intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hành vi sản xuất nông nghiệp hữu cơ - Định hướng phát triển bền vững

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi và thực trạng sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn TP. Hà Nội. Các nhóm giải pháp về: thay đổi nhận thức của người sản xuất nông nghiệp hữu cơ; khuyến khích sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở đảm bảo ưu tiên so với sản xuất nông nghiệp thông thường. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hành vi sản xuất nông nghiệp hữu cơ - Định hướng phát triển bền vững

  1. HÀNH VI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ - ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TS. Phạm Văn Tuấn TS. Nguyễn Thị Ph ng Linh NCS. Nguyễn Thị Mai SV. Nguyễn Nhật Huy Trường Đại học Kinh tế Quốc dân TÓM TẮT Trong những năm gần đây, sức khỏe, biến đổi môi trường và khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang trở thành chủ đề được xã hội quan tâm. Người tiêu dùng chuyển dần sang sử dụng thực phẩm an toàn đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm thực phẩm hữu cơ (Murphy, 2006; Schifferstein và Oude Ophuis, 1998). Sản xuất thực phẩm hữu cơ toàn cầu cũng cho thấy sự tăng trưởng đáng kể, do đó, thị trường toàn cầu cho các sản phẩm hữu cơ đã tăng trưởng đều đặn không chỉ ở châu Âu và Bắc Mỹ mà ở các nước châu Á cũng vậy (Baker, 2004; Gifford và Bernard, 2005; Setboonsarng và cộng sự, 2006). Vì vậy, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngày càng phát triển là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội loài người, đây được coi là định hướng phát triển bền vững của mỗi vùng, địa phương và quốc gia. Với cách tiếp cận như vậy, nội dung nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và cơ sở khoa học để sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ được làm rõ trong bài viết của nhóm tác giả. Đồng thời, bài viết tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi và thực trạng sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn TP. Hà Nội. Các nhóm giải pháp về: (i) thay đổi nhận thức của người sản xuất nông nghiệp hữu cơ; (ii) khuyến khích sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở đảm bảo ưu tiên so với sản xuất nông nghiệp thông thường; (iii) quy hoạch vùng, chính sách quản lý đất đai, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất nông nghiệp hữu cơ; (iv) nghiên cứu và đào tạo về sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đặc biệt bài viết cũng khuyến nghị theo hướng đề án khi tổ chức thực hiện cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công Thương cũng như Hội Nông dân nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Từ khóa: hành vi, nông nghiệp hữu cơ, phát triển bền vững 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất nông nghiệp thâm canh đã tạo ra một khối lượng lương thực thực phẩm rất lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của hơn 7,5 tỷ người trên hành tinh này. Lợi thế năng suất cao của nông nghiệp thâm canh đã và đang đưa phương thức này phát triển lên đến đỉnh cao của nó. Trong đó, sự đóng góp của khoa học công nghệ được ghi nhận như là yếu tố quyết định cho nông nghiệp thâm canh tồn tại và phát triển. Thế nhưng, việc sử dụng nhiều loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp thâm canh (Pimentel và cộng sự, 2005; Carvalho, 2006), dẫn đến vô số thách thức như suy giảm sức khỏe con người, đặc biệt là sinh sản và hệ thống thần kinh trung ương (Von Duszeln, 1991; Singh, 2000; Bretveld và cộng sự, 2006). Sự phụ thuộc của nông nghiệp thâm canh về phân bón hóa học tổng hợp và thuốc 355
  2. trừ sâu đã nổi lên như một yếu tố chính, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và môi trường (Pimentel và cộng sự, 2005). Hơn nữa, trước đây, các nghiên cứu đã tiết lộ rằng việc sử dụng quá mức các hóa chất đã làm suy giảm sức khỏe của đất và xấu đi điều kiện môi trường (Taylor và cộng sự, 2003; Arias-Estévez và cộng sự, 2008; Fenner và cộng sự, 2013). Chính vì vậy, canh tác hữu cơ đã xuất hiện và được coi là hệ thống nông nghiệp thân thiện với môi trường khi tránh sử dụng hóa chất tổng hợp và phân bón (Venkataraman và Shanmugasundaram, 1992; Roitner Schobesberger và cộng sự, 2008; Mahdi và cộng sự, 2010; Suthar, 2010). Canh tác hữu cơ gắn chặt với hệ thống sản xuất nông nghiệp bền vững về môi trường, kinh tế và xã hội (Padel, 2001). Canh tác hữu cơ còn giúp giảm thiệt hại chung cho môi trường (Pimentel và cộng sự, 2005; Carvalho, 2006) và cải thiện sức khỏe cộng đồng. Nông nghiệp hữu cơ ra đời và càng ngày càng phát triển vì: thứ nhất, giải quyết được mâu thuẫn giữa sản xuất nông nghiệp thâm canh và vấn đề môi trường, vì nông nghiệp hữu cơ đã làm tăng việc sử dụng nguồn giống cây con tự nhiên, làm tăng tính đa dạng của xuất nông nghiệp, làm giảm ô nhiễm đất, nước và sản phẩm nông nghiệp do không sử dụng phân vô cơ dễ tan, thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng, thức ăn chứa nhiều chất kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi...; thứ hai, nông nghiệp hữu cơ đảm bảo, duy trì và gia tăng độ màu mỡ lâu dài cho đất, củng cố các chu kỳ sinh học trong nông trại, đặc biệt là các chu trình dinh dưỡng, bảo vệ cây trồng dựa trên việc phòng ngừa thay cho cứu chữa, đa dạng các vụ mùa và các loại vật nuôi, phù hợp với điều kiện địa phương; thứ ba, giải quyết được nhu cầu của con người, đó là nhu cầu ăn sạch, ở sạch và môi trường sạch và đẹp, lương thực thực phẩm sạch là những sản phẩm đó chứa các chất dinh dưỡng với hàm lượng như trong tự nhiên vốn có của nó. Việt Nam có lịch sử sản xuất nông nghiệp và phương thức canh tác hữu cơ từ lâu đời. Trước năm 1980, nông dân chủ yếu sử dụng các giống cây trồng bản địa, giống cổ truyền với năng suất và nhu cầu sử dụng phân bón thấp, chủ yếu hấp thu từ phân bón hữu cơ, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt nên rất ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đặc biệt là thuốc hóa học. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang từng bước phát triển, diện tích sản xuất hữu cơ tăng nhanh qua các năm, năm 2015 đạt hơn 76 nghìn ha, tăng trên 3,6 lần so với năm 2010; năm 2018 diện tích gieo trồng hữu cơ đã đạt 3,2 ngàn ha lúa, 2 ngàn ha rau, 2,8 ngàn ha chè, 4,7 ngàn ha cây ăn quả, 2,1 ngàn ha điều, 135 ngàn ha nuôi trồng thủy sản… tập trung tại 40 tỉnh, thành phố trên cả nước, sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến các thị trường Nhật, Đức, Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia... Trước nhu cầu sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ngày càng tăng, Đảng và nhà nước, Chính phủ đều có chủ trương về phát triển nông nghiệp hữu cơ và xác định nông nghiệp hữu cơ đang là xu thế phát triển, sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới do đảm bảo cung cấp được các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và cho xã hội. Hệ thống canh tác nông nghiệp hữu cơ đã và đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới khi áp lực về lương thực giảm đi, trong khi yêu cầu về an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và đặc biệt bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học ngày càng tăng lên. Nhiều chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ ra đời nhằm thúc đẩy người nông dân sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Với vị thế thủ đô, là thành phố lớn đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ với hơn 4 triệu dân sống trong nội thành trong đó có tới hơn 30% là thành phần trung lưu, hàng trăm nghìn người nước ngoài đang sinh sống và làm việc cùng hàng triệu khách du lịch nước ngoài, Hà Nội là thị 356
  3. trường lớn cho các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, cho đến nay, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Hà Nội còn hết sức nhỏ bé và có sự tăng trưởng không đáng kể. Quy mô sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới chỉ ở dạng mô hình nhỏ lẻ, quy mô nhỏ, chưa có vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, sản phẩm ở dạng đơn lẻ… Chính vì vậy, nội dung bài viết tập trung làm rõ hành vi sản xuất nông nghiệp hữu cơ, từ đó đưa ra các giải pháp thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Nông nghiệp hữu c và c sở khoa học của sản xuất nông nghiệp hữu c Nguyễn Thế Đặng và cộng sự (2012) đưa ra định nghĩa: “Nông nghiệp hữu cơ là một phương thức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở sử dụng các chu trình sinh học có trong tự nhiên. Nói một cách khác, phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phương thức sản xuất mà trong đó các quá trình sản xuất đều theo quy luật sinh học tự nhiên vốn có.” Lampkin (1994) định nghĩa nông nghiệp hữu cơ là nông nghiệp mà tạo ra các hệ thống sản xuất tích hợp, nhân văn, bền vững về môi trường và kinh tế. Liên đoàn Nông nghiệp hữu cơ quốc tế (IFO M) đã trình bày định nghĩa sau: Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất duy trì sức khỏe của đất, hệ sinh thái và con người. Nó phụ thuộc vào các quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và các chu kỳ thích nghi với điều kiện địa phương, thay vì sử dụng các yếu tố đầu vào có tác dụng phụ. Theo Kilcher (2006) và Henning và cộng sự (1991), nông nghiệp hữu cơ là nền nông nghiệp sử dụng các yếu tố đầu vào hoàn toàn là hữu cơ, cũng đồng nghĩa với nông nghiệp bền vững. Theo truyền thống, nông dân canh tác ở những khu vực nhiệt đới ẩm ướt sử dụng phân bón hữu cơ thường dung đất màu trong nông nghiệp. Điều này tạo ra một nền nông nghiệp bền vững cả về khía cạnh môi trường và kinh tế. Katic và cộng sự (2010) nói rằng nông nghiệp hữu cơ như một hình thức sản xuất nông nghiệp đặc biệt, là nền tảng cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Đó là một hình thức sản xuất đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của nguyên tắc bảo vệ và bền vững môi trường. Tại Liên đoàn phong trào Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movement - IFOAM), nông nghiệp hữu cơ bao gồm tiêu chuẩn sản xuất và xử lý cơ bản, đã được phân tích chi tiết (Anonymous, 2002). Theo IFOAM, nông nghiệp hữu cơ là hình thức nông nghiệp tránh hoặc loại bỏ phần lớn việc sử dụng phân bón hóa học tổng hợp, thuốc trừ sâu, các chất điều tiết tăng trưởng cây trồng và các chất phụ gia trong thức ăn gia súc nhằm giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo sức khỏe con người và tạo ra nông sản sạch. Khái niệm này bao hàm tầm nhìn rõ ràng về xu hướng thay đổi chủ yếu trong xã hội để giúp nông nghiệp hữu cơ trở nên khả thi. Mặc dù các định nghĩa này khác nhau, nhưng người ta thường đồng ý rằng canh tác hữu cơ là một hệ thống sản xuất thân thiện với môi trường và một phương pháp nông nghiệp bền vững (Scofield 1986; Bowler 1992). Bên cạnh tác động tích cực đến môi trường, canh tác hữu cơ còn có các chức năng như tạo việc làm, tạo thu nhập, phát triển công nghệ mới pha trộn với kiến thức bản địa (Scialabba, 2000) và xây dựng mạng lưới (Hamilton và Fischer 2003; Wu và Pretty, 2004). Parrott và cộng sự (2006) đã xác định hai loại hình canh tác hữu cơ ở các quốc gia đang phát triển: canh tác hữu cơ được chứng nhận chính thức và canh tác hữu cơ không chính thức. Loại đầu tiên có xu hướng tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm hữu cơ, trong khi loại thứ hai liên quan đến 357
  4. các hoạt động quy mô nhỏ để cải thiện sinh kế của từng nông dân (Goldberger, 2008). Bởi vì hệ thống chứng nhận là cần thiết để tiếp cận thị trường quốc tế nhưng điều quan trọng là phát triển thị trường nội địa cho cây trồng được sản xuất thông qua canh tác hữu cơ không chính thức (Parrott và cộng sự, 2006). Cơ sở khoa học của sản xuất nông nghiệp hữu cơ Cơ sở khoa học của phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ là đưa quá trình sản xuất theo chu trình sinh học tự nhiên, trong đó các yếu tố tự nhiên sẵn có được sử dụng tối đa, các yếu tố nhân tạo (phân bón vô cơ dễ tan, thuốc hóa học bảo vệ thực vật, chất kích thích sinh trưởng có nguồn gốc vô cơ, thức ăn chăn nuôi giàu chất kích thích...) được hạn chế tối đa hoặc loại bỏ hẳn. Như ta đã biết, đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cơ thể sinh vật sống trong tự nhiên. Các cơ thể sống ấy có quan hệ với nhau trong một không gian nhất định để tạo ra một quần thể. Vì vậy, nông nghiệp hữu cơ là đưa quá trình sản xuất đi theo hướng phát triển các mối quan hệ tương tác ấy. Trong nông nghiệp hữu cơ, mối quan hệ giữa con người, đất đai, cây trồng và vật nuôi được khai thác tối đa. Đây là mối quan hệ hữu cơ và nhân quả, vì vậy mỗi một đối tượng đều được tôn trọng và phát huy hết tiềm năng tự nhiên sẵn có của mình. Nguồn thức ăn chăn nuôi từ nông hộ Phòng ngừa Hợp phần CN phù hợp sâu bệnh diện tích canh tác Luân canh Nông hộ đa dạng Phân hữu cơ từ Từ hợp phần CN và cây Nuôi dưỡng thức ăn gia súc chăn chuôi của độ phì của đất nông hộ Hình 1. Chu tr nh khép kín của nông hộ sản xuất nông nghiệp hữu c Ngu n: Neuerburg và Padel, 1992 Nguyên tắc cơ bản của canh tác hữu cơ được liệt kê dưới đây (IFO M, 1992): - Sản xuất thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, đủ số lượng. - Phối hợp một cách xây dựng và theo hướng củng cố cuộc sống giữa tất cả các chu kỳ và hệ thống tự nhiên. - Khuyến khích và thúc đẩy chu trình sinh học trong hệ thống canh tác, bao gồm vi sinh vật, quần thể động thực vật trong đất, cây trồng và vật nuôi. 358
  5. - Duy trì và tăng độ phì nhiêu của đất trồng về mặt dài hạn. - Sử dụng càng nhiều càng tốt các nguồn tái sinh trong hệ thống nông nghiệp có tổ chức ở địa phương. - Làm việc càng nhiều càng tốt trong một hệ thống khép kín đối với các yếu tố dinh dưỡng và chất hữu cơ. - Làm việc càng nhiều càng tốt với các nguyên vật liệu, các chất có thể tái sử dụng hoặc tái sinh, hoặc ở trong trang trại hoặc là ở nơi khác. - Cung cấp cho tất cả các con vật nuôi trong trang trại những điều kiện cho phép chúng thực hiện những bản năng bẩm sinh của chúng. - Giảm đến mức tối thiểu các loại ô nhiễm do kết quả của sản xuất nông nghiệp gây ra. - Duy trì sự đa dạng hóa gen trong hệ thống nông nghiệp hữu cơ và khu vực xung quanh nó, bao gồm cả việc bảo vệ thực vật và nơi cư ngụ của cuộc sống thiên nhiên hoang dã. - Cho phép người sản xuất nông nghiệp có một cuộc sống theo Công ước Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, trang trải được những nhu cầu cơ bản của họ, có được một khoản thu nhập thích đáng và sự hài lòng từ công việc của họ, bao gồm cả môi trường làm việc an toàn. - Quan tâm đến tác động sinh thái và xã hội rộng hơn của hệ thống canh tác hữu cơ. Để minh họa thêm cho nguyên tắc trên, Neuerburg và Padel (1992) đã đưa ra chu trình khép kín trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ. 2.2. Các y u tố ảnh h ởng đ n hành vi sản xuất nông nghiệp hữu c Theo tổ chức Nông nghiệp Hữu cơ Quốc tế (IFOAM), IFO M đã định nghĩa: “Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất để duy trì sức kho của đất, hệ sinh thái và con người. Nó dựa vào quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và chu kỳ thích nghi với điều kiện địa phương chứ không phải sử dụng các yếu tố đầu vào với các hiệu ứng bất lợi. Nông nghiệp hữu cơ kết hợp truyền thống, sự đổi mới và khoa học để có lợi cho môi trường và thúc đẩy mối quan hệ công bằng và một cuộc sống chất lượng cho tất cả các bên tham gia.” Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống đồng bộ hướng tới thực hiện các quá trình với kết quả bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, nhân đạo với động vật và công bằng xã hội, không sử dụng các hóa chất nông nghiệp tổng hợp và các chất sinh trưởng phi hữu cơ, tạo điều kiện cho sự chuyển hóa khép kín trong hệ canh tác, chỉ được sử dụng các nguồn hiện có trong nông trại và các vật tư theo tiêu chuẩn của quy trình sản xuất. Theo như Dumea (2012), các vấn đề như mối quan tâm đến môi trường, dinh dưỡng trong thực phẩm và sức khỏe có ảnh hưởng đến quyết định mua của khách hàng. Vì vậy, những vấn đề như quan tâm đến môi trường, sức khỏe và kiến thức về thực phẩm hữu cơ trở thành những động lực chính thúc đẩy hành vi tiêu thụ thực phẩm hữu cơ (Victor và cộng sự, 2012). Rất nhiều các nghiên cứu đã chỉ ra rằng người tiêu dùng mua các sản phẩm hữu cơ vì lý do an toàn hơn, sạch hơn và chất lượng tốt hơn, cũng như thân thiện với môi trường hơn so với các sản phầm thông thường khác. Theo Jenn (2012), hữu cơ không đơn thuần là một sự lựa chọn trong việc mua thực phẩm, mà nó là một phong cách sống. Người tiêu dùng cố gắng làm những điều không chỉ tốt cho bản thân, mà còn duy trì sự ổn định cho toàn bộ hệ sinh thái. Bên cạnh những tác động tích cực của việc sử dụng thực phẩm hữu cơ, các yếu tố khác như giá cả cao, sự sẵn có của mặt hàng thực phẩm thông thường, mẫu mã không đẹp mắt và mức thu 359
  6. nhập thấp là những khó khăn chính cản trở việc tiêu thụ sản phẩm hữu cơ (Robles và cộng sự, 2005; Zakowska, 2007). Các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân. Nghiên cứu về ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ đã được thực hiện bởi các học giả nước ngoài. Trong đó, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn. Căn cứ theo nội dung thì các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân được chia thành các nhóm sau: Thứ nhất, nhóm yếu tố thuộc về nhân khẩu học, tính cách và quan điểm của người nông dân: độ tuổi (Alexopoulos và cộng sự, 2010; Azam và Banumathi, 2015; Xie và cộng sự, 2015); giới tính ( zam và Banumathi, 2015); trình độ học vấn (Azam và Banumathi, 2015); tính sáng tạo (Alexopoulos và cộng sự, 2010); quyền sở hữu đất đai ( zam và Banumathi, 2015); kinh nghiệm, giáo dục và kiến thức (Soltani và cộng sự, 2013; Azam và Shaheen, 2019); sở thích rủi ro (Xie và cộng sự, 2015); động lực, chuẩn chủ quan (Asadollahpour và cộng sự, 2016); thái độ (Asadollahpour và cộng sự, 2016; Sharifuddin và cộng sự, 2016; Laepple, 2008). Thứ hai, nhóm yếu tố thuộc về nhận thức của người nông dân: nhận thức về thị trường và sự đóng góp của canh tác hữu cơ để bảo vệ môi trường (Alexopoulos và cộng sự, 2010); sức khỏe/an toàn (Aoki, 2014; Asadollahpour và cộng sự, 2014; Cranfield và cộng sự, 2010; Jierwiriyapant và cộng sự, 2012); nhu cầu xã hội và thách thức kinh tế (Cranfield và cộng sự, 2010); sự thành công của các trang trại hữu cơ lân cận và cơ hội xuất khẩu (Jierwiriyapant và cộng sự, 2012); thu nhập và cơ hội (Soltani và cộng sự, 2013); lợi nhuận, tài chính (Aoki, 2014; Asadollahpour và cộng sự, 2016; Cranfield và cộng sự, 2010, Ullah và cộng sự, 2015); chi phí, chi phí lao động (Ullah và cộng sự, 2015; Xie và cộng sự, 2015; Asadollahpour và cộng sự, 2016); khả năng tương thích, hiệu quả (Ullah và cộng sự, 2015); năng suất (Cranfield và cộng sự, 2010; Ullah và cộng sự, 2015); lợi ích (Xie và cộng sự, 2015); sự hữu ích, rủi ro (Sharifuddin và cộng sự, 2016); trồng trọt (Azam và Shaheen, 2018); sự quen thuộc với hệ thống sản xuất hữu cơ (Koutsoukos và Iakovidou, 2013); mục tiêu (Laepple, 2008). Thứ ba, nhóm yếu tố thuộc về trang trại của người nông dân: quy mô trang trại (Alexopoulos và cộng sự, 2010; Azam và Banumathi, 2015); việc sử dụng trang trại cho thuê (Azam và Shaheen, 2018). Thứ tư, nhóm yếu tố thuộc về môi trường: kinh tế, thể chế, xã hội (Azam và Shaheen, 2018; Laepple, 2008); môi trường (Cranfield và cộng sự, 2010); đào tạo (Jierwiriyapant và cộng sự, 2012); hỗ trợ từ mạng lưới nông nghiệp, kinh tế, vật lý, sinh học (Jierwiriyapant và cộng sự, 2012); sự cạnh tranh và cơ sở hạ tầng (Koutsoukos và Iakovidou, 2013); sự hợp tác sản xuất (Soltani và cộng sự, 2013); môi trường (Aoki, 2014; Asadollahpour và cộng sự, 2014; Altieri và cộng sự, 2017; Sharifuddin và cộng sự, 2016; Xie và cộng sự, 2015); tiếp cận tín dụng, tiếp cận thông tin (Ma và cộng sự, 2017). Thứ năm, nhóm yếu tố thuộc về các chính sách truyền thông và hỗ trợ: sự hỗ trợ và chính sách của chính phủ (Asadollahpour và cộng sự, 2014; Azam và Shaheen, 2018; Soltani và cộng sự, 2013; Cranfield và cộng sự, 2010); mạng lưới tiếp thị (Azam và Shaheen, 2018; Koutsoukos và Iakovidou, 2013; Cranfield và cộng sự, 2010); kiểm soát sản xuất và chất lượng (Cranfield và cộng sự, 2010). 360
  7. 3. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI Phát triển nông nghiệp hữu cơ là hướng phát triển bền vững mà nền nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp Hà Nội nói riêng cần hướng tới. Tuy nhiên, thách thức đối với nông nghiệp hữu cơ hiện nay là đời sống người dân còn thấp và dân trí chưa cao, do vậy việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức, nhất là vấn đề nâng cao nhận thức cho cả cộng đồng về giá trị của nông nghiệp hữu cơ. Dưới đây là một số kết quả quan trọng của sản xuất hữu cơ trên địa bàn TP. Hà Nội. Trên rau Để thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn Thành phố, Chi cục bảo vệ thực vật tham mưu với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Ủy ban nhân dân TP. Hà Nội ban hành Quyết định số 2083/QĐ-UBND về việc phê duyệt “Đề án sản xuất và tiêu thụ rau an toàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2015” và điều chỉnh, bổ sung một số nội dung trong đề án tại Quyết định số 5975/QĐ-UBND ngày 26/12/2011 và Quyết định số 3085/QĐ-UBND ngày 02/07/2015 với mục tiêu đến năm 2015 đạt 5.000 - 5.500 ha rau an toàn. Để đạt mục tiêu của Đề án, Chi cục bảo vệ thực vật tham mưu với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 104/2009/QĐ-UBND “Quy định quản lý sản xuất và kinh doanh rau an toàn trên địa bàn Hà Nội”; Quyết định số 474/QĐ- UBND “Phê duyệt định hướng Quy hoạch mạng lưới sản xuất rau an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020”; ban hành 30 quy trình kỹ thuật sản xuất RAT; 10 quy trình rau hữu cơ, 01 quy trình kỹ thuật sản xuất khoai tây an toàn bằng phương pháp làm đất tối thiểu. Chi cục Bảo vệ thực vật TP. Hà Nội phối hợp với các địa phương hướng dẫn, tư vấn lập 31 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng vùng rau an toàn tập trung với diện tích 2.197 ha, có 10 dự án đã được đầu tư và đưa vào sử dụng; phối hợp chỉ đạo và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm trong sản xuất: đến năm 2014 đạt 4.931 ha, năm 2015 khả năng đạt 5.100 ha, trong đó: 171 ha rau VietGAP và 21 ha rau hữu cơ. Năm 2008, Dự án phát triển nông nghiệp hữu cơ VNFU-ADDA tài trợ Hà Nội sản xuất rau hữu cơ tại xã Thanh Xuân - huyện Sóc Sơn. Giai đoạn 2008 - 2012 tại xã Thanh Xuân (Sóc Sơn) tổ chức được 10 nhóm nông dân, diện tích rau hữu cơ đạt 13 ha. Đến giai đoạn 2012 - 2016 đạt 26 nhóm nông dân (tăng 16 nhóm, với 8 - 10 hộ/nhóm), tổng diện tích sản xuất rau hữu cơ đạt 34 ha (tăng 21 ha). Các nhóm sản xuất rau hữu cơ tại xã Thanh Xuân tổ chức sản xuất theo hai hình thức:  Sản xuất làm tập trung theo nhóm: Các thành viên trong nhóm góp đất, cùng làm, chấm công, chia đều lợi nhuận kinh tế.  Sản xuất theo hình thức riêng lẻ: Kế hoạch sản xuất làm theo phương án chung của nhóm, nhưng diện tích của từng hộ trong nhóm tự chăm sóc và thu hoạch và tiêu thụ chung theo nhóm. Ngoài sản xuất rau hữu cơ theo các nhóm nông dân, tại các xã, một số doanh nghiệp tham gia sản xuất rau hữu cơ như: Công ty Việt Liên diện tích sản xuất rau hữu cơ đạt 3 ha trên địa bàn quận Long Biên, Công ty TNHH khai thác tiềm năng sinh thái Hòa Lạc diện tích sản xuất rau hữu cơ đạt 10 ha trên địa bàn huyện Thạch Thất, trang trại Hoa Viên chuyên sản xuất các loại rau bản địa hữu cơ,... Các doanh nghiệp hoạt động theo hình thức quản lý sản xuất tập trung: thuê ruộng, thuê nhân công để tổ chức sản xuất... 361
  8. 40000 31727 31978 33537 33160 29356 30000 20000 10000 5188,5 5433 5315 5606,6 5615,6 0 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng diện tích gieo trồng Rau an toàn (RAT) Hình 2. Diện tích sản xuất rau và rau an toàn tại Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018 (ha) Ngu n: Chi cục tr ng trọt và BVTV Hà Nội, 2019 Trong giai đoạn 5 năm trở lại đây, diện tích trồng rau và rau an toàn của TP. Hà Nội đều có xu hướng tăng liên tục qua các năm. Cụ thể, diện tích sản xuất rau hàng năm tăng từ 29356 ha năm 2014 lên 33160 ha vào năm 2018, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 3,2%/năm trong khi diện tích sản xuất rau an toàn tăng trưởng với tốc độ chậm hơn, chỉ khoảng 2%/năm, giá trị năm 2018 đạt 5616,6 ha. Đồng thời, tỷ trọng diện tích rau an toàn trong tổng diện tích sản xuất rau nói chung của thành phố Hà Nội còn khá khiêm tốn, chỉ khoảng 17%. Cơ cấu các loại hình rau an toàn cũng có sự biến động rõ rệt trong giai đoạn kể trên. Cụ thể, diện tích rau an toàn được cấp giấy chứng nhận chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 90%) và hầu như không biến động, giá trị trong 4 năm liên tiếp dừng tại 5044 ha, trong khi diện tích rau an toàn theo VietGAP và rau hữu cơ tăng lên nhanh chóng. Diện tích gieo trồng rau an toàn theo VietGAP và rau hữu cơ tăng khoảng 3 lần trong giai đoạn 2014 - 2018. Chi tiết được minh họa trong biểu đồ dưới đây. 5800 5600 50 50 5400 37 47 512,6 521,6 5200 17 352 224 5000 171,5 4800 4600 4400 5000 5044 5044 5044 5044 4200 4000 3800 3600 2014 2015 2016 2017 2018 R T được cấp giấy chứng nhận RAT theo VietGAP Rau hữu cơ H nh 3. Sản xuất rau an toàn tại Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018 (ha) Ngu n: Chi cục tr ng trọt và BVTV Hà Nội, 2019 và tính toán của nhóm nghiên cứu Như vậy, diện tích rau hữu cơ trên địa bàn Hà Nội mới chỉ khoảng 50 ha. Xét về hiệu quả kinh tế, sản xuất rau hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người sản xuất từ 10% đến 20% (Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2019), giá trị sản xuất đạt từ 300 đến 500 triệu trồng/ha/năm và có khoảng 1,200 ha đạt giá trị 1 tỷ đồng/ha/năm (sản xuất rau trong nhà lưới và rau trái vụ tăng từ 3 đến 5 vụ/năm). 362
  9. Trên lúa Đối với cây lúa, một số địa phương cũng đang bắt đầu sản xuất theo hướng hữu cơ, như xã Đồng Phú và xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ: Xã Đồng Phú, huyện Chương Mỹ là địa phương đầu tiên của Hà Nội triển khai trồng lúa hữu cơ. Năm 2012, hợp tác xã được tiếp cận dự án PAMSI của tổ chức JICA (Nhật Bản) hỗ trợ xây dựng mô hình với diện tích 5 ha. Sau vài vụ triển khai, nhận thấy hiệu quả kinh tế cao, xã viên đã mạnh dạn mở rộng diện tích. Đến nay, toàn xã có hơn 70 ha lúa hữu cơ với giống Bắc thơm số 7, trong đó 23 ha đã cấp giấy chứng nhận sản xuất hữu cơ. Xã Nam Phương Tiến - Chương Mỹ năm 2019 cũng đã tổ chức sản xuất lúa theo hướng hữu cơ với diện tích 10 ha. Chủ tịch Hội đồng quản trị hợp tác xã Đồng Phú - Phạm Văn Thành cho biết, mặc dù gạo hữu cơ được bán với giá trung bình 25.000 - 30.000 đồng/kg nhưng đầu ra của sản phẩm vẫn chưa ổn định do số doanh nghiệp ký hợp đồng bao tiêu với nông dân chỉ đếm trên đầu ngón tay. Không chỉ Đồng Phú, mấy năm gần đây, một số địa phương đã tích cực chuyển hướng sang sản xuất lúa hữu cơ như xã Kim Đường, huyện Ứng Hòa, từ vụ mùa năm 2016 đến nay duy trì 30 ha Bắc Thơm số 7. Giám đốc hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Kim Đường Nguyễn Văn Nam cho hay, mô hình sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học và tưới dưỡng bằng nguồn nước sạch nên chất lượng gạo đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm vẫn chưa được chứng nhận là gạo hữu cơ bởi theo tiêu chí đánh giá thì đất phải được làm sạch và lấy mẫu kiểm nghiệm tối thiểu trong 5 năm. Theo ước tính sơ bộ đến đầu năm 2019, Hà Nội có 170 ha sản xuất lúa hữu cơ trong tổng số gần 200.000 ha gieo cấy lúa hàng năm. Tuy nhiên, Thành phố mới chỉ có duy nhất sản phẩm của mô hình lúa hữu cơ tại xã Đồng Phú, huyện Chương Mỹ được chứng nhận là gạo hữu cơ. Sản xuất lúa hữu cơ cần có sự tham gia của doanh nghiệp cũng như việc ứng dụng công nghệ cao vào canh tác và hình thành thị trường tiêu thụ. Song, yếu tố này dường như vẫn bị bỏ ngỏ. Mặt khác, cơ chế cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ chưa được cụ thể hóa đã trở thành những rào cản khiến mô hình sản xuất lúa hữu cơ khó nhân rộng. Trên c y ăn quả Trong những năm qua, việc sản xuất theo hướng hữu cơ về cây ăn quả mới chỉ mang tính manh nha của một số hộ chưa được đại trà, tập trung hiện nay có một số vùng đang sản xuất mới theo hướng hữu cơ trên cây bưởi như: Xã Nam Phương Tiến - Chương Mỹ, Xã Thượng Mỗ - Đan Phượng; Xã Cẩm Lĩnh, Vật Lại, Yên Bài - Ba Vì; Xã Cát Quế, Yên Sở - Hoài Đức; Phường Phú Diễn - Quận Bắc Từ Liêm. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đến cuối năm 2018, diện tích trồng cây ăn quả của Thành phố khoảng 17.000 ha với các chủng loại chính: bưởi, cam, nhãn, chuối; còn lại là táo, đu đủ, hồng xiêm, vải, xoài… Thành phố đã xây dựng được 12 nhãn hiệu cây ăn quả tập thể: bưởi tôm vàng Đan Phượng, bưởi đường Quế Dương, phật thủ Đắc Sở (Hoài Đức), cam canh Kim n (Thanh Oai), bưởi Phúc Thọ, bưởi Chương Mỹ, bưởi Sóc Sơn, nhãn chín muộn Đại Thành (Quốc Oai)... Bên cạnh đó, Thành phố có 924,5 ha sản xuất cây ăn quả ứng dụng công nghệ cao (chiếm 6,2% tổng diện tích cây ăn quả toàn thành phố); trong đó 634 ha ứng dụng giống chất lượng cao; 372 ha chuối ứng dụng công nghệ cao... 363
  10. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phát triển mô hình trồng cây ăn quả của Thành phố vẫn còn khó khăn do sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, phân tán; việc liên kết sản xuất - tiêu thụ hạn chế, đầu tư ứng dụng công nghệ cao chưa phổ biến. Trong khi đó, việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được người dân quan tâm đúng mức. Nhiều hộ chưa có kho riêng lưu trừ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, không có sổ sách theo dõi chủng loại, lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thời gian sử dụng... Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, Thành phố phấn đấu đến năm 2020 có 1.384 ha diện tích sản xuất cây ăn quả ứng dụng công nghệ cao; tỷ lệ giá trị sản xuất ứng dụng công nghệ cao chiếm 15% - 20% tổng giá trị sản xuất cây ăn quả toàn Thành phố; khuyến khích các vùng cây ăn quả sản xuất theo hướng tập trung, đáp ứng tiêu chuẩn các thị trường nhập khẩu như: Mỹ, châu Âu... Trong lĩnh vực chăn nuôi Hoạt động chăn nuôi và thủy sản theo hướng hữu cơ vẫn mang tính chất tự phát theo từng trang trại, hợp tác xã nhỏ lẻ là chính. Tiêu biểu như trang trại Bảo Châu, Sóc Sơn, Hà Nội, đàn lợn được nuôi theo phương pháp hữu cơ, kết hợp công nghệ vi sinh hữu hiệu E.M của Nhật Bản. Người dân chăn nuôi theo quy trình đảm bảo “3 không” là không thức ăn có nguồn gốc từ động vật, không kháng sinh và không chất cấm trong chăn nuôi. Hai vấn đề mà công nghệ E.M chú trọng là chế biến thức ăn cho lợn và xử lý chất thải của lợn. Đối với việc chế biến thức ăn, công nghệ áp dụng công thức ủ lên men các loại ngũ cốc như cám gạo, đậu tương, ngô… nhằm tạo ra các enzym có lợi cho tiêu hóa và tăng sức đề kháng cho lợn. Việc áp dụng công nghệ E.M trong chăn nuôi giúp trang trại Bảo Châu tạo ra được những sản phẩm thịt lợn hữu cơ an toàn, chất lượng. Hiện nay, giá thành của thịt lợn hữu cơ Bảo Châu thường cao gấp 2 đến 3 lần thịt lợn thông thường, dao động từ 200.000 đồng đến 250.000 đồng một kg tùy thời điểm. Với chất lượng đảm bảo, thịt lợn hữu cơ Bảo Châu được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội chọn đưa lên sàn giao dịch rau quả và thực phẩm an toàn. Trong lĩnh vực thủy sản Hiện nay, trên địa bàn TP. Hà Nội mô hình nuôi thủy sản ruộng trũng (cá - lúa) khoảng 5.900 ha; năng suất từ 0,2 đến 0,3 tấn/ha/năm. Trong thời gian qua, cùng với việc phát triển các mô hình nuôi thủy sản theo hướng thâm canh, bán thâm canh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã giao Chi cục Thủy sản thực hiện lồng ghép công tác tuyên truyền, hướng dẫn về hình thức sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ trong lĩnh vực thủy sản đến các hộ nuôi thủy sản. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là chưa xây dựng được nhãn hiệu sản phẩm, việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn để cạnh tranh với các sản phẩm khác. 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. Thay đổi nhận thức của ng ời nông dân về sản xuất nông nghiệp hữu c Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế ở tỉnh ta, do đó, muốn nâng cao năng suất, giá trị và tạo chỗ đứng vững chắc cho sản phẩm đòi hỏi người nông dân phải đổi mới tư duy, nhận thức trong tất cả các khâu sản xuất từ cách trồng, chăm sóc, chế biến đến bảo quản sản phẩm. Nếu như trước đây, nông dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp theo hướng sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất. Hiện nay với bối cảnh khoa học công nghệ đang phát triển vượt bậc, đặc biệt với cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mở ra cơ hội cho ngành nông nghiệp 364
  11. nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, quản lý sản xuất, nâng cao năng suất, an toàn vệ sinh thực phẩm và giá trị gia tăng cho sản phẩm. Đồng thời, các tiến bộ cũng giúp cơ giới hóa, tự động hóa, giải phóng sức lao động. Không những thế, tác động của biến đổi khí hậu tới nông nghiệp và nông thôn sẽ ngày càng gia tăng và rõ rệt hơn. Bên cạnh đó, diễn biến thời tiết đang ngày càng phức tạp hơn, tần suất và cường độ thiên tai ngày càng lớn hơn, hậu quả là mức độ ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân càng nghiêm trọng hơn. Sức ép của biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên sẽ đòi hỏi sách lược phát triển nông nghiệp, nông thôn khôn ngoan với những đột phá về phương thức thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, về phương thức tổ chức xã hội nông thôn nhằm tăng cường sử dụng công nghệ, giảm sử dụng tài nguyên, giảm phát thải, tăng khả năng chống chịu, tăng tính linh hoạt, thích ứng thuận thiên với biến đổi khí hậu và những thay đổi của thị trường. Chính vì vậy, sản xuất nông nghiệp hữu cơ là hướng đi cần thiết hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững. Trong khi đó, thái độ thể hiện mức độ đánh giá của một cá nhân về một hành vi là thuận lợi hoặc không thuận lợi. Thái độ đối với một hành vi phụ thuộc vào đánh giá tổng thể về hành vi và niềm tin vào kết quả mong muốn của nó. Nói chung, thái độ tích cực hơn của các cá nhân đối với một hành vi có thể dẫn đến để có ý định thực hiện hành vi đó nhiều hơn. Thái độ có thể được xem như một yếu tố quyết định cơ bản về ý định của một cá nhân. Khi đó, nông dân sẽ có ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ chỉ khi họ tin rằng việc thực hành là hữu ích và mang lại kết quả tích cực cho họ. Bên cạnh đó, nhận thức của mỗi cá nhân về sự chấp thuận của một người quan trọng đối với một hành vi sẽ đủ để thúc đẩy ý định thực hiện hành vi. Nhận thức cao về các tiêu chuẩn chủ quan liên quan có thể làm tăng xác suất thực hiện một hành vi cụ thể. Nếu nông dân cảm thấy rằng họ chịu áp lực xã hội khi sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nhiều khả năng họ sẽ có xu hướng sử dụng những thực hành đó. Từ những phân tích trên, cho thấy để nông dân chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ cần tác động, thay đổi nhận thức của người nông dân về nông nghiệp hữu cơ thông qua các hoạt động: - Tổ chức các chương trình nâng cao nhận thức về về phát triển nông nghiệp nông nghiệp hữu cơ, hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững. Đối tượng tập huấn bao gồm cả cán bộ quản lý nhà nước, cộng đồng làm nông nghiệp và các bên liên quan; - Để cộng đồng không còn suy nghĩ nông nghiệp hữu cơ là một thuật ngữ chung chung, hàn lâm thì cần phải cụ thể hóa bằng các mô hình điển hình trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đồng thời truyền thông nâng cao nhận thức, hiểu biết của cộng đồng về nông nghiệp hữu cơ qua các buổi chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ, chuyển giao các mô hình tốt, điển hình về nông nghiệp hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó, dần dần nông nghiệp hữu cơ mới đi vào đời sống của cộng đồng và trở thành tập quán canh tác lâu bền; - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu để người dân thích nghi và có biện pháp ứng phó. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền để mỗi người dân phải hiểu bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của mỗi người dân, phải làm gì để bảo vệ môi trường cho chính bản thân mình, gia đình mình, cho cộng đồng mà mình đang sống. Nghĩa vụ đó còn có ý nghĩa đối với sự phát triển trong tương lai mà thế hệ con cháu chúng ta sau này được thừa hưởng và duy trì qua đó để mỗi người dân nhận thức được rằng sản xuất nông nghiệp hữu cơ là đóng góp bảo vệ môi trường và là xu hướng trong sản xuất nông nghiệp trong thời đại mới. 365
  12. 4.2. Chính sách khuy n khích sản xuất nông nghiệp hữu c trên c sở đảm bảo u tiên so với sản xuất nông nghiệp thông th ờng Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay cho thấy, việc lạm dụng phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường và làm suy giảm chất lượng nông sản. Do vậy, phát triển nông nghiệp hữu cơ là một xu thế tất yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng cũng nhưmôi trường sống. Với Việt Nam, để chuyển thành công nền sản xuất tự cấp tự túc sang một nền sản xuất hàng hóa, định hướng xuất khẩu thì vấn đề an toàn thực phẩm cũng như nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế sẽ ngày càng cấp thiết. Cơ hội cho phát triển nông nghiệp hữu cơ còn phải kể đến nhu cầu trong nước và quốc tế tăng cao đối với những sản phẩm an toàn. Chính vì vậy, đây cũng là những lợi thế mà sản xuất nông nghiệp hữu cơ có thể có được. Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất cho phép khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên như đất, năng lượng, các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên với một phương pháp quản lý hợp lý nhất nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời cũng đảm bảo cho hệ thống sản xuất bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế. Theo định nghĩa này thì nông nghiệp hữu cơ còn có thể hiểu là nông nghiệp sinh thái. Như vậy, thuật ngữ “hữu cơ” không chỉ đề cập đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng mà được mở rộng ra như là một quan điểm, trong đó tính bền vững là hạt nhân. Như vậy, sản xuất nông nghiệp hữu cơ thường yêu cầu công nghệ, chi phí và có thể gặp nhiều rủi ro hơn so với sản xuất theo phương pháp hiện tại. Trong khi, lợi thế hành vi so sánh của nông dân thường được áp dụng cho hành vi sản xuất hữu cơ. Khi đó người nông dân thường so sánh giữa sản xuất nông nghiệp hữu cơ và sản xuất theo phương pháp hiện tại ở các câu hỏi như: năng suất có tăng lên hay không? Chi phí đầu vào có giảm hay không? Thời gian canh tác? Tác động đến môi trường thấp hơn? Rủi ro có thể gặp phải là gì? Có bán được giá cao hơn không? Chính vì vậy, cần có chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phải đảm bảo hiệu quả kinh tế cho người nông dân canh tác hữu cơ nghĩa là họ phải thu được lợi nhuận cao hơn so với canh tác thông thường. Phát triển phương thức canh tác hữu cơ nhằm bảo vệ môi trường sinh thái phải đi đôi với đảm bảo lợi ích kinh tế hợp lý cho người nông dân. Bên cạnh đó, do năng suất canh tác hữu cơ thấp hơn canh tác thông thường nên nếu giá sản phẩm hữu cơ không đảm bảo cao hơn, sẽ không thúc đẩy người nông dân chấp nhận rủi ro từ bỏ phương thức canh tác thông thường sang canh tác hữu cơ. Rõ ràng, khi lợi ích kinh tế không đảm bảo, người nông dân sẽ không chấp nhận chuyển đổi từ canh tác thông thường sang phương thức canh tác hữu cơ. Vì vậy, cần ban hành và thực thi các chính sách phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ổn định với giá cả phân biệt so với nông sản thông thường; đồng thời có các chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp cho người nông dân sản xuất hữu cơ. Cần ban hành chính sách cho vay ưu đãi các dự án sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, cần thành lập quỹ bảo hiểm sản xuất nông nghiệp hữu cơ để người nông dân yên tâm đầu tư vào chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ. 4.3. Đ a ra các chính sách nhằm để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu c Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống canh tác đã gây nên sự chú ý ngày càng tăng ở nhiều quốc gia trong 2 thập kỷ qua, nhất là các nước phát triển, khi mà áp lực về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường lại tăng lên. Nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại Dương đã khuyến khích nông dân áp dụng nông nghiệp hữu cơ. Ở Việt 366
  13. Nam, những năm qua Chính phủ đề cao sự phát triển nông nghiệp hữu cơ trong sản suất nông nghiệp, tuy nhiên kết quả chưa tương xứng với kỳ vọng, và để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ cần thực hiện:  Về chính sách chung - Chính phủ cần ban hành quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ phù hợp, mang tính pháp lệnh cao; đồng thời ban hành các chính sách cụ thể thúc đẩy các địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc quy hoạch đã duyệt. Trên các vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp hữu cơ, cần tổ chức vận động các hộ nông dân chuyển đổi sang canh tác hữu cơ theo mô hình tổ chức hợp tác xã theo kiểu “hệ thống đảm bảo có sự tham gia”. Phát triển các nông dân tiên phong là hạt nhân cho quá trình chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ để lan tỏa tới những nông dân khác trong vùng. Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng, bao gồm: đầu tư cho hệ thống thủy lợi, cải tạo đất cũng như các yếu tố mô trường khác cho vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo quy hoạch. - Cần nghiên cứu và đổi mới chính sách đất đai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những người nông dân năng động có tinh thần đổi mới đã canh tác hữu cơ thành công có thể mở rộng diện tích canh tác hữu cơ của họ. Chính quyền địa phương cần tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân canh tác hữu cơ thành công có thể mua, thuê quyền sử dụng đất để mở rộng diện tích canh tác dễ dàng. Bên cạnh đó, cần có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp muốn đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ, các hộ nông dân ở nơi khác có thể thuê đất sản xuất nông nghiệp hữu cơ; đồng thời có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các hộ nông dân và các chủ trang trại trong quá trình triển khai sản xuất nông nghiệp hữu cơ. - Nhà nước đã ban hành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về nông nghiệp hữu cơ, nhưng cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông tới người tiêu dùng, người kinh doanh, người sản xuất. Xác định cơ chế và cơ quan hỗ trợ thực hiện quy trình thủ tục và chi phí cấp Giấy chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam cho các vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ (bao gồm cả cấp lần đầu hoặc cấp lại). Đồng thời, cần truyền thông về quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoàn chỉnh tới người nông dân để họ dễ dàng áp dụng vào thực tiễn. Tương tự, các cơ quan liên quan hoàn thiện hệ thống quản lý sản xuất và sản phẩm hữu cơ, cơ chế cấp chứng nhận chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, cơ chế thanh tra, giám sát quá trình sản xuất và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần ban hành chiến lược phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; ban hành hướng dẫn triển khai cụ thể Nghị định số 109. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cần hoàn thiện và triển khai Đề án sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cả nước. Trong đề án phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ của quốc gia, cần ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy nông nghiệp và phát triển nông thôn toàn diện và hiệu quả hơn. Trong đó, cần cụ thể các chính sách hỗ trợ về vốn đầu tư ban đầu, về lãi suất ưu đãi, về hỗ trợ giải pháp khoa học kỹ thuật canh tác, hỗ trợ đào tạo cho người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Các chính sách khuyến khích tham gia canh tác nông nghiệp hữu cơ theo hướng bền vững cần đảm bảo cho người nông dân dễ dàng tiếp cận, đảm bảo cho họ khả năng có thu nhập ổn định và cao hơn so với canh tác thông thường.  Chính sách nghiên cứu và đào tạo về sản xuất nông nghiệp hữu cơ - Thị trường là yêu cầu quan trọng nhất cho phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, do vậy Nhà nước cần giao Bộ Thương mại qua hệ thống thương vụ tìm hiểu thị trường, yêu cầu về chủng 367
  14. loại sản phẩm, tiêu chuẩn chất lượng, số lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ để có thể giúp doanh nghiệp đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. - Tổ chức nghiên cứu hệ thống chính sách, quy chuẩn, tiêu chuẩn, chứng nhận chất lượng và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của các nước để rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hoạch định chiến lược phát triển và lựa chọn ngành hàng thích hợp. - Đánh giá toàn diện về kinh tế, tổ chức, quản lý, thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của các doanh nghiệp hiện đang sản xuất để tìm ra các khó khăn, vướng mắc đề xuất giải pháp phù hợp cho phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong thời gian tới. - Trên cơ sở tài liệu của nước ngoài, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam cần sớm biên soạn tài liệu kỹ thuật - khuyến nông phục vụ sản xuất nông nghiệp hữu cơ. - Về đào tạo, các trường đại học chuyên vềnông nghiệp sớm mở thêm môn học về sản xuất nông nghiệp hữu cơ tiến tới hình thành chuyên ngành đào tạo về nông nghiệp hữu cơ trong tương lai. Bằng nguồn kinh phí trong nước và thông qua dự án hợp tác quốc tế, các viện nghiên cứu và trường đại học lựa chọn gửi sinh viên đi đào tạo thạc sỹ/tiến sỹ về lĩnh vực này ở nước ngoài.  Về tăng cường năng lực hoạt động của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam - Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ cần thông qua các doanh nghiệp có mô hình thành công, giúp họ quảng bá, giới thiệu sản phẩm, qua đó nâng cao sự hiểu biết và quan tâm của toàn xã hội, nhất là các cơ quan quản lý đến sản phẩm của nông nghiệp hữu cơ. - Hiệp hội cần xây dựng mạng lưới cộng tác viên trong và ngoài nước, các tổ chức NGOs để cập nhật thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận xu thế phát triển nông nghiệp hữu cơ của các nước, các công nghệ mới và nhất là các quy chuẩn, tiêu chuẩn mà mỗi nước nhập khẩu đề ra.  Về hợp tác quốc tế - Với một nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện đại, có chứng nhận thì Việt Nam là nước đi sau rất nhiều quốc gia. Do vậy, việc trao đổi kinh nghiệm, đào tạo nguồn lực, hỗ trợ phát triển thị trưởng và kiểm soát chất lượng rất cần sự hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế. Chúng ta có thuận lợi là IFO M đang quan tâm đến các nước đang phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đề nghị IFOAM hỗ trợ Việt Nam trong việc hoàn thiện thể chế, đề xuất chính sách, tăng cường năng lực về kiểm soát chất lượng;giúp các doanh nghiệp Việt Nam giao lưu, học hỏi các doanh nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời và thành công tại các quốc gia khác nhau. Đề nghị kết nối trang web của Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam với trang web của IFO M để nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiếp cận nhiều hơn và nhanh hơn với cộng đồng quốc tế. 4.4. Một số đề xuất, ki n nghị khác - Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cần phối hợp ban hành chính sách và giải pháp cụ thể thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn. Để phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Hà Nội, cần xây dựng được một số mô hình doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hữu cơ có quy mô lớn, áp dụng công nghệ nông nghiệp hiện đại, quản lý tiên tiến. Muốn vậy, Hà Nội cần có các giải pháp thu hút các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính đầu tư vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Hiện tại, số lượng các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp của Hà Nội còn rất ít. Trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp là không có sẵn 368
  15. quỹ đất có quy mô đủ lớn để xây dựng mô hình sản xuất theo quy mô công nghiệp có ứng dụng công nghệ hiện đại. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp lợi nhuận đầu tư vào nông nghiệp thường thấp hơn so với đầu tư vào các lĩnh vực khác và có nhiều rủi ro trong quá trình canh tác. Nguồn lao động nông nghiệp có chất lượng, có giáo dục và đào tạo tốt cũng không sẵn có cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, cần có các chính sách giải quyết được các trở ngại trên thì mới thu hút được các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội có nhiệm vụ tạo lập các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ thành công làm mô hình điểm tạo hiệu ứng lan tỏa sang những người nông dân khác. - Sở Tài nguyên và Môi trường cùng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cần xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 có tầm nhìn dài hạn đến năm 2050, trong đó quy hoạch cụ thể các vùng dành cho phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Chỉ có quy hoạch cụ thể và thực hiện nghiêm túc quy hoạch đã duyệt mới mang lại sự an tâm cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, người nông dân cũng an tâm khi chuyển đổi sang canh tác hữu cơ. Thành phố cần quy hoạch quỹ đất đủ lớn ở những nơi đủ điều kiện để sản xuất nông nghiệp hữu cơ và thu hút doanh nghiệp vào đầu tư. Dựa vào vị trí địa lý thuận lợi của mỗi địa phương để xây dựng mỗi huyện một vùng chuyên canh một sản phẩm mang tính đặc trưng. Cụ thể, quy hoạch cần dựa trên nghiên cứu điều kiện đất đai về thổ nhưỡng và nguồn nước hiện chưa hoặc ít bị ô nhiễm và còn thích hợp cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội. Đương nhiên, quy hoạch vùng chuyên canh cũng là điều kiện quan trọng để các hộ nông dân trong vùng yên tâm chuyển đổi sang canh tác hữu cơ theo sự dẫn dắt của doanh nghiệp nông nghiệp là hạt nhân. - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cần rà soát lại quy hoạch các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp trọng điểm; xác định các vùng sản xuất nông nghiệp hữu cơ đầy đủ; các vùng sản xuất theo hướng gia tăng yếu tố hữu cơ, giảm bớt vô cơ để bảo vệ môi trường. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cùng với chính quyền cấp huyện cần tăng cường phối hợp trong khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trên vùng đã quy hoạch. Chính quyền địa phương huyện, xã cần tập trung cán bộ trực tiếp hỗ trợ bà con nông dân xây dựng mô hình sản xuất sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trên vùng đã quy hoạch của địa phương như: vùng trồng lúa hữu cơ, bưởi hữu cơ, trồng rau hữu cơ, vùng chăn nuôi gà theo hướng hữu cơ của huyện Ba Vì, vùng chăn nuôi bò hữu cơ… Cơ quan quản lý nông nghiệp và chính quyền địa phương cần chủ động sử dụng kinh phí do Ngân sách Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí để xác định các vùng, khu vực đủ điều kiện sản xuất hữu cơ: điều tra cơ bản, khảo sát địa hình, phân tích mẫu đất, mẫu nước, mẫu không khí do cấp có thẩm quyền phê duyệt. Xác định kinh phí cải tạo đất ban đầu và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất hữu cơ để đảm bảo đầu tư cho các dự án chuyển đổi sang canh tác hữu cơ. - Chính sách đất đai cần sửa đổi theo hướng cho phép chuyển nhượng dễ dàng quyền sử dụng đất, cho phép tích tụ và tập trung đất nông nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp có thể nhanh chóng nhận được quyền sử dụng đất có quy mô lớn đủ để đầu tư mô hình kinh doanh theo hướng công nghiệp. Chính sách tạo điều kiện dễ dàng trong tích tụ và tập trung ruộng đất cũng khuyến khích các hộ nông dân làm ăn tốt có thể mở rộng diện tích và quy mô canh tác thành trang trại hoặc hộ sản xuất lớn. Để nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chính quyền địa phương cần có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình thuê đất để phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ. 369
  16. - Chính quyền các cấp của Hà Nội và các cơ quản lý nông nghiệp nghiên cứu cụ thể hóa các quy định của Nghị định số 109 của Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ thành các chính sách và quy định cụ thể của Hà Nội. Đặc biệt, cần khẩn trương xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp hữu cơ cho Hà Nội. Trong ban hành và thực thi các chính sách hỗ trợ, chính quyền địa phương Hà Nội cần đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ, giảm chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp và người nông dân chấp nhận chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ban hành chính sách khuyến khích chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ với khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước cho cải tạo đất, nguồn nước ban đầu cho các doanh nghiệp và người nông dân làm dự án sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, cần có chính sách cho vay ưu đãi vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ với thời hạn 3 đến 5 năm. Có chính sách ưu đãi về thuế, giảm thuế và miễn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hữu cơ. - Đẩy mạnh tín dụng cho vay theo chuỗi giá trị nông nghiệp: (i) hoàn thiện khung pháp lý để phát triển cung ứng đồng bộ các sản phẩm dịch vụ tài chính mới nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng với quy mô lớn và dài hạn hơn cho nông dân, trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn; (ii) xây dựng cơ chế chính sách kết hợp chặt chẽ giữa các chương trình cho vay và bảo hiểm nông nghiệp theo chuỗi giá trị nông nghiệp. - Để hỗ trợ phát triển thị trường, thành phố cần đầu tư tổ chức các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức của người tiêu dùng. Cùng với đó là việc xây dựng các cơ chế khuyến khích cửa hàng, siêu thị chuyển sang kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ thu mua sản phẩm bảo đảm đầu ra cho nông nghiệp hữu cơ phát triển ổn định… - Các cơ quan có trách nhiệm trong quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm của Hà Nội như quản lý thị trường, chi cục thú y… cần nâng cao trách nhiệm, năng lực và đổi mới cơ chế quản lý nhằm kiểm soát được chất lượng hàng nông sản lưu thông trên thị trường, loại bỏ được các nông sản có chất cấm độc hại, tạo điều kiện các các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ có thể cạnh tranh được với các hàng nông sản chất lượng kém giá rẻ. Kiểm soát được nông sản kém chất lượng sẽ tạo cơ hội thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tốt cho sức khỏe con người. - Các cơ quan quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Hà Nội cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ, quản lý chặt chẽ tiêu chuẩn chất lượng của các vật tư đầu vào hữu cơ; kiểm soát quá trình sơ chế, chế biến, bảo quản sản phẩm hữu cơ, đảm bảo chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đúng như cam kết. - Các cơ quan chức năng bao gồm Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trung tâm khuyến nông cần hỗ trợ người nông dân và doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hữu cơ xây dựng thương hiệu tập thể cho sản phẩm hữu cơ, xây dựng chỉ dẫn địa lý. Gắn mã QR code để truy xuất nguồn gốc sản phẩm hữu cơ. Đặc biệt, cần nâng cao hiệu quả của hệ thống khuyến nông, các cán bộ khuyến nông có trách nhiệm tuyên truyền nâng cao nhận thức về lợi ích của phương thức canh tác hữu cơ, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho người nông dân, là những yếu tố thúc đẩy người nông dân áp dụng canh tác hữu cơ. Ngành nông nghiệp cần ban hành quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoàn chỉnh để người nông dân dễ nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn canh tác. Cán bộ khuyến nông trực tiếp hỗ trợ kỹ thuật cho người nông dân canh tác hữu cơ. Đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo tiêu 370
  17. chuẩn Việt Nam và Quốc tế. 100% số hộ nông dân, người sản xuất trực tiếp trong vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Thành phố cần được tập huấn về kỹ thuật, kỹ năng, nhận thức hiểu biết về tiêu chuẩn, tiêu chí nông nghiệp hữu cơ. Đi đôi với tập huấn kỹ thuật canh tác cho nông dân, qua đó, từng bước thay đổi tư duy sản xuất của người nông dân, cán bộ kỹ thuật nông nghiệp cần thường xuyên hỗ trợ họ trong toàn bộ quá trình sản xuất, đặc biệt là công tác phòng trừ dịch bệnh. - Sở Khoa học và Công nghệ có chính sách ưu tiên kinh phí khoa học, khuyến nông để thực hiện đề tài nghiên cứu, dự án khuyến nông, đặc biệt về giống kháng sâu bệnh, phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thuốc thú y thảo mộc. Các cán bộ nông nghiệp như khuyến nông, thú y cần thực hiện hiệu quả chức năng thông tin tư vấn cho người nông dân, hỗ trợ và đào tạo kiến thức sản xuất hữu cơ cho người nông dân. Cơ sở sản xuất kinh doanh sản phẩm hữu cơ hoặc vật tư đầu vào phục vụ cho sản xuất hữu cơ được ưu tiên hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư đối với nông nghiệp, nông thôn đã được ban hành gồm: chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chính sách hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp; chính sách liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cánh đồng lớn; chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn; chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn; chính sách cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch. - Chính quyền địa phương huyện xã có trách nhiệm tạo điều kiện hình thành các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ thành công của người nông dân tiên phong hoặc chủ trang trại. Đồng thời, có trách nhiệm vận động những người nông dân khác học tập chuyển đổi theo sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ để lan tỏa mô hình kinh doanh thành công trong vùng sản xuất tập trung. Vai trò của chính quyền địa phương có tính chất quyết định trong vận động những người nông dân địa phương tham gia dự án phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ. - Đầu tư, nâng cấp Trung tâm Phân tích và chứng nhận chất lượng sản phẩm nông nghiệp Hà Nội đủ năng lực triển khai sản xuất, kiểm định, cấp giấy chứng nhận sản phấm nông nghiệp, đạt tiêu chuấn hữu cơ theo yêu cầu trong nước và quốc tế. Nâng cao uy tín của Trung tâm trong chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. - Sở Công thương xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách và hoạt động thúc đẩy thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Xây dựng và thực hiện các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức, hiểu biết của cộng đồng người dân về nông nghiệp hữu cơ. Xây dựng và thực hiện các chương trình khuyến khích tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, truyền thông quảng bá các thương hiệu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, qua đó xây dựng lòng tin của người dân nội thành đối với các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ do các vùng sản xuất tập trung ngoại thành cung cấp. Tạo các điều kiện phát triển các chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp thương mại có chuỗi cửa hàng thực phẩm hữu cơ với người sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng và thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và thực thi các chính sách, pháp luật đã được ban hành nhằm giảm thiểu hành vi sản xuất nông nghiệp không an toàn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ trong bà con nông dân tại các khu vực quy hoạch phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống hành vi kinh doanh nông sản không an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm của những người kinh doanh, bán buôn và bán lẻ nhằm thúc đẩy họ chuyển sang kinh doanh sản phẩm nông nghiệp an toàn và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. 371
  18. - Hội Nông dân thành phố phối hợp chặt chẽ với các quận, huyện, cùng Hội Nông dân các cấp cần tập trung vào nông sản, sản phẩm làng nghề có thế mạnh tại địa phương để phát triển, xây dựng thương hiệu, quảng bá, giới thiệu, xúc tiến thương mại; phối hợp với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng của các hội, đoàn thể nhằm hỗ trợ nông dân và các hợp tác xã phát triển sản xuất theo hướng hiệu quả, bền vững. Hội Nông dân có vai trò làm trung gian trong liên kết giữa doanh nghiệp và nhà nông. Liên kết đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ các thỏa thuận trong các hợp đồng. Vì vậy, nâng cao ý thức pháp luật trong liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản là hết sức quan trọng. Tham gia liên kết là các hộ nông dân, cơ sở chế biến nhỏ nên hạn chế về thông tin và trình độ tham gia liên kết. Đặc biệt, trong soạn thảo và thực thi hợp đồng liên kết sẽ phát sinh nhiều vấn đề về pháp lý và kinh tế do hoạt động sản xuất nông nghiệp chịu nhiều tác động khách quan, kỷ luật trong thực thi pháp luật về kinh tế thấp. Vì vậy, khi triển khai các hoạt động liên kết không tránh khỏi những lúng túng. Trong bối cảnh trên, hỗ trợ các tác nhân tham gia liên kết trở thành yêu cầu mang tính cấp thiết. Các cơ quan quản lý nhà nước, hội nông dân địa phương tác động tương hỗ và có uy tín trong các quan hệ liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp. - Các hiệp hội ngành hàng cần đóng vai trò là đầu mối phối hợp liên kết dọc và ngang giữa các tác nhân tham gia vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Hiệp hội ngành hàng cần đóng vai trò là trung tâm điều phối xây dựng thương hiệu tập thể cho các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Hiệp hội cũng cần hỗ trợ hoặc trực tiếp giúp các mô hình kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ làm các thủ tục cấp chứng nhận sản phẩm hữu cơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alexopoulos, G., Koutsouris, A.and Tzouramani, I. (2010, July), Should I stay or should I go? Factors affecting farmers‟ decision to convert to organic farming as well as to abandon it, In 9th European IFSA Symposium, Vienna (Australia), pp.1083-1093. 2. Al-Jabri, I. M.and Sohail, M. S. (2012), Mobile banking adoption: Application of diffusion of innovation theory, Journal of Electronic Commerce Research, 13(4), pp.379-391. 3. Altieri, M. A., Nicholls, C. I.and Montalba, R. (2017), Technological approaches to sustainable agriculture at a crossroads: an agroecological perspective, Sustainability, 9(3), pp.349. 4. Amin, M. K. and Li, J. (2014, June), Applying Farmer Technology Acceptance Model to Understand Farmer's Behavior Intention to use ICT Based Microfinance Platform: A Comparative analysis between Bangladesh and China, In WHICEB, pp.31. 5. Aoki, M. (2014), Motivations for organic farming in tourist regions: a case study in Nepal, Environment, development and sustainability, 16(1), pp.181-193. 6. Anonymous (2002), Position on genetic engineering and genetically modified organisms, International Federation of Organic Agriculture Movements (IFOAM), Bonn, pp.4. 7. Arias-Estévez, M., López-Periago, E., Martínez-Carballo, E., Simal-Gándara, J., Mejuto, J. C.and García-Río, L. (2008), The mobility and degradation of pesticides in soils and the pollution of groundwater resources, Agriculture, Ecosystems & Environment, 123(4), pp.247-260. 372
  19. 8. Arunrat, N., Wang, C., Pumijumnong, N., Sereenonchai, S.and Cai, W. (2017), Farmers' intention and decision to adapt to climate change: A case study in the Yom and Nan basins, Phichit province of Thailand, Journal of Cleaner Production, 143, pp.672-685. 9. Asadollahpour, A., Najafabadi, M. O.and Hosseini, S. J. (2016), Modeling behavior pattern of Iranian organic paddy farmers, Paddy and water environment, 14(1), pp.221-229. 10. Aubert, B. A., Schroeder, A.and Grimaudo, J. (2012), IT as enabler of sustainable farming: An empirical analysis of farmers' adoption decision of precision agriculture technology, Decision support systems, 54(1), pp.510-520. 11. Azam, M. S.and Banumathi, M. (2015), The role of demographic factors in adopting organic farming: A logistic model approach, International Journal, 3(8), pp.713-720. 12. Azam, M. S.and Shaheen, M. (2019), Decisional factors driving farmers to adopt organic farming in India: a cross-sectional study, International Journal of Social Economics. 13. Baker, S., Thompson, K. E., Engelken, J.and Huntley, K. (2004), Mapping the values driving organic food choice, European journal of marketing. 14. Borges, J. A. R., Lansink, A. G. O., Ribeiro, C. M.and Lutke, V. (2014), Understanding farmers‟ intention to adopt improved natural grassland using the theory of planned behavior, Livestock Science, 169, pp.163-174. 15. Bowler, I. R. (1992), Sustainable agriculture'as an alternative path of farm business development. 16. Bretveld, R. W., Thomas, C. M., Scheepers, P. T., Zielhuis, G. A.and Roeleveld, N. (2006). Pesticide exposure: the hormonal function of the female reproductive system disrupted?, Reproductive Biology and Endocrinology, 4(1), pp.30. 17. Carvalho, F. P. (2006), Agriculture, pesticides, food security and food safety, Environmental science & policy, 9(7-8), pp.685-692. 18. Chouichom, S.and Yamao, M. (2010), Comparing opinions and attitudes of organic and non- organic farmers towards organic rice farming system in north-eastern Thailand, Journal of Organic Systems, 5(1). 19. Cook, A. J.and Fairweather, J. R. (2003), New Zealand farmer and grower intentions to use gene technology: Results from a resurvey. 20. Đặng Thị Hoa và cộng sự (2013), Ứng xử của người nông dân vùng ven biển với biến đổi khí hậu tại xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp. 21. Deng, J., Sun, P., Zhao, F., Han, X., Yang, G.and Feng, Y. (2016), Analysis of the ecological conservation behavior of farmers in payment for ecosystem service programs in eco- environmentally fragile areas using social psychology models, Science of the Total Environment, 550, pp.382-390. 22. Djamaludin, M. D. (2018), Analysis Intention Of Farmer Card Utiliization Using Theory Of Planned Behavior, Journal of Consumer Sciences, 3(2), pp.16-26. 23. Fenner, K., Canonica, S., Wackett, L. P.and Elsner, M. (2013), Evaluating pesticide degradation in the environment: blind spots and emerging opportunities, science, 341(6147), pp.752-758. 373
  20. 24. Gifford, K., Bernard, J. C., Toensmeyer, U. C.and Bacon, J. R. (2005), An experimental investigation of willingness to pay for non-GM and organic food products (No. 378-2016-21373). 25. Goldberger, J. R. (2008), Non-governmental organizations, strategic bridge building, and the “scientization” of organic agriculture in Kenya, Agriculture and Human Values, 25(2), pp.271-289. 26. Ngô Thị Phương Lan (2017), Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, 2(33) 27. Nguyễn Duy Chinh, Nguyễn Thanh Sơn, Lại Nhất Duy (2016), Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định việc tham gia bảo hiểm trồng lúa của hộ nông dân huyện Cần Đước, Tỉnh Long An, Tạp chí Khoa học Đại học Mở TP. H Chí Minh, 50(5). 28. Nguyễn Thế Đặng và cộng sự (2012), Giáo trình Nông nghiệp hữu cơ, NXB Nông nghiệp. 374
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2