguyên tắc sau:
- Thực hiện đúng theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Vốn đầu tư
thuộc ngân sách Nhà nước chỉ bố trí cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
- Các công trình dự án phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của ngành đề ra.
- Các công trình, dự án được bố trí vốn phải nằm trong quy hoạch đã được
phê duyệt; có đủ các thủ tục đầu tư theo các quy định về quản lý đầu tư và xây
dựng.
- Bố trí vốn tập trung, bảo đảm hiệu quả đầu tư. Ưu tiên bố trí cho các dự án
quan trọng quốc gia và các dự án lớn khác, các công trình, dự án hoàn thành trong
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 39 Kinh tế TNTN và Môi trường
kỳ kế hoạch, vốn đối ứng cho các dự án ODA; không bố trí vốn cho các dự án khi
chưa xác định được r nguồn vốn.
- Phải dành đủ vốn để thanh toán các khoản nợ và ứng trước năm kế hoạch.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư
phát triển.
2.2.1.2. Về điều kiện phân bổ vốn cho dự án đầu tư
Hiện tại, các cơ quan có thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư phải căn cứ theo
từng dự án. Các dự án chỉ được bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm của Nhà nước
khi có đủ các điều kiện sau:
- Đối với các dự án chuẩn bị đầu tư: phải phù hợp với quy hoạch phát triển
ngành và lãnh thổ được duyệt theo thẩm quyền.
- Đối với các dự án thực hiện đầu tư: phải có quyết định đầu tư từ thời điểm
trước 31 tháng 10 năm trước năm kế hoạch.
- Đảm bảo thời gian từ khi khởi công đến khi hoàn thành các dự án nhóm B
không quá 5 năm, dự án nhóm C không quá 3 năm.
2.2.1.3. Thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư
- Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: các Bộ phân bổ kế hoạch
vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm
bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước,
vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước
và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.
- Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập
phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế
hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy
định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn
trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 40 Kinh tế TNTN và Môi trường
của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều
hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm.
Sở Tài chính có trách nhiệm cùng với Sở Kế hoạch và Đầu tư dự kiến phân
bổ vốn đầu tư cho từng dự án do tỉnh quản lý trước khi báo cáo Ủy ban nhân dân
tỉnh quyết định. Phòng Tài chính kế hoạch huyện có trách nhiệm cùng với các cơ
quan chức năng của huyện tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện phân bổ vốn đầu
tư cho từng dự án do huyện quản lý.
Riêng đối với các dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn được để lại theo
Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và vốn bổ sung
có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương còn phải tuân thủ
các quy định về đối tượng đầu tư và mục tiêu sử dụng của từng nguồn vốn đầu tư.
2.2.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước liên quan
đến dự án đầu tư
2.2.2.1. Quyết định chủ trương đầu tư
Việc đầu tư xây dựng công trình phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng, bảo đảm an ninh, an
toàn xã hội và an toàn môi trường, phù hợp với các quy định của pháp luật về đất
đai và pháp luật khác có liên quan.
Đối với dự án do Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và dự án nhóm A
gồm nhiều dự án thành phần, nếu từng dự án thành phần có thể độc lập vận hành,
khai thác hoặc thực hiện theo phân kỳ đầu tư được ghi trong văn bản phê duyệt báo
cáo đầu tư thì mỗi dự án thành phần được quản lý, thực hiện như một dự án độc lập.
Để quyết định chủ trương đầu tư cho một dự án đầu tư quan trọng của Nhà
nước (công trình do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư), các chương trình hoặc
các dự án đầu tư, các dự án phát triển của mỗi thành phần kinh tế đều phải căn cứ
vào các quy hoạch phát triển. Các quy hoạch (dù là quy hoạch chung hay các quy
hoạch cụ thể) phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,
vùng lãnh thổ hoặc ngành.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 41 Kinh tế TNTN và Môi trường
Các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thường được xây dựng cho khoảng
thời gian từ 10 - 20 năm, được Đại hội Đảng toàn quốc hoặc do Đại hội Đảng bộ
các địa phương thông qua.
Các quy hoạch được sử dụng làm căn cứ quyết định chủ trương đầu tư bao
gồm: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành,
quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, sau đó là các quy hoạch chi tiết về xây
dựng, quản lý đất đai, quy hoạch trong khu công nghiệp, khu đô thị….
Tuy nhiên có một điều là, công tác quy hoạch của ta, tuy đã có chú ý hơn
trước, nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Vẫn còn nhiều ngành, địa
phương chưa có quy hoạch tổng thể, do đó, các dự án đầu tư không có căn cứ vững
chắc, thậm chí mới đầu tư được một thời gian ngắn đã phải thay đổi.
2.2.2.2. Hình thành và thực hiện dự án đầu tư
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước kể cả các dự án thành
phần, Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng từ việc xác định chủ
trương đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự
toán, lựa chọn nhà thầu, thi công xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa
công trình vào khai thác sử dụng.
Một là, đối với cơ chế lập dự án đầu tư: chủ đầu tư có nhiệm vụ, quyền hạn
theo quy định của pháp luật về xây dựng kể từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện
dự án và nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng. Chủ đầu tư có
quyền thành lập ban quản lý dự án hoặc thuê tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư phải
chịu trách nhiệm toàn diện về những công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định của pháp luật, kể cả những công việc đã giao cho Ban quản lý
dự án hoặc nhà thầu tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư là người có trách nhiệm lập
hoặc thuê tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình (trong trường hợp thuê tư
vấn lập dự án đầu tư, chủ đầu tư vẫn là người chịu trách nhiệm báo cáo giải trình dự
án đầu tư trong bước thẩm định đánh giá dự án đầu tư).
Theo quy định hiện hành, việc lập dự án đầu tư được quy định như sau:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 42 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Các dự án phải lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình (Báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi) là các dự án quan trọng quốc gia chủ đầu tư phải lập Báo cáo đầu tư
xây dựng công trình Quốc hội xem xét, quyết định về chủ trương đầu tư. Đối với
các dự án khác, chủ đầu tư không phải lập Báo cáo đầu tư.
- Các dự án chỉ phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình là:
các Công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo; các công trình xây dựng mới, cải
tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao gồm tiền sử
dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy
hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu tư thấy cần thiết và yêu cầu
phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình.
- Các dự án phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay còn gọi là Báo
cáo nghiên cứu khả thi) là các dự án đầu tư xây dựng công trình còn lại. Khi đầu tư
xây dựng công trình, chủ đầu tư phải tổ chức lập dự án đầu tư và trình người quyết
định đầu tư thẩm định, phê duyệt.
Hai là, đối với cơ chế thẩm định dự án đầu tư: song song với cơ chế lập dự
án đầu tư là cơ chế thẩm định dự án đầu tư. Đó là cơ chế quy định về trách nhiệm và
thẩm quyền mà chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn cơ quan có thẩm quyền về tổ chức
lập dự án đầu tư, thẩm định đánh giá dự án đầu tư và quyết định đầu tư.
Thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình
- Người quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức thẩm định dự án trước khi
phê duyệt. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị chuyên môn trực thuộc cấp quyết
định đầu tư. Đối với các dự án đã được phân cấp hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư
thì người được phân cấp hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức
thẩm định dự án.
- Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng Thẩm định nhà nước về các dự án
đầu tư để tổ chức thẩm định dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và dự
án khác nếu thấy cần thiết. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Chủ tịch Hội đồng
Thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư.
- Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước: Cơ quan cấp Bộ tổ chức
thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Đầu mối tổ chức thẩm định dự án là
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 43 Kinh tế TNTN và Môi trường
đơn vị chuyên môn trực thuộc người quyết định đầu tư; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ
chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu
mối tổ chức thẩm định dự án.
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã tổ chức thẩm định dự án do mình quyết
định đầu tư. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị có chức năng quản lý kế hoạch
ngân sách trực thuộc người quyết định đầu tư.
Ba là, thẩm quyền quyết định đầu tư:
Không hoàn toàn giống như thẩm quyền quyết định dự toán Ngân sách Nhà
nước, thẩm quyền quyết định đầu tư hiện nay vẫn còn khác nhau. Ngày 10/02/2009,
sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2009/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung
tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 thì thẩm quyền phê duyệt dự án
đầu tư xây dựng công trình được quy định cụ thể và được mở rộng hơn.
- Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia theo
Nghị quyết của Quốc hội và các dự án quan trọng khác;
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan cấp Bộ quyết định đầu tư các dự án nhóm A,
B, C. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan cấp Bộ được uỷ quyền hoặc phân cấp quyết
định đầu tư đối với các dự án nhóm B, C cho cơ quan cấp dưới trực tiếp;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp quyết định đầu tư các dự án nhóm A, B, C
trong phạm vi và khả năng cân đối ngân sách của địa phương sau khi thông qua Hội
đồng nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được uỷ
quyền hoặc phân cấp quyết định đầu tư đối với các dự án nhóm B, C cho cơ quan
cấp dưới trực tiếp.
2.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LIÊN QUAN ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÂN BỔ
VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.3.1. Cơ chế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010, với việc triển khai
thực hiện khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển (trong
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 44 Kinh tế TNTN và Môi trường
đó có đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước) như trên, Đảng và Nhà nước
ta đã cụ thể hoá vào các Nghị quyết, hệ thống luật pháp như: ổn định chính trị, xã
hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế được mở rộng, ổn định môi trường kinh
tế vĩ mô, cải cách hành chính trong mọi lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, tạo
môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài; bước đầu đã hình thành và phát
triển thị trường vốn, đó là hệ thống các ngân hàng đầu tư và thương mại, các công
ty tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư đã giúp cho nền kinh tế nước ta duy
trì tốc độ tăng trưởng khá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới thời gian qua gặp
nhiều khó khăn, GDP của nước ta giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 7,5%/năm và
giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 7%/năm. Cụ thể:
- Trong cơ cấu tổng nguồn vốn đầu tư xã hội, thời gian vừa qua, có sự tham
gia của rất nhiều các nguồn vốn khác nhau mà trong đó nguồn vốn đầu tư từ ngân
sách Nhà nước chỉ là một phần trong số đó. Nói cách khác, việc đa dạng hoá trong
khai thác và huy động vốn đầu tư, đầu tư xây dựng cơ bản đã được vận dụng trong
thực tiễn hoạt động khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn trong nền kinh tế
cùng tham gia đầu tư xây dựng cơ bản.
- Nhờ huy động tốt các nguồn lực, khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh, cho
phép dành được một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư vào một số công trình chủ
yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương; chi đầu tư chuyển đổi
mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng
ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chi chuyển đổi cơ
cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; chi đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết
bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp; đã và đang đầu tư nhiều cơ cở
sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông - vận tải, viễn thông,
thuỷ lợi, công nghiệp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường,
giảm nhẹ thiên tai…
Bên cạnh đó, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đã được tập trung chi đầu tư
cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường, y tế, các
chương trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 45 Kinh tế TNTN và Môi trường
kinh tế, xã hội các tỉnh Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long,
các tỉnh còn khó khăn, các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt.
- Tính chung trong 11 năm (2001 - 2011), tổng chi vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội đã thực hiện được khoảng 4.336,5 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 41,6% GDP
của cả thời kỳ. Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, nhưng giai đoạn 2006 - 2010 vẫn huy động được một khối lượng khá lớn
vốn đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước 5 năm 2006 - 2010
huy động đạt khoảng 3.092,6 nghìn tỷ đồng, gấp khoảng 2,5 lần so với giai đoạn
2001 – 2005 và tăng 15,5% so với kế hoạch đề ra, đạt 42,7% GDP, trong đó: vốn
đầu tư từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2020 ước thực hiện 657,1 nghìn tỷ
đồng, vốn trái phiếu Chính phủ ước đạt khoảng 169,2 nghìn tỷ đồng. Trong thời
gian vừa qua, chúng ta đã phát huy tốt nguồn lực cho đầu tư phát triển; tổng vốn chi
cho đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá nhanh, bình quân giai đoạn 2001-2005 so
với GDP đạt 39,1%, giai đoạn 2006-2010 đạt 42,7% GDP và năm 2011 đạt 42%
GDP. Riêng đối với vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước về số tuyệt đối lại tăng lên
đáng kể (tổng giai đoạn 2001-2005 là 285,3 nghìn tỷ đồng, giai đoạn 2006-2010 là
657,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3 lần so với giai đoạn 2001-2005 và năm 2011 thì số
vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là 180 nghìn tỷ đồng); tuy nhiên, nguồn vốn này
cũng có sự giảm đi về số tương đối (từ 22,9% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn
2001-2005 xuống còn khoảng 21,2% giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2011 thì
giảm xuống còn 20,5%); điều này chứng tỏ do môi trường đầu tư thuận lợi nên các
thành phần kinh tế trong xã hội đã tham gia đầu tư mạnh mẽ, vốn ngân sách Nhà
nước đã làm được vai trò là “vốn mồi” cho nền kinh tế.
Kết quả của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội nói chung và chi vốn
đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng trong giai đoạn 2001-2011 là rất
tích cực, nhờ thu hút được một khối lượng lớn các nguồn vốn đầu tư phát triển, hệ
thống kết cấu hạ tầng đã được cải thiện đáng kể, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng,
đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân (Chi tiết xem bảng 2.1).
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 46 Kinh tế TNTN và Môi trường
Bảng 2.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 và 2006-2011
Thực hiện giai đoạn 2006 – 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Số TT
Thực hiện 2001-2005
Năm 2011
Tổng số
2006
2007
2009
2010
Chia ra 2008
Nghìn tỷ đồng
I
Tổng sản phẩm nội địa (GDP)
3.183,7
7.242,3
974,3
1.143,7
1.485,0
1.658,4
1.980,9
2.097,6
Nghìn tỷ đồng
II Vốn ĐTPT toàn xã hội
1.243,9
3.092,6
404,6
532,2
616,7
708,8
830,3
880,0
% so với GDP
%
39,1
42,7
41,5
46,5
41,5
42,7
41,9
42,0
Nghìn tỷ đồng
1 Vốn đầu tư thuộc NSNN
285,3
657,1
88,3
104,3
119,5
172,0
173,0
180,0
So với tổng số
%
22,9
21,2
21,8
19,6
19,4
24,3
20,8
20,5
Nghìn tỷ đồng
2 Vốn trái phiếu Chính phủ
19,5
169,2
10,3
16,7
26,9
52,9
62,4
45,0
So với tổng số
%
1,6
5,5
2,5
3,1
4,4
7,5
7,5
5,1
Nghìn tỷ đồng
3 Vốn tín dụng đầu tư
174,2
199,0
34,9
35,1
35,0
42,0
52,0
50,0
So với tổng số
%
14,0
6,4
8,6
6,6
5,7
5,9
6,3
5,7
Nghìn tỷ đồng
4 Vốn đầu tư của DNNN
185,2
313,8
58,1
61,2
53,8
62,3
78,4
82,0
So với tổng số
%
14,9
10,1
14,4
11,5
8,7
8,8
9,4
9,3
Nghìn tỷ đồng
5 Vốn ĐT của dân cư và tư nhân
403,7
1.115,3
154,0
204,7
217,0
240,1
299,5
349,0
So với tổng số
%
32,5
36,1
38,1
38,5
35,2
33,9
36,1
39,7
6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghìn tỷ đồng
176,0
608,7
59,0
103,7
157,5
132,5
156,0
165,0
So với tổng số
%
14,1
19,7
14,6
19,5
25,5
18,7
18,8
18,8
Nghìn tỷ đồng
7 Vốn đầu tư khác
0,0
29,5
0,0
6,5
7,0
7,0
9,0
9,0
1,0
So với tổng số
1,0
0,0
1,2
1,1
1,0
1,1
%
0,0 Nguồn: Báo cáo thực hiện kế hoạch vốn đầu tư phát triển 5 năm 2006-2010 và kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015 của Bộ KH và ĐT.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 47 Kinh tế TNTN và Môi trường
2.3.2. Tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước
Các cơ chế về phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư
phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng đều phải xuất phát từ yêu cầu của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020.
Để thực hiện có hiệu quả các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo xu hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế r rệt
để đến năm 2015 tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 41% - 42%
GDP; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 17% - 18% GDP; ngành dịch vụ chiếm
40% - 42% GDP.
Cơ cấu chi đầu tư vào các ngành và lĩnh vực như sau:
Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính
phủ dành cho chi đầu tư phát triển của nền kinh tế trong 5 năm 2006 - 2010, đạt
khoảng 826 nghìn tỷ đồng, năm 2011 là 225 nghìn tỷ đồng.
Cơ cấu chi đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung cho
những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời quan tâm đầu tư
nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo. Chi đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 57,5%
tổng mức vốn đầu tư 5 năm 2006 - 2010, trong đó: ngành nông nghiệp, lâm nghiệp
và thuỷ sản 20,9%, giao thông vận tải 28,1%, thông tin và truyền thông 1,1%; Lĩnh
vực xã hội chiếm 39,4%, trong đó: cấp nước và xử lý rác thải, nước thải 3,1%, khoa
học công nghệ và công nghệ thông tin 2,5%, tài nguyên và môi trường 1,5%, giáo
dục - đào tạo 14,7%, y tế 6%, xã hội 2,6%, văn hoá 2%, thể thao 0,8%, quản lý nhà
nước 6,1%; Lĩnh vực quốc phòng 2,4% và lĩnh vực an ninh 0,7%.
Qua đó, chúng ta thấy vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính
phủ trong thời gian qua đã tập trung chi cho các ngành trọng điểm phục vụ cho các
mục tiêu công như: nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, giao thông vận tải, giáo dục và
đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thể thao, khoa học và công nghệ.
Giao thông vận tải: tiếp tục duy trì tổng chi đầu tư cho ngành giao thông vận
tải ở mức 28,1% vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu
Chính phủ. Đã tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng,
hạ tầng giao thông nông thôn, đặc biệt ở vùng núi, biên giới, Tây Nguyên. Đã hoàn
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 48 Kinh tế TNTN và Môi trường
thành một số đoạn đường quan trọng trên các trục quốc lộ như dự án đường Hồ Chí
Minh giai đoạn I, đường cao tốc Long Thành - Dầu Giây, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh
Tuy, cầu Cần Thơ, các dự án đường tuần tra biên giới…, đồng thời đang triển khai
đầu tư một số dự án lớn như: đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lào Cai,
Cầu Giẽ - Ninh Bình, cảng Cái Mép – Thị Vải, nhà ga T2 Nội Bài...
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: chi đầu tư giai đoạn 2006-2010 được duy trì ở
mức từ 20,2%-21,5% vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiếu
Chính phủ. Tính chung trong giai đoạn 2006-2010, tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực
này ước đạt 172,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,9%; riêng năm 2011 vốn đầu tư vào lĩnh
vực này đạt 48,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,5% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân
sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Trong giai đoạn này đã thực hiện đầu tư
xây dựng một số dự án lớn thuộc lĩnh vực thủy lợi như Hồ chứa nước Cửa Đạt,
Krông Buk Hạ, Nước Trong, Định Bình, Sông Ray. Kết quả về kinh tế là mặc dù
chịu nhiều thiên tai trong những năm vừa qua, giá trị sản xuất ngành, nông, lâm
nghiệp và thủy sản luôn đạt ở mức cao, bình quân năm năm tăng 4,7%, vượt mục
tiêu đề ra là 4,5%.
Đầu tư vào lĩnh vực xã hội: tỷ lệ chi đầu tư trong giai đoạn 2006-2010 đạt
khoảng 325,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,4% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân
sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ, trong đó tập trung chủ yểu vào một số lĩnh
vực sau:
Giáo dục - đào tạo: tổng chi đầu tư cho ngành giáo dục và đào tạo giai đoạn
2006-2010 đạt khoảng 121,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư phát triển
nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Huy động nhiều nguồn lực
thuộc các thành phần kinh tế tham gia, tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho lĩnh
vực giáo dục. Tập trung đầu tư các dự án lớn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cho
các trường đại học trọng điểm. Tăng đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc, đồng bằng sông Cửu Long.
Khoa học và công nghệ: đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho các cơ sở khoa học và công nghệ, hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và
khu công nghệ cao.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 49 Kinh tế TNTN và Môi trường
Y tế: trong các năm qua, Nhà nước đã chú ý nâng cấp đầu tư các cơ sở y tế
nói chung và hệ thống khám chữa bệnh nói riêng, đặc biệt là các bệnh viện y tế
chuyên sâu. Chú trọng đầu tư cả về cơ sở vật chất và trang thiết bị cho hệ thống y tế
tuyến tỉnh, huyện và y tế cơ sở. Triển khai một số dự án trung tâm y tế vùng. Đầu tư
nâng cấp hệ thống trung tâm y tế tuyến huyện.
Quốc phòng - an ninh: Việc đầu tư cho lĩnh vực an ninh - quốc phòng được
quan tâm, tập trung bố trí vốn năm sau cao hơn năm trước. Nhằm giữ vững độc lập
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị.
Việc bố trí hợp lý chi vốn đầu tư của toàn xã hội nói chung, chi vốn đầu tư
phát triển từ ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ nói riêng theo cơ cấu
ngành kinh tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cạnh tranh và xuất khẩu chung
của nền kinh tế. Tình hình cơ cấu chi vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước
theo ngành kinh tế trong giai đoạn 2006 – 2011 thể hiện trong Bảng 2.2.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 50 Kinh tế TNTN và Môi trường
Bảng 2.2. Vốn đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và Trái phiếu Chính phủ theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 2006-2011
Giai đoạn 2006 – 2010
Chia ra
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Số TT
Năm 2011
Tổng số
2006
2007
2008
2009
2010
TỔNG SỐ
121,0
146,3
224,9
235,3
225,0
826,0
98,6
Nghìn tỷ đồng
Nghìn tỷ đồng
I
Lĩnh vực kinh tế
128,4
133,2
125,8
73,2
85,1
474,6
54,8
So với tổng số
56,6
55,9
60,5
58,2
57,1
57,5
55,6
%
Nghìn tỷ đồng
1
Công nghiệp
13,4
13,6
12,6
9,4
9,7
53,5
4,5
So với tổng số
11,1
9,3
5,6
4,0
4,3
6,5
4,5
%
Nghìn tỷ đồng
2
Nông, lâm nghiệp và thủy sản
24,8
29,5
47,2
50,1
48,4
172,7
21,2
So với tổng số
20,5
20,2
21,0
21,3
21,5
20,9
21,5
%
Nghìn tỷ đồng
3
Giao thông vận tải
32,7
39,1
64,1
69,2
63,7
232,3
27,2
So với tổng số
27,0
26,7
28,5
29,4
28,3
28,1
27,6
%
Nghìn tỷ đồng
4
Thông tin và truyền thông
1,4
1,6
2,5
2,5
2,3
9,1
1,2
So với tổng số
1,1
1,1
1,1
1,1
1,0
1,1
1,2
%
Nghìn tỷ đồng
5
Thương mại, kho tàng và du lịch
0,9
1,3
1,9
2,0
1,8
6,9
0,8
So với tổng số
0,8
0,9
0,9
0,8
0,8
0,8
0,8
%
Nghìn tỷ đồng
II Lĩnh vực xã hội
43,8
56,4
89,9
95,0
92,0
325,5
40,3
So với tổng số
36,2
38,5
40,0
40,4
40,9
39,4
40,9
%
Nghìn tỷ đồng
1
4,2
4,6
6,8
6,7
6,8
26,0
3,7
Cấp nước và xử lý rác thải, nước thải
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 51 Kinh tế TNTN và Môi trường
So với tổng số
%
3,1
3,7
3,5
3,2
3,0
2,9
3,0
Nghìn tỷ đồng
Khoa học, công nghệ và công nghệ thông tin
2
20,4
2,6
3,0
3,4
5,6
5,8
6,3
So với tổng số
%
2,5
2,7
2,5
2,3
2,5
2,5
2,8
Nghìn tỷ đồng
Tài nguyên và môi trường
3
12,8
1,7
2,0
2,2
3,4
3,6
3,8
So với tổng số
%
1,5
1,7
1,7
1,5
1,5
1,5
1,7
Nghìn tỷ đồng
Giáo dục và đào tạo
4
121,5
14,0
15,3
20,7
34,1
37,4
35,6
So với tổng số
%
14,7
14,2
12,7
14,1
15,1
15,9
15,8
Nghìn tỷ đồng
Y tế
5
49,4
4,6
5,2
9,4
14,6
15,6
13,7
So với tổng số
%
6,0
4,7
4,3
6,4
6,5
6,6
6,1
Nghìn tỷ đồng
Xã hội
6
21,5
2,8
3,2
3,7
5,7
6,1
6,3
So với tổng số
%
2,6
2,9
2,7
2,5
2,5
2,6
2,8
Nghìn tỷ đồng
Văn hóa
7
16,7
2,2
2,5
3,0
4,4
4,5
4,3
So với tổng số
%
2,0
2,2
2,0
2,1
2,0
1,9
1,9
Nghìn tỷ đồng
Thể thao
8
6,4
0,8
0,9
1,2
1,8
1,8
1,8
So với tổng số
%
0,8
0,8
0,7
0,8
0,8
0,7
0,8
Nghìn tỷ đồng
9
Quản lý nhà nước
50,7
7,9
7,5
8,1
13,6
13,6
13,5
So với tổng số
%
6,1
8,0
6,2
5,6
6,1
5,8
6,0
Nghìn tỷ đồng
III Quốc phòng
19,8
2,7
3,0
3,7
5,0
5,3
5,4
So với tổng số
%
2,4
2,7
2,5
2,5
2,2
2,3
2,4
Nghìn tỷ đồng
IV An ninh
6,2
0,8
0,9
1,1
1,5
1,8
1,8
0,8
So với tổng số
0,7
0,8
0,8
0,8
0,7
%
0,8 Nguồn: Báo cáo thực hiện kế hoạch vốn đầu tư phát triển 5 năm 2006-2010 và dự kiến giai đoạn 2011-2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 52 Kinh tế TNTN và Môi trường
2.4. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN
VỪA QUA
2.4.1. Một số kết quả hoạt động đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trong thời
gian qua
Thứ nhất, về cơ chế, chính sách:
- Quốc hội đã thông qua được các văn bản Luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động đầu tư xây dựng nói chung và cho chi đầu tư phát triển nói riêng; cụ thể
tại Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua các
Luật như Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 (có hiệu lực từ ngày
01/7/2004), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có hiệu lực từ ngày
01/7/2006), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có hiệu lực từ ngày
01/4/2006), Luật số 38/2009/QH12 ngày 19/6/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều
của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản để điều chỉnh các hoạt động
trong quản lý đầu tư và xây dựng.
- Để triển khai các Luật nêu trên, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định
hướng dẫn cụ thể cho các tổ chức, cá nhân thực hiện, đưa việc thực hiện các Luật
Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu vào đời sống kinh tế xã hội của đất nước,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 về quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình (thay thế cho các Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày
07/02/2005 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được
sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006) và được sửa
đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009; Nghị định số
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi
phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ (Nghị định này thay thế các quy
định về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình, về hợp đồng trong hoạt
động xây dựng tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về
Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 53 Kinh tế TNTN và Môi trường
112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006), Tiếp theo Chính phủ đã ban hành Nghị định số
112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình
(thay thế các quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình quy định tại
Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng
công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày
07/01/2008 của Chính phủ); Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng
dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng
(Nghị định này thay thế Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008). Nghị định
số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tưu theo hình thức Hợp
đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao -
Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (thay thế Nghị định số
78/2007/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức
Hợp đồng BOT, Hợp đồng BTO và Hợp đồng BT). Nghị định số 48/NĐ-CP ngày
7/5/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng (thay thế các quy
định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày
13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình).
Thứ hai, việc quy định các thủ tục đầu tư được r ràng và đơn giản hơn:
Theo quy định tại Luật Xây dựng và Nghị định số 12/2009/NĐ-CP của
Chính phủ thì việc Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình được cụ thể như sau:
Các dự án quan trọng quốc gia phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình
(hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi) để trình Quốc hội thông qua chủ
trương và cho phép đầu tư; các công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo và các
công trình xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ
đồng (không bao gồm tiền sử dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu
tư thấy cần thiết và yêu cầu phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ cần lập
Báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình để trình người quyết định đầu tư phê
duyệt; các dự án đầu tư còn lại thì phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay
còn gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi).
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 54 Kinh tế TNTN và Môi trường
Những quy định mới trong Nghị định này là ở chỗ việc thẩm định dự án và
thẩm định thiết kế cơ sở được tiến hành đồng thời. Những phần việc tiếp theo của
dự án như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự
toán được phân cấp cho chủ đầu tư. Với những quy định mới này vai trò và năng
lực của chủ đầu tư và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình hết sức quan
trọng.
Thứ ba, đã quy định r trách nhiệm của các cấp trong thẩm quyền quyết định
phê duyệt dự án đầu tư:
Tại Nghị định số 12/2009/NĐ-CP, chúng ta thấy Chính phủ chủ trương đẩy
mạnh phân cấp cho các Bộ chủ quản, địa phương và các Chủ đầu tư từ việc thẩm
định đến phê duyệt dự án đầu tư. Đây là một chủ trương đúng, tạo điều kiện thuận
lợi đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đồng thời tăng cường trách nhiệm của cấp
dưới đối với dự án đầu tư. Kết quả là các cấp đã chủ động hơn, có tinh thần trách
nhiệm hơn. Ngoài ra, Nghị định số 12/2009/NĐ-CP đã có những quy định khá r về
nội dung trình tự lập, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình.
Thứ tư, về quản lý chi phí xây dựng:
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về
quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số 99/2007/NĐ-CP
ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ
sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ); Nghị định
này đã quy định cụ thể nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình theo
hướng phân giao nhiệm vụ, quyền hạn cho chủ đầu tư; chủ đầu tư là nguời quyết
định chi phí công trình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình;
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý chi phí thông qua việc ban hành, hướng dẫn
và kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý chi phí.
Thứ 5, về công tác quản lý trong hoạt động hợp đồng xây dựng:
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 7/5/2010 về hợp đồng
trong hoạt động xây dựng (thay thế các quy định về hợp đồng trong hoạt động xây
dựng của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 55 Kinh tế TNTN và Môi trường
xây dựng công trình). Nghị định này cũng đã quy định r các nội dung liên quan
đến việc tạm ứng, thanh toán các dự án đầu tư, cụ thể:
- Về tạm ứng vốn và thu hồi vốn tạm ứng: quy định r thêm điều kiện để
được tạm ứng vốn và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý vốn tạm ứng và
thu hồi vốn tạm ứng như sau:
+ Việc tạm ứng hợp đồng được thực hiện ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực
và bên giao thầu đã nhận được bảo lãnh khoản tiền tạm ứng (nếu có).
+ Mức tạm ứng tối thiểu được quy định như sau: đối với hợp đồng tư vấn là
25% giá hợp đồng; đối với hợp đồng thi công xây dựng: Hợp đồng có giá trị dưới
10 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 20% giá trị hợp đồng; hợp đồng có giá trị từ
10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 15% giá trị hợp đồng; hợp
đồng có giá trị trên 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá trị hợp đồng.
Đối với hợp đồng cung cấp thiết bị công nghệ, hợp đồng EPC, hợp đồng chìa khóa
trao tay và các loại hợp đồng xây dựng khác: mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá
trị hợp đồng.
+ Mức vốn tạm ứng tối đa là 50% giá hợp đồng, trường hợp đặc biệt thì phải
được người quyết định đầu tư cho phép. Tiền tạm ứng được bắt đầu thu hồi từ lần
thanh toán đầu tiên, mức thu hồi từng lần do hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng,
kết thúc thu hồi khi giá trị thanh toán đạt đến 80% giá hợp đồng.
+ Vốn tạm ứng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích phải được
thu hồi. Nghiêm cấm tạm ứng nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục
đích.
+ Đối với công việc giải phóng mặt bằng: Mức vốn tạm ứng theo tiến độ
thực hiện trong kế hoạch giải phóng mặt bằng. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp
phải bố trí đủ vốn cho công tác giải phóng mặt bằng.
- Về thanh toán và hồ sơ thanh toán: đối tượng thanh toán là theo từng loại
hình hợp đồng xây dựng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng đơn giản
hoá thủ tục hành chính.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 56 Kinh tế TNTN và Môi trường
Quy định r thời hạn thanh toán vốn đầu tư là kế hoạch vốn năm chỉ thanh
toán cho khối lượng được nghiệm thu đến ngày 31 tháng 12, thời hạn thanh toán
đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau.
Thứ 6, huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Những kết quả đổi mới cơ chế chính sách và cải thiện môi trường
đầu tư đã tạo điều kiện để huy động được một khối lượng vốn lớn phục vụ cho đầu
tư phát triển kinh tế đất nước. Đáng chú ý trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt
mức khá cao. Bình quân 5 năm huy động vốn đầu tư toàn xã hội đạt 42,7% GDP,
vượt kế hoạch đề ra. Nguồn vốn ODA cam kết năm sau cao hơn năm trước, giải
ngân vượt mức kế hoạch.
Với việc mở rộng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế trên cơ sở có sự tham
gia của mọi thành phần, ngân sách Nhà nước đã thu hẹp phạm vi bao cấp, chỉ tập
trung vào những lĩnh vực cụ thể; do vậy, xét chung trong toàn xã hội hiệu quả của
đồng vốn đã tăng lên đáng kể. Kết quả của hoạt động đầu tư của nền kinh tế nói
chung và hoạt động chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng là
hàng loạt công trình quan trọng của nền kinh tế được hoàn thành đưa vào sử dụng
và nhanh chóng phát huy tác dụng, góp phần tăng năng lực sản xuất của nhiều
ngành kinh tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, ngành như Nhà
máy thuỷ điện Trị An có công suất là 400 MW, Nhà máy thủy điện Ialy có công
suất 720 MW, Sê San 3 có công suất 260 MW, PleiKrông có công suất 100 MW, Sê
San 3A có công suất 108 MW, Sê San 4 có công suất 360 MW, Thượng Kon Tum
có công suất 220 MW, Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ có công suất 1.655 MW, Nhà
máy nhiệt điện Ninh Bình có công suất 100 MW, đường dây tải điện 500 KV với
1.487 km dài, đường ống dẫn khí Bạch Hổ - Thủ Đức 1,5 tỷ m3/năm.
Bên cạnh đó, hệ thống thủy lợi khá hoàn chỉnh phục vụ ngày càng tốt hơn sự
phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung đã và đang
được hình thành. Các dự án thủy lợi lớn như Đại Ninh, Thạch Nham, Dầu Tiếng,
Sông Quao, Yazun Hạ, Cửa Đạt, Krông Buk Hạ, các công trình thủy lợi đồng bằng
sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng đã tạo điều kiện khai hoang tăng vụ, tăng
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 57 Kinh tế TNTN và Môi trường
năng suất. Các công trình thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên đã góp phần làm thay
đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của vùng.
Hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc đã được từng
bước hiện đại hóa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Các tuyến trục giao thông
chính trải dài đất nước nối kết các khu, trục phát triển kinh tế được xây dựng đã góp
phần to lớn làm lên sự chuyển mình mạnh mẽ như tam giác Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh với trục giao thông Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, Quốc lộ 10, thành phố Hồ
Chí Minh – Vũng Tầu, tuyến quốc lộ 1A dọc đất nước từ Lạng Sơn đến Cà Mau,
các đường như Bắc Thăng Long – Nội Bài, Nội Bài – Bắc Ninh, đường Láng – Hoà
Lạc, xây dựng mới các cầu Việt Trì, Phú Lương, Lai Vu, Sông Gianh, Hiền Lương,
Mỹ Thuận, cầu Rạch Miễu…; Đặc biệt, kết quả của việc đầu tư cho giao thông
nông thôn cùng với các chương trình khác đã góp phần tạo thêm nhiều cơ hội mới
cho việc phát triển kinh tế, từng bước xóa đói giàm nghèo thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, đã hoàn thành nâng cấp các quốc
lộ quan trọng như Đường Hồ Chí Minh giai đoạn I, đường cao tốc Long Thành -
Dầu Giây, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, cầu Cần Thơ. Hiện nay, đang tiếp tục đầu
tư vào một số dự án lớn như: đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lào Cai,
Cầu Giẽ - Ninh Bình, cảng Cái Mép – Thị Vải, nhà ga T2 Nội Bài...
Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp nên những kết quả đã đạt
được vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt khi mở cửa hội nhập với thế giới, những tác động
từ bên ngoài ngày càng có tính chất quyết định tới hoạt động đầu tư trong nền kinh
tế nước ta.
2.4.2. Những hạn chế, yếu kém trong đầu tư phát triển
2.4.2.1. Về quy hoạch
Quy hoạch phát triển nhiều ngành chất lượng chưa cao hoặc chậm được phê
duyệt. Chưa gắn kết chặt chẽ quy hoạch phát triển ngành với vùng và địa phương.
Quy hoạch chưa sát với thực tế, chồng chéo, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa chú trọng
thoả đáng đến yếu tố môi trường và xã hội.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 58 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Trong ngành giao thông vận tải, quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển,
sân bay để đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách, phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội là cần thiết, nhưng việc bố trí nhiều sân bay, bến cảng ở các vùng, địa
phương quá gần nhau mà chưa tính hết sự gắn kết trong khai thác hiệu quả tổng hợp
kết cấu hạ tầng các loại hình vận tải hiện có, chưa phù hợp với khả năng phát triển
kinh tế và nguồn vốn đầu tư. Chưa quan tâm đúng mức đến quy hoạch phát triển
giao thông đường sắt và đường thuỷ nội địa. Nhiều đường bay nội địa, nhiều cảng
biển và cảng sông bị lỗ, phải tăng phí qua cảng dẫn tới năng lực cạnh tranh kém.
Hiện nay, cả nước có hơn 100 cảng biển ở 24 tỉnh, thành phố với công suất
khối lượng hàng hoá thông qua cảng khoảng 64 triệu tấn/năm. Nhiều cảng biển
được xây dựng quá gần nhau như cảng Hòn La (Quảng Bình) cách cảng Vũng Áng
(Hà Tĩnh) 25 km, cảng Chân Mây (Thừa Thiên – Huế) cách cảng Tiên Sa (Đà
Nẵng) 30 km; cảng Dung Quất (Quảng Ngãi) cách cảng Kỳ Hà (Quảng Nam) 10
km; cho đến nay chưa tập trung xây dựng được những cảng lớn có tầm cỡ khu vực
và quốc tế. Một số địa phương triển khai dự án đầu tư cảng biển không phù hợp với
quy hoạch được duyệt hoặc không có sự thoả thuận của Bộ Giao thông Vận tải như
công trình bến số 2 cảng Hải Thịnh (Nam Định), cảng Diêm Điền (Thái Bình), Cửa
Việt (Quảng Trị), cảng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi),... Ngược lại, Cảng Sài Gòn vừa
mới dồn sức tu bổ lớn, nâng cấp, mở rộng, nay lại phải di dời đi chỗ khác.
- Trong ngành công nghiệp, còn có tình trạng quy hoạch ngành chưa thống
nhất với quy hoạch vùng, địa phương. Một số dự án không nằm trong quy hoạch
ngành vẫn được các địa phương phê duyệt. Quy hoạch phát triển các khu, cụm công
nghiệp ở các địa phương thời gian qua có phần tràn lan và chưa được tính toán kỹ,
cân đối các mặt; nhiều địa phương chưa phối hợp tốt với các Bộ, ngành trong việc
xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các khu, cụm công nghiệp; xử lý chưa tốt
giữa quy hoạch trong khu công nghiệp với ngoài hàng rào khu công nghiệp.
- Trong ngành nông nghiệp, không ít trường hợp, quy hoạch đầu tư nhà máy
chế biến lương thực, thực phẩm, rau quả chưa gắn kết hoặc không phù hợp với vùng
nguyên liệu và thị trường. Một số nhà máy đường (Phú Thọ, Linh Cảm – Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Thừa Thiên – Huế) xây dựng xong nhưng không có đủ vùng nguyên
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 59 Kinh tế TNTN và Môi trường
liệu, hoạt động cầm chừng hoặc phải di chuyển đi địa phương khác, gây tốn kém,
lãng phí. Tình hình trên cũng xảy ra ở nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế
biến rau quả, hải sản (Sa Pa – Lao Cai, Hải Phòng, Thanh Hoá, Bắc Giang, Quảng
Ngãi, Kiên Giang), công suất khai thác rất thấp.
- Ngành thuỷ sản còn thiếu nhiều quy hoạch; một số quy hoạch chậm được
xây dựng, thời gian kéo dài nhiều năm, có dự án quy hoạch xây dựng 10 năm,
không còn ý nghĩa định hướng của quy hoạch, dẫn đến tình trạng phát triển tự phát
nuôi trồng thuỷ sản, trại tôm giống, cơ sở chế biến đông lạnh. Quy hoạch cơ sở hạ
tầng nghề cá cũng có sự bất hợp lý trong lựa chọn địa diểm đầu tư tại một số địa
phương, phát huy hiệu quả rất hạn chế (như ở Cà Mau, Xuân Phổ - Nghệ An, Trần
Đề - Sóc Trăng, Phan Thiết – Bình Thuận).
- Quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng xã hội ở các tỉnh, thành
phố thiếu đồng bộ, triển khai chậm, chưa theo kịp tốc độ đô thị hoá. Hiện chỉ
khoảng gần 30% thành phố có quy hoạch xây dựng chi tiết được duyệt. Ở các thành
phố lớn, thực chất vẫn chưa có quy hoạch giao thông công cộng một cách đồng bộ.
Ở các đô thị chưa có phối hợp tốt giữa các ngành giao thông công chính, bưu chính
– viễn thông, điện lực, làm cho hạ tầng giao thông thường xuyên bị đào xới, hư hại,
gây lãng phí lớn và ảnh hưởng đến sức phát triển đô thị, kéo dài tình trạng ách tắc
giao thông, gia tăng tai nạn giao thông. Hệ thống bệnh viện của Trung ương và các
tỉnh, thành phố lớn quá tải, chậm được khắc phục. Đã và đang có xu hướng nhiều
địa phương trình Chính phủ cho xây dựng trường đại học, trong khi nhu cầu sử
dụng của địa phương và khu vực chưa được tính toán kỹ cho trước mắt và lâu dài.
Quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng xã hội chưa gắn liền với quy
hoạch sử dụng đất đai, dẫn đến việc tổ chức, cá nhân lấn chiếm đất công, không
được xử lý nghiêm và kịp thời; chính quyền một số nơi giao đất, cho chuyển
nhượng đất không theo quy hoạch gây khó khăn, tốn kém trong đền bù giải phóng
mặt bằng.
Những tồn tại trên là do công tác lập và phê duyệt quy hoạch và dự án còn
nhiều bất cập, cụ thể:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 60 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Công tác lập, phê duyệt quy hoạch xây dựng, phát triển dài hạn, trung hạn
và ngắn hạn (10 năm, 5 năm, hàng năm) của các ngành, địa phương thường không
chú trọng đến vấn đề tính khả thi của nguồn lực, cụ thể:
+ Chất lượng công tác tư vấn lập quy hoạch, lập dự án đầu tư chưa cao, đánh
giá thẩm định và nhất là nhận thức về quy hoạch dài hạn của các Bộ, ngành chưa
được quan tâm nên chất lượng quy hoạch, dự án đầu tư được phê duyệt không đảm
bảo yêu cầu, xa dời thực tế, phải điều chỉnh nhiều lần.
+ Tính pháp lý của quy hoạch thấp, tình trạng không tuân thủ nghiêm theo
quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt; thay đổi, bổ sung không đúng thẩm quyền,
làm sai lệch quy hoạch chung, chưa tôn trọng quy hoạch của các ngành khác nhưng
không được xử lý. Chất lượng quy hoạch hạn chế, thiếu tầm nhìn dài hạn và đồng
bộ, chưa tuân thủ tính khách quan của quy luật thị trường, chậm được phê duyệt; kế
hoạch đầu tư phải chờ điều chỉnh quy hoạch, trong khi quy hoạch không sát, dẫn
đến có công trình xây dựng xong hiệu quả rất thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn.
+ Vốn đầu tư bố trí cho công tác quy hoạch hàng năm quá thấp, cụ thể năm
2006 vốn đầu tư bố trí cho công tác này là 398,5 tỷ đồng, chỉ đạt khoảng 0,007% so
với tổng mức vốn hàng năm dành cho đầu tư xây dựng (là 56.100 tỷ đồng); năm
2007, vốn đầu tư bố trí cho công tác này là 476,6 tỷ đồng, chỉ bằng 0,005% của
tổng mức vốn hàng năm dành cho đầu tư phát triển (là 92.430 tỷ đồng); do vốn đầu
tư bố trí cho công tác này quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu đề ra, nên năm
2008 Chính phủ đã chỉ đạo chuyển nguồn vốn bố trí cho công tác quy hoạch từ vốn
đầu tư sang sử dụng nguồn vốn sự nghiệp kinh tế.
- Việc mở rộng phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương quyền tự chủ, tự
quyết trong lựa chọn, phê duyệt dự án đầu tư đã tạo chủ động cho các Bộ, ngành,
địa phương nhưng dẫn tới một số tình hình sau:
+ Số lượng các dự án đầu tư được phê duyệt quá nhiều và nhiều dự án có
tổng mức đầu tư lớn, vượt quá khả năng cân đối vốn của ngân sách Nhà nước được
giao hàng năm, gây áp lực đối với ngân sách Nhà nước. Nhất là ở một số địa
phương đã quyết định đầu tư vượt quá khả năng cân đối vốn, dẫn đến tình trạng dàn
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 61 Kinh tế TNTN và Môi trường
trải không tập trung bố trí cho các dự án đã có khối lượng hoàn thành, gây nợ đọng
lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Thời gian duyệt dự án đầu tư cách quá xa thời gian khởi công, khi triển
khai thực hiện tổng mức và nội dung đầu tư không còn phù hợp, phải điều chỉnh dự
án, dự toán, tổng dự toán nhiều lần, tăng chi phí, ảnh hưởng lớn đến tiến độ thi công
công trình, giảm hiệu quả đầu tư. Việc tăng chi phí cho dự án vượt quá mức dự
phòng dẫn đến bị động cho ngân sách bố trí kế hoạch hàng năm.
+ Hiệu quả trong việc xây dựng dự án chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều
dự án làm theo “phong trào” triển khai trên diện rộng, nhiều địa phương học hỏi
máy móc các địa phương khác…mà không tính đến hiệu quả đầu tư; một số dự án
được xây dựng khi chủ trương đầu tư chưa r , quy hoạch chưa có nên rất lãng phí.
2.4.2.2. Về xây dựng cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển chưa đồng bộ
Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian đã luôn được bổ sung, sửa
đổi nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra đã tạo cơ sở, hành lang pháp lý quan trọng
cho việc quản lý vốn đầu tư phát triển, từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế
trong quá trình hội nhập. Đã ban hành kịp thời hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật quản lý vốn đầu tư phù hợp với Luật, các Nghị định của Chính phủ về quản lý
vốn đầu tư thuộc nguồn ngân sách Nhà nước, là căn cứ để cấp có thẩm quyền ở các
cấp các ngành, các chủ đầu tư, cơ quan thanh toán áp dụng trong thực hiện quản lý
vốn đầu tư được giao. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những tồn tại, hạn chế sau:
- Việc xây dựng ban hành cơ chế và sửa đổi bổ sung cơ chế trong quản lý
đầu tư và xây dựng trong những năm qua thường xuyên biến động, vì vậy có thời kỳ
cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng không đồng bộ, không thống nhất. Hiện nay, chỉ
riêng việc quản lý chi vốn đầu tư của Nhà nước (nhất là chi vốn đầu tư phát triển từ
Ngân sách Nhà nước) cũng đã tồn tại rất nhiều văn bản pháp lý hướng dẫn: Quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày
08/7/1999 của Chính phủ và các Nghị định sửa đổi, bổ sung là Nghị định số
12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003;
cùng đồng thời là Luật Xây dựng và các Nghị định hướng dẫn (Nghị định số
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 62 Kinh tế TNTN và Môi trường
12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 và
Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 sửa đổi Nghị định này). Việc tồn tại
nhiều văn bản quy phạm pháp pháp luật nêu trên đã gây không ít khó khăn trong
quản lý đầu tư và xây dựng và gây khó khăn cho các đối tượng thực hiện. Do đó,
cần thiết phải sớm ban hành Luật Đầu tư công để thống nhất quá trình quản lý đầu
tư và xây dựng của các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn đầu tư nguồn ngân sách
Nhà nước.
- Trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định được các chế tài đủ
mạnh, đủ sức răn đe đối với những đối tượng cố tình vi phạm quy trình quản lý vốn
đầu tư và hiện tượng khép kín trong quản lý đầu tư (chủ đầu tư, tư vấn, nhà thầu
cùng trong một Bộ, ngành, địa phương), cũng như quy định trách nhiệm đi đối với
chế tài cụ thể cho những người tham gia quản lý đầu tư chưa r ràng trong từng
khâu đây chính là nguyên nhân xẩy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong vốn
đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước.
- Còn lúng túng trong quy định về tổ chức quản lý đầu tư đối với cấp quản lý
đầu tư là chủ đầu tư, ban quản lý trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
- Các cơ chế trong đền bù giải phóng mặt bằng chưa đồng bộ, thiếu công
bằng, hợp lý, không sát với thực tế, chưa có cơ chế chủ động tạo quỹ đất, quỹ nhà
khi giải phóng mặt bằng, tái định cư, dẫn đến nhiều khó khăn ách tắc, làm chậm tiến
độ triển khai dự án, tiêu cực, thất thoát, lãng phí lớn về nguồn lực nhà nước.
- Hệ thống văn bản pháp luật thiếu cụ thể, thiếu những chế tài cần thiết; văn
bản pháp luật chưa đầy đủ, đồng bộ, tính pháp lý chưa cao. Một số nội dung trong
Luật Xây dựng, Luật Đất Đai và các luật có liên quan trực tiếp đến đầu tư phát triển
yêu cầu phải được hướng dẫn cụ thể, nhưng các văn bản hướng dẫn thực hiện luật,
pháp lệnh, nghị định thường chậm.
Riêng trong lĩnh vực quản lý đầu tư công, hệ thống văn bản pháp luật hiện
hành quy định về đầu tư xây dựng cơ bản mới chủ yếu là các văn bản dưới luật,
trong khi lĩnh vực này đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản pháp
luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, làm cơ sở cho công tác chỉ đạo điều hành của
Chính phủ, công tác giám sát của các cơ quan dân cử và các cơ quan tư pháp trong
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 63 Kinh tế TNTN và Môi trường
việc xử lý vi phạm. Các chế tài để xử phạt khi có vi phạm còn thiếu hoặc chưa đủ
mạnh, chưa quy định được r trách nhiệm của cá nhân trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng cơ bản.
- Một số văn bản pháp luật không còn phù hợp thực tế, chậm được sửa đổi,
trong khi đó một số văn bản lại thường xuyên phải thay đổi, gây khó khăn cho quá
trình thực hiện; cụ thể:
+ Một số văn bản hướng dẫn thực hiện các Luật, Nghị định của Chính phủ về
đầu tư, xây dựng, đấu thầu, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư chưa được thống nhất
và thiếu cụ thể, gây khó khăn cho việc thực hiện ở các đơn vị cơ sở. Việc đổi mới tổ
chức quản lý dự án thì việc chuyển đổi các ban quản lý dự án thành tổ chức tư vấn
quản lý dự án chuyên nghiệp hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp và giao cho các Cục thuộc các Bộ nhiệm vụ làm chủ đầu tư là một chủ
trương đúng, nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư và hiệu quả hoạt động
của các Ban quản lý dự án, nhưng do chưa chuẩn bị kịp cả về tổ chức, cán bộ
chuyên môn đáp ứng yêu cầu công việc, nên gặp nhiều khó khăn lúng túng trong
triển khai, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch đầu tư.
+ Về quyết định khung giá để lập dự toán: Việc thông báo giá của địa
phương thường không đầy đủ, và không cập nhật thường xuyên, nên khi lập dự toán
các chủ đầu tư phải triển khai thêm nhiệm vụ thoả thuận với địa phương để bổ sung
vào thông báo giá, gây lãng phí và chậm trễ trong công tác đấu thầu. Việc tính trượt
giá chưa được quy định thống nhất, cũng là nguyên nhân kéo dài thời gian lập, thẩm
định và phê duyệt dự án.
Thực tế cho thấy, nhiều định mức, đơn giá trong đầu tư xây dựng cơ bản
chưa thật phù hợp với thực tế giá cả ở các vùng miền khác nhau. Dự toán lập trên cơ
sở đơn giá, định mức không phù hợp, dẫn đến thường xuyên phải thay đổi dự toán,
rất khó khăn trong việc kiểm tra, thanh tra.
+ Một số văn bản ban hành không sát thực tế phải bổ sung, sửa đổi nhiều lần
gây khó khăn trong thực hiện, điển hình là các quy định của pháp luật đất đai về đền
bù giải phóng mặt bằng.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 64 Kinh tế TNTN và Môi trường
Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là hiệu lực và hiệu quả thực thi pháp luật
rất yếu; ý thức tôn trọng pháp luật kém, vẫn có nhiều cá nhân coi thường và khi vi
phạm pháp luật lại không được xử lý nghiêm và kịp thời, do đó không có hoặc ít có
tác dụng răn đe.
2.4.2.3. Tình trạng kế hoạch vốn đầu tư phát triển còn phân bổ dàn trải
Số dự án, công trình sử dụng vốn đầu tư trong cân đối Ngân sách Nhà nước
tăng lên qua các năm, không tương xứng với tốc độ tăng của vốn đầu tư; nhiều dự
án, công trình được phê duyệt không dựa vào khả năng cân đối nguồn vốn, chưa đủ
thủ tục vẫn được ghi vốn; việc triển khai thực hiện dự án, công trình kéo dài, không
theo kế hoạch, khối lượng đầu tư dở dang nhiều.
Do bố trí quá nhiều dự án, công trình không tương xứng với nguồn vốn đầu
tư, nên dẫn đến tình trạng nhiều dự án thi công kéo dài, khối lượng đầu tư dở dang
lớn. Theo quy định, dự án Nhóm B phải hoàn thành trong 5 năm, Nhóm C hoàn
thành trong 3 năm, nhưng vẫn còn nhiều dự án không được bố trí đủ vốn để hoàn
thành đúng thời hạn trên.
2.4.2.4. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong chi đầu tư phát triển còn phổ biến
Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn chi cho đầu tư phát triển diễn ra trong các
dự án đầu tư, thuộc các nguồn vốn, ở các ngành, các địa phương và trong tất cả các
giai đoạn của quá trình đầu tư.
- Qua kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán một số dự án đầu tư phát triển
trong các năm 2002 và 2003 cho thấy, tình trạng thất thoát, lãng phí xảy ra ở các
ngành và các địa phương, các dự án được kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Năm 2002,
Thanh tra Chính phủ thanh tra 17 dự án lớn, số sai phạm về kinh tế và tài chính
được phát hiện chiếm 13,4% tổng giá trị vốn được kiểm tra; năm 2003, thanh tra 14
dự án, số sai phạm về kinh tế và tài chính được phát hiện chiếm 19,1% số vốn được
thanh tra. Trong năm 2002 và 2003 các Bộ, ngành, địa phương thanh tra 2.518 dự
án, phát hiện sai phạm bằng 1,6% số vốn được thanh tra. Trong các năm 2002, 2003
và 6 tháng đầu năm 2004, Kiểm toán nhà nước đã kiểm toán 648 dự án, phát hiện
sai phạm 2,6% giá trị được kiểm toán.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 65 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Tình trạng lãng phí, thất thoát còn thể hiện trong các dự án sử dụng các
nguồn vốn tín dụng ưu đãi, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, Công trái giáo dục và
nguồn vốn ODA cho vay lại.
- Đối với các dự án, công trình cụ thể, tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu
tư phát triển xảy ra trong các giai đoạn của quá trình đầu tư.
- Nhiều dự án, công trình, do chất lượng thẩm định thấp, dẫn đến trong quá
trình thực hiện đầu tư phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, mất thêm chi phí, làm
tăng chi phí đầu tư một cách không hợp lý:
+ Đầu tư thiếu tập trung, không đồng bộ, công trình dở dang, có những công
trình ngừng thi công không có thời hạn như Hồ chứa nước Ái Tử (Quảng Trị) làm
xong nhưng kênh mương dở dang, hồ nước không khai thác được; Hồ chứa nước
Thanh Lanh (Bình Xuyên – Vĩnh Phúc) làm xong chân đập thì hết vốn; một số công
trình thoát lũ ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng xảy ra tương tự, đã
gây lãng phí không nhỏ.
+ Tình trạng lãng phí, thất thoát do vi phạm quy định của pháp luật về đấu
thầu diễn ra với nhiều hình thức, ở nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương. Các vi phạm
chủ yếu được diễn ra ở các khâu trong quy trình đấu thầu, đó là hiện tượng “thông
đồng”, “móc ngoặc”, “chạy thầu”, “vây thầu”, “quân xanh, quân đỏ” để được trúng
thầu.
+ Một số dự án, công trình không được tính toán kỹ, phải thay đổi, bổ sung
nhiều trong quá trình thực hiện, làm tăng tổng mức đầu tư, ví dụ dự án Hồ chứa
nước Cửa Đạt (Thanh Hóa) tổng mức đầu tư tăng từ 2.200 tỷ đồng lên tới 4.600 tỷ
đồng; Hồ chứa nước Tả Trạch (Thừa Thiên – Huế) tổng mức đầu tư tăng từ 1.000 tỷ
đồng lên 3.600 tỷ đồng.
Một số dự án, công trình bị thất thoát lớn do tham nhũng, vụ việc phải khởi
tố hình sự; cán bộ quản lý bị xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật. Điển hình là một
số vụ án đã được xét xử hoặc đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: vụ Lã
Thị Kim Oanh làm thất thoát hơn 100 tỷ đồng vốn nhà nước; vụ xây lắp khối nhà
trên dàn công nghệ Trung tâm số 3 mỏ dầu khí Bạch Hổ, giám đốc công ty dịch vụ
kỹ thuật dầu khí lập hợp đồng giả để chiếm đoạt 1,5 triệu đô la Mỹ; vụ đầu tư
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 66 Kinh tế TNTN và Môi trường
đường ống kho Cảng LPG Thị Vải, sai phạm, kê tăng chi phí để chiếm đoạt 3,8
triệu đô la Mỹ, vượt dự toán 14 triệu đô la Mỹ, chậm tiến độ 24 tháng; vụ Cầu chui
Văn Thánh lãng phí hơn 142 tỷ đồng; vụ Bùi Tiến Dũng và đồng bọn tại PMU18...
Báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương về số liệu thất thoát, lãng phí trong
đầu tư xây dựng cơ bản còn ở mức độ rất hạn chế, chủ yếu căn cứ vào công tác
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử còn trên thực tế khó định
lượng một cách chính xác số liệu về lãng phí, thất thoát. Tuy những con số nói trên
chưa đủ để khẳng định tỷ lệ thất thoát, lãng phí 20% - 30% mà dư luận xã hội hoặc
một số chuyên gia đã phát biểu, nhưng cũng đủ để thấy tính chất rất nghiêm trọng
của tình hình. Do vậy, cần tiếp tục kiểm tra, thanh tra, kiểm toán rộng hơn, sâu hơn
từng dự án, công trình cụ thể thì mới xác định sát hơn mức độ thất thoát, lãng phí
trong đầu tư xây dựng cơ bản.
2.4.2.5. Nợ đọng vốn đầu tư phát triển còn lớn
Số nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn Nhà nước còn ở mức
cao, kéo dài, vẫn tiếp diễn nhất là ở các địa phương. Qua báo cáo của các Bộ, ngành
và địa phương cho thấy, các báo cáo chưa phản ánh đầy đủ số nợ tồn đọng vốn đầu
tư phát triển. Tình hình này sẽ rất khó khăn cho việc tổng hợp, phân loại và xử lý
các khoản nợ, nhất là các khoản nợ giữa các cấp ngân sách ở địa phương.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:
- Các Bộ, ngành và địa phương chưa nghiêm chỉnh thực hiện đúng chế độ
của Nhà nước về quản lý đầu tư ngay trong khâu phê duyệt và phân bổ kế hoạch
năm. Chất lượng lập kế hoạch vốn đầu tư thấp, nhiều dự án đầu tư không đủ thủ tục
đầu tư nhưng vấn được ghi vào kế hoạch vốn đầu tư hàng năm. Nhiều Bộ, ngành và
địa phương không thực hiện chủ trương tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ
vốn kế hoạch hàng năm (như các dự án nhóm B không thể hoàn thành trong 5 năm,
các dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 3 năm).
- Về việc phân bổ vốn đầu tư, theo Luật ngân sách Nhà nước thì chức năng
chính là của cơ quan kế hoạch. Tuy nhiên, do chưa có cơ chế phối hợp, nên vai trò
tham gia của cơ quan tài chính về phân bổ vốn cho từng dự án còn hạn chế. Việc
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 67 Kinh tế TNTN và Môi trường
phân bổ kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, hiện nay đang có sự tách rời giữa người có
thẩm quyền quyết định đầu tư dự án với người bố trí vốn cho dự án. Thể hiện:
+ Ở các Bộ, ngành Trung ương, Bộ trưởng là người quyết định đầu tư dự án
nhưng không quyết định được nguồn vốn đầu tư theo kế hoạch hàng năm (hoặc 5,
10 năm). Do đó dẫn tới số lượng dự án duyệt thì nhiều mà vốn thì ít, tất yếu dẫn đến
việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư dàn trải, kéo dài.
+ Ở các địa phương, mặc dù Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh biết r hơn tổng
số vốn đầu tư mà địa phương có trong 3 - 4 năm nhất định, nhưng nhiều địa phương
còn có “tâm lý trông chờ” Trung ương hỗ trợ, vì vậy vẫn duyệt nhiều dự án hơn so
với khả năng cân đối vốn, dẫn đến việc dự án bố trí kế hoạch vốn đầu tư phân tán,
dàn trải, kéo dài. Điển hình là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và
nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương.
- Việc bố trí vốn để hoàn ứng cho ngân sách Nhà nước: Cơ bản các Bộ,
ngành, địa phương đã thực hiện đúng quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tuy
nhiên vẫn còn vướng mắc do vốn giao hàng năm cho bộ, ngành, địa phương quá
thấp, không đủ để thu hồi hoặc nếu thu hồi thì không còn vốn để triển khai tiếp
nhiệm vụ (như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Toà án nhân dân tối cao…), nên để có vốn tiếp
tục đầu tư, các cơ quan trên không thể bố trí vốn hoàn ứng được theo đúng quy
định.
Từ những vấn đề nêu trên, dẫn tới việc phân bổ vốn đầu tư phát triển vẫn còn
mang tính bao cấp, ỷ lại vào nguồn vốn của Nhà nước, chưa đẩy mạnh khai thác các
nguồn vốn, các phương thức đầu tư khác, như vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp,
tư nhân, hợp vốn để đầu tư, hợp tác trong đầu tư. Cơ chế phân bổ vốn đầu tư phát
triển chủ yếu là ngắn hạn, chưa có cơ chế phân bổ vốn trung, dài hạn do vậy các cơ
quan không chủ động phân bổ được kế hoạch; kế hoạch vốn bố trí theo từng năm,
trong khi đó việc thực hiện các dự án đầu tư thường kéo dài trong nhiều năm, chưa
có cơ chế phân bổ vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện của dự án.
2.4.2.6. Hiệu quả đầu tư phát triển thấp
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 68 Kinh tế TNTN và Môi trường
Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế và ở tầm vi mô
của từng dự án, công trình, hạng mục công trình thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
Trong những năm qua, đầu tư phát triển mới chủ yếu góp phần phát triển
kinh tế - xã hội theo chiều rộng, chưa tạo được bước chuyển tích cực về chất lượng
tăng trưởng, chi phí sản xuất cao, giá trị tăng thêm của sản phẩm còn ít, chưa có tác
động mạnh đến phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, kiến trúc và cảnh quan đô
thị. Đầu tư xây dựng cơ bản trong các chương trình mục tiêu cũng chưa đạt kết quả
cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiệu quả đầu tư thấp là trong công tác chỉ đạo,
điều hành và quản lý, thực hiện dự án của các Bộ, ngành, địa phương còn nhiều hạn
chế; cụ thể:
- Tuy có chung cùng một khuôn khổ pháp lý, nhưng một số Bộ, ngành và địa
phương thực hiện giải ngân tốt, nguồn vốn Ngân sách Nhà nước giải ngân đạt tỷ lệ
cao, nhưng một số Bộ, ngành lại giải ngân nguồn vốn đạt thấp là do trong tổ chức
chỉ đạo, điều hành ở một số nơi chưa tốt, chưa quan tâm đúng mức, còn phó mặc
cho ban quản lý dự án; không tổ chức giao ban thường xuyên, định kỳ để đôn đốc
giải quyết khó khăn trong việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản.
- Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, dự toán, tổng dự toán và
thiết kế - kỹ thuật, chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Công tác khảo sát ban đầu
thiếu chính xác, không xác định đầy đủ các yếu tố liên quan. Do vậy, nhiều dự án
được duyệt tính khả thi chưa cao, dẫn đến các dự án phải điều chỉnh thiết kế, tổng
dự toán, kéo dài thời gian thi công xây dựng công trình. Trong một số trường hợp
bố trí vốn đầu tư nhưng chưa có thủ tục đầu tư theo quy định (chưa phê duyệt dự án
đầu tư, dự toán) cũng gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn cho
công trình. Nhiều dự án đã có khối lượng xây dựng nhưng do thủ tục đầu tư chưa
hoàn chỉnh nên không đủ cơ sở để giải ngân và nhiều dự án đầu tư do sai lầm trong
quá trình triển khai đã dẫn tới việc lãng phí vốn đầu tư; cụ thể:
+ Sai lầm trong chủ trương đầu tư, bắt nguồn từ quy hoạch sai hay không có
quy hoạch, chất lượng báo cáo đầu tư thấp, thường “bỏ qua điều tra xã hội học, môi
trường, các công trình hạ tầng hoặc điều tra không kỹ thị trường tiêu thụ và các yếu
tố cho sản xuất kinh doanh”.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 69 Kinh tế TNTN và Môi trường
+ Sai lầm trong quyết định đầu tư bắt nguồn từ chủ trương đầu tư sai: đầu tư
theo “phong trào”, theo ý muốn chủ quan, chạy theo thành tích, và còn do sai lầm
trong lập và thẩm định báo cáo đầu tư dẫn đến sai lầm trong việc chọn địa điểm đầu
tư, xác định quy mô đầu tư không phù hợp, không đồng bộ, lựa chọn công nghệ sản
xuất không phù hợp hoặc lạc hậu.
+ Sai lầm thiếu sót trong quyết định đầu tư: công trình xây dựng xong đưa
vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội, thậm chí không có hiệu quả (nhà
máy không có đủ nguyên liệu, chợ không có người họp, cảng không khai thác hết
công suất); công trình xây dựng với chi phí quá cao dẫn đến giá thành sản phẩm
cao, không đủ sức cạnh tranh hoạt động cầm chừng, có tình trạng càng sản xuất
càng lỗ.
- Các quy định hướng dẫn tính toán điều chỉnh chi phí, định mức đầu tư
thường chậm được xử lý của các cấp có thẩm quyền và không đồng bộ với các biến
động thị trường, như trượt giá ngoại tệ, do giá vật tư và tiền lương thay đổi.
- Thủ tục phê duyệt dự toán, tổng dự toán, kế hoạch đấu thầu, tiêu chuẩn
đánh giá thầu, kết quả trúng thầu của một số Bộ, ngành và địa phương còn rất rườm
rà và phức tạp cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ các dự án khởi công mới.
2.4.2.7. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước còn
bất cập
Nhìn chung, trong thời gian qua cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển
thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước đang được hoàn thiện theo hướng tăng dần
trách nhiệm, quyền hạn cho các cấp vĩ mô quản lý, từng bước gắn với các công
trình, dự án đầu tư nhằm phục vụ trực tiếp cho những đối tượng quản lý và hưởng
lợi. Sự phân công, phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm giữa Trung ương và địa
phương đã và đang được triển khai mạnh mẽ hơn, điều này một mặt đã làm giảm
gánh nặng cho Trung ương, mặt khác tạo ra sự chủ động sáng tạo cho các cấp địa
phương. Công tác quản lý tài chính vốn đầu tư thời gian qua đã có nhiều cố gắng
góp phần quan trọng vào sự nghiệp đầu tư phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 70 Kinh tế TNTN và Môi trường
kết quả đạt được, công tác quản lý tài chính vốn đầu tư còn nhiều hạn chế, tồn tại;
cụ thể như sau:
Thứ nhất, về công tác thanh toán vốn đầu tư:
Việc thanh toán vốn đầu tư trong năm nhìn chung còn chậm, không đồng
đều, khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành thanh toán trong quý I và quý II đạt
thấp (chỉ khoảng hơn 30% kế hoạch năm), quý III và quý IV khối lượng xây dựng
cơ bản hoàn thành thanh toán rất lớn, bằng 60% - 70% giá trị khối lượng thanh toán
trong năm. Giá trị khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành chuyển giao năm sau
thanh toán còn lớn (thường giải ngân trong tháng 1 năm sau là khoảng 20% kế
hoạch năm), gây khó khăn trong công tác quản lý và tác động mạnh thị trường xây
dựng. Khối lượng đề xuất thanh toán không đúng dự toán, hợp đồng vẫn còn, nợ
đọng vốn thanh toán do thiếu thủ tục đầu tư nghiệm thu khối lượng hoàn thành vẫn
còn chậm, gây khó khăn cho nhà thầu.
Một số nguyên nhân thanh toán chậm:
- Về phía cơ quan chủ quản và chủ đầu tư: triển khai phân bổ kế hoạch vốn
đầu tư hàng năm chậm so với thời gian quy định; chậm hoàn chỉnh các thủ tục về
đầu tư và thủ tục đấu thầu, nhất là các dự án phải điều chỉnh tổng mức đầu tư, điều
chỉnh thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, trình duyệt khối lượng phát sinh của
dự án, gói thầu; vướng mắc trong khâu giải phóng mặt bằng; chậm chễ trong khâu
nghiệm thu A - B để hoàn tất thủ tục thanh toán vốn.
- Về phía các cơ quan quản lý: chậm và thiếu tính đồng bộ và thống nhất
trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, vì thế nhiều nội dung vướng mắc về cơ
chế cũng chưa có hướng dẫn cụ thể. Trong quá trình thực hiện cơ chế mới về đầu tư
và xây dựng thì nhiều chủ đầu tư còn lúng túng, chưa được các cơ quan quản lý tập
huấn hướng dẫn đầy đủ, kịp thời.
- Việc lập dự toán chất lượng còn hạn chế và chưa được quan tâm đúng
mức, nhiều khi mang tính hình thức. Nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thực
hiện dự án (như khối lượng thay đổi, chênh lệch giá vật liệu, giá thiết bị nhập ngoại)
cần rất nhiều thủ tục ảnh hướng lớn tới thanh toán vốn.
Thứ hai, về công tác quyết toán:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 71 Kinh tế TNTN và Môi trường
Quyết toán niên độ ngân sách hàng năm: hầu hết các đơn vị sử dụng ngân
sách Nhà nước không thực hiện đầy đủ theo quy định.
Quyết toán dự án đầu tư hoàn thành:
- Trong những năm gần đây, với sự chỉ đạo điều hành kiên quyết của Chính
phủ, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước, công tác quyết toán
dự án hoàn thành ngày càng đạt kết quả cao cả về chất lượng cũng như về số lượng;
cụ thể như sau năm 2003, số dự án được thẩm tra, phê duyệt quyết toán của cả nước
là 4.236 dự án, đạt tỷ lệ phê duyệt là 52% với số vốn đầu tư được quyết toán là
4.205 tỷ đồng; năm 2004, số dự án hoàn thành được thẩm tra, phê duyệt quyết toán
là 6.288 dự án, bằng 150% so với năm 2002, đạt tỷ lệ phê duyệt là 65,8% số vốn
đầu tư được quyết toán là 8.564 tỷ đồng; năm 2005, số dự án được quyết toán là
14.637 dự án với số vốn là 42.339 tỷ đồng; năm 2006, số dự án được quyết toán là
26.539 dự án (lớn hơn tổng số dự án được phê duyệt trong 3 năm từ năm 2003 đến
năm 2005), số vốn đầu tư được quyết toán là 60.187,8 tỷ đồng; năm 2007, số dự án
được quyết toán là 37.577 dự án, số vốn đầu tư được quyết toán là 83.673 tỷ đồng;
năm 2008, số dự án được quyết toán là 41.430 dự án, số vốn đầu tư được quyết toán
là 74.681 tỷ đồng; năm 2009, số dự án được quyết toán là 43.973 dự án, số vốn đầu
tư được quyết toán là 86.099 tỷ đồng; năm 2010, số dự án được quyết toán là
44.488 dự án, số vốn đầu tư được quyết toán là 110.263,6 tỷ đồng. Như vây, công
tác quyết toán dự án hoàn thành ngày càng được chú trọng, quan tâm, năm sau số
dự án, số vốn được quyết toán cao hơn năm trước. Tuy nhiên, việc quyết toán vốn
đầu tư dự án hoàn thành nhìn chung còn chậm chưa đáp ứng được nhu cầu bởi số
lượng dự án cũng như tổng mức đầu tư của các dự án ngày càng tăng cao, nhiều dự
án hoàn thành đã nộp báo cáo quyết toán nhưng chưa thẩm tra, phê duyệt vẫn
chiếm khoảng 22%.
- Còn nhiều chủ đầu tư chưa nhận thức đúng, đầy đủ về công tác quyết toán
vốn đầu tư, còn trì trệ trong công tác lập báo cáo quyết toán; lúng túng trong quá
trình lập báo cáo quyết toán.
- Nhìn chung trong cả nước, lực lượng cán bộ đảm nhiệm công tác thẩm tra
quyết toán dự án hoàn thành còn quá mỏng chưa đủ đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ ngày
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 72 Kinh tế TNTN và Môi trường
một cao; bình quân ở một tỉnh mỗi năm có khoảng 130 – 180 dự án hoàn thành đưa
vào sử dụng, trong khi đó lực lượng cán bộ bố trí làm công tác thẩm tra quyết toán
vốn đầu tư của tỉnh chỉ có từ 3 – 8 người.
- Cả nước hiện nay mới có 154 doanh nghiệp kiểm toán độc lập, tuy nhiên
lực lượng này tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Hà Nội (62 đơn vị), thành phố
Hồ Chí Minh (72 đơn vị) và một số thành phố lớn khác; còn nhiều tỉnh hiện chưa có
đơn vị kiểm toán nào đăng ký hoạt động cũng là một vướng mắc trong quá trình
thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành.
Như vậy, qua đó chúng ta thấy công tác quản lý các dự án đầu tư còn tồn tại
nhiều yếu kém trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư.
2.4.2.8. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực chi đầu tư phát triển chưa được thường xuyên
Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan nhà nước chưa
thường xuyên, liên tục, số lượng dự án, công trình được kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán so với tổng số còn rất ít. Việc xử lý vi phạm thiếu kiên quyết và nghiêm minh.
Các con số về sai phạm kinh tế, tài chính mà cơ quan thanh tra các cấp, cơ quan
kiểm toán, các Bộ, địa phương báo cáo không phản ánh đúng thực trạng thất thoát,
lãng phí nghiêm trọng trong đầu tư xây dựng cơ bản thời gian qua. Do thiếu điều
kiện về nhân lực và thiết bị phục vụ thanh tra, kiểm toán nên chủ yếu chỉ thanh tra,
kiểm toán trên hồ sơ, tài liệu, chứng từ liên quan đến các dự án mà chưa đi sâu vào
thanh tra, kiểm toán đánh giá chủ trương và hiệu quả đầu tư, chất lượng công tác
thiết kế, lập tổng dự toán, thẩm định thiết kế tổng dự toán, việc sử dụng vật tư vào
công trình, khối lượng thực tế thi công các công trình và chất lượng công trình, nên
kết quả chỉ ở mức độ nhất định.
Công tác giám sát của các cơ quan dân cử, của các tổ chức xã hội và hiệp hội
nghề nghiệp hiệu quả còn rất thấp. Cho đến nay, các cơ quan của Quốc hội mới tiến
hành giám sát chuyên đề về đầu tư xây dựng cơ bản là chậm. Việc phối hợp trong
giám sát với Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức xã hội và hiệp hội nghề nghiệp
còn chưa có cơ chế r ràng.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 73 Kinh tế TNTN và Môi trường
2.4.2.9. Năng lực của chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu xây dựng còn hạn chế
Tình trạng vi phạm trật tự kỷ cương trong đầu tư và xây dựng diễn ra phổ
biến. Vốn Ngân sách Nhà nước thì hạn hẹp, luôn nằm trong tình trạng bị “co kéo”
bởi hàng loạt các dự án đầu tư trong cả nước nên các chủ đầu tư luôn tìm mọi cách
kể cả thiết lập những “quan hệ ngầm” để có thể được ghi vào kế hoạch đầu tư, để có
quyết định đầu tư và để được “xin” vốn ngân sách. Và khi đã “xin” được vốn, thì do
vốn Ngân sách Nhà nước có đặc điểm là nguồn vốn không hoàn lại trực tiếp nên
trách nhiệm đối với vốn của Nhà nước, đối với công trình xây dựng của các chủ đầu
tư là rất thấp.
- Một số chủ đầu tư chưa nắm chắc các quy định về quản lý đầu tư và xây
dựng nên ý thức chấp hành chưa cao, thiếu nghiên cứu kỹ về mục đích đầu tư, khả
năng sử dụng và khai thác dự án cho nên phải điều chỉnh và duyệt lại dự án. Ở một
số nơi, chủ đầu tư, ban quản lý dự án các công trình xây dựng bằng nguồn vốn từ
ngân sách, năng lực yếu, không có trình độ chuyên môn về xây dựng (như một số
đơn vị sự nghiệp) dẫn đến lúng túng trong việc triển khai thực hiện dự án, quản lý
chất lượng lỏng lẻo, gây thất thoát vốn Nhà nước, việc hiệu quả sử dụng vốn không
cao.
- Về phía các đơn vị tư vấn chất lượng công tác khảo sát, thiết kế của các đơn
vị tư vấn chưa cao, nên trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư, báo cáo kinh tế
kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán còn nhiều sai sót trong quá trình
thực hiện, dẫn đến việc phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều lần, vừa tốn tiền bạc, vừa tốn
công sức.
- Việc thực hiện giám sát kỹ thuật của chủ đầu tư và đơn vị tư vấn còn lỏng
lẻo, chưa triệt để tuân thủ các quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng
nên nhiều công trình sảy ra hiện tượng đơn vị thi công thay đổi nguyên vật liệu, cấu
kiện công trình, khai khống khối lượng, làm chất lượng công trình không đảm bảo
và lãng phí. Sự yếu kém về tài chính và năng lực thi công của nhiều nhà thầu cũng
là nguyên nhân chậm tiến độ đầu tư xây dựng công trình.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 74 Kinh tế TNTN và Môi trường
2.4.2.10. Tổ chức bộ máy thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển còn chưa
phù hợp với thực tiễn
Về tổ chức bộ máy phục vụ công tác phân bổ, thực hiện chi vốn đầu tư phát
triển còn nhiều bất cập; trách nhiệm của các cơ quan “chồng chéo” với nhau. Hiện
nay, có 2 cơ quan là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính được phân công phân
bổ vốn đầu tư phát triển, trong đó cơ quan Kế hoạch và Đầu tư là chủ trì. Việc này
có các bất cập sau:
- Cơ quan Tài chính nắm vốn, nguồn vốn lại không phải cơ quan chủ trì,
ngược lại cơ quan Kế hoạch và Đầu tư không nắm vốn, nguồn vốn lại được giao
chủ trì. Do vậy trong việc tham mưu điều hành phân bổ vốn đầu tư của hai cơ quan
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đều bị động và nhiều khi mâu thuẫn.
- Cơ quan cấp trên và các đơn vị cấp dưới buộc phải làm việc về vốn đầu tư
với cả 2 cơ quan Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính gây tăng thủ tục hành
chính, chậm trễ công việc và quy trách nhiệm khó.
Như vậy, cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp trong công tác quản lý Nhà
nước về đầu tư xây dựng cơ bản còn bất cập, chồng chéo, chưa r ràng.
Sự phân công, phân cấp giữa các Bộ tổng hợp với các Bộ quản lý ngành,
giữa các Bộ quản lý ngành với nhau, giữa Bộ với địa phương, giữa các địa phương
trong mối quan hệ vùng, lãnh thổ hiện nay chưa r ràng, còn chồng chéo, dẫn đến
không quy r được trách nhiệm của Bộ tổng hợp, Bộ quản lý ngành và địa phương.
Việc mở rộng phân cấp quyết định đầu tư cho các Bộ, địa phương, doanh
nghiệp nhà nước, một mặt tạo chủ động cho các Bộ, địa phương và doanh nghiệp,
mặt khác cũng là một trong số các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải,
do thiếu ràng buộc các điều kiện và thiếu cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt
chẽ.
Việc phân công cho một số Bộ chuyên ngành không đủ cán bộ chuyên sâu
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản trực tiếp làm chủ đầu tư dự án, công trình lớn
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 75 Kinh tế TNTN và Môi trường
là chưa hợp lý, ví dụ như: Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch...
- Tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của
ngành, địa phương và vì thành tích đã có những quyết định chủ trương đầu tư sai, là
nguyên nhân quan trọng gây ra dàn trải, thất thoát, lãng phí không nhỏ, ảnh hưởng
về lâu dài.
- Tình trạng cố ý làm sai, vi phạm pháp luật, vụ lợi trong đầu tư xây dựng cơ
bản còn diễn ra ở nhiều dự án, công trình, biện pháp ngăn ngừa kém hiệu quả, phát
hiện chậm, xử lý không nghiêm. Nhiều vụ việc sau khi báo chí, công luận nêu lên
mới được xử lý.
- Việc bố trí cán bộ ít hiểu biết về chuyên môn đầu tư xây dựng cơ bản làm
công tác điều hành, quản lý và thực hiện dự án ở nhiều Bộ, ngành, địa phương diễn
ra khá phổ biến; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được nhận thức đầy
đủ và thực hiện không nghiêm.
- Công tác chỉ đạo, điều hành của cả cấp Trung ương, địa phương có nơi, có
lúc thiếu kiên quyết, nhất quán, có trường hợp không đúng với quy hoạch, kế hoạch
đã được phê duyệt, ngược lại có trường hợp có chủ trương, kế hoạch, nhưng thiếu
quyết tâm thực hiện.
Kết luận chương 2
Trong những năm vừa qua, ở nước ta công tác quản lý Nhà nước về đầu tư
phát triển nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng đã có nhiều tiến bộ và đạt
được những thành tựu đáng kể. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về
quản lý đầu tư xây dựng đã tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ
bản. Công tác chỉ đạo, điều hành lập, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch và
kiểm tra giám sát được tăng cường. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước
theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành và địa phương,...
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 76 Kinh tế TNTN và Môi trường
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, những kết quả đạt
được trong còn rất khiêm tốn, cơ cấu nền kinh tế còn chuyển biến chậm, tình trạng
phân tán, lãng phí, kém hiệu quả trong quản lý chi vốn đầu tư xây dựng thuộc ngân
sách Nhà nước còn khá phổ biến. Hệ thống cơ chế quản lý chi chưa thật phù hợp
với yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường, còn lỏng lẻo trong
quản lý, cứng nhắc, máy móc trong tổ chức thực hiện. Hiện tượng tham nhũng tiền
của, chậm tiến độ, chất lượng thực hiện dự án không cao còn rất phổ biến. Việc
nghiên cứu tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý chi vốn đầu tư
phát triển thuộc ngân sách Nhà nước đang là một đồi hỏi hết sức bức thiết.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 77 Kinh tế TNTN và Môi trường
CHƯƠNG 3
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ
CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC
3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 CỦA VIỆT NAM
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra những mục tiêu
định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu trong 5 năm 2011 - 2015, tốc độ
tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2015 mức tăng GDP bình quân đạt 7% -
7,5%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP đến năm 2015:
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 17 – 18%; công nghiệp và xây dựng 41 -
42%; dịch vụ 41 – 42%. Tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở
thành thị dưới 5%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10% - 11%.
Để thực hiện được định hướng trên, mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và
bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện khâu đột phá về xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tập trung vào hệ thống giao
thông hạ tầng đô thị lớn. Phát triển khoa học công nghệ và tăng nhanh hàm lượng
khoa học và công nghệ cao trong sản phẩm. Cải thiện và nâng cao r rệt chất lượng
giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, dân tộc thiểu số, vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động
ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính
trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh quốc gia.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 78 Kinh tế TNTN và Môi trường
Để đạt được các mục tiêu tổng quát trên, trong giai đoạn tới cần tập trung
vào các nhiệm vụ chủ yếu, trước hết là ba đột phá lớn: Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh
tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn
nhân lực có chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục
toàn dân; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Từ các mục tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu trong 5
năm 2011 - 2015 và những nhiệm vụ đã đề ra nêu trên, chúng ta đưa ra định hướng
phát triển một số ngành, lĩnh vực chủ yếu sau:
3.1.1. Phát triển công nghiệp và xây dựng
Với định hướng đầu tư phải đạt mục tiêu: nhịp độ tăng trưởng bình quân
hàng năm của công nghiệp đạt 14% - 15,5%/năm; đến 2015 công nghiệp và xây
dựng chiếm 41% - 42% GDP và thu hút khoảng 28% - 29% lao động có việc làm.
Tỷ trọng công nhiệp chế biến trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 90%.
Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả
nước đạt khoảng 87%. Phát triển các ngành công nghiệp là chuyển dịch nhanh cơ
cấu công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, đa dạng hoá chủng
loại sản phẩm. Chú trọng đầu tư công nghiệp năng lượng như điện (tập trung đẩy
nhanh tiến độ hoàn thành các nhà máy điện đảm bảo cung cấp đủ điện năng), dầu
khí, than, công nghiệp sản xuất vật liệu, công nghiệp có công nghệ cao, ưu tiên phát
triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, sản xuất các loại sản phẩm chất
lượng cao, tiêu tốn ít nhiên liệu, năng lượng, nhiên liệu, các sản phẩm tiết kiệm
năng lượng, thân thiện với môi trường, công nghiệp tái chế, công nghệ nano.
3.1.2. Phát triển nông nghiệp, nông thôn
Với mục tiêu đầu tư phát triển ngành nông nghiệp đảm bảo nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm khoảng 4-5%; tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng
17 - 18%; tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2015 chiếm 40-41%
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 79 Kinh tế TNTN và Môi trường
lao động toàn xã hội, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn gấp 1,8-2 lần so
với năm 2010.
Đầu tư hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, thâm canh tăng năng
suất gắn với phát triển công nghiệp chế biến; phát triển cơ sở chế biến tại các vùng
sản xuất nguyên liệu. Tăng cường đầu tư phục vụ công tác khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho sản xuất nông
nghiệp. Đầu tư chiều sâu các cơ sở nghiên cứu khoa học giống cây trồng, vật nuôi
có năng suất cao, chất lượng tốt. Ưu tiên các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái
phiếu Chính phủ và huy động các nguồn vốn trong dân để đầu tư chương trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn, hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi và công trình bổ sung
nước ngầm để có đủ năng lực tưới, tiêu, khắc phục nhanh chóng tình hình hạn hán
nếu xảy ra, đảm bảo yêu cấp cấp nước cho công nghiệp dân sinh và nuôi trồng thủy
sản. Phấn đấu đến năm 2015 hoàn thiện cơ bản hệ thống thủy lợi các vùng trong cả
nước và hoàn thành các hồ chứa nước lớn.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020:
- Tốc độ tăng trưởng nông lâm thuỷ sản đạt 4-5%/ năm, duy trì diện tích đất
trồng lúa đủ bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài;
kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết
cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp 2,5 lần so với hiện
nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% trong tổng lực lượng lao động, tỷ lệ
nông động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%.
3.1.3. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải
Huy động cao nhất nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ,
ODA và các thành phần kinh tế khác…để hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông
vận tải thiết yếu đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và hành khách giữa các
vùng và với các nước trong khu vực, đường tuần tra biên giới, góp phần đảm bảo
quốc phòng, an ninh. Hoàn thành cơ bản và đưa vào hoạt động hệ thống đường cao
tốc, quốc lộ, các tuyến đường sắt, các tuyến đường sông chủ yếu. Tiếp tục xây dựng
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 80 Kinh tế TNTN và Môi trường
đồng bộ hệ thống giao thông ở các vùng kinh tế trọng điểm. Mở rộng và hiện đại
hoá các đầu mối giao lưu quốc tế - các cảng biển, cảng hàng không quốc tế. Phát
triển mạnh mẽ giao thông đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để từng bước
giải quyết nạn ùn tắc giao thông. Rà soát, cập nhật chiến lược và các quy hoạch
chuyên ngành (đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển, hàng không)
cho phù hợp với định dướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.
3.1.4. Phát triển hạ tầng đô thị và khu dân cư
Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị,
hoàn thiện hệ thống cấp nước sinh hoạt, cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công
nghiệp. Tiếp tục thực hiện cải tạo và xây dựng mới hệ thống cấp nước sạch ở nông
thôn, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền núi. Giải quyết cơ bản vấn đề
thoát nước, xử lý nước thải, chất thải rắn ở các khu đô thị, các khu công nghiệp và
một số khu đô thị, các làng nghề và các khu dân cư tập trung đang ô nhiễm nặng.
Cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông đô thị ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh và các đô thị trực thuộc trung ương. Phát triển mạnh các khu đô thị mới
đặc biệt là các khu dân cư ngoại thành để tăng diện tích nhà ở, vừa phát triển các đô
thị vừa đáp ứng nhu cầu chỉnh trang các khu đô thị hiện có. Xoá nhà tạm tại các đô
thị, giải quyết cơ bản các khu nhà ở không an toàn trong đô thị. Phát triển các đô thị
mới theo hướng hiện đại. Tiếp tục triển khai hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ có khó khăn về nhà ở. Bổ sung một số cơ chế để đầu tư đồng bộ cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, gắn với giải quyết việc làm mới phù hợp với
điều kiện tự nhiên và tập quán địa phương, đảm bảo cho nhân dân yên tâm sinh
sống tại các cụm tuyến dân cư.
3.1.5. Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội
- Khoa học và công nghệ: tập trung đầu tư trang thiết bị để tạo điều kiện
thuận lợi cho cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học. Đầu tư tăng cường trang
thiết bị thu thập, xử lý, khai thác và truyền bá thông tin. Đầu tư có trọng tâm, trọng
điểm, tạo sự bứt phá từng thời kỳ và giai đoạn cụ thể để phục vụ xây dựng đường
lối chính sách, phát triển kinh tế xã hội. Tập trung các nguồn vốn trước hết cho các
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 81 Kinh tế TNTN và Môi trường
viện nghiên cứu đầu ngành, hai trung tâm khoa học, các phòng thí nghiệm trọng
điểm; các khu công nghệ cao; một số trung tâm công nghệ phần mềm; tăng cường
đầu tư cho các cơ sở ứng dụng chuyển giao công nghệ và tiến tới phát triển công
nghệ cao có lợi thế. Đầu tư xây dựng các khu công nghệ cao ở Hoà Lạc và ở thành
phố Hồ Chí Minh.
- Giáo dục đào tạo: tập trung vốn đầu tư cho việc xây dựng các trường Đại
học quốc gia, một số trường đại học trọng điểm và các trường đại học vùng. Thu hút
thêm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước để đầu tư hệ thống các trường
dạy nghề. Chú trọng việc đầu tư chiều sâu, nâng cấp và tăng cường cơ sở vật chất
của các trường đại học và cao đẳng, các trường trung học và dạy nghề. Đầu tư hoàn
thiện và hiện đại hoá các phòng thí nghiệm thuộc các trường đại học quan trọng, các
trường kỹ thuật. Tăng cường đầu tư bổ sung thêm các thiết bị dạy và học để nâng
cao chất lượng đào tạo. Xây dựng thêm ký túc xá cho sinh viên. Hỗ trợ đầu tư các
trường ngoài công lập. Xây dựng mới các trường đại học ở các vùng miền núi phía
Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long như: Đại học Tây Bắc, Đại học văn
hoá miền Tây và đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đại học Y dược Cần Thơ. Phát hành
trái phiếu Chính phủ để đầu tư kiên cố hoá hệ thống trường lớp học phổ thông; đầu
tư bổ sung phòng học cho các trường tiểu học để tạo điều kiện cho học sinh học 2
buổi một ngày.
- Y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: cần tập trung đầu tư để nâng cấp và
hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; đầu tư hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc gia: trạm y
tế xã, phường, thị trấn. Đầu tư mạng lưới khám chữa bệnh theo địa bàn dân cư. Hỗ
trợ vốn đầu tư cho các bệnh viện lao, các viện nghiên cứu và phòng chống sốt rét;
các bệnh viện tâm thần; các cơ sở sản xuất vắc xin. Hoàn thành đầu tư cho các trung
tâm y tế chuyên sâu Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và miền Trung (Huế-Đà
Nẵng) và thành phố Cần Thơ.
3.2. DỰ BÁO VỀ CÂN ĐỐI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7%-7,5% và thực hiện khâu đột
phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, trong đó tập trung
vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn…Do đó, đòi hỏi giai đoạn 2011-2015
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 82 Kinh tế TNTN và Môi trường
phải tiếp tục huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011-2015 tình hình kinh tế thế giới và trong nước có
nhiều khó khăn, dự báo khả năng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội sẽ
khó khăn hơn giai đoạn trước và để đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu lại nền kinh tế,
trong đó một trong các trọng tâm cần thực hiện là tái cơ cấu đầu tư. Giai đoạn
2011-2015 dự kiến huy động tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khoảng
37-38% GDP. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2011-2015
theo giá thực tế dự kiến khoảng 6.660 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 290 tỷ
USD. Trong đó: nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 75-80%, nguồn vốn ngoài
nước chiếm khoảng 20-25%.
Trong tổng số nguồn vốn đầu tư toàn xã hội nói trên, đầu tư từ nguồn vốn
ngân sách Nhà nước dự kiến khoảng 1.300 nghìn tỷ đồng, chiếm 19 -20%; đầu tư
từ trái phiếu Chính phủ dự kiến khoảng 225 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,6-3,8%; đầu
tư từ vốn tín dụng nhà nước dự kiến khoảng 295 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng
4,6-4,8%; đầu tư từ vốn doanh nghiệp nhà nước dự kiến khoảng 582 nghìn tỷ
đồng, chiếm khoảng 8,8-9,2%; đầu tư từ vốn của khu vực dân cư và doanh nhiệp
tư nhân dự kiến 3.170 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 46-50%; đầu tư từ nguồn vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài dự kiến khoảng 950 nghìn tỷ đồng, tương đương
khoảng 41,2 tỷ USD (không bao gồm phần đóng góp ở trong nước), chiếm
khoảng 14,5-16%;…Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong 5 năm
2011-2015 dự kiến vốn cam kết khoảng 32-34 tỷ USD, giải ngân khoảng 14-16 tỷ
USD. Đầu tư gián tiếp của nước ngoài 5 năm dự kiến khoảng 9-12 tỷ USD.
Cân đối ngân sách Nhà nước: Với mục tiêu cân đối ngân sách Nhà nước
một cách tích cực, theo hướng giảm dần bội chi, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và
đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phấn đấu mức động viên vào ngân sách Nhà nước
bình quân 5 năm khoảng 25-26% GDP, trong đó thuế và phí đạt mức 24-25%; dự
kiến tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước trong 5 năm 2011-2015 khoảng 4.000
nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006-2010; tốc độ tăng thu ngân sách
bình quân khoảng 16-18%/năm. Cơ cấu thu dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng tỷ
trọng các nguồn thu nội địa tăng lên cùng với quá trình nâng cáo chất lượng và
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 83 Kinh tế TNTN và Môi trường
hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế; tỷ trong thu từ dầu thô và hoạt động xuất
nhập khẩu giảm xuống cùng với quá trình hội nhập và giảm thuế nhập khẩu.
Chi ngân sách được xây dựng trên cơ sở cân đối với nguồn thu, đồng thời
đáp ứng các yêu cầu ưu tiên cho đầu tư phát triển, đảm bảo trả được nợ của Chính
phủ và kiểm soát mức nợ trong và ngoài nước trong giới hạn an toàn. Quy mô chi
ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011-2015 trên 5.000 nghìn tỷ đồng, bằng 30-31%
so với GDP. Tốc độ tăng chi ngân sách Nhà nước tăng bình quân khoảng
16%/năm. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng,
tăng tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nhằm hoàn thiện xây dựng hệ
thống kế cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại, đảm bảo mục tiêu an ninh- quốc phòng.
Chi đầu tư phát triển bình quân 5 năm tối thiểu bằng 26-27% tổng chi ngân sách
Nhà nước.
Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước trong GDP phấn đấu theo hướng giảm
dần, bình quân 5 năm duy trì mức 5% GDP, phấn đấu đến năm 2015 đưa bội chi
ngân sách Nhà nước xuống còn 4,5% GDP. Bội chi ngân sách Nhà nước sẽ được
bù đắp bằng 2 nguồn là vay trong nước và vay nước ngoài.
3.3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ
CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.3.1. Nghiên cứu ban hành văn bản luật riêng để quy định về quản lý đầu tư phát
triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Như đã phân tích trong chương 2, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
chưa xác định r yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư công, đối tượng và
nội dung quản lý trong các khâu quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển khai
thực hiện dự án, quản lý sử dụng vốn, quản lý khai thác dự án và một số vấn đề
khác. Luật Xây dựng năm 2003 được ban hành và các nghị định hướng dẫn Luật
này chỉ hướng dẫn về các công việc liên quan đến hoạt động xây dựng; còn vấn đề
về đầu tư tuy đã được điều chỉnh tại Luật Đầu tư năm 2005 nhưng riêng lĩnh vực
đầu tư công thì Luật này quy định chưa cụ thể, chưa r và vẫn đang phải thực hiện
theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 84 Kinh tế TNTN và Môi trường
52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ và các Nghị định sửa đổi, bổ sung
quy chế nói trên gồm Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000, Nghị định số
07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003.
Hiện nay các nội dung của hoạt động đầu tư công gồm: kế hoạch đầu tư,
phân bổ và quản lý các nguồn lực đầu tư qua các chương trình, dự án đầu tư, tổ
chức quản lý quá trình đầu tư từ khâu quy hoạch, kế hoạch đến khâu khai thác sử
dụng các dự án đầu tư, kiểm tra, giám sát, đánh giá các dự án đầu tư để đảm bảo
hiệu quả đầu tư chưa được văn bản Luật nào quy định. Do vậy, việc ban hành văn
bản luật để quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước (có
thể gọi là Luật Đầu tư công) sẽ bổ sung kịp thời những nội dung còn thiếu cho phù
hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, góp phần vào hoàn thiện hệ thống pháp luật
về đầu tư; đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quản lý, chống thất thoát và
lãng phí trong đầu tư sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước là một vấn đề hết sức
cấp bách, có ý nghĩa quan trọng.
3.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư xây dựng cơ
bản và thực hiện quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo quy hoạch
Nhà nước cần giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng với các Bộ Xây
dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công
thương,… và các địa phương rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công
tác quy hoạch một số ngành lớn (Giao thông, Thuỷ lợi…) cũng như quy hoạch phát
triển kinh tế chung trên phạm vi cả nước, một số vùng và địa phương trọng điểm.
Trên cơ sở rà soát, đánh giá tiến hành điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, Nhà nước
phải có một quyết định về hệ thống quy hoạch tổng thể đồng bộ một số ngành lớn
và quy hoạch phát triển kinh tế trong phạm vi cả nước cho giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2050. Quy hoạch mới được quyết định phải đáp ứng nhiệm vụ chiến lược trong việc phát triển kinh tế - xã hội - quốc phòng của Việt Nam; song phải phù hợp với các điều kiện thực tế của nước ta nhất là vấn đề sử dụng đất nông nghiệp. Đồng thời phải đưa ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng trên phạm
vi cả nước để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trung
và dài hạn.
- Hoàn thiện chế độ và quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm,
quyền hạn nhất là mối quan hệ về công tác quy hoạch giữa các tổ chức làm công tác
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 85 Kinh tế TNTN và Môi trường
quy hoạch như các Viện quy hoạch của các Bộ, ngành Trung ương với nhau và các Viện của Bộ với các tổ chức làm công tác quy hoạch ở địa phương. Một số quy
hoạch cần thiết phải thuê nước ngoài làm.
- Đối với công tác quy hoạch phải được thực hiện quản lý từ khâu kế hoạch
hoá, cấp phát vốn, quyết toán vốn như các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp hiện nay. Trong chế độ cần quy định r loại quy hoạch nào là đề tài cấp Nhà nước, quy
hoạch nào cấp Bộ, ngành, cấp địa phương; đồng thời quy định r về trách nhiệm vật chất đối với chủ nhiệm đề tài.
- Nhà nước cần ban hành chế độ bắt buộc trong đầu tư: Bất cứ một dự án nào
(không phân biệt nguồn vốn, cấp quản lý) nếu không có trong quy hoạch hoặc
không đáp ứng yêu cầu cơ bản của quy hoạch đã được duyệt sẽ không được bố trí
vốn và không được tiến hành đầu tư xây dựng. Kiên quyết không được điều chỉnh quy hoạch theo dự án, nếu cố tình thực hiện đầu tư xây dựng thì người đứng đầu
cao nhất (không phân biệt chức vụ) của dự án sẽ bị xử lý theo pháp luật.
- Ban hành cơ chế, quy định công khai quy hoạch và định kỳ các Bộ, ngành,
địa phương báo cáo Quốc hội, Hội đồng nhân dân tiến độ thực hiện quy hoạch.
3.3.3. Nâng cao chất lượng của công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án
đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách Nhà nước
Để nâng cao chất lượng công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu
tư công, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên rà soát việc thực hiện các dự án đầu tư đã được cấp
vốn tại các bộ, ngành, địa phương nhằm đánh giá tiến độ, khối lượng và khả năng
hoàn thành đúng thời hạn quy định của các dự án, từ đó có những điều chỉnh thích
hợp, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của chủ dự án đối với công trình đầu tư
đã được cấp phép. Kiên quyết cắt, giảm, đình chỉ đối với những dự án, công trình
chậm trễ về tiến độ (do nguyên nhân chủ quan), dự án chưa cần thiết, dự án thiếu về
trình tự, thủ tục đầu tư và tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ các dự án đang thi
công, sớm đưa dự án vào sử dụng, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội. Cần phải
nghiêm khắc trong xử lý sai phạm. Người đứng đầu cao nhất của các tổ chức thẩm
định và cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư, phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về kết quả các quyết định thẩm định, quyết định đầu tư dự án.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 86 Kinh tế TNTN và Môi trường
Thứ hai, Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư. Đối với các công trình, dự án có tầm quan trọng đối với đời sống nhân dân, chương
trình mục tiêu quốc gia như “Chương trình Xoá đói giảm nghèo và việc làm”,
“Chương trình Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn” thì cần tập trung vốn
đầu tư cho hiệu quả, đưa các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có khả năng thu hồi vốn ra khỏi danh mục tín dụng đầu tư ưu đãi của Nhà nước, để tập trung cho
các công trình phúc lợi xã hội và các công trình hạ tầng xã hội. Theo đó, các dự án đầu tư phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch phát triển ngành, quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng v.v… đảm bảo tính
hợp lý trong thiết kế và năng lực của các chủ thể lập dự án - là các Bộ, ngành, địa
phương, tránh tình trạng các dự án chồng chéo lên nhau, hoặc có dự án nhưng
không giải ngân được vốn do năng lực kém, phải chuyển nguồn vốn năm sau.
Thứ ba, cần hình thành cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ đủ thẩm quyền
và có tính chịu trách nhiệm cao, không bị ràng buộc bởi những lợi ích cục bộ của
ngành và của địa phương để đánh giá tính hiệu quả của các dự án đầu tư. Kết quả
khảo sát, đánh giá sau đó cần phải được công bố công khai, minh bạch nhằm đảm
bảo tính khách quan của công tác giám sát và nhận sự phản biện, góp ý từ người dân
- là người bỏ tiền và thụ hưởng những công trình, dự án đó. Đây là nhiệm vụ có ý
nghĩa quan trọng nhằm loại bỏ dần tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng, tách
chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong tất cả các khâu trong
quản lý đầu tư, xây dựng, người ra quyết định đầu tư sẽ không còn “kiêm nhiệm”
chủ đầu tư. Có như vậy mới có thể đánh giá được chính xác kết quả hoạt động và
hiệu quả thực tế của các dự án đầu tư, loại bỏ tình trạng cả nể, chủ quan, buông xuôi trong quản lý. Ngoài ra, cần phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá các dự án
đầu tư công: dự án thế nào là hiệu quả, chưa hiệu quả, dự án chậm trễ, sai phạm ở
mức độ nào thì cần phải đình hoãn, cắt giảm vốn hoặc thu hồi, xoá bỏ.
3.3.4. Hoàn thiện công tác lập và quản lý thực hiện kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát
triển thuộc ngân sách Nhà nước
Việc thực hiện tốt công tác lập và quản lý thực hiện kế hoạch phân bổ vốn
đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước góp phần giải quyết tránh tình
trạng đầu tư dàn trải, có kế hoạch khắc phục tình hình nợ đọng trong xây dựng cơ
bản, gây lãng phí cho ngân sách Nhà nước. Để làm tốt công tác này chúng ta cần
thực hiện các bước như sau:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 87 Kinh tế TNTN và Môi trường
Thứ nhất, xây dựng tốt kế hoạch định hướng đầu tư 5 năm:
Kế hoạch đầu tư 5 năm là công cụ quản lý về đầu tư xây dựng các dự án,
công trình, nó đảm bảo sử dụng tập trung, có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước
và địa phương. Kế hoạch 5 năm cần đặt ra nhiệm vụ giải quyết vấn đề nguồn lực,
phân bổ nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển tối ưu của một số ngành, lĩnh vực vừa
đảm bảo các yêu cầu tối thiểu cần thiết cho các lĩnh vực khác. Vì vậy kế hoạch 5
năm cần có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương, các
ngành kinh tế và các tổ chức kinh tế - xã hội, mọi tầng lớp dân cư tham gia. Mọi
hoạt động đầu tư xây dựng phải được thể hiện trong kế hoạch đầu tư 5 năm và hàng
năm của các Bộ, ngành và địa phương.
Kiên quyết không phê duyệt các dự án khi chưa r nguồn vốn và đình hoãn
thực hiện các công trình dự án không r phương án tài chính và khả năng huy động
vốn; thiếu hiệu quả chưa sát với yêu cầu thiết thực của ngành và địa phương. Các
cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư cần tiến hành soát xét và chịu trách nhiệm đối
với các công trình đang xây dựng và dự định khởi công để đảm bảo hiệu quả đầu tư,
tránh tình trạng đầu tư dàn trải, có kế hoạch khắc phục tình hình nợ đọng trong xây
dựng cơ bản.
Thứ hai, tiến tới thực hiện công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư trung hạn - hoàn
thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư theo niên độ sang cơ chế quản lý theo giai đoạn và
theo dự án
Kế hoạch hoá đầu tư xây dựng cơ bản trung hạn (3 hoặc 5 năm) là một căn
cứ quan trọng, là định hướng và kim chỉ nam cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư
hàng năm.
Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư trung
hạn và cơ chế quản lý theo niên độ và theo tiến độ thực hiện dự án, cụ thể:
- Trong những năm tới Nhà nước phải khôi phục bổ sung chế độ kế hoạch
hoá vốn đầu tư trung hạn thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Việc xác định kế
hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trung hạn 3 hoặc 5 năm phải phù hợp với các kỳ kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn của cả nước và nhiệm kỳ Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam. Kế hoạch này sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm từ khâu
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 88 Kinh tế TNTN và Môi trường
tổ chức lập, tổng hợp trình Nhà nước quyết định và chịu trách nhiệm về mọi mặt với
những quyết định của mình trước Chính phủ.
Trong chế độ kế hoạch hoá vốn đầu tư trung hạn cần phải quy định r những
căn cứ để tính toán trong quá trình xây dựng kế hoạch của cả nước, cũng như từng
ngành, từng địa phương - những căn cứ này phải đảm bảo tính khoa học và thực
tiễn, song phải đơn giản trong phương pháp tính toán. Đồng thời trong kế hoạch đầu
tư trung hạn của các ngành, các địa phương phải thể hiện danh mục một số dự án và
mức vốn đầu tư hàng năm từng dự án được khởi công hoặc hoàn thành (trong kỳ kế
hoạch trung hạn).
- Nhà nước ban hành mới quy chế quản lý vốn đầu tư theo niên độ và theo dự
án. Trong chế độ cần quy định bắt buộc cơ quan các cấp từ Trung ương đến địa
phương có chức năng tham gia quản lý vốn đầu tư phải thực hiện theo một số
nguyên tắc sau:
+ Trong kế hoạch đầu tư theo dự án phải thể hiện mức vốn đầu tư hàng năm
(thuộc kỳ kế hoạch).
+ Trong kế hoạch đầu tư hàng năm đối với các dự án chuyển tiếp phải bố trí
bằng hoặc cao hơn mức vốn đầu tư của năm đó đã được ghi trong kế hoạch đầu tư
theo dự án (được cấp có thẩm quyền phê duyệt).
- Để đảm bảo việc phân bổ vốn tập trung vào một đầu mối đề nghị chuyển
chức năng bố trí, phân bổ vốn đầu tư từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Bộ Tài chính.
3.3.5. Hoàn thiện công tác tư vấn trong đầu tư xây dựng cơ bản
Để nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án có nhiều giải pháp, trong đó kết quả
của các công tác tư vấn trong tất cả các giai đoạn hoạt động đầu tư rất quan trọng vì
đó là cơ sở để các chủ dự án cũng như cấp trên chủ dự án đưa ra những kết luận,
quyết định đúng mang lại hiệu quả cao trong quá trình đầu tư dự án.
Để có những kết quả đúng trong công tác tư vấn, những năm tới công tác tư
vấn đầu tư (trong đó có tư vấn quản lý dự án, tư vấn giám sát) cần phải hoàn thiện
một số giải pháp sau:
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 89 Kinh tế TNTN và Môi trường
Một là, trên cơ sở hiện có về các tổ chức tư vấn đối với mọi lĩnh vực trong
hoạt động đầu tư (từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, xây dựng dự án, khai thác sử dụng
dự án) ở các ngành, địa phương - Nhà nước nghiên cứu tổ chức sắp xếp lại để xây
dựng một hệ thống tổ chức tư vấn hoạt động theo quy định của pháp luật, phải có đủ
năng lực (nhất là năng lực cán bộ) am hiểu trong mỗi lĩnh vực của quá trình hoạt
động đầu tư.
Hai là, Nhà nước cần ban hành các văn bản quy định r trách nhiệm về kết
quả tư vấn của các tổ chức tư vấn, chủ đầu tư, người đứng đầu cơ quan thẩm định
và phê duyệt dự án đầu tư theo nguyên tắc:
- Chủ đầu tư bị xử lý hành chính tuỳ theo mức độ thiệt hại do sử dụng tư vấn
không phù hợp với điều kiện về năng lực lập dự án đầu tư, cung cấp thông tin sai
lệch, thẩm định, nghiệm thu không theo đúng quy định và những hành vi vi phạm
khác gây thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Tổ chức và các cá nhân tư vấn: chịu trách nhiệm về kết quả công tác tư vấn;
bồi thường thiệt hại khi sử dụng các thông tin, tài liệu, quy chuẩn, tiêu chuẩn xây
dựng, các giải pháp kỹ thuật không đúng làm cho kết quả của công tác tư vấn sai
lệch, cũng như các vi phạm khác gây thiệt hại cho dự án do lỗi của tổ chức tư vấn
gây ra.
3.3.6. Thực hiện tốt cơ chế giám sát, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng của
hoạt động đầu tư công
Thứ nhất, về giám sát, đánh giá đầu tư: thực hiện giám sát trong tất cả các
khâu trong quá trình đầu tư, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xem xét, đánh giá
cụ thể tình hình, kết quả trong đầu tư và kịp thời rút kinh nghiệm chấn chỉnh trong
quản lý. Dự án chỉ được bố trí kế hoạch và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư khi thực
hiện đầy đủ các quy định giám sát, đánh giá đầu tư. Các Bộ, ngành, địa phương,
đơn vị nghiêm chỉnh thực hiện các quy định về giám sát, đánh giá đầu tư năm 2011
theo Quy định tại Nghị định số 113/2009/NĐ-CP ngày 15/12/2009 của Chính phủ
về giám sát và đánh giá đầu tư, Thông tư số 13/2010/TT-BKH ngày 2/6/2010 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 90 Kinh tế TNTN và Môi trường
Thứ hai, về giám sát cộng đồng: Cơ chế giám sát cộng đồng trong hoạt động
đầu tư xây dựng của các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp nhà nước được
Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày
18/4/2005. Qua giám sát, cộng đồng có thể phát hiện và báo cáo cho cơ quan có
thẩm quyền về những việc làm xâm hại đến lợi ích của mình; những tác động tiêu
cực của dự án đến môi trường sinh sống của cộng đồng trong quá trình thực hiện
đầu tư, vận hành dự án, từ đó góp phần làm giảm thiểu các hành vi gian lận, sai trái
của các cơ quan, đơn vị thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, nâng cao hiệu quả
đầu tư công. Để cơ chế này đi vào thực tế và phát huy tác dụng, cần thực hiện
những giải pháp sau:
- Công khai hoá các thông tin về hoạt động đầu tư công theo quy định của
Nhà nước. Chỉ khi nào công tác công khai hoá thông tin tốt thì người dân mới biết
để tham gia và giám sát cộng đồng mới đạt hiệu quả. Ví dụ như đầu tư sau khi có
quyết định được duyệt, phải công khai quyết định ở nơi thực hiện dự án về chủ đầu
tư, diện tích sử dụng đất, nguồn vốn, ai thiết kế, ai thi công và công khai ở nơi công
cộng như trụ sở uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố - nơi thực hiện dự án.
- Cần có một tổ chức đủ mạnh và có uy tín (như Mặt trận Tổ quốc) ở địa
phương sở tại để thu thập, thẩm định lại ý kiến đóng góp (vì nhiều khi ý kiến của
cộng đồng không thực sự chuẩn xác) và tổ chức để cho người dân, cộng đồng thực
hiện ý kiến đóng góp cho dự án. Phản ánh của người dân, theo quy chế, phải được
thực hiện qua Ban giám sát là để phần nào đó tránh gây phiền hà, phức tạp trong
quá trình quản lý điều hành, triển khai dự án của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà
thầu, đồng thời tránh chuyện người dân biết sai phạm mà không biết phản ánh với ai
hoặc họ tiến hành những hoạt động giám sát mang tính tự phát. Ngoài ra, cộng đồng
cũng cần giám sát việc giải quyết này phải giải quyết đến nơi đến chốn. Đây là quy chế dành cho cộng đồng, nên cần phải được tuyên truyền, phổ biến sâu đến tất cả cộng đồng dân cư biết để thực hiện. - Có cơ chế khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với các cá nhân, tổ
chức, báo chí, cơ quan ngôn luận có công khám phá ra những sai phạm trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Có như vậy, chất lượng của các dự án đầu tư công mới được cải thiện, góp phần giảm thất thoát lãng phí, nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 91 Kinh tế TNTN và Môi trường
- Cần đặc biệt đề cao và thực hiện tốt vai trò của các cơ quan dân cử là Hội đồng nhân dân các cấp cho đến Quốc hội trong việc quyết định và giám sát các hoạt
động đầu tư công theo đúng quy định của pháp luật.
3.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán đối với nguồn vốn
đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước
- Nhà nước cần phải sớm ban hành một quy chế về việc phối hợp trong công
tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán giữa các tổ chức như ban thanh tra, vụ thanh tra…
của các bộ, ngành trung ương; giữa các tổ chức có chức năng kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán của các sở, ban, ngành ở địa phương. Ví dụ, hàng năm các tổ chức kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán nói trên phải xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra để cùng
trao đổi, nếu có sự chồng chéo ở một số dự án nào phải có kế hoạch phối hợp cụ thể
để cùng nhau thực hiện. Đồng thời phải quy định nếu một dự án không có một vụ việc gì nghiêm trọng xảy ra, thì các tổ chức có chức năng kiểm tra, thanh tra các cấp
cùng phối hợp chỉ tiến hành công tác thanh tra một số lần trong một năm.
- Cần phải bổ sung trong tất cả các chế độ về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ
bản nội dung: Cơ quan thanh tra các cấp có quyền và phải thực hiện thanh tra việc
phân bổ kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân
sách nhà nước của các bộ, ngành, địa phương.
- Đối với công tác thanh quyết toán, cần ban hành quy định: nếu thanh toán
khống thì ngoài việc giảm trừ khi thanh quyết toán cần đưa ra điều tra truy tố trước
pháp luật. Nếu kết luận thanh tra sai, trưởng đoàn công tác thanh tra phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm theo pháp luật hiện hành.
3.3.8. Xây dựng, hoàn thiện tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách
Nhà nước .
Qua việc tìm hiểu và phân tích quá trình quản lý chi vốn ngân sách Nhà nước
cho hoạt động đầu tư phát triển ở nước ta trong thời gian qua và qua những phân
tích ở trên, tác giả xin kiến nghị một mô hình quản lý chi vốn ngân sách Nhà nước
cho hoạt động đầu tư phát triển trong giai đoạn tới đây như sau:
3.3.8.1. Nhà nước thống nhất quản lý đối với chi vốn đầu tư phát triển thuộc
ngân sách Nhà nước
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 92 Kinh tế TNTN và Môi trường
Nguyên tắc quản lý Nhà nước thống nhất đối với chi ngân sách Nhà nước, đề
nghị sửa đổi theo hướng quy định thống nhất một đầu mối tổng hợp dự toán Ngân
sách Nhà nước; theo đó Bộ Kế hoạch và đầu tư lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, các cân đối chủ yếu của nền kinh tế làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài
chính và lập dự toán ngân sách. Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc lập dự toán
ngân sách và phương án phân bổ ngân sách trung ương hàng năm. Đồng thời, quy
định r nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tài chính các cấp chịu trách nhiệm lập dự
toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách, bao gồm dự toán và phương án
phân bổ chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi thường xuyên.
3.3.8.2. Phân định rõ trách nhiệm các bộ trong quản lý các chương trình mục
tiêu quốc gia
Quyền hạn, trách nhiệm về lập dự toán và phân bổ vốn chương trình mục tiêu
quốc gia bị phân tán giữa Bộ quản lý ngành, lĩnh vực với Bộ Tài chính và Bộ Kế
hoạch và đầu tư; giữa Bộ Tài chính với Bộ Kế hoạch và đầu tư; giữa các Bộ với Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân địa phương. Phức tạp về thủ tục hành chính (các
Bộ quản lý chương trình báo cáo, giải trình với nhiều cơ quan), không gắn trách
nhiệm phân bổ, sử dụng vốn chương trình mục tiêu quốc gia với trách nhiệm giải
trình trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Vì vậy khó đảm bảo sự tập trung, thống
nhất cao, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả thực hiện chương trình.
Do vậy, đề nghị quy định thống nhất nhiệm vụ quản lý các chương trình mục
tiêu quốc gia, theo đó:
- Bộ quản lý chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng chương trình (mục
tiêu, kinh phí, lộ trình); Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính thẩm định trình Thủ
tướng Chính phủ để trình Quốc hội phê duyệt.
- Hàng năm, Bộ quản lý chương trình mục tiêu quốc gia đề xuất với Bộ Tài
chính mức cân đối ngân sách cho từng chương trình mục tiêu quốc gia và dự kiến
phân bổ kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia cho từng Bộ, cơ quan trung ương,
địa phương; Bộ Tài chính thẩm định, tổng hợp chung vào dự toán ngân sách của
Bộ, ngành, địa phương báo cáo Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 93 Kinh tế TNTN và Môi trường
3.3.8.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước
Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính là cơ
quan quản lý nhà nước về thu, chi ngân sách Nhà nước nhưng chỉ mới thực hiện
chức năng quản lý đối với chi thường xuyên; riêng lĩnh vực chi ngân sách cho đầu
tư xây dựng cơ bản vẫn chủ yếu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện. Để thực hiện
cải cách hành chính, cần tập trung một đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về chi ngân sách Nhà nước (bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư xây
dựng cơ bản) do Bộ Tài chính đảm nhiệm.
Để đáp ứng được yêu cầu trên, phải thống nhất tất cả các khâu của quá trình
quản lý dự án đầu tư về cùng một tổ chức, có thể gọi tên là Cục quản lý vốn đầu tư
(trực thuộc Bộ Tài chính); dưới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là các
Phòng quản lý vốn đầu tư (thuộc Sở Tài chính); cụ thể:
- Thành lập Cục Quản lý vốn đầu tư trên cơ sở Vụ Đầu tư của Bộ Tài chính
hiện nay và giao thêm một số nhiệm vụ mới về phân bổ vốn đầu tư. Theo đó, ngoài
chức năng, nhiệm vụ như các Vụ tham mưu thuộc Bộ, Cục có đặc điểm riêng và
thực hiện một số nhiệm vụ khác biệt như:
Là một tổ chức độc lập quản lý vốn đầu tư của Nhà nước, cần có vị trí tương
đối độc lập trong công tác quản lý tài chính đầu tư để trực tiếp thực hiện một số
công việc cụ thể về quản lý vốn đầu tư, gồm:
+ Phân bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm;
+ Thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành (dự án trọng điểm quốc gia);
+ Tham gia thẩm định các dự án đầu tư theo quy định;
+ Thực hiện kiểm tra, trực tiếp trả lời, xử lý các vướng mắc trong quá trình
quản lý vốn đầu tư (ở tất cả các khâu: thẩm định dự án, phân bổ dự toán, điều hành
vốn, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư) đối với các đơn vị, cơ quan, tổ chức ở
Trung ương và địa phương.
Mô hình tổ chức như trên có thể tạo ra những ưu điểm:
Thứ nhất, có thể thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về tài chính đầu tư.
Thứ hai, có thực tế để nghiên cứu xây dựng hoàn thiện chế độ chung về quản lý
tài chính đầu tư phát triển, huy động và sử dụng các nguồn vốn.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 94 Kinh tế TNTN và Môi trường
Thứ ba, có thể tổ chức tốt công tác hướng dẫn thực hiện các chế độ chung liên
quan đến nhiều Bộ, ngành và vùng lãnh thổ về quản lý tài chính đầu tư.
Thứ tư, hạn chế, ngăn chặn được phần lớn tệ quan liêu, tham nhũng trong đầu
tư xây dựng cơ bản.
Thứ năm, khắc phục được những hạn chế và tình trạng cắt khúc quản lý như
hiện nay.
Kết luận chương 3
Dựa trên hệ thống cơ sở lý luận về đầu tư, đầu tư phát triển, về cơ chế quản
lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước và những nội dung, nguyên
tắc quản lý chi vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của
ngân sách nhà nước. Đồng thời căn cứ vào những kết quả phân tích, đánh giá thực
trạng đầu tư, quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng vốn
ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1999 đến nay. Tác giả luận
văn đã nghiên cứu đề xuất 8 giải pháp cụ thể và khả thi nhằm hoàn thiện hoàn thiện
cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn
vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn tới.
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho
các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước là một vấn đề lớn,
khó khăn và phức tạp, liên quan đến một hệ thống văn bản luật định đồ sộ, thường
xuyên đổi mới và tổ chức quản lý, thực hiện nhiều cấp liên quan đến nhiều bộ
ngành,... Tuy nhiên, để giải quyết được những bất cập, tồn tại và yếu kém trong
thực tiễn quản lý hoạt động này trong thời gian vừa qua, chúng ta rất cần sự đồng
tâm, hiệp lực và kiên quyết trong việc tiến hành áp dụng các giải pháp hoàn thiện
công tác quản lý chi ngân sách nói riêng, công tác quản lý hoạt động đầu tư xây
dựng cơ bản nói chung.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 95 Kinh tế TNTN và Môi trường
KẾT LUẬN
Thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện đất nước, những năm
qua nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng ổn định, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện, đầu tư xã hội tăng cao, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật. Việc ưu tiên sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước để chi đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng đã thực sự tạo ra đòn bẩy quan trọng để tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội, tăng năng lực sản xuất cho các ngành kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân, tăng tiềm lực cho quốc phòng - an ninh. Với những công trình giao thông,
cảng biển hiện đại, cơ sở công nghiệp đa dạng đã và đang phục vụ có hiệu quả công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần tạo nên vóc dáng
mới cho đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý chi vốn đầu tư phát
triển thuộc ngân sách Nhà nước cũng còn những hạn chế, bất cập, trong đó vấn đề
vốn đầu tư sử dụng lãng phí, kém hiệu quả đang diễn ra hết sức phức tạp. Do vậy,
việc nghiên cứu tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư
phát triển của ngân sách Nhà nước là một yêu cầu cấp thiết đối với tiến trình phát
triển của đất nước ta và cũng là mục đích nghiên cứu của luận văn.
Bản luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:
- Đã hệ thống và cập nhật một các đầy đủ cơ sở lý luận về đầu tư phát triển,
như: các khái niệm liên quan đến cơ chế, cơ chế quản lý chi, vốn đầu tư phát triển,
vốn ngân sách Nhà nước, dự án đầu tư, hiệu quả đầu tư; Nội dung, nguyên tắc quản
lý chi vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của ngân sách
nhà nước;
- Phân tích, đánh giá làm r thực trạng đầu tư, quản lý chi vốn đầu tư phát
triển cho các dự án đầu tư xây dựng vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai
đoạn từ năm 1999 đến nay. Quan đó đánh giá khách quan, trung thực những kết quả
đạt được và chỉ r những tồn tại, nhược điểm cần tập trung khắc phục;
- Luận văn đã nêu được những quan điểm định hướng và đề xuất một số giải
pháp cụ thể và khả thi nhằm hoàn thiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 96 Kinh tế TNTN và Môi trường
vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; nhằm mục đích tiếp tục phát
huy hơn nữa vai trò đặc biệt của nguồn vốn này trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Với mong muốn đạt được bản luận văn có chất lượng, thể hiện những kiến
thức đã thu nhận và tìm hiểu được trong quá trình học tập, để góp phần đóng góp
giải pháp thiết thực cho công tác quản lý tại cơ quan công tác, tác giả đã hết sức
nghiêm túc, tập trung, cố gắng đến mức cao nhất trong quá trình nghiên cứu viết
Bản luận văn này. Tuy vậy, tác giả hiểu rằng, trong công trình khoa học đầu tiên
của mình, khó tránh khỏ những tồn tại và nhược điểm. Tác giả vô cùng biết ơn sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô và độc giả./.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 97 Kinh tế TNTN và Môi trường
LỜI CẢM ƠN
Với tất cả sự kính trọng biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng
biết ơn của mình tới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của thầy giáo hướng dẫn
khoa học là Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Uân, các thầy cô trong Phòng Đào tạo
Đại học và Sau đại học, các thầy cô trong khoa Kinh tế và Quản lý cùng toàn thể
các thầy cô giáo Trường Đại học thủy lợi, cùng với các đồng nghiệp trong Vụ Đầu
tư - Bộ Tài chính. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động
viên, tạo điều kiện giúp tác giả hoàn thành luận văn này.
Do thời gian và điều kiện chuyên môn còn hạn chế nên luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn và
đóng góp ý của các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học và toàn thể các đồng
nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2012
Người viết luận văn
Trương Thị Hương Giang
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 98 Kinh tế TNTN và Môi trường
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Trang Hình Công thức 1.1: Công thức tính hệ số ICOR - Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả 20
của vốn đầu tư.
Công thức 1.2: Công thức tính chỉ tiêu NPV - Giá trị hiện tại ròng. 21
Công thức 1.3: Công thức tính chỉ tiêu IRR - Tỷ suất doanh lợi nội bộ. 22
Bảng 2.1: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân 46
theo nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 và 2006-2011.
Bảng 2.2: Vốn đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái 50
phiếu Chính phủ theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 2006-2011.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 99 Kinh tế TNTN và Môi trường
DANH MỤC VIẾT TẮT
ODA : Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nước ngoài
FDI : Đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
BOT : Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
BTO : Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh
BT
: Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 100 Kinh tế TNTN và Môi trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010). Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 -
2015;
2. Bộ xây dựng (2007), Thông tư số 05/2007/TT-BXD hướng dẫn lập và quản lý
chi phí đầu tư xây dựng công trình;
3. Bộ xây dựng (2010), Thông tư số 04/2010/TT-BXD hướng dẫn lập và quản lý
chi phí đầu tư xây dựng công trình;
4. Bộ tài chính (2011), Thông tư số 86/2011/TT-BTC ngày 17 tháng 06 năm 2011
quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư
thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước;
5. Bộ tài chính (2011), Thông tư số 19/2011/TT-BTC ngày 14 tháng 02 năm 2011
quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước;
6. Bộ tài chính (2011), Thông tư số 10/2011/TT-BTC ngày 26 tháng 01 năm 2011
quy định về quản lý sử dụng chi phí quản lý dự án của các dự án đầu tư xây
dựng sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
7. Bộ Tài chính (2010). Thông tư số 210/2010/TT-BTC ngày 20/12/2010 quy định
việc quyết toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước theo
niên độ ngân sách hàng năm;
8. Bộ Tài chính (2010). Báo cáo tình hình quyết toán dự án hoàn thành thuộc vốn
đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006-2010;
9. Chính phủ (1999, 2000, 2003). Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 về
Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng; Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày
05/5/2000, Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003;
10. Chính phủ (2004). Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 về quản lý
chất lượng công trình xây dựng; Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18/4/2008
về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày
16/12/2004 về quản lý chất lượng công trình xây dựng;
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 101 Kinh tế TNTN và Môi trường
11. Chính phủ (2005). Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 về quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình;
12. Chính phủ (2006). Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 về quản lý
dự án đầu tư xây dựng công trình;
13. Chính phủ (2009). Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi
phí đầu tư xây dựng công trình;
14. Chính phủ (2006). Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;
15. Chính phủ (2009). Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 về quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình;
16. Chính phủ (2009). Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng dẫn thi
hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng;
17. Chính phủ (2009). Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý
chi phí đầu tư xây dựng công trình;
18. Chính phủ (2010). Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ về hợp
đồng trong hoạt động xây dựng;
19. Nguyễn Xuân Phú (2007), Bài giảng kinh tế xây dựng, trường Đại học Thủy Lợi,
Hà Nội;
20. Nguyễn Bá Uân (2010), Tập bài giảng quản lý dự án, trường Đại học Thủy Lợi,
Hà Nội.
21. Quốc hội khoá XI (2002). Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11;
22. Quốc hội khoá XI (2003). Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 10/12/2003;
23. Quốc hội khoá XI (2003). Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 10/12/2003;
24. Quốc hội khoá XI (2005). Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 12/12/2005;
25. Quốc hội khoá XI (2005). Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 12/12/2005.
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 102 Kinh tế TNTN và Môi trường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1................................................................................................................ 5
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ........................... 5 1.1.1. Khái niệm về cơ chế ..................................................................................... 5 1.1.2. Khái niệm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước .................................................... 5 1.1.3. Nội dung, phân loại cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ......................................................................................... 6 1.1.2.1. Nhóm cơ chế có liên quan đến việc đảm bảo và sử dụng vốn đầu tư .... 6 1.1.2.2. Nhóm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc phạm vi một dự án ............................................................................................................................ 7 1.2.3. Nguyên tắc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ......................... 7 1.2.4. Đặc điểm và yêu cầu của cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc ngân sách Nhà nước ................................................. 8
1.2. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC .......................................................... 10 1.2.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và đầu tư phát triển ........................................10 1.2.1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư .....................................................................10 1.2.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước .......11 1.2.1.3. Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển .................................12 1.2.2. Những đặc trưng của đầu tư và đầu tư phát triển .......................................13 1.2.2.1. Những đặc trưng của đầu tư ..................................................................13 1.2.2.2. Những đặc trưng của đầu tư phát triển .................................................14 1.2.3. Dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả đầu tư .................................................16 1.2.3.1. Dự án đầu tư xây dựng ............................................................................16 2.2.3.2. Hiệu quả đầu tư ........................................................................................18 1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để chi cho đầu tư phát triển ......................................................................................24
CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 29
2.1. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1999 ĐẾN NAY .......................... 29 2.1.1. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1999 - 2005 ...........................................................................................................29 2.1.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2011 ...........................................................................................................31
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 103 Kinh tế TNTN và Môi trường
2.1.3. Cơ chế quy định hiện nay về bộ máy, tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước ................................................................35
2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ................................................................................................................................... 38 2.2.1. Cơ chế phân cấp, phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước ...............................................................................................................38 2.2.1.1. Về nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư ..........................................................38 2.2.1.2. Về điều kiện phân bổ vốn cho dự án đầu tư ............................................39 2.2.1.3. Thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư .............................................................39 2.2.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước liên quan đến dự án đầu tư ...........................................................................................40 2.2.2.1. Quyết định chủ trương đầu tư ..................................................................40 2.2.2.2. Hình thành và thực hiện dự án đầu tư ......................................................41
2.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LIÊN QUAN ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ............................................................................................................. 43 2.3.1. Cơ chế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển...............................43 2.3.2. Tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước ...............47
2.4. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN VỪA QUA ................................................................... 52 2.4.1. Một số kết quả hoạt động đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trong thời gian qua .........................................................................................................52 2.4.2. Những hạn chế, yếu kém trong đầu tư phát triển........................................57 2.4.2.1. Về quy hoạch ...........................................................................................57 2.4.2.2. Về xây dựng cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển chưa đồng bộ ...........61 2.4.2.3. Tình trạng kế hoạch vốn đầu tư phát triển còn phân bổ dàn trải .............64 2.4.2.4. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong chi đầu tư phát triển còn phổ biến .64 2.4.2.5. Nợ đọng vốn đầu tư phát triển còn lớn ....................................................66 2.4.2.6. Hiệu quả đầu tư phát triển thấp ................................................................67 2.4.2.7. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước còn bất cập .........................................................................................................................69 2.4.2.8. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chi đầu tư phát triển chưa được thường xuyên .......................................72 2.4.2.9. Năng lực của chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu xây dựng còn hạn chế.......73 2.4.2.10. Tổ chức bộ máy thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển còn chưa phù hợp với thực tiễn ............................................................................................74
CHƯƠNG 3.............................................................................................................. 77
Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
Luận văn thạc sĩ 104 Kinh tế TNTN và Môi trường
3.1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 CỦA VIỆT NAM ..... 77 3.1.1. Phát triển công nghiệp và xây dựng ...........................................................78 3.1.2. Phát triển nông nghiệp, nông thôn ..............................................................78 3.1.3. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải ..............................................79 3.1.4. Phát triển hạ tầng đô thị và khu dân cư ......................................................80 3.1.5. Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội .................................................................80
3.2. DỰ BÁO VỀ CÂN ĐỐI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ............................... 81
3.3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ....................................................................................................................... 83 3.3.1. Nghiên cứu ban hành văn bản luật riêng để quy định về quản lý đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ...............................................................83 3.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và thực hiện quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo quy hoạch .............................. 84 3.3.3. Nâng cao chất lượng của công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách Nhà nước .............................................. 85 3.3.4. Hoàn thiện công tác lập và quản lý thực hiện kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước ....................................................................86 3.3.5. Hoàn thiện công tác tư vấn trong đầu tư xây dựng cơ bản .......................... 88 3.3.6. Thực hiện tốt cơ chế giám sát, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư công ................................................................................................... 89 3.3.7. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán đối với nguồn vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước ...................................................................... 91 3.3.8. Xây dựng, hoàn thiện tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước . .....................................................................................................91 3.3.8.1. Nhà nước thống nhất quản lý đối với chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước .......................................................................................................91 3.3.8.2. Phân định r trách nhiệm các bộ trong quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia .................................................................................................................92 3.3.8.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước ....93
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95