
355
HÀNH VI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ
- ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Phạm Văn Tuấn
TS. Nguyễn Thị Ph ng Linh
NCS. Nguyễn Thị Mai
SV. Nguyễn Nhật Huy
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, sức khỏe, biến đổi môi trường và khí hậu đối với sản xuất nông
nghiệp hữu cơ đang trở thành chủ đề được xã hội quan tâm. Người tiêu dùng chuyển dần sang sử
dụng thực phẩm an toàn đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm thực phẩm hữu cơ
(Murphy, 2006; Schifferstein và Oude Ophuis, 1998). Sản xuất thực phẩm hữu cơ toàn cầu cũng
cho thấy sự tăng trưởng đáng kể, do đó, thị trường toàn cầu cho các sản phẩm hữu cơ đã tăng
trưởng đều đặn không chỉ ở châu Âu và Bắc Mỹ mà ở các nước châu Á cũng vậy (Baker, 2004;
Gifford và Bernard, 2005; Setboonsarng và cộng sự, 2006). Vì vậy, sản xuất nông nghiệp hữu cơ
ngày càng phát triển là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội loài
người, đây được coi là định hướng phát triển bền vững của mỗi vùng, địa phương và quốc gia.
Với cách tiếp cận như vậy, nội dung nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và cơ sở
khoa học để sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ được làm rõ trong bài viết của nhóm tác giả. Đồng
thời, bài viết tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi và thực trạng sản xuất nông
nghiệp hữu cơ trên địa bàn TP. Hà Nội. Các nhóm giải pháp về: (i) thay đổi nhận thức của người
sản xuất nông nghiệp hữu cơ; (ii) khuyến khích sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở đảm bảo ưu
tiên so với sản xuất nông nghiệp thông thường; (iii) quy hoạch vùng, chính sách quản lý đất đai, hệ
thống tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất nông nghiệp hữu cơ; (iv) nghiên cứu và đào tạo về sản xuất
nông nghiệp hữu cơ. Đặc biệt bài viết cũng khuyến nghị theo hướng đề án khi tổ chức thực hiện cho
các Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công Thương cũng như Hội Nông dân nhằm thúc đẩy hoạt
động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Từ khóa: hành vi, nông nghiệp hữu cơ, phát triển bền vững
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất nông nghiệp thâm canh đã tạo ra một khối
lượng lương thực thực phẩm rất lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của hơn 7,5 tỷ người trên
hành tinh này. Lợi thế năng suất cao của nông nghiệp thâm canh đã và đang đưa phương thức này
phát triển lên đến đỉnh cao của nó. Trong đó, sự đóng góp của khoa học công nghệ được ghi nhận
như là yếu tố quyết định cho nông nghiệp thâm canh tồn tại và phát triển. Thế nhưng, việc sử dụng
nhiều loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp thâm canh (Pimentel và
cộng sự, 2005; Carvalho, 2006), dẫn đến vô số thách thức như suy giảm sức khỏe con người, đặc
biệt là sinh sản và hệ thống thần kinh trung ương (Von Duszeln, 1991; Singh, 2000; Bretveld và
cộng sự, 2006). Sự phụ thuộc của nông nghiệp thâm canh về phân bón hóa học tổng hợp và thuốc

356
trừ sâu đã nổi lên như một yếu tố chính, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và môi trường
(Pimentel và cộng sự, 2005). Hơn nữa, trước đây, các nghiên cứu đã tiết lộ rằng việc sử dụng quá
mức các hóa chất đã làm suy giảm sức khỏe của đất và xấu đi điều kiện môi trường (Taylor và cộng
sự, 2003; Arias-Estévez và cộng sự, 2008; Fenner và cộng sự, 2013).
Chính vì vậy, canh tác hữu cơ đã xuất hiện và được coi là hệ thống nông nghiệp thân thiện với
môi trường khi tránh sử dụng hóa chất tổng hợp và phân bón (Venkataraman và
Shanmugasundaram, 1992; Roitner Schobesberger và cộng sự, 2008; Mahdi và cộng sự, 2010;
Suthar, 2010). Canh tác hữu cơ gắn chặt với hệ thống sản xuất nông nghiệp bền vững về môi
trường, kinh tế và xã hội (Padel, 2001). Canh tác hữu cơ còn giúp giảm thiệt hại chung cho môi
trường (Pimentel và cộng sự, 2005; Carvalho, 2006) và cải thiện sức khỏe cộng đồng.
Nông nghiệp hữu cơ ra đời và càng ngày càng phát triển vì: thứ nhất, giải quyết được mâu
thuẫn giữa sản xuất nông nghiệp thâm canh và vấn đề môi trường, vì nông nghiệp hữu cơ đã làm
tăng việc sử dụng nguồn giống cây con tự nhiên, làm tăng tính đa dạng của xuất nông nghiệp, làm
giảm ô nhiễm đất, nước và sản phẩm nông nghiệp do không sử dụng phân vô cơ dễ tan, thuốc bảo
vệ thực vật cho cây trồng, thức ăn chứa nhiều chất kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi...; thứ hai,
nông nghiệp hữu cơ đảm bảo, duy trì và gia tăng độ màu mỡ lâu dài cho đất, củng cố các chu kỳ
sinh học trong nông trại, đặc biệt là các chu trình dinh dưỡng, bảo vệ cây trồng dựa trên việc phòng
ngừa thay cho cứu chữa, đa dạng các vụ mùa và các loại vật nuôi, phù hợp với điều kiện địa
phương; thứ ba, giải quyết được nhu cầu của con người, đó là nhu cầu ăn sạch, ở sạch và môi
trường sạch và đẹp, lương thực thực phẩm sạch là những sản phẩm đó chứa các chất dinh dưỡng với
hàm lượng như trong tự nhiên vốn có của nó.
Việt Nam có lịch sử sản xuất nông nghiệp và phương thức canh tác hữu cơ từ lâu đời. Trước
năm 1980, nông dân chủ yếu sử dụng các giống cây trồng bản địa, giống cổ truyền với năng suất và
nhu cầu sử dụng phân bón thấp, chủ yếu hấp thu từ phân bón hữu cơ, khả năng chống chịu sâu bệnh
tốt nên rất ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đặc biệt là thuốc hóa học. Sản xuất nông nghiệp
hữu cơ Việt Nam đang từng bước phát triển, diện tích sản xuất hữu cơ tăng nhanh qua các năm,
năm 2015 đạt hơn 76 nghìn ha, tăng trên 3,6 lần so với năm 2010; năm 2018 diện tích gieo trồng
hữu cơ đã đạt 3,2 ngàn ha lúa, 2 ngàn ha rau, 2,8 ngàn ha chè, 4,7 ngàn ha cây ăn quả, 2,1 ngàn ha
điều, 135 ngàn ha nuôi trồng thủy sản… tập trung tại 40 tỉnh, thành phố trên cả nước, sản phẩm hữu
cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến các thị trường Nhật, Đức, Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Nga,
Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia...
Trước nhu cầu sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ngày càng tăng, Đảng và
nhà nước, Chính phủ đều có chủ trương về phát triển nông nghiệp hữu cơ và xác định nông nghiệp
hữu cơ đang là xu thế phát triển, sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới do đảm bảo cung cấp được
các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và cho xã hội. Hệ thống canh tác nông nghiệp hữu cơ
đã và đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới khi áp lực về lương thực giảm đi,
trong khi yêu cầu về an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và đặc biệt bảo vệ môi trường, đa
dạng sinh học ngày càng tăng lên. Nhiều chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ ra đời nhằm thúc
đẩy người nông dân sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Với vị thế thủ đô, là thành phố lớn đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ với hơn 4 triệu
dân sống trong nội thành trong đó có tới hơn 30% là thành phần trung lưu, hàng trăm nghìn người
nước ngoài đang sinh sống và làm việc cùng hàng triệu khách du lịch nước ngoài, Hà Nội là thị

357
trường lớn cho các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp
hữu cơ.
Tuy nhiên, cho đến nay, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Hà Nội còn hết sức nhỏ bé và có sự
tăng trưởng không đáng kể. Quy mô sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới chỉ ở dạng mô hình nhỏ lẻ,
quy mô nhỏ, chưa có vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, sản phẩm ở dạng đơn lẻ… Chính vì vậy,
nội dung bài viết tập trung làm rõ hành vi sản xuất nông nghiệp hữu cơ, từ đó đưa ra các giải pháp
thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Nông nghiệp hữu c và c sở khoa học của sản xuất nông nghiệp hữu c
Nguyễn Thế Đặng và cộng sự (2012) đưa ra định nghĩa: “Nông nghiệp hữu cơ là một phương
thức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở sử dụng các chu trình sinh học có trong tự nhiên. Nói một
cách khác, phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phương thức sản xuất mà trong đó các
quá trình sản xuất đều theo quy luật sinh học tự nhiên vốn có.”
Lampkin (1994) định nghĩa nông nghiệp hữu cơ là nông nghiệp mà tạo ra các hệ thống sản xuất
tích hợp, nhân văn, bền vững về môi trường và kinh tế. Liên đoàn Nông nghiệp hữu cơ quốc tế
(IFO M) đã trình bày định nghĩa sau: Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất duy trì sức khỏe
của đất, hệ sinh thái và con người. Nó phụ thuộc vào các quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và các
chu kỳ thích nghi với điều kiện địa phương, thay vì sử dụng các yếu tố đầu vào có tác dụng phụ.
Theo Kilcher (2006) và Henning và cộng sự (1991), nông nghiệp hữu cơ là nền nông nghiệp
sử dụng các yếu tố đầu vào hoàn toàn là hữu cơ, cũng đồng nghĩa với nông nghiệp bền vững. Theo
truyền thống, nông dân canh tác ở những khu vực nhiệt đới ẩm ướt sử dụng phân bón hữu cơ
thường dung đất màu trong nông nghiệp. Điều này tạo ra một nền nông nghiệp bền vững cả về khía
cạnh môi trường và kinh tế.
Katic và cộng sự (2010) nói rằng nông nghiệp hữu cơ như một hình thức sản xuất nông
nghiệp đặc biệt, là nền tảng cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Đó là một hình thức sản xuất đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu của nguyên tắc bảo vệ và bền vững môi trường.
Tại Liên đoàn phong trào Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic
Agriculture Movement - IFOAM), nông nghiệp hữu cơ bao gồm tiêu chuẩn sản xuất và xử lý cơ
bản, đã được phân tích chi tiết (Anonymous, 2002). Theo IFOAM, nông nghiệp hữu cơ là hình thức
nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón hóa học tổng hợp, thuốc trừ sâu,
các chất điều tiết tăng trưởng cây trồng và các chất phụ gia trong thức ăn gia súc nhằm giảm thiểu ô
nhiễm, đảm bảo sức khỏe con người và tạo ra nông sản sạch. Khái niệm này bao hàm tầm nhìn rõ
ràng về xu hướng thay đổi chủ yếu trong xã hội để giúp nông nghiệp hữu cơ trở nên khả thi.
Mặc dù các định nghĩa này khác nhau, nhưng người ta thường đồng ý rằng canh tác hữu cơ là
một hệ thống sản xuất thân thiện với môi trường và một phương pháp nông nghiệp bền vững
(Scofield 1986; Bowler 1992). Bên cạnh tác động tích cực đến môi trường, canh tác hữu cơ còn có
các chức năng như tạo việc làm, tạo thu nhập, phát triển công nghệ mới pha trộn với kiến thức bản
địa (Scialabba, 2000) và xây dựng mạng lưới (Hamilton và Fischer 2003; Wu và Pretty, 2004).
Parrott và cộng sự (2006) đã xác định hai loại hình canh tác hữu cơ ở các quốc gia đang phát
triển: canh tác hữu cơ được chứng nhận chính thức và canh tác hữu cơ không chính thức. Loại đầu
tiên có xu hướng tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm hữu cơ, trong khi loại thứ hai liên quan đến

358
các hoạt động quy mô nhỏ để cải thiện sinh kế của từng nông dân (Goldberger, 2008). Bởi vì hệ
thống chứng nhận là cần thiết để tiếp cận thị trường quốc tế nhưng điều quan trọng là phát triển thị
trường nội địa cho cây trồng được sản xuất thông qua canh tác hữu cơ không chính thức (Parrott và
cộng sự, 2006).
Cơ sở khoa học của sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Cơ sở khoa học của phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ là đưa quá trình sản xuất theo
chu trình sinh học tự nhiên, trong đó các yếu tố tự nhiên sẵn có được sử dụng tối đa, các yếu tố nhân
tạo (phân bón vô cơ dễ tan, thuốc hóa học bảo vệ thực vật, chất kích thích sinh trưởng có nguồn gốc
vô cơ, thức ăn chăn nuôi giàu chất kích thích...) được hạn chế tối đa hoặc loại bỏ hẳn.
Như ta đã biết, đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cơ thể sinh vật sống trong tự nhiên.
Các cơ thể sống ấy có quan hệ với nhau trong một không gian nhất định để tạo ra một quần thể. Vì
vậy, nông nghiệp hữu cơ là đưa quá trình sản xuất đi theo hướng phát triển các mối quan hệ tương
tác ấy.
Trong nông nghiệp hữu cơ, mối quan hệ giữa con người, đất đai, cây trồng và vật nuôi được
khai thác tối đa. Đây là mối quan hệ hữu cơ và nhân quả, vì vậy mỗi một đối tượng đều được tôn
trọng và phát huy hết tiềm năng tự nhiên sẵn có của mình.
Hình 1. Chu tr nh khép kín của nông hộ sản xuất nông nghiệp hữu c
Ngu n: Neuerburg và Padel, 1992
Nguyên tắc cơ bản của canh tác hữu cơ được liệt kê dưới đây (IFO M, 1992):
- Sản xuất thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, đủ số lượng.
- Phối hợp một cách xây dựng và theo hướng củng cố cuộc sống giữa tất cả các chu kỳ và hệ
thống tự nhiên.
- Khuyến khích và thúc đẩy chu trình sinh học trong hệ thống canh tác, bao gồm vi sinh vật,
quần thể động thực vật trong đất, cây trồng và vật nuôi.
Nguồn thức ăn
chăn nuôi
từ nông hộ
Phân hữu cơ từ
chăn chuôi của
nông hộ
Nông hộ
Phòng ngừa
sâu bệnh
Luân canh
đa dạng
Nuôi dưỡng
độ phì của đất
Hợp phần CN phù hợp
diện tích canh tác
Từ hợp phần CN và cây
thức ăn gia súc

359
- Duy trì và tăng độ phì nhiêu của đất trồng về mặt dài hạn.
- Sử dụng càng nhiều càng tốt các nguồn tái sinh trong hệ thống nông nghiệp có tổ chức ở địa
phương.
- Làm việc càng nhiều càng tốt trong một hệ thống khép kín đối với các yếu tố dinh dưỡng và
chất hữu cơ.
- Làm việc càng nhiều càng tốt với các nguyên vật liệu, các chất có thể tái sử dụng hoặc tái
sinh, hoặc ở trong trang trại hoặc là ở nơi khác.
- Cung cấp cho tất cả các con vật nuôi trong trang trại những điều kiện cho phép chúng thực
hiện những bản năng bẩm sinh của chúng.
- Giảm đến mức tối thiểu các loại ô nhiễm do kết quả của sản xuất nông nghiệp gây ra.
- Duy trì sự đa dạng hóa gen trong hệ thống nông nghiệp hữu cơ và khu vực xung quanh nó,
bao gồm cả việc bảo vệ thực vật và nơi cư ngụ của cuộc sống thiên nhiên hoang dã.
- Cho phép người sản xuất nông nghiệp có một cuộc sống theo Công ước Nhân quyền của
Liên Hiệp Quốc, trang trải được những nhu cầu cơ bản của họ, có được một khoản thu nhập thích
đáng và sự hài lòng từ công việc của họ, bao gồm cả môi trường làm việc an toàn.
- Quan tâm đến tác động sinh thái và xã hội rộng hơn của hệ thống canh tác hữu cơ.
Để minh họa thêm cho nguyên tắc trên, Neuerburg và Padel (1992) đã đưa ra chu trình khép
kín trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
2.2. Các y u tố ảnh h ởng đ n hành vi sản xuất nông nghiệp hữu c
Theo tổ chức Nông nghiệp Hữu cơ Quốc tế (IFOAM), IFO M đã định nghĩa: “Nông nghiệp
hữu cơ là một hệ thống sản xuất để duy trì sức kho của đất, hệ sinh thái và con người. Nó dựa vào
quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và chu kỳ thích nghi với điều kiện địa phương chứ không phải
sử dụng các yếu tố đầu vào với các hiệu ứng bất lợi. Nông nghiệp hữu cơ kết hợp truyền thống, sự
đổi mới và khoa học để có lợi cho môi trường và thúc đẩy mối quan hệ công bằng và một cuộc sống
chất lượng cho tất cả các bên tham gia.” Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống đồng bộ hướng tới thực
hiện các quá trình với kết quả bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt,
nhân đạo với động vật và công bằng xã hội, không sử dụng các hóa chất nông nghiệp tổng hợp và
các chất sinh trưởng phi hữu cơ, tạo điều kiện cho sự chuyển hóa khép kín trong hệ canh tác, chỉ
được sử dụng các nguồn hiện có trong nông trại và các vật tư theo tiêu chuẩn của quy trình sản xuất.
Theo như Dumea (2012), các vấn đề như mối quan tâm đến môi trường, dinh dưỡng trong
thực phẩm và sức khỏe có ảnh hưởng đến quyết định mua của khách hàng. Vì vậy, những vấn đề
như quan tâm đến môi trường, sức khỏe và kiến thức về thực phẩm hữu cơ trở thành những động
lực chính thúc đẩy hành vi tiêu thụ thực phẩm hữu cơ (Victor và cộng sự, 2012). Rất nhiều các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng người tiêu dùng mua các sản phẩm hữu cơ vì lý do an toàn hơn, sạch hơn
và chất lượng tốt hơn, cũng như thân thiện với môi trường hơn so với các sản phầm thông thường
khác. Theo Jenn (2012), hữu cơ không đơn thuần là một sự lựa chọn trong việc mua thực phẩm, mà
nó là một phong cách sống. Người tiêu dùng cố gắng làm những điều không chỉ tốt cho bản thân,
mà còn duy trì sự ổn định cho toàn bộ hệ sinh thái.
Bên cạnh những tác động tích cực của việc sử dụng thực phẩm hữu cơ, các yếu tố khác như
giá cả cao, sự sẵn có của mặt hàng thực phẩm thông thường, mẫu mã không đẹp mắt và mức thu