
-
1
-
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VĂN MINH PHƯƠNG ĐÔNG

-
2
-
Dẫn nhập
Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ châu
Á và phần Đông Bắc châu Phi. Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến
những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể
không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa
mang màu sắc phương Đông. Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn minh có “bản sắc”
riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử,
chính trị, kinh tế, văn hoá,... phương Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử
thế giới.
Vấn đề thứ 1
Cơ sở cho sự hình thành văn minh phương Đông
Châu Á và Đông Bắc châu phi là nơi ra đời những nền văn minh cổ kính của phương Đông
nói riêng và của loài người nói chung. Ở đây đã xuất hiện những quốc gia chiếm hữu nô lệ tối
cổ xây dựng trên sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy.
1.
Điều kiện tự nhiên:
Những nền văn minh cổ kính đó xuất hiện trên lưu vực những con sông lớn như sông Nile
(Ai Cập), Tigris và Euphrates (Lưỡng Hà), sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) (Ấn Độ),
sông Hoàng Hà và Trường Giang (Trung Quốc)…
- Nhìn chung lưu vực các con sông nói trên là những vùng đồng bằng phì nhiêu rất thuận lợi
cho việc phát triển nông nghiệp. khí hậu ấm áp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ và dễ
canh tác đã cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển nông nghiệp thuận lợi.
- Người phương Đông cổ đại sống trên lưu vực các con sông từ thời nguyên thủy đã sớm phát
hiện và lợi dụng những thuận lợi đó để phát triển sản xuất. Cùng với nông nghiệp, thủ công
nghiệp cũng phát triển mạnh, xã hội sớm xuất hiện giai cấp và nhà nước.
Cụ thể:
* Ai Cập ở Đông Bắc châu Phi, là một thung lũng nằm dọc theo lưu vực sông Nile. Phía
tây giáp sa mạc Libi, phía đông giáp Hồng Hải, phía bắc giáp Địa Trung Hải, phía nam giáp
dãy núi Nubi và Ethiopia. Địa hình chia làm hai khu vực: Thượng Ai Cập ở phía nam là một

-
3
-
dãi thung lũng dài và hẹp, có nhiều núi đá. Hạ Ai Cập ở phía bắc là vùng châu thổ đồng bằng
sông Nile rộng lớn hình tam giác. Sông Nile là một trong những con sông dài nhất thế giới,
khoảng 6500km, với bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, phần chảy qua Ai Cập dài 700km. Hàng
năm nước lũ dâng khiến cho phù sa từ thượng nguồn tuôn xuống gia tăng màu mỡ cho đồng
bằng châu thổ, thuận lợi cho việc trồng trọt. Sông Nile cung cấp nguồn thực phẩm thủy sản dồi
dào cho sư dân và là con đường giao thông quan trọng nhất của vùng này. Do đất đai màu mỡ,
các loại thực vật như đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen, cây papyrus làm giấy… sinh trưởng và
phát triển quanh năm. Ai Cập có một quần thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong phú, đa
dạng : trâu bò, voi, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, hỗ, báo… các loại thủy sản cũng rất
nhiều, tạo thuận lợi cho nghề đánh cá..
* Lưỡng Hà: Lưỡng Hà là vùng bình nguyên giữa hai con sông Tigris và Euphrates, người
Hy Lạp cổ đại gọi là Mésopotamie. Từ xa xưa vùng này đã nổi tiếng là vùng đất phì nhiêu, rất
thuận lợi cho cuộc sống con người.
* Ấn Độ: Ấn Dộ là một bán đảo ở Nam Á, thời cổ - trung đại bao gồm cả các nước
Pakistan, Nepan, và Bangladesh ngày nay. Ấn Độ có sự đa dạng về địa hình và khí hậu ở các
vùng Bắc Ấn, Trung Ấn và Nam Ấn. Sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gange hay Gangga) đã tạo
nên những vùng đồng bằng màu mỡ, có vai trò rất quan trọng dẫn đến sự ra đời sớm của nền
văn minh nông nghiệp ở đây. Nhìn chung điều kiện tự nhiên Ấn Độ rất phức tạp, vừa có núi
non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú, khí hậu có vùng nóng ẩm
nhiều mưa, có vùng quanh năm tuyết phủ, lại có cùng sa mạc khô cằn nóng nực. Tính đa dạng
và phức tạp của thiên nhiên Ấn Độ, một mặt là điều kiện thuận lợi cho cư dân cổ tụ cư và phát
triển, mặt khác là những thế lực đè nặng lên số phận con người Ấn Độ khi nhận thức của họ
còn thấp kém.
* Trung Quốc: Lãnh thổ Trung Quốc mênh mông nên địa hình đa dạng và phức tạp. Phía
tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì
nhiêu, các sông lớn đều chảy ra Thái Bình Dương tạo nên khí hậu ôn hòa. Trong số 5.000 dòng
sông của nước này thì Hoàng Hà (dài 5.464km) và Dương Tử (dài 5.800) là hai con sông lớn
nhất . Tuy thường xuyên gây ra lũ lụt, nhưng Hoàng Hà và Dương Tử đã mang đến nguồn phù
sa bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển, mang
lại giá trị kinh tế cao. Từ xa xưa, những con sông này là những tuyến giao thông huyết mạch
nối liền các vùng trong lãnh thổ Trung Quốc. Các triều đại đã xuất hiện, tồn tại và lớn mạnh
trên lưu vực hai dòng sông này và xây dựng nên nền văn minh Trung Quốc độc đáo.
- Bên cạnh những thuận lợi nói trên, những con sông này lại bị ngăn cách bởi hệ thống núi non
trùng điệp và những vùng sa mạc mênh mông. Địa thế hiểm trở đó cùng với những phương
tiện giao thông hết sức hạn chế thời cổ đại đã làm cho các nền văn minh này xuất hiện và phát
triển một cách độc lập. Sự liên hệ buổi đầu hầu như không xảy ra, do đó mỗi nền văn minh đã
phát triển một cách độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Về mặt này, Ai Cập là một ví dụ điển
hình: Địa hình Ai Cập gần như đóng kín, phía Bắc và phía Đông giáp Địa Trung Hải và Hồng
Hải, phía Tây bị bao bọc bởi sa mạc Sahara. Ở Ấn Độ thì hai mặt Đông Nam và Tây Nam đều
tiếp giáp với Ấn Độ Dương, phía bắc án ngữ bởi dãy Hymalaya (tức là xứ Tuyết) thành một
vòng cung dài 2600km, trong đó có hơn 40 ngọn núi cao trên 7000m như những trụ trời.

-
4
-
2) Cơ sở dân cư:
Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên như vậy, cư dân ở phương Đông ra đời sớm và phát
triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quá trình hình thành các cộng đồng dân cư ở phương Đông diễn
ra rất đa dạng và phức tạp.
Cụ thể:
- Ai Cập: Ở lưu vực sông Nile từ thời đồ đá cũ đã có con người sinh sống. người Ai Cập thời
cổ là những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Do đi lại săn bắn
trên lục địa, khi đến vùng thung lũng sông Nile, họ định cư ở đây phát triển nghề nông và nghề
chăn nuôi từ rất sớm. Về sau, một chi của bộ tộc Hamites từ Tây Á xâm nhập vùng hạ lưu sông
Nile, chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây. Trải qua quá trình hỗn hợp lâu dài, người
Hamites và thổ dân đã đồng hóa với nhau, hình thành ra một tộc người mới, đó là người Ai
Cập.
- Lưỡng Hà: Người Sumer từ thiên niên kỉ IV.TCN đã di cư tới đây và sáng lập ra nền văn
minh đầu tiên ở lưu vực Lưỡng Hà, chung sống và đồng hóa với người Sumer. Ngoài ra còn rất
nhiều bộ lạc thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau ở các vùng xung quanh di cư đến. Trải hàng ngàn
năm, qua quá trình lao động, họ đã hòa nhập thành một cộng đồng dân cư ổn định và xây dựng
nên nền văn minh rực rỡ ở khu vực Tây Á.
- Ấn Độ: Cư dân Ấn Độ đa dạng về tộc người và ngôn ngữ. Có hai chủng tộc chính là người
Dravida chủ yếu cư trú ở miền Nam, và người Aria cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều
tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập cũng sinh sống ở đây…
- Trung Quốc: Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ xa xưa, vùng châu thổ Hoàng Hà đã là quê
hương của các bộ tộc Hạ, Thương, Chu. Họ chính là tổ tiên của dân tộc Hán – người sáng tạo
ra nền văn minh Hoa Hạ.
Phía Tây và Tây Nam là nơi sinh sống của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Hán – Tạng, Môn –
Khmer
Phía Bắc, Đông Bắc là nơi cư trú của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Tungut. Con cháu của họ
sau này là các dân tộc ít người như Mông Cổ (lập ra nhà Nguyên), Mãn (lập ra triều Mãn
Thanh), Choang, Ngô, Nhĩ… các dân tộc trên đất này còn rất nhiều dân tộc khác sinh sống,
cùng người Hán xây dựng đất nước.
3) Cơ sở kinh tế:
- Về kinh tế, các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang ở
trình độ hết sức thấp kém. Với một trình độ sản xuất như vậy không cho phép các quốc gia cổ
đại phương Đông phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ của mình một cách thuần thục và điển
hình.
- Sự phát triển rất yếu ớt chế độ tư hữu ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng những tổ chức công xã
nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc nguyên thủy có thể coi là những nguyên nhân gây nên
tình trạng trì trệ, yếu kém của các nền văn minh cổ đại phương Đông.
4) Cơ sở chính trị-xã hội:

-
5
-
- Ở phương Đông ra đời và tồn tại một hình thức nhà nước đặc thù, nhà nước quân chủ chuyên
chế trung ương tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong tay nhà vua và một bộ máy quan lại
cồng kềnh, quan liêu.
- Các quốc gia cổ đại phương Đông đã duy trì lâu dài chế độ nô lệ gia trưởng và các hình thức
áp bức bóc lột kiểu gia trưởng nên vai trò của nô lệ trong xã hội chưa nổi bật.
Chính trên cơ sở như vậy mà nền văn minh phương Đông ra đời và phát triển và cũng
chính các yếu tố đó đã ảnh hưởng, chi phối tạo nên những nét đặc thù của nền văn minh
phương Đông.
Vấn đề thứ 2
Trình độ sản xuất và chinh phục tự nhiên
của các quốc gia phương Đông
Trên cơ sở điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân phương Đông cổ đại đã sớm biết lợi dụng
điều kiện tự nhiên để sản xuất, chế tạo công cụ lao động, chinh phục tự nhiên xây dựng những
nền văn minh đầu tiên trên thế giới.
- Muốn chinh phục được tự nhiên, con người phải có công cụ lao động, bởi công cụ lao động
là tiêu chí để đánh giá trình độ sản xuất của một xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy con người đã biết chế tạo công cụ lao động, từ những công cụ
thô sơ bằng đá, gốm đến những công cụ bằng đồng, sắt… đã cho phép con người tạo ra một
năng suất lao động ngày càng cao.
Người Ai Cập ngay từ thời Cổ vương quốc đã biết dùng cuốc bằng đá hoặc bằng gỗ để
trồng trọt, dùng liềm bằng đá để gặt lúa, dùng trâu bò để đập lúa. Thời Trung vương quốc,
người ta đã biết mở rộng các công trình thủy lợi thành một hệ thống rộng lớn với nhiều công
dụng khác nhau như điều tiết thủy lượng, dẫn, tháo nước để chống hạn và chống úng… người
Ai Cập còn biết xây hồ Mơrit thành một bể chứa nước lớn ăn thông với sông Nile, có khả năng
cung cấp nước cho một vùng rộng lớn có thể gieo trông hai vụ trong năm.
Ở Lưỡng Hà người ta đã xây dựng một hệ thống đê điều hoàn chỉnh gồm đập nước,
mương dẫn… như mạng nhện.Từ đầu thiên niên kỉ II, người Ấn Độ đã biết dùng lưỡi cày bằng
đá để cày ruộng.Còn ở Trung Quốc, thời Ân-Thương người ta dùng liềm bằng đá hoặc vỏ ngao
để gặt lúa, dùng lưỡi cày bằng gỗ. Sang thời Xuân Thu, người ta đã biết dùng những công cụ
bằng sát, có những lò luyện sắt có trên 300 công nhân.
Những công cụ bằng kim loại đã cho phép con người nâng cao năng suất lao động.
- Bên cạnh việc sáng tạo ra những công cụ lao động, cư dân cổ đại phương Đông cũng đã
đạt một trình độ tổ chức sản xuất tương đối cao.
Do yêu cầu phải hợp sức với nhau để xây dựng các công trình thủy lợi nên việc tổ chức
sản xuất là một công việc rất cần thiết để thống nhất kế hoạch, và tập trung sức sản xuất.
Ở Ai Cập vào thời Tân vương quốc, sản xuất đã được chuyên môn hóa và được phân công
tỉ mỉ. Có Thừa tướng là (Vidia) chịu trách nhiệm quan sát, điều hành sản xuất nông nghiệp
trong toàn quốc. việc tổ chức điều hành sản xuất trong toàn quốc có ý nghĩa sống càn đối với
các quốc gia phương Đông cổ đại, bởi vì nền văn minh phương Đông chủ yếu hình thành trên