
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018
68
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ GÓP PHẦN NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÌNH ĐỊNH
E-COMMERCE DEVELOPMENT SOLUTIONS TO IMPROVE
COMPETITIVENESS OF BINH DINH ENTERPRISES
ThS. Lê Vũ Tường Vy
Nguyễn Thị Thùy Linh
Trường đại học Quy Nhơn
Email: levutuongvy@qnu.edu.vn
Tóm tắt
Bình Định là một trong những địa phương có nhiều nỗ lực trong phát triển thương mại điện tử (TMĐT).
Bằng chứng là ngay từ cuối tháng 3/2011, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 639/QĐ-CTUBND về việc
triển khai kế hoạch phát triển TMĐT giai đoạn 2011 – 2015, Quyết định số 4924/QĐ-UBND ngày 31/12/2015
về Kế hoạch phát triển TMĐT giai đoạn 2016 – 2020. Kết quả, sau hơn 7 năm triển khai thực hiện kế hoạch
TMĐT với tổng kinh phí Nhà nước hỗ trợ hơn 1 tỉ đồng, nhiều doanh nghiệp (DN) đã triển khai có hiệu quả
phát triển TMĐT, nhất là việc ứng dụng khai thác các tiện ích của dịch vụ Internet, tăng cường quảng bá
thương hiệu sản phẩm, giao dịch mua bán trực tuyến. Bên cạnh những kết quả bước đầu và cơ bản hoàn thành
mục tiêu đề ra của hoạt động TMĐT, bài viết cũng phân tích những tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động
và đưa ra một số giải pháp phát triển TMĐT, góp phần phát triển kinh tế và phù hợp với tiến trình hội nhập.
Từ khóa: Thương mại điện tử; Bình Định.
Abstract
Binh Dinh is one of the provinces that have made great efforts in developing e-commerce. Evidence is
that at the end of March, 2011, the People’s Committee of Binh Dinh Province issued Decision No. 639 /
Decision - Chairwoman of the People’s Committee on the implementation of the e-commerce development plan
for the 2011-2015 stage, Decision No. 4924 / - Decision - People’s Committee on 31 December 2015 on e-
commerce development plan for the 2016 – 2020 stage. The result, after more than 7 years of implementing the
e-commerce plan with the total budget more than 1 billion which state support, many businesses have deployed
e-commerce effectively, especially the application of exploiting the utility of Internet services, promoting
product branding, online trading. In addition to the initial and basic results of e-commerce activities, the article
also analyzes the shortcomings and limitations of the operation and provides some solutions to develop the e-
commerce, contributing to economic development and in accordance with the integration process.
Key words: E-commerce; Binh Dinh.
1. Giới thiệu
TMĐT trở thành một khuynh hướng toàn cầu. Mô hình kinh doanh trên toàn cầu tiếp tục thay
đổi đáng kể với sự ra đời của TMĐT. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã đóng góp vào sự phát triển
của TMĐT. Ví dụ, nước Anh có chợ TMĐT lớn nhất toàn cầu khi đo bằng chỉ số chi tiêu bình quân
đầu người, con số này cao hơn cả Mỹ. Trong năm 2016, kinh tế Internet của Anh sẽ chiếm 11% tổng
giá trị nền kinh tế với mức 221 tỷ bảng. Trong khi đó, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Internet ở Mỹ là 5,4%.
Điều này tạo ra động lực thay đổi cho ngành công nghiệp quảng cáo.[1]
Trong số các nền kinh tế mới nổi, sự hiện diện của TMĐT ở Trung Quốc tiếp tục được mở
rộng. Với 688 triệu người sử dụng Internet, doanh số bán lẻ của cửa hàng trực tuyến ở Trung Quốc
2.290 tỷ USD năm 2017 và một trong những lý do đằng sau sự tăng trưởng kinh ngạc là cải thiện độ
tin cậy của khách hàng. Các công ty bán lẻ Trung Quốc đã giúp người tiêu dùng cảm thấy thoải mái
hơn khi mua hàng trực tuyến.[2]
TMĐT cũng được mở rộng trên khắp Trung Đông. Với sự ghi nhận là khu vực có tăng trưởng
nhanh nhất thế giới trong việc sử dụng Internet từ năm 2000 đến 2017, hiện thời khu vực có hơn

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018
69
153.172.132 người sử dụng Internet. Bán lẻ, du lịch và chơi game là các phần trong TMĐT hàng đầu ở
khu vực, mặc dù có các khó khăn như thiếu khuôn khổ pháp lý toàn khu vực và các vấn đề hậu cần
trong giao thông vận tải qua biên giới.[3]
TMĐT đã trở thành một công cụ quan trọng cho thương mại quốc tế không chỉ bán sản phẩm
mà còn quan hệ với khách hàng.
Theo khuynh hướng đó, tại Việt Nam: Ngày 12/7/2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế
hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2011 - 2015, và ban hành kèm theo Quyết định 1073/QĐ-
TTg. Mục tiêu mà Chính phủ đề ra là “TMĐT được sử dụng phổ biến và đạt mức tiên tiến trong các
nước thuộc ASEAN, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và năng lực cạnh tranh quốc gia”.
Kết quả, sau hơn 5 năm triển khai Quyết định (QĐ) 1073, TMĐT Việt Nam đã đạt được nhiều
dấu mốc quan trọng. Theo đó, hiện cả nước có 60/63 tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch phát triển
TMĐT của địa phương nhằm triển khai QĐ 1073. Việc ứng dụng TMĐT trong DN không chỉ tập
trung tại các thành phố lớn mà đã mở rộng trên phạm vi cả nước. Nhiều mô hình kinh doanh mới đã
hình thành và được DN vận hành.
Cả nước hiện có gần 100% DN đã tổ chức triển khai ứng dụng TMĐT ở nhiều quy mô và mức
độ khác nhau. Việc tham gia hoạt động TMĐT trên mạng xã hội của đại bộ phận DN bán lẻ và người
tiêu dùng, cùng với việc ứng dụng các giải pháp TMĐT trên nền tảng công nghệ di động cho thấy DN
Việt Nam đã nhanh nhạy bắt kịp các xu hướng mới về TMĐT của thế giới.
Cụ thể, theo thống kê hiện cả nước có 100% DN lớn đã triển khai hiệu quả giao dịch TMĐT.
Trong đó, tỉ lệ DN sử dụng thường xuyên thư điện tử trong hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) đạt
100%; hơn 80% DN đã có trang thông tin điện tử được cập nhật thường xuyên thông tin hoạt động và
quảng bá sản phẩm của DN; 95% DN có sử dụng phần mềm tài chính, 77% DN có sử dụng phần mềm
quản lý nhân sự.
2. Tổng quan về thương mại điện tử
2.1. Sự hình thành thương mại điện tử
Về nguồn gốc, TMĐT được xem như là điều kiện thuận lợi của các giao dịch TMĐT, sử dụng
công nghệ như EDI và EFT. Cả hai công nghệ này đều được giới thiệu thập niên 70, cho phép các DN
gửi các hợp đồng điện tử như đơn đặt hàng hay hóa đơn điện tử. Sự phát triển và chấp nhận của thẻ tín
dụng, máy rút tiền tự động (ATM) và ngân hàng điện thoại vào thập niên 80 cũng đã hình thành nên
TMĐT. Một dạng TMĐT khác là hệ thống đặt vé máy bay bởi Sabre ở Mỹ và Travicom ở Anh.
Vào thập niên 90, TMĐT bao gồm các hệ thống hoạch định tài nguyên DN (ERP), khai thác dữ
liệu và kho dữ liệu.
Năm 1990, Tim Berners-Lee phát minh ra World Wide Web trình duyệt web và chuyển mạng
thông tin liên lạc giáo dục thành mạng toàn cầu được gọi là Internet (www). Các công ty thương mại
trên Internet bị cấm bởi NSF cho đến năm 1995.[10] Mặc dù Internet trở nên phổ biến khắp thế giới
vào khoảng năm 1994 với sự đề nghị của trình duyệt web Mosaic, nhưng phải mất tới 5 năm để giới
thiệu các giao thức bảo mật (mã hóa SSL trên trình duyệt Netscape vào cuối năm 1994) và DSL cho
phép kết nối Internet liên tục. Vào cuối năm 2000, nhiều công ty kinh doanh ở Mỹ và Châu Âu đã thiết
lập các dịch vụ thông qua World Wide Web. Từ đó con người bắt đầu có mối liên hệ với từ
"ecommerce" với quyền trao đổi các loại hàng hóa khác nhau thông qua Internet dùng các giao thức
bảo mật và dịch vụ thanh toán điện tử.
2.2. Khái niệm về thương mại điện tử
TMĐT, hay còn gọi là e-commerce, e-comm hay EC, là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên
các hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy tính.[8][9] TMĐT dựa trên một số công nghệ như
chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình giao dịch trực

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018
70
tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng tồn kho, và các hệ thống tự động thu
thập dữ liệu. TMĐT hiện đại thường sử dụng mạng World Wide Web là một điểm ít nhất phải có trong
chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một phạm vi lớn hơn về mặt công nghệ như email, các
thiết bị di động cũng như điện thoại.
Khi nói về khái niệm TMĐT (E-Commerce), nhiều người nhầm lẫn với khái niệm của Kinh
doanh điện tử (E-Business). Tuy nhiên, TMĐT đôi khi được xem là tập con của kinh doanh điện
tử.[11] TMĐT chú trọng đến việc mua bán trực tuyến (tập trung bên ngoài), trong khi đó kinh doanh
điện tử là việc sử dụng Internet và các công nghệ trực tuyến tạo ra quá trình hoạt động kinh doanh hiệu
quả dù có hay không có lợi nhuận, vì vậy tăng lợi ích với khách hàng (tập trung bên trong).[12][13]
Một số khái niệm TMĐT được định nghĩa bởi các tổ chức uy tín thế giới như sau:
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán
hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận
một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng
Internet".[7]
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) định nghĩa: "TMĐT liên quan đến các giao dịch thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa
các nhóm (cá nhân) mang tính điện tử chủ yếu thông qua các hệ thống có nền tảng dựa trên Internet."
[15] Các kỹ thuật thông tin liên lạc có thể là email, EDI, Internet và Extranet có thể được dùng để hỗ
trợ thương mại điện tử.
Theo Ủy ban châu Âu: "TMĐT có thể định nghĩa chung là sự mua bán, trao đổi hàng hóa hay
dịch vụ giữa các DN, gia đình, cá nhân, tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng
Internet hay các mạng máy tính trung gian (thông tin liên lạc trực tuyến). Thuật ngữ bao gồm việc đặt
hàng và dịch thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán và quá trình vận chuyển hàng hay dịch vụ
cuối cùng có thể thực hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ công."[7]
Tóm lại, TMĐT chỉ xảy ra trong môi trường kinh doanh mạng Internet và các phương tiện điện
tử giữa các nhóm (cá nhân) với nhau thông qua các công cụ, kỹ thuật và công nghệ điện tử. Ngoài ra,
theo nghiên cứu tại đại học Texas, các học giả cho rằng TMĐT và kinh doanh điện tử đều bị bao hàm
bởi nền kinh tế Internet.
2.3. Các ứng dụng kinh doanh
Một số ứng dụng chung nhất liên quan đến TMĐT được liệt kê dưới đây: Tài liệu tự động hóa
ở chuỗi cung ứng và hậu cần; Hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế; Quản lý nội dung DN;
Nhóm mua; Trợ lý tự động trực tuyến; IM (Instant Messaging); Nhóm tin; Mua sắm trực tuyến và theo
dõi đặt hàng; Ngân hàng điện tử; Văn phòng trực tuyến; Phần mềm giỏ hàng; Hội thảo truyền thông
trực tuyến; Vé điện tử; Nhắn tin nhanh; Mạng xã hội; Mua bán dịch vụ trực tuyến.
2.4. Các hình thức thương mại điện tử
TMĐT ngày nay liên quan đến tất cả mọi thứ từ đặt hàng nội dung "kỹ thuật số" cho đến tiêu
dùng trực tuyến tức thời [17], để đặt hàng và dịch vụ thông thường, các dịch vụ "meta" đều tạo điều
kiện thuận lợi cho các dạng khác của TMĐT.
Ở cấp độ tổ chức, các tập đoàn lớn và các tổ chức tài chính sử dụng Internet để trao đổi dữ liệu
tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh trong nước và quốc tế. Tính toàn vẹn dữ liệu và
tính an ninh là các vấn đề rất nóng gây bức xúc trong TMĐT.
Hiện nay có nhiều tranh cãi về các hình thức tham gia cũng như cách phân chia các hình thức
này trong TMĐT. Nếu phân chia theo đối tượng tham gia thì có 3 đối tượng chính bao gồm: Chính phủ
(G - Government), Doanh nghiệp (B - Business) và Khách hàng (C - Customer hay Consumer). Nếu
kết hợp đôi một 3 đối tượng này sẽ có 9 hình thức theo đối tượng tham gia. Trong đó, các dạng hình

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018
71
thức chính của thương mại điện tử bao gồm: Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B); Doanh nghiệp
với Khách hàng (B2C); Doanh nghiệp với Nhân viên (B2E); Doanh nghiệp với Chính phủ (B2G);
Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B); Chính phủ với Chính phủ (G2G); Chính phủ với Công dân
(G2C); Khách hàng với Khách hàng (C2C); Khách hàng với Doanh nghiệp (C2B).
Ngoài ra, thương mại điện tử còn được phân chia theo các hình thức: online-to-offline (O2O).
2.5. Vai trò của thương mại điện tử
Vai trò mà TMĐT có thể mang lại cho nền kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia nói chung và cho
từng cá nhân, từng DN nói riêng, đó là:
Đối với DN: TMĐT hiện nay hỗ trợ DN rất tốt trong việc marketing và tìm kiếm cơ hội kinh
doanh, nhất là trên thị trường quốc tế. TMĐT sẽ giúp DN tiết kiệm nhiều chi phí hoạt động vì đa số
các hoạt động kinh doanh đều được hệ thống công nghệ thông tin quản lý. Cụ thể:
+ Quảng bá thông tin và tiếp thị cho thị trường toàn cầu với chi phí thấp: với khả năng kết nối
internet hiện nay, DN có thể dễ dàng đưa thông tin quảng cáo đến hàng triệu người từ khắp mọi nơi
trên thế giới. Tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính chi trả cho việc quảng bá mà DN cần có kế
hoạch quảng cáo cho phù hợp.
+ Dịch vụ tốt hơn cho khách hàng: Với TMĐT, DN có thể cung cấp catalogue, thông tin, bảng
báo giá chi tiết cho khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện, và việc mua hàng trên mạng đã
trở nên dễ dàng phổ biến rất nhiều… Trong thời đại ngày nay, cuộc sống số hóa đã đẩy nhịp sống tăng
cao, khách hàng ngày càng đòi hỏi mọi thứ phải nhanh hơn từ thông tin sản phẩm, việc mua hàng,
thanh toán và các chính sách hậu bán hàng,...
+ Tăng doanh thu: Với TMĐT, đối tượng khách hàng của DN giờ đã không còn giới hạn về
khoảng cách địa lý hay thời gian làm việc. Do đó mỗi DN hoàn tiếp cận được số lượng khách hàng
lớn, đẩy cao doanh thu lợi nhuận của mình.
+ Giảm chi phí: Với TMĐT sẽ không tốn kém quá nhiều cho việc thuê cửa hàng, mặt bằng,
nhân viên phục vụ,…Đặc biệt với những DN xuất khẩu, các chi phí phát sinh do khoảng cách có thể
giảm thiểu đi đáng kể.
+ Lợi thế cạnh tranh: trong bối cảnh đa số mọi doanh nghiệp hiện nay đều tham gia TMĐT thì
DN nào có những ý tưởng sáng tạo, chiến lược tiếp thị tốt sẽ là lợi thế để cạnh tranh. Bởi TMĐT là
một sân chơi cho sự sáng tạo, sự đột phá cho tất cả mọi DN. Các DN nên suy nghĩ về việc áp dụng
TMĐT để làm tăng lợi thế cạnh tranh của mình, trước thềm những thay đổi to lớn về môi trường kinh
doanh như việc gia nhập AFTA. Nếu không thay đổi, không tiến bộ, có nghĩa là DN sẽ phải ra khỏi
cuộc chơi.
Đối với cá nhân hay cộng đồng: TMĐT mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân như:
+ Quyền chọn lựa dịch vụ, sản phẩm để có thể an tâm khi mua (vì TMĐT buộc các DN phải
cạnh tranh bằng chất lượng, giá cả, dịch vụ nên cuối cùng là người tiêu dùng có lợi)
+ Truy cập nguồn thông tin, kiến thức phong phú, bổ ích
+ Được hưởng lợi ích từ cộng đồng trực tuyến – như những người bạn “ảo” sẵn sàng giúp nhau
khi một ai đó có nhu cầu cần được hỗ trợ
Đối với quốc gia: TMĐT sẽ góp phần rất lớn vào việc phát triển nền kinh tế quốc gia, phục vụ
lợi ích cộng đồng (chủ yếu là thông tin, kiến thức, dịch vụ) để giúp quốc gia nâng cao dân trí, phát
triển kinh tế, sớm sánh vai cùng các nước trong khu vực.
3. Thực trạng hoạt động phát triển TMĐT tại tỉnh Bình Định
3.1. Những kết quả đạt được
Sự phát triển mạnh mẻ, nhanh chóng của công nghệ thông tin (CNTT) – viễn thông và xuất

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018
72
phát từ những tiện ích vượt trội đã khiến cho internet ngày càng trở thành người bạn thân thuộc cho
người tiêu dùng cũng như nhà kinh doanh khi thực hiện công việc tham khảo, tra cứu, tìm kiếm thông
tin trước khi ra quyết định (chẳng hạn quyết định chấp nhận đặt hàng, giao hàng, xác nhận tham gia
tour du lịch, đặt phòng khách sạn …). Nắm bắt xu thế này trong những năm qua, nhiều DN trong nước
kể cả DN Bình Định đã khai thác và đưa Internet vào trong các hoạt động tiếp thị, tìm kiếm đối tác,
quan hệ giao dịch thương mại thay cho các phương thức truyền thống.
Cách làm phổ biến hiện nay là DN tự thiết kế xây dựng hoặc thuê các đơn vị có chuyên môn
thiết kế xây dựng website để quảng bá hình ảnh, thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ của công ty, đơn vị
mình. Đây là việc làm đem lại lợi ích khá lớn với chi phí thấp, hơn nữa nó lại có sức lan tỏa vượt qua
biên giới của một nước. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng ứng dụng TMĐT ở Bình Định đã đáp ứng nhu cầu
cơ bản phục vụ khai thác các tiện ích của dịch vụ Internet như theo dõi tin tức, trao đổi qua thư điện tử,
giao dịch mua bán trực tuyến. Nhiều DN đã ứng dụng thành công tiếp tục đầu tư nâng cấp đáp ứng yêu
cầu phát triển, đem lại lợi nhuận về cho đơn vị mình… điển hình như: Chi nhánh Vietravel Quy Nhơn,
HTX Nông nghiệp Ngọc An, DNTN Gia Hân, DNTN Sơn Vũ, Công ty TNHH TM&DV Đá ốp lát
Bình Định, cơ sở Nguyễn Cảnh Duy, Công ty TNHH Ngọc Chung, Công ty Cổ phần Thủy sản Bình
Định, các cơ sở gỗ Mỹ Nghệ, Siêu thị Co.op mart, Khách sạn Hải Âu, Hoàng Yến, Công ty cổ phần
Dược - TTBYT Bình Định, HTX nông nghiệp Ngọc An,… Bên cạnh việc đăng tải những thông tin về
đơn vị mình, các DN cũng đã giới thiệu những hình ảnh quê hương đất nước, tiềm năng thế mạnh,
danh lam thắng cảnh quê hương… qua đó đã thu hút các nhà đầu tư quan tâm đến việc đầu tư thực
hiện các dự án sản xuất, kinh doanh tại Bình Định.
Để khuyến khích DN nhỏ và vừa, cơ sở làng nghề ứng dụng CNTT, sử dụng internet trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, hàng năm UBND tỉnh đã hỗ trợ kinh phí ban đầu cho các đối tượng nêu trên
xây dựng website riêng cung cấp thông tin cơ bản về quảng bá sản phẩm, dịch vụ hậu mãi, chăm sóc
khách hàng, email, số điện thoại, người liên hệ giao dịch… Ngoài ra, cũng đã tăng cường tổ chức các
lớp tập huấn TMĐT, kết nối với website do Bộ Công Thương xây dựng, cung cấp thông tin cho DN có
nhu cầu; liên kết website của DN mình với website TMĐT của Bộ Công Thương giới thiệu quảng bá
sản phẩm. Nhờ đó, hình ảnh thương hiệu của một số DN trên địa bàn Bình Định đã được khách hàng
trong và ngoài nước biết đến.
Bình Định là một trong những địa phương có nhiều nỗ lực trong phát triển TMĐT. Ngay từ
cuối tháng 3/2011, UBND tỉnh đã ban hành QĐ số 639/QĐ-CTUBND về việc triển khai kế hoạch phát
triển TMĐT giai đoạn 2011-2015. Thực hiện QĐ này, Sở Công Thương đã tổ chức hỗ trợ, tư vấn, đào
tạo nguồn nhân lực, ứng dụng TMĐT trong SXKD, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DN.
Kết quả, sau hơn 5 năm triển khai thực hiện kế hoạch TMĐT với tổng kinh phí Nhà nước hỗ trợ 1 tỉ
đồng (Trong giai đoạn 2011-2015, trên địa bàn tỉnh có 40 DN vừa và nhỏ, cơ sở, làng nghề được hỗ
trợ xây dựng 40 website TMĐT, với tổng kinh phí 200 triệu đồng. Riêng năm 2016, kinh phí mà tỉnh
Bình Định dành để thực hiện kế hoạch phát triển TMĐT là 238 triệu đồng), nhiều DN đã triển khai có
hiệu quả phát triển TMĐT, nhất là việc ứng dụng khai thác các tiện ích của dịch vụ Internet, tăng
cường quảng bá thương hiệu sản phẩm, giao dịch mua bán trực tuyến. Cụ thể: phổ biến tuyên truyền về
lợi ích của thương mại điện tử cho cán bộ quản lý nhà nước và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; ứng
dụng CNTT trong việc xây dựng các phần mềm dịch vụ công; hỗ trợ DN, cơ sở làng nghề xây dựng
website TMĐT, khai thác các tiện ích của dịch vụ Internet trong việc quảng bá thương hiệu sản
phẩm… Qua đó, nhận thức của DN về lợi ích của việc ứng dụng TMĐT vào hoạt động SXKD ngày
càng được nâng cao. Cụ thể, đến năm 2015 có 99% DN trên địa bàn tỉnh kết nối Internet và sử dụng
email thường xuyên; có 79% DN tham gia giao dịch TMĐT, khoảng 62% DN có website riêng và sử
dụng phần mềm tác nghiệp phục vụ hoạt động TMĐT. Số lượng DN đặt hàng và nhận đơn hàng trực
tuyến tăng lên hàng năm đạt từ 20% - 39% trong tổng đơn hàng giao dịch. Theo đánh giá của Cục
Thương mại điện tử & CNTT - Bộ Công Thương, giai đoạn 2011 – 2015 Bình Định đã tạo bước đột
phá trong việc hỗ trợ thúc đẩy DN trên địa bàn tỉnh khai thác tốt lợi thế TMĐT trong hoạt động
SXKD. Nhờ vậy, Theo Hiệp hội TMĐT Việt Nam, chỉ số TMĐT của Bình Định được xếp thứ hạng