
K ho¸ luËn tèt nghiÖp
§ µo TuÊn H oµng
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài
hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực
Chương Dương

K ho¸ luËn tèt nghiÖp
§ µo TuÊn H oµng
Lời Mở Đầu
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ngân hàng thương mại là một tổ
chức gắn chặt với nền kinh tế thị trường, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Gắn với kinh tế thị trường, để tồn tại và không ngừng phát triển, hệ thống
NHTM nói chung cũng như Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực
Chương Dương, tất yếu đòi hỏi công tác tín dụng trung và dài hạn phải được
nâng cao chất lượng đâu tư, phát huy tối đa vai trò đòn bẩy của nó.
Nhận thức được tính cấp thiết ấy, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu
thực tế tại cơ sở, em chọn đề tài: ”Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay
trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Chương
Dương” làm nội dung nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp của mình .
Khoá luận tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới công tác tín
dụng trung và dài hạn. Phạm vi nghiên cứu là công tác cho vay vốn trung và dài
hạn tại NH Công Thương Chương Dương.
Chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về cho vay trung và dài hạn tại các Ngân
hàng
Thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công
thương khu vực Chương Dương.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động cho vay trung và
dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Chương
Dương .
Chương 1

K ho¸ luËn tèt nghiÖp
§ µo TuÊn H oµng
Một số vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay trung và dài hạn tại
các ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động cho vay trung và dài hạn của các Ngân hàng Thương Mại
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại lâu trong đời sống xã hội loài người.
Theo tiếng La Tinh tín dụng là sự tin tưởng, điều này có nghĩa là trong mối quan
hệ tín dụng người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn và lãi đúng
thời gian như hai bên đã thoả thuận.
Như vậy, tín dụng hiểu theo cách đơn giản nhất là một quan hệ vay
mượn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc có hoàn trả .
Ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, lực lượng sản xuất
phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xuất hiện hình thức chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, điều này dẫn tới sự phân hoá giai
cấp giầu nghèo trong xã hội. Lúc này trong xã hội xuất hiện sản phẩm dư thừa,
có khả năng cho vay, có người thiếu vốn có nhu cầu vay và quan hệ tín dụng bắt
đầu hình thành để giải quyết vấn đề trên.
Hình thức đầu tiên của tín dụng là quan hệ vay mượn nặng lãi. Cho vay
nặng lãi nhằm mục đính thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của người đi vay, chưa có
tác dụng phục vụ cho sản xuất. Đặc điểm nổi bật của cho vay nặng lãi là lãi xuất
vay rất cao và chưa có sự quy định chung, thậm chí là không có giới hạn. Với
đặc điểm này tín dụng nặng lãi đã phá huỷ,kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
mà nó tồn tại trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến. Nhưng
công bằng mà nói tín dụng nặng lãi góp phần xoá bỏ được nền kinh tế tự nhiên,
phát triển quan hệ trao đổi hàng hoá tiền tệ, tập trung được số lớn tiền tệ vào một
số người và bần cùng hoá trong phạm vi lớn những người sản suất nhỏ, góp
phần làm xuất hiện phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa.
Trong điều kiện kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa, quá trình tái sản xuất giản
đơn được thay thế dần bằng quá trình tái sản suất mở rộng với quy mô ngày

K ho¸ luËn tèt nghiÖp
§ µo TuÊn H oµng
càng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các nhà tư bản rất cần bổ sung
vốn đầu tư vào kinh doanh nhưng họ không thể sử dụng được tín dụng nặng lãi.
Lúc này, tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa và trở thành chướng ngại của
sự phát triển. Giai cấp Tư Sản đã tạo lập cho mình một quan hệ tín dụng mới,
Tín dụng Tư Bản Chủ Nghĩa. Tuy nhiên, tín dụng nặng lãi không bị thủ tiêu
hoàn toàn mà nó còn tồn tại ở những nước sản xuất nhỏ và trong lĩnh vực đi vay
không vì mục đích sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ trao đổi
mua bán đều được tiền tệ hoá. Mỗi chủ thể của nền kinh tế đều phải tự tìm
nguồn vốn trên thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của mình và tự chủ trong
việc sử dụng các nguồn vốn đó. Tuy nhiên không phải lúc nào nhu cầu về vốn
tiền tệ cũng được đáp ứng đầy đủ. Hiện tượng thừa vốn chỗ này thiếu vốn chỗ
kia là tất yếu xẩy ra. Sự thừa thiếu này có khi tạm thời, có khi lâu dài. Chính
điều này đòi hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thừa và thiếu với số
lượng vốn lớn nhất và chi phí ít nhất. Từ đó tín dụng thương mại và tín dụng
ngân hàng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan.
Tín dụng Thương Mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được
biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Quan hệ tín dụng thương mại
(vay trực tiếp) chủ yếu là hàng hoá giữa các doanh nghiệp hoạt động trực tiếp
trong lĩnh vực sản suất và lưu thông hàng hoá. Về thực trạng tín dụng thương
mại là kéo dài thời gian thanh toán của người mua, vậy trong quan hệ tín dụng
thương mại người cho vay chính là người bán chịu hàng hoá, người đi vay là
người đi mua chịu. Như vậy, tín dụng thương mại đóng vai trò tích cực trong
nền kinh tế góp phần giải quyết mâu thuẫn của hiện tượng thừa thiếu vốn đó. Nó
có ưu điểm chi phí thấp, nhưng vẫn còn những nhược điểm :
- Hạn chế không gian địa lý.
- Giữa những người đi vay và người cho vay khó đạt điểm chung về
qui mô và thời hạn của khoản vốn vay.
- Mang rủi ro cao do không có sự phân tán rủi ro.

K ho¸ luËn tèt nghiÖp
§ µo TuÊn H oµng
Chính vì vậy cho vay thông qua các trung tâm tài chính đặc biệt hoạt động
cho vay của các Ngân hàng Thương Mại là rất quan trọng trong nền kinh tế.
Hoạt động cho vay của các ngân hàng là rất quan trọng nền kinh tế thị trường.
Hoạt động cho vay của các ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ vay
mượn, đó là có sự hoàn trả gốc và lãi sau thời gian nhất định. Điểm khác giữa
hoạt động cho vay của các ngân hàng và cho vay trực tiếp là hoạt động cho vay
của các ngân hàng không có sự di chuyển vốn trực tiếp từ nơi có vốn đến nơi
thiếu vốn mà có sự tham gia của ngân hàng. Hoạt động cho vay này đã khắc
phục được hạn chế vay trực tiếp, cung cấp lượng vốn lớn cho nền kinh tế đáp
ứng mọi nhu vầu của các đơn vị xin vay về thời gian, địa điểm, qui mô và thời
hạn khoản vay.
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng Thương Mại. Để quản
lý các khoản cho vay các ngân hàng phân loại các khoản vay theo nhiều tiêu
thức khác nhau và cho vay trung và hạn là một bộ phận của hoạt động cho vay,
được phân theo thời gian. Cho vay trung và dài hạn là các khoản cho vay có thời
han một năm. Tuỳ theo quốc gia mà thời hạn các khoản vay trung và dài hạn sẽ
có qui định khác nhau.ở Việt Nam hiện nay, các khoản cho vay trên 1 năm đến 5
năm gọi là cho vay trung hạn, trên 5 năm gọi là cho vay dài hạn.
1.1.2. Phân loại các khoản cho vay trung và dài hạn.
Có nhiều cách để phân loại các khoản cho vay trung và dài hạn taị các ngân
hàng, chúng ta có thể xem xét các khoản cho vay trung và dài hạn của các Ngân
hàng Thương Mại qua các khoản sau:
* Cho vay theo dự án đầu tư:
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về dự án đầu tư như: quan niệm về
Ngân hàng Thế Giới, ISO 8402 ... Nhìn chung các quan niệm vay đều có những
điểm khác nhau khi tếp cận dự án đầu tư. Nhưng khi xem xét một dự án đầu tư
họ đều chú ý đặc trưng sau :
- Dự án đầu tư có mục tiêu rõ ràng cần đạt tới khi thực hiện.