HOÀNG QUY-MỘT VẺ ĐẸP

THẦM LẶNG

một tác phẩm của Hoàng Quy

Căn gác xép được cải tạo thành nhà cấp 4 trên tầng 2, vốn là mặt bằng

sân giời của dãy nhà ngang xưa là ga ra ôtô, nhà bếp, nơi ở của những

người giúp việc một gia đình doanh nhân hay công chức ăn lương cao

thời Pháp thuộc trên một con phố cũ - phố Triệu Việt Vương, Hà Nội.

Đó là nơi cư ngụ và cũng là “xưởng họa” của gia đình họa sĩ Hoàng

Quy đã từng sống thầm lặng ngót nửa thế kỷ, kể từ thời kinh tế thị

trường.

Nay, bao đổi thay đến ngỡ ngàng. Chỉ cần bước xuống những bậc cầu

thang, rời căn nhà ra phố là đã thấy cả một xã hội thương trường đầy

màu sắc, những dòng người dòng xe như những dòng sông chảy gấp

gáp, tấp nập. Ai cũng muốn vượt lên đồng bào, đồng loại để được giàu

sang hơn người.

Nhưng với họa sĩ như Hoàng Quy đã ở tuổi “bát tuần thượng thọ”, thì

sự lặng lẽ, dửng dưng với cặp mắt nhìn cuộc sống đang diễu hành đến

chóng mặt, thì tốt nhất nên im lặng, “làm ngơ” là thượng sách. Sáng,

đọc báo, xem màn hình nhỏ để biết thông tin, thời tiết, thời cuộc.

Chiều, ông tản bộ, ngồi ghế đá công viên dưỡng sinh, suy ngẫm chuyện

đời. Thời gian còn lại, thanh thản, tỉnh táo thì vẽ nếu có cảm hứng và ý

tưởng mới nảy ra trong đầu.

Sinh năm 1928. Tu nghiệp tại Đại học Mỹ thuật Liên Xô cũ mang tên

Suricốp, những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ XX. Tốt nghiệp về nước

(1967) ông làm mỹ thuật sân khấu cho Đoàn kịch nói Trung ương. Dù

bận rộn với nhiệm vụ của Đoàn, nhưng ông vẫn dành thì giờ sáng tác,

một nhu cầu không thể thiếu của đời sống tinh thần. Đều đặn ông có tác

phẩm gửi tham dự các triển lãm trong và ngoài nước. Học khoa Sơn

dầu Hội họa phương Tây, nhưng với ông còn có nghĩa là để biết và

tham khảo các nền văn hóa bên ngoài, vừa tự đo mình trong tương quan

chung của cuộc giao lưu, vừa tiếp biến tinh hoa của người mà làm giàu

cho mình. Không phải học bị động, choáng ngợp và “Âu hóa”. Vì vậy,

ngoài sơn dầu, ông còn say mê những chất liệu dân tộc như lụa, sơn

mài, khắc gỗ, màu nước - giấy dó... Kết quả ông đã tạo ra được một gia

tài nghệ thuật giàu có đa dạng, mang rõ dấu ấn cá tính - dân tộc, cộng

với sở trường, tài năng mà làm nên cái đẹp: Sương sớm Hạ Long, Quê

hương, Những cánh buồm nâu (Lụa 1985, 1994, 1992); Bác Hồ quan

sát trận địa trong chiến dịch Biên giới (Sơn mài 1994); Chân dung thiếu

nữ Nga, Mùa xuân bên nhà sàn cao nguyên Hà Giang, Thiếu nữ với

mùa Thu, Sơn dầu những năm 80, 90 thế kỷ XX; Hoa và bướm, Đảo

Cát Bà, Cây sa-mu Hà Giang (Màu bột, 2007)...

ở tuổi ngoại bát tuần (83), dù có nghỉ ngơi, không vẽ, không sáng tác

nữa, thì ông cũng đã hoàn thành tốt đẹp sứ mệnh thiêng liêng của người

nghệ sĩ - công dân. Một gia tài tinh thần với những con số tác phẩm

đáng nhớ, bút pháp có phong cách riêng, đầy ấn tượng, đã là phần

thưởng danh dự cao quý, xứng đáng với niềm tự hào của một con người

đã hiến dâng trọn đời cho cái đẹp. Chỉ riêng bức Chân dung thiếu nữ

Nga (Sơn dầu 1961) của ông, có nhà phê bình đã đưa ra một so sánh

giàu liên tưởng thật lý thú, rằng nếu các cố họa sĩ tiền bối tài năng như

Trần Văn Cẩn có Em Thúy (Sơn dầu 1943), Huỳnh Văn Gấm có Cô

Liên (sơn mài 1962) thì Hoàng Quy cũng là người đồng hành, tương

đắc, đã nối tiếp xứng đáng hơi thở ấy: mực thước, hoàn mỹ, sáng tạo

với vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống, rất có hồn qua chân dung Cô gái

Nga.

Hoàng Quy, người họa sĩ sống lặng lẽ với cái đẹp đã ra đi cũng lặng lẽ

và giản dị. Ông đã lao động say sưa trọn đời vì lý tưởng cái đẹp: cái

đẹp vì con người, vì cuộc sống, đúng với nghĩa Chân - Thiện - Mỹ của

nghệ thuật.

Trần Thức