BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ……………………

TIỂU LUẬN Giải quyết chế độ chính sách cho cán bộ cơ sở

Đặt vấn đề

1

Quản lý Nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính

quyền lực Nhà nước và sử dụng pháp luật Nhà nước để điều chỉnh hành vi

hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do các

cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu hợp pháp

của con người.

Quản lý Nhà nước thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó sự tác

động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật của Nhà nước đối với

quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, do các cơ quan trong hệ

thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở tiến hành, để thực hiện chức năng

nhiệm vụ của Nhà nước nhằm duy trì và phát triển mối quan hệ xã hội.

Chính vì hoạt động hành chính là hoạt động tổ chức và điều hành để

thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý xã hội. Do vậy nó là hoạt động

đa dạng, trung tâm và chủ yếu.

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân

do dân và vì dân. Do vậy Nhà nước ta quản lý và điều hành xã hội bằng hệ

thống pháp luật, để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện quyền

lực Nhà nước chuyên chính với mọi hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích hợp

pháp của Tổ quốc và của nhân dân.

Hoạt động quản lý Nhà nước diễn ra ở tất cả các lĩnh vực đời sống

chính trị kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh và quốc phòng. Nó được cụ thể hoá

thông qua mục tiêu nhiệm vụ, chức năng hoạt động cụ thể của từng cơ quan

hành chính Nhà nước, từng cấp, từng ngành. Cơ quan hành chính Nhà nước

với quyền hạn thẩm quyền xác được pháp luật quy định, với cơ cấu tổ chức và

đội ngũ cán bộ công chức tương ứng thực hiện chức năng hành pháp trong

hoạt động trên các lĩnh vực, các mặt công tác của mình.

Với nhận thức Chính quyền cơ sở là bộ phận nòng cốt của hệ thống

chính trị ở cơ sở, trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, giải quyết công việc cụ thể của nhân dân, gắn

2

bó mật thiết với đời sống nhân dân. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của chính quyền cơ sở tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ của

nhân dân, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Thực tiễn cho

thấy, ở đâu chính quyền cơ sở vững mạnh ở đó mọi chủ trương, chính sách,

đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh,

quyền làm chủ của nhân dân lao động được phát huy; ở đâu chính quyền cơ

sở yếu kém thì ở đó phong trào quần chúng kém phát triển; đời sống kinh tế,

văn hoá của nhân dân gặp nhiều khó khăn, trật tự, an ninh không ổn định. Bác

Hồ đã từng nói: “Nền tảng của mọi công tác là cấp xã và cấp xã là gần gũi

dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc

đều xong xuôi”.

Trong thời gian qua, được tiếp thu những kiến thức lý luận từ lớp Bồi

dưỡng về Quản lý Hành chính Nhà nước và dưới sự truyền đạt, hướng dẫn tận

tình chu đáo của các thầy cô giảng dạy ở trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh

cùng với sự bức xúc của một số cán bộ xã, tôi xin mạnh dạn sử dụng một tình

huống "Giải quyết chế độ chính sách cho cán bộ cơ sở" làm đề tài tiểu luận.

Mục đích của đề tài là từ việc phân tích một tình huống giải quyết chế độ,

chính sách cho cán bộ cụ thể để vẽ lên những bất hợp lý, đưa ra những kiến

nghị giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ cơ sở hoàn thiện hơn.

Là một cán bộ công tác tại Sở Tài chính Hà Tĩnh với kinh nghiệm công

tác chưa dày, trình độ còn hạn chế và trước một vấn đề tương đối nhạy cảm,

bài viết sẽ khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định, rất mong được sự

góp ý của thầy cô Trường Chính trị Trần Phú và các bạn đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

3

Phần i: tình huống xảy ra

Ngày 21/9/2005 Sở Tài chính nhận được đơn hỏi về chính sách chế độ

của ông Nguyễn Tiến X, sinh năm 1950, quê quán xã M. Huyện N, Tỉnh P trú

tại xã Y huyện H tỉnh HT - Ông X hiện là chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Y.

Đơn của ông trình bày một việc do Bảo hiểm Xã hội tỉnh Huyện H giải quyết

như sau:

Năm 1968 ông X vào bộ đội tham gia kháng chiến chống Mỹ, đến năm

1975 phục viên về địa phương, năm 1980 đi xây dựng kinh tế mới tại xã Y

huyện H tỉnh HT và được Đảng bộ phân công làm cán bộ xã Y với thời gian

công tác:

Từ tháng 01/1981 đến tháng 5/1984 làm xã đối phó

Từ tháng 06/1984 đến tháng 5/1986 là Bí thư đoàn xã

Từ tháng 04/1986 đến tháng 5/1987 là Thường trực Đảng uỷ xã

Từ tháng 6/1987 đến tháng 12/1989 là Uỷ viên thư ký UBND xã

Từ tháng 1/1990 đến tháng 12/1994 là Uỷ viên UBND xã

Từ tháng 1/1991 đến tháng 12/1998 là Cán bộ văn phòng UBND xã

Từ tháng 1/1999 đến tháng 11/1999 do có sự thay đổi về tuyển chọn 04

chức danh chuyên môn là văn phòng, địa chính, tài chính và tư pháp. Bản

thân ông X lúc đó hiện là cán bộ chuyên môn văn phòng, do quá tuổi quy

định, xã Y đã cho ông X tạm nghỉ công tác và ông được bầu làm Bí thư chi bộ

thôn.

Tháng 12/1999 đến nay ông X được bầu làm Chủ tịch HĐND xã Y,

khi làm sổ bảo hiểm xã hội cho ông X, cơ quan bảo hiểm xã hội huyện H

không tính thời gian liên tục từ năm 1999 trở về trước cho ông. Ông X cho

rằng Bảo hiểm xã hội BHXH huyện H quyết định như vậy là không đúng và

4

đề nghị Bảo hiểm tính thời gian liên tục đóng bảo hiểm xã hội cho ông để bản

thân ông không bị thiệt thòi.

5

Phần II: Cơ sở lý luận

Ngay từ khi giành được độc lập, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà

nước ta đã quan tâm đến chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở để tạo một

môi trường thuận lợi cho cán bộ cơ sở yên tâm công tác. Những chính sách

quan trọng đã được ban hành trong thời gian này có thể kể đến như:

- Quyết định só 130- CP ngày 20/6/1975 về bổ sung chính sách, chế độ

đãi ngộ đối với cán bộ xã.

- Nghị định số 46- CP ngày 23/6/1993 về chế độ sinh hoạt phí đối với

cán bộ Đảng, chính quyền và kinh phí hoạt động của nước đoàn thể nhân dân

ở xã, phường, thị trấn.

- Nghị định 50- CP ngày 26/7/1995 về chế độ sinh hoạt phí đối với cán

bộ xã, phường, thị trấn.

- Nghị định số 09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998 về sửa đổi, bổ sung

Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối

với cán bộ xã, phường, thị trấn.

- Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy

định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.

Năm văn bản trên là hệ thống văn bản xương sống quy định chế độ,

chính sách đối với cán bộ cơ sở từ năm 1975 đến nay. Những văn bản này

phần nào thể hiện những cố gắng, nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta để cải

thiện chính sách cho cán bộ chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, do điều kiện lịch

sử, kinh tế, xã hội mà những chính sách này ra đời thiếu đồng bộ và tồn tại

những bất cập, không khuyến khích cán bộ cơ sở yên tâm công tác .

Chính sách cho cán bộ nói chung và chính sách cho cán bộ xã nói riêng

là những quy định của Nhà nước nhằm khuyến khích, tạo động lực và môi

trường cho cán bộ yên tâm công tác.

6

Tuy nhiên, mỗi thời kỳ khác nhau chính sách phụ thuộc vào điều kiện

hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định. Khi một chính sách mới ra đời lại có

những quy định phủ nhận, thay đổi những quy định ở chính sách trước. Đòi

hỏi khi thực hiện giải quyết chúng phải giải quyết dứt điểm kịp thời, tránh dây

dưa rất khó giải quyết về sau nhất là khi nó dẫn đến việc thực hiện một chính

sách mới thay thế.

Phần III: Phân tích xử lý tình huống

Sở Tài chính căn cứ đơn của ông X, đã nghiên cứu và tổ chức phối hợp

với Phòng tổ chức – lao động huyện H để tìm hiểu nội dung ông X nêu trong

đơn, sự việc được xác minh và làm rõ như sau:

Ông Nguyễn Tiến X, hiện là chủ tịch HĐND xã Y huyện H, có thời

gian công tác làm cán bộ xã Y từ tháng 01/1982 liên tục cho đến tháng

12/1998. Thời gian gián đoạn là từ tháng 01/1999 đến tháng 11/1999 và đến

nay giữ chức danh cán bộ chuyên chủ tịch HĐND xã (đây là chức danh được

đóng bảo hiểm xã hội) Ông Nguyễn Tiến X được đóng bảo hiểm xã hội

nhưng Bảo hiểm xã hội huyện H đã không tính liên tục cho ông thời gian

công tác trước đó.

Như vậy đòi hỏi trong đơn của ông X là hoàn toàn có cơ sở.

*Xác định tình huống:

1- Việc xã Y huyện H đã làm đúng trách nhiệm của bên sử dụng lao

động hay chưa?

2- Cơ quan BHXH huyện H không tính thời gian công tác liên tục cho

ông X là đúng hay sai?

3- Quyền và lợi ích hợp pháp của ông X có bị xâm phạm hay không?

*Phân tích tình huống:

* Thời điểm tháng 12/1998

7

Thời điểm này Tỉnh đã tiến hành thực hiện việc bố trí, sắp xếp lại đội

ngũ cán bộ theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998

về sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế

độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và thông tư liên tịch số

99/TTLT -TCCP- BTC- BLĐTB & XH ngày 19/5/1998 hướng dẫn thi hành

Nghị định 09/1998/NĐ- CP.

Ngoài tiêu chuẩn về lý lịch, đạo đức và trình độ chuyên môn người

được tuyển chọn phải có “đủ sức khoẻ và tuổi đời không quá 35 đối với nữ và

không quá 40 đối với nam” theo quy định của thông tư 99 về tiêu chuẩn tuyển

chọn và quản lý 4 chức danh chuyên môn.

Như vậy lúc này ông X đã 49 tuổi vượt quá độ tuổi so với quy định.

Nên xã Y không tiếp tục bố trí ông X làm cán bộ văn phòng nữa là đúng quy

định pháp luật.

Bên cạnh đó khi không sử dụng ông X nữa thì xã Y phải giải quyết chế

độ nghị việc cho ông X theo quy định, trong khi đó thì ông X đã có thời gian

công tác liên tục là 17 năm (1/1981 đến 12/1998) tuy nhiên tại sao xã Y

không làm thủ tục giải quyết cho ông X chế độ nghỉ việc hưởng trợ cấp hàng

tháng, theo quy định tại Thông tư 99 thì điều kiện được hưởng trợ cấp hàng

tháng đối với cán bộ xã khi nghỉ việc là:

- Thời gian công tác và đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên

- Khi nghỉ việc nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi.

Như vậy, ông X đã thừa số năm công tác nhưng lại thiếu tuổi theo quy

định trên, do đó xã Y cũng không giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng cho

ông X là không sai, theo Thông tư còn quy định “Cán bộ xã không đủ điều

kiện hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định tại khoản 2 phần III của thông

tư này thì được hưởng trợ cấp một lần”

8

Cứ mỗi năm đóng BHXH được hưởng một tháng sinh hoạt phí tính

theo mức bình quân 5 năm cuối trước khi nghỉ việc kể cả phụ cấp tái cử 5%

(nếu có). Cán bộ xã đang công tác nhưng trước ngày 01/01/1998 chưa quy

định đóng bảo hiểm xã hội khi nghỉ cũng được cộng số năm công tác để

hưởng trợ cấp một lần.

Ngoài ra Thông tư còn quy định về chế độ chờ đủ tuổi để hưởng trợ cấp

hàng tháng đối với người có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên.

“Trường hợp cán bộ xã khi nghỉ việc, đã có 15 năm đóng BHXH liên

tục trở lên nhưng chưa đủ tuổi đời để hưởng trợ cấp hàng tháng, có xác nhận

của chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn sau đó UBND xã, phường, thị trấn

lập đủ hồ sơ của cán bộ xin chờ gửi cơ quan Bảo hiểm xã hội địa phương

quản lý, theo dõi giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng khi đủ điều kiện về tuổi

đời”. Trong thời gian chờ để được giải quyết chế độ, nếu được làm việc tiếp

thì thời gian cán bộ xã đã làm việc trước đó cộng với thời gian làm việc sau

đó để tính hưởng BHXH.

Như vậy theo quy định của Thông tư thì khi giải quyết chế độ nghỉ việc

cho ông X xã Y phải làm một trong hai cách sau:

- Cách 1: Giải quyết cho ông X chế độ nghỉ việc một lần, ông X được

hưởng một khoảng tiền bằng 17 năm nhân với mức lương bình quân 5 năm

cuối.

- Cách 2: Lập đủ hồ sơ của cán bộ xin chờ đủ tuổi để hưởng trợ cấp

một lần gửi cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện H với điều kiện ông X phải làm

đơn xin tự nguyện chờ giải quyết chế độ phụ cấp hàng tháng có xác nhận của

Chủ tịch UBND xã Y.

Nhưng trên thực tế thì bản thân ông X đã không làm đơn tự nguyện chờ

giải quyết chế độ phụ cấp hàng tháng, nên xã Y không lập hồ sơ đồng thời xã

Y cũng không giải quyết cho ông X theo cách 1 (hưởng trợ cấp 1 lần). Do vậy

9

trong danh sách cán bộ xã Y được đóng bảo hiểm xã hội và chờ hưởng chế độ

phụ cấp hàng tháng của huyện H đều không có tên ông X.

* Thời điểm tháng 12/1999

Tính đến thời điểm này thì ông X đã qua thời gian giai đoạn đóng bảo

hiểm xã hội là 11 tháng vì chức danh Bí thư chi bộ thôn không được đóng

BHXH. Nhưng đồng thời ông X lại được bầu làm Chủ tịch HĐND xã Y theo

quy định tại Nghị định 09 thì đây là chức danh được hưởng sinh hoạt phí hàng

tháng và có đóng BHXH.

Do vậy BHXH huyện H lập sổ mới vì trong danh sách đóng BHXH

không có tên ông X và không tính thời gian công tác liên tục của ông X từ

tháng 12/1998 trở về trước.

*Phân tích nguyên nhân:

Thứ nhất: Phải nói đến bản thân ông X, vào thời điểm trước khi Tỉnh

thực hiện sắp xếp lại cán bộ xã trong phạm vi toàn Tỉnh theo Nghị định 09 và

Thông tư hướng dẫn 99 lúc này ông đang là cán bộ văn phòng, đúng ra ông

phải hiểu được việc thực hiện chính sách này, thủ tục cần thiết và các quy

định cụ thể để ông còn giải thích cho người liên quan nếu có yêu cầu.

Thứ hai: Thuộc về trách nhiệm của xã Y. Nếu xã Y thôi không bố trí

ông X làm cán bộ xã nữa mà không nhận được đơn xin chờ giải quyết chế độ

trợ cấp hàng tháng của ông X, thì phải có trách nhiệm thực hiện giải quyết

chế độ trợ cấp một lần cho ông X ngay, tránh việc để tồn đọng, dây dưa kéo

dài phức tạp về sau. Mặt khác khi xét thấy ông X đã có thời gian đóng BHXH

là 17 năm và ông X cũng đã gần đến tuổi về hưu hoặc có khả năng sẽ bố trí

ông làm cán bộ xã trong thời gian tới thì xã Y phải hướng dẫn để ông X làm

đơn xin chờ giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng và hoàn thiện mọi thủ tục

trong hồ sơ gửi cơ quan BHXH huyện.

10

Thứ 3: Hệ thống các văn bản pháp luật quy định chế độ chính sách đối

với cán bộ xã. Do tình hình kinh tế xã hội của đất nước nên trong thời gian

ngắn khoảng 10 năm mà có đến 4 Nghị định quy định về chế độ chính sách

cho cán bộ xã ra đời, do vậy việc thực hiện công tác tổ chức Nhà nước, cơ

quan BHXH và trực tiếp cán bộ giải quyết, thực hiện gặp nhiều lúng túng khi

thực hiện các Nghị định này vì nó thiếu tính thống nhất và có những thay đổi

căn bản.

Tại quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 có quy định về mức phụ cấp

hàng tháng đối với cán bộ xã nam đủ 55 tuổi, nữ 50 tuổi và có thời gian công

tác từ 15 trở lên thì đến Nghị định 46/CP ngày 23/6/1993 về chế độ sinh hoạt

phí đối với cán bộ Đảng, chính quyền và kinh phí hoạt động của các đoàn thẻ

nhân dân ở xã, phường, thị trấn thì cán bộ xã phải có thời gian công tác từ 10

năm trở nên mới được hưởng chế độ trợ cấp một lần khi nghỉ việc.

Nghị định 46 được thực hiện sau 2 năm thì Nghị định 50/CP ngày

26/7/1995 về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã phường, thị trấn thay thế

Nghị định 46.

Nghị định 50 quy định “Kể từ ngày ban hành Nghị định này những cán

bộ công tác tại xã từ 5 năm trở lên không bi phạm kỷ luật từ mức cảnh cáo

trở lên, khi nghỉ việc được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp này tính theo

số năm công tác tại xã, mỗi năm công tác được trợ cấp một tháng, lấy theo

mức sinh hoạt phí để hưởng…..” Như vậy Nghị định 50 đã rút xuống thời

gian công tác liên tục là 5 năm thì được hưởng trợ cấp một lần thay vì 10 năm

như quy định tại nghị định 46.

Tuy nhiên vẫn chưa có quy định về chế trợ cấp hàng tháng khi nghỉ

việc cho cán bộ xã.

Ngày 23/1/1998 Nghị định 09/1998/NĐ- CP ra đời sử đổi bổ sung Nghị

định 50/CP về chế độ sinh hoạt phí đối cán bộ xã, phường, thị trấn.

11

Theo Nghị định ngoài việc quy định nâng mức lương sinh hoạt phí

hàng tháng đối với cán bộ xã lên 1 bậc, còn quy định về chế độ hưởng trợ cấp

hàng tháng đối với nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi có thời gian công tác 15

năm trở lên, nếu không đủ 15 năm công tác thì được hưởng trợ cấp một lần.

Nếu đã đủ thời gian công tác mà thiếu tuổi thì có thể làm đơn xin chờ đủ tuổi

để hưởng trợ cấp hàng tháng.

Sự ra đời của Nghị định 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 của Chính

phủ quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ công chức ở xã, phường, thị

trấn. Trong Nghị định đã quy định khái niệm về cán bộ công chức xã và các

đối tượng này được hưởng các chế độ như một công chức (được áp dụng hệ

thống thang bảng lương, nâng ngạch, nâng bậc khi đủ điều kiện như quy định

đối với công chức Nhà nước khác)

Như vậy tại Nghị định 121 không còn sử dụng khái niệm sinh hoạt phí

hàng tháng nữa mà chuyển sang khái niệm “tiền lương” cũng như khái niệm

“về hưu” và được hưởng lương hưu hàng tháng, hơn nữa lần đầu tiên Nghị

định đề cập đến chế độ bảo hiểm y tế cho cán bộ xã nó được áp dụng như đối

với công chức ở cấp huyện trở lên.

Như vậy qua phân tích ở trên ta thấy mỗi thời điểm nghỉ việc khác nhau

thì cán bộ xã hưởng những chính sách chế độ khi nghỉ việc rất khác nhau mặc

dù thời gian nghỉ không cách xa bao nhiêu. Việc thay đổi nhiều lần và không

đồng bộ này dẫn đến quyền lợi của cán bộ xã không được đảm bảo và đồng

nhất. Đồng thời gây khó khăn, lúng túng cho cán bộ khi giải quyết chính sách.

*Kết luận vấn đề đặt ra:

- Thứ nhất: Xã Y đã chưa làm tròn trách nhiệm không giải quyết dứt

điểm chế độ chính sách cho người lao động khi nghỉ việc (trách nhiệm của

chủ thể sử dụng lao động )

12

- Thứ hai: BHXH huyện H khi tính thời gian đóng BHXH đã không

tính đến thời gian công tác liên tục của ông X thừ tháng 12/1998 trở về trước

là đúng với quy định hiện hành.

- Thứ ba: Bản thân ông X về mặt quyền lợi là có thiệt thòi nếu BHXH

không tính thời gian liên tục cho ông, nhưng ông cũng có phần trách nhiệm là

đã không hoàn tất những hồ sơ cần thiết đối với cơ quan chức năng.

13

Phần IV: Xác định và lựa chọn phương án

Như vậy trong việc sự việc nêu trên, trên để giải quyết thấu tình đạt lý

đúng pháp luật đảm bảo quyền lợi cho ông X có các phương án sau:

Phương án 1: Giải quyết chế độ trợ cấp 1 lần cho ông X

Phương án 2: Cho ông X được tính thời gian liên tục đóng bảo hiểm xã

hội.

Theo chúng tôi đề xuất giải quyết quyền lợi cho ông X theo phương án

2. Đây là phương án phù hợp với nguyện vong của Ông X, hơn nửa tạo điều

kiện để Ông X yên tâm công tác và cống hiến theo sự tín nhiệm của nhân dân,

trong bối cảnh cán bộ cơ sở còn yếu về lập trường chính trị, đạo đức cách

mạng như hiện nay.

Để thực hiện được phương án 2 cần tiến hành các thủ tục sau:

- Ông X phải làm đơn khiếu nại gửi UBND huyện H và xã Y, giải trình

lại sự việc và trình bày rõ quá trình công tác tại xã Y.

- Xã Y xác nhận vào đơn của ông X và khẳng định tính xác thực của sự

việc trong quá trình công tác của ông X tại xã Y.

- Xã Y gửi đơn của ông X và hồ sơ lưu tại xã kèm theo công văn đề

nghị UBND huyện H xem xét giải quyết.

- UBND huyện H làm việc với BHXH huyện H để vận dụng giải quyết

cho ông X được tính thời gian liên tục đóng bảo hiểm xã hội.

- BHXH tính toán số tiền BHXH Ông X còn phải đóng trong thời gian

từ tháng 1/1999 đến tháng 11/1999, gửi thông báo cho ông X sau khi ông X

hoàn thành nghĩa vụ đối với BHXH, BHXH làm các thủ tục chứng nhận thời

gian đóng BHXH liên tục cho ông X.

14

phần V: một số kiến nghị

Các cấp, các ngành phải quan tâm đến việc giáo dục tuyên truyền phổ

biến những chính sách mới để mọi người rõ và thực hiện đúng, đủ. Cần kịp

thời triển khai đến cấp cơ sở mà hình thức phổ biến và hiệu quả là tổ chức hội

nghị hoặc các văn bản hướng dẫn chi tiết ở cơ sở để dễ dàng thực hiện.

Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra kịp thời phát hiện ngay những

sai sót để có hướng điều chỉnh kịp thời, đồng thời động viên khích lệ, khen

thưởng cán bộ, đơn vị thực hiện tốt.

Nhà nước cần tiếp tục ban hành sớm và đồng bộ một số văn bản để

khắc phục những bất cập của những văn bản trước đây về chính sách cán bộ

ở cơ sở. Vì nhân tố con người có ý nghĩa quan trọng quyết định mọi quá trình

kinh tế xã hội.

Mỗi tỉnh cần có nghiên cứu xây dựng những chế độ chính sách riêng

phù hợp với tình hình ở địa phương tập trung:

+ Chế độ cán bộ được điều động về cơ sở công tác.

+ Chế độ phụ cấp chuyên trách cấp xã: Lao động thương binh xã hội,

giao thông… và cán bộ là bí thư chi bộ, trưởng thôn, tổ trưởng, khu trưởng,

công an viên, cán bộ y tế thôn, bản, phụ cấp cho các phân chia hội trưởng.

+ Chế độ lương đối với cán bộ chủ chốt cơ sở so với trưởng phó phòng

ban chuyên môn ở huyện, chế độ phụ cấp tái cử, phụ cấp kiêm nghiệm nhiều

chức danh.

+ Chế độ dành cho cán bộ, công chức xã phường được cử đi học trong

và ngoài tỉnh, ngắn và dài hạn, đối với cán bộ là nữ, cán bộ là người dân tộc

thiểu số, vùng núi hải đảo.

Chính sách cho cán bộ không ngừng được thay đổi và ban hành mới,

cần tiếp tục và thường xuyên, định kỳ bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở để cập nhật

15

những chính sách, kiến thức kinh nghiệm công tác mới để làm tốt hơn công

việc được giao.

Tăng cường sự thông tin giải quyết chế độ liên quan đến người lao

động giữa người sử dụng lao động và Bảo hiểm Xã hội, giảm thiểu các sai sót

có thể xảy ra đảm bảo quyền lợi lợi ích hợp pháp của người tham gia BHXH.

16

phần VI : kết luận

Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, vấn đề

xây dựng Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do

dân, vì dân là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra. Việc thực hiện thắng lợi các

mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi rất lớn

việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở ngang tầm với yêu

cầu của thời đại, đòi hỏi này có phần đóng góp rất lớn của các chính sách, chế

độ đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ xã.

HT, là tỉnh có vị trí chiến lược trong khu vực phát triển kinh tế trọng

điểm Bắc trung bộ và vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. Trong 19 năm

đổi mới, chính quyền xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã tích cực phấn đấu và

dành được những kết quả đáng khích lệ trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính trị,

xã hội, an ninh… từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân

dân các dân tộc trong tỉnh. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở còn bộc lộ nhiều

yếu kém, khuyết điểm chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ

mới.

Thời gian qua, Đảng bộ chính quyền các cấp trong tỉnh đã thường

xuyên quan tâm vấn đề này bằng những định hướng và giải pháp cụ thể đặc

biệt đã ban hành các chính sách đi hàng đầu trong cả nước đối với cán bộ cơ

sở. Qua phân tích một tình huống giải quyết kiến nghị về chế độ, chính sách

cho 1 cán bộ xã cụ thể, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm xây

dựng chính quyền cơ sở trong sạch vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp công

nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước và địa phương.

17

tài liệu tham khảo

1. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005.

2. Tài liệu quy chế thực hiện dân chủ ở xã và các văn bản hướng dẫn

thực hiện.

3. Hướng dẫn triển khai quy chế dân chủ cơ sở – năm 2001.

4. Quyết định 130 – CP ngày20/6/1975 về bổ sung chính sách chế độ

đãi ngộ đối với cán bộ xã.

5. Nghị định số 46 – CP ngày 23/6/1993 về chế độ sinh hoạt phí đối với

cán bộ Đảng, chính quyền và kinh phí hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở

xã, phường, thị trấn.

6. Nghị định số 50 – CP ngày26/7/1995 về chế độ sinh hoạt phí đối với

cán bộ xã, phường, thị trấn.

7. Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998.

8. Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy

định về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.

18

mục lục

Đặt vấn đề

Trang 1

Tình huống xảy ra

Trang 3 Phần I

Cơ sở lý luận

Trang 4 Phần II

Phân tích xử lý tình huống

Trang 5 Phần III

Xác định và lựa chọn phương án

Trang 11 Phần IV

Một số kiến nghị

Trang 12 Phần V

kết lụân

Trang 14 Phần VI

Tài liệu tham khảo

Trang 15

19