
!
!
21
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM SAU 30 NĂM ĐỔI MỚI:
BỨC TRANH HIỆN TẠI VÀ CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC
ThS. Đàm Bích Hà
TS. Hà Thị Thúy Vân
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và
WTO. Việc hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu mối quan hệ thương mại với các
nước, các tổ chức là một cơ hội để đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế
phát triển và đây cũng là xu hướng tất yếu. Rõ ràng, việc hội nhập của Việt Nam vào
nền kinh tế thế giới trong thời gian qua đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế. Ngày nay,
hợp tác và liên kết kinh tế trên bình diện toàn cầu cũng như khu vực là xu thế tất yếu.
Tất cả các quốc gia, dù lớn, dù nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để hội nhập kinh tế
quốc tế một cách hiệu quả nhất. Bằng những nỗ lực vượt bậc, Việt Nam đã và đang
từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng, là thành viên quan trọng có trách nhiệm, của
nhiều diễn đàn, tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Thông qua đó, chúng ta đã tận
dụng tốt ngoại lực, phát huy lợi thế, trong từng bước phát triển của mình. Tuy nhiên,
trong chặng đường đã qua, Việt Nam cũng gặp không ít những trở ngại, thách thức,
trong đó có những vấn đề xuất phát từ bối cảnh khách quan nhưng cũng không ít
những yếu tố mang tính chủ quan. Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá kinh tế trong bối
cảnh ngày nay là không thể đảo ngược, để hội nhập thành công, hội nhập “trong hạnh
phúc” đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nhận diện những thuận lợi, khó khăn trong
những bước hội nhập của mình, qua đó tiếp tục có những đổi mới trong tư duy, trong
hành động, không ngừng nâng cao nội lực, nhằm xác lập thế và lực mới của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Từ khóa: Hội nhập kinh tế, thách thức tăng trưởng
Abstract
Currently, Vietnam has become a full member of ASEAN, APEC, ASEM and
WTO. The international economic integration, trade relationships expand with other
countries and organizations are opportunities to make Vietnam become a developed
economy and this is also the inevitable trend. Clearly, the integration of Vietnam into
the world economy in recent years has boosted exports, attracted foreign direct
investment and contributed significantly to economic growth. Today, economic
cooperation and integration on a regional scale as well as on global is an inevitable

!
22
trend. All countries, whether large or small, strong or weak, are looking to the efficient
international economic integration. With these outstanding efforts, Vietnam has been
gradually deeper integrated, become an important member of many regional and
global economic forums and organizations. As a result, Vietnam have used their
external resources effectively, promoted their advantages, in every step of their
development. However, in the past, Vietnam faced obstacles and challenges, including
the problems rooted from the objective contexts but also subjective factors. Trend in
economic integration as well as economic globalization today is irreversible, for
successful integration, Vietnam have to constantly identify the advantages and
disadvantages in their integration journey, thereby to continue the innovation in mind
and in action, to constantly improve the internal resources, in order to establish the
new position and strength of Vietnam in the international arena.
Key words: Economic integration, threats growth
1. Đặt vấn đề
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua sau
ngày đất nước hoàn toàn thống nhất đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu quan
trọng. Từ một quốc gia phải trải qua 30 năm chiến tranh với bao tổn thất về mọi mặt,
Việt Nam đã và đang khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế, là một quốc
gia yêu chuộng hoà bình, tích cực, có trách nhiệm trong hợp tác phát triển. Những
thành công của chúng ta trong chặng đường vừa qua, đã và đang được cộng đồng quốc
tế ghi nhận và đánh giá cao. Xu hướng hội nhập trong kinh tế là một tất yếu khách
quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh một thế giới ngày nay với những yêu đòi hỏi các quốc
gia trong đó có Việt Nam, cần tích cực và chủ động hơn nữa trong những hành động
của mình. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là đã đến lúc, chúng ta cần tổng kết, đánh giá
những thành công, hạn chế, rút ra bài học cho mình, làm cơ sở cho những bước hội
nhập thành công trong những chặng đường tiếp theo. Với quan điểm và cách tiếp cận
đó, bài viết xin được điểm lại những dấu ấn, thành tựu quan trọng trong hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam trong 30 năm qua cũng như tổng kết những bài học cho tiến
trình hội nhập của Việt Nam trong những chặng đường phía trước.
2. Quá trình nhận thức và triển khai các chính sách thúc đẩy quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Gần 30 năm qua, mặc dù tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh
chóng, phức tạp nhưng trong các kỳ Đại hội của Đảng, Đảng ta luôn có những nhận
thức xác đáng về thời đại, về thế giới và tình hình khu vực để trên cơ sở đó, định
hướng những chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp, bám sát tình hình.

!
!
23
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 mở đầu cho thời kỳ đổi
mới đất nước, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền
kinh tế, đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và
khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế
trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một
cục diện, trật tự thế giới mới đang hình thành, trong đó các nước có chế độ chính trị
khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Đảng đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó
là điều kiện để chúng ta phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở.!
Đến Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) đã xác định rõ chủ trương “độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của
nước ta. Thực hiện chủ trương này, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều đối tác, dưới nhiều hình
thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hóa, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính
- tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật), tạo ra môi trường kinh doanh trong nước thuận
lợi và khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Thực tế giai đoạn đó cho thấy chủ trương
đúng đắn của Đảng đã đánh dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế.
Tháng 11-1996, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996-2000. Tới năm 2001, Nghị quyết
Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” theo nguyên tắc “bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng
01/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
05/02/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO. Nghị quyết đã nêu rõ các cơ hội và
thách thức của việc gia nhập WTO và đề ra các định hướng lớn để nền kinh tế nước ta
phát triển nhanh và bền vững sau khi gia nhập WTO. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP, ngày 27/2/2007, Chương trình hành động
của Chính phủ về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh

!
24
và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO”; giao các bộ, ngành, địa phương
triển khai các nhiệm vụ cụ thể nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa nước ta
bước vào giai đoạn phát triển mới.
Tháng 01-2011, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó
có chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân
về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ
được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với
yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu lại nền kinh tế.
Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả vững chắc.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995, ký kết Hiệp định Thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) vào năm 2000, gia nhập WTO vào tháng 01-2007
và tham gia 8 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương. Cụ thể, ta
đã cùng với các nước ASEAN ký các Hiệp định thương mại tự do giữa khối ASEAN
với các đối tác như Trung Quốc vào năm 2004, Hàn Quốc vào năm 2006, Nhật Bản
năm 2008, Ôt-xtrây-lia và Niu-Di-lân vào năm 2009, Ấn Độ năm 2009. Ngoài ra, ta đã
ký 2 FTA song phương là FTA Việt Nam - Nhật Bản năm 2008 và FTA Việt Nam -
Chilê năm 2011.
Việt Nam đã kết thúc đám phán, đang tiến hành rà soát pháp lý và chờ phê chuẩn
gồm Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu
(EU), với Liên minh Kinh tế Á Âu, với Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm
các nước Thụy Sỹ, NaUy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, FTA với Hàn Quốc và FTA
giữa khối ASEAN với Hồng Kông (Trung Quốc). Ngoài ra, ta cũng tích cực chủ động
tham gia sâu vào Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đã
đăng cai năm APEC 2006 và tiến tới sẽ đăng cai APEC năm 2017 với hàng trăm cuộc
họp từ cấp chuyên viên đến cấp cao.
3. Một số thành tựu của quá trình 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước, các tổ
chức quốc tế: Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và
WTO cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Việc gia nhập WTO
vào năm 2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với hơn 150
quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng của việc thực hiện chính
sách đối ngoại đổi mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia bình đẳng trong thương mại
với các nước trên thế giới.

!
!
25
Ngoài ra, ta đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ ở
khắp các châu lục, trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam và
doanh nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với
việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng tham gia sâu rộng
vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, dần có tiếng nói quan trọng với ý thức
trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị
trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình
kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục
vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được
hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành công trong quá trình đổi mới.
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại quốc tế: Nếu như tăng trưởng
GDP bình quân thời kỳ 1986-1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991-2011
đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao nhất trong
vòng 11 năm trước đó). Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới,
tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011-2014 giảm xuống còn 5,67%. Ngoài ra, có thể
nói thành tựu về tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận một cách rõ ràng nhất là đưa nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát
triển sau 30 năm đổi mới.
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam tăng đều qua các năm. Về xuất khẩu, quá trình tích cực, chủ động tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua đã giúp Việt Nam có điều kiện mở
rộng thị trường xuất khẩu dựa trên những lợi thế cạnh tranh: nguồn tài nguyên phong
phú, nguồn lực lao động dồi dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế - xã hội…
Nhờ đó, hoạt động xuất khẩu đã không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ,
cũng như mặt hàng xuất khẩu chủ lực và trở thành động lực chính, quan trọng cho sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Về quy mô, kim ngạch xuất khẩu không ngừng được tăng lên, đóng góp một
phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu
mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2014 đã cao gấp 187,5 lần; trong đó thủy sản gấp 63,4
lần; hạt tiêu gấp 42,9 lần; hạt điều gấp 200,8 lần; rau quả gấp 23,8 lần. Một số mặt
hàng tùy vào các thời kỳ sau mới xuất khẩu, nhưng năm 2014 đã đạt quy mô lớn, trong
đó có 22 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa trong giai đoạn tăng trung bình trên 15%/năm. Đặc biệt là thời kỳ từ sau khi
gia nhập WTO đến nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt quy mô lớn và tốc độ tăng

