
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn nhanh, hữu hiệu của
doanh nghiệp, thu hút nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn không chuyên trong nước lẫn
nước ngoài để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế thế giới. Thị trường chứng khoán
Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã trải qua những giai đoạn thăng trầm, có những
bước phát triển vượt bậc về giá trị vốn hóa thị trường và số lượng nhà đầu tư tham
gia, phát huy vai trò tập trung các khoản tiền nhàn rỗi thành nguồn vốn lớn, cung
cấp cho chủ thể cần vốn trong nền kinh tế.
Sự lớn mạnh của thị trường chứng khoán trong 13 năm qua là cơ sở và
nền tảng cho việc hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán
xuất hiện và gia tăng về số lượng và giá trị nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của các
doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên ngành quỹ của Việt Nam cũng chỉ bắt đầu
hình thành từ khoản 5 năm trở lại đây. Tính đến thời điểm hiện tại, trên TTCK Việt
Nam có 26 quỹ đầu tư chứng khoán (bao gồm 05 quỹ đại chúng dạng đóng, 04 quỹ
dạng mở và 17 quỹ thành viên) đang hoạt động. Đối với loại hình quỹ đóng, bên
cạnh mặt tích cực là nguồn vốn huy động luôn ổn định, quỹ đóng ngày càng trở nên
kém thu hút đối với các nhà đầu tư do giá trị giao dịch trên thị trường chênh lệch
lớn với giá trị tài sản ròng của chứng chỉ quỹ và tính thanh khoản thấp. Một số quỹ
có kết quả hoạt động kém hơn mức sinh lợi bình quân của thị trường, quy mô cũng
như tính đa dạng các sản phẩm quỹ còn hạn chế so với tiềm năng của thị trường.
Đồng thời bản thân các quỹ đầu tư chứng khoán trong quá trình tồn tại vẫn chưa
phát huy được vai trò trong thu hút vốn đầu tư, dẫn dắt các nhà đầu tư cá nhân và
đóng góp vào sự ổn định trong hoạt động của TTCK.
Để thu hút ngày càng nhiều hơn nữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì
đòi hỏi ngành quỹ của Việt Nam phải khắc phục những hạn chế vốn có của quỹ
đóng, mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm quỹ,…Sự hình thành
và phát triển mô hình quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở là một xu thế tất yếu cho sự