
Folklore nư ớ c ngoài 71
S S f v x lT iN H t ur n k ho íĩn do ng và
1 ^ 1 á á l sợ HOÀ Glfil TRONG Tơ D(IY
FOLKLORE NƯ Ớ C NGOAl NGƯ Ờ I Ấ N ĐỘ
ói chung, ngư ờ i Ân Độ có mộ t xu
hư ớ ng chấ p n h ậ n lí do tồ n tạ i trong
thự c tế củ a nhữ ng th ế giớ i quan triế t họ c
và tôn giáo trên th ế giớ i. Họ cho rằ ng
nhữ ng tư tư ở ng khác nh au này dư ờ ng như
mâu th u ẫ n vố i nh au đề u dự a trên cái
Tuyệ t đố i. Q uan điể m này, vê m ặ t khách
quan dự a trên tư tư ở ng tấ t cả mọ i thứ trên
thê giớ i đề u là mộ t, và vê' m ặ t chủ quan
dự a trên sự p hả n ánh tấ t cả nhữ ng hành
độ ng củ a con ngư ờ i đề u bắ t nguồ n từ quan
điể m siêu hình và nguyên lí n h ấ t nguyên
luậ n.
Thự c tê cho thây là có nhiề u họ c thuyế t
triế t họ c khác nh au trê n th ế giớ i mâu
th uẫ n vớ i nhau, xuấ t hiệ n ở Ân Độ sau khi
Thích Ca ra đờ i và khi nhiề u th àn h thị
phát triể n ở lư u vự c sông Hằ ng. Sanjaya,
mộ t ngư ờ i theo chủ nghĩa hoài nghi, đã né
tránh sự đánh giá vớ i mọ i vân đê siêu hình.
Khi bị yêu cầ u trả lờ i, ông ta thư ờ ng nói
mộ t cách mơ hồ và không rõ ràng. R ấ t khó
nắ m đư ợ c ý nghĩa đúng đắ n trong các câu
trả lờ i củ a ông ta, nó g iố ng n h ư là m ộ t sự cô
gắ ng bắ t con lư ơ n bằ ng tay. Như ng
M a h av ira, ngư ờ i sá n g lậ p đạ o J a in a , đ ã cô
gắ ng vư ợ t ra khỏ i chủ nghĩa hoài nghi. Ong
tán th àn h họ c thu y ế t "N aya” và cố gắ ng
chứ ng minh tín h khả thi củ a nhữ ng quan
điể m về các vấ n đê chung đã dư ợ c chuâìn bị
mà ư u điể m củ a q uan điể m đúng đắ n dó
đư ợ c thêm vào.
HAJINE NAKAMURA
Trong các nhà triế t họ c An Độ cổ dạ i
này, Thích Ca M ầ u Ni là ngư ờ i đầ u tiên
xem xét mộ t cách kĩ lư ỡ ng vấ n đề này. Ông
đã phê phán các dạ i diệ n triế t họ c và tôn
giáo vê nhữ ng cuộ c tra n h luậ n không
ngừ ng về “nhữ ng cái liên quan đên tư
tư ở ng củ a họ ”(1). Và họ bị cho là đã vi phạ m
nhữ ng tộ i lỗ i đạ o đứ c, đó như là kế t quả
củ a sự đê tâm đế n các cuộ c tran h luậ n mà
trong đó các quan điể m siêu hình sẽ không
bao giò đư ợ c giả i quyế t. Bả n th ân Đứ c P hậ t
đã trán h tham gia vào nhữ ng cuộ c tran h
luậ n này(2) và cho rằ ng chúng thự c sự là vô
nghĩa đôi vớ i việ c đạ t đư ợ c sự Khai sáng<3).
Thích Ca M ầ u Ni đư ợ c xem là “luôn xa
rờ i tấ t cả các cuộ c tra n h luậ n” và “dạ y dỗ
sự tu hàn h khổ h ạ n h ” hay “bh ik khu s” vư ợ t
qua mọ i “prapanca” (nhữ ng cuộ c tranh
luậ n mà không có ích cho việ c đạ t dế n mụ c
tiêu củ a tôn giáo)”. Đứ c P h ậ t không nhấ n
m ạ nh rằ ng nhữ ng điêu m ình dạ y là Chân lí
Tuyệ t đố ì củ a vũ trụ và củ a nhữ ng ngư ờ i
khác. Vì thế , ông vẫ n giữ sự hài hoà vớ i
nhữ ng n hà triế t họ c khác. Trong các con
đư ờ ng hoà hợ p, ông dã đạ t đư ợ c và giác ngộ
về sự Khai sáng - th a n h th ả n trong tâm
hồ n. Trong trư ờ ng hợ p này, nhữ ng lờ i dạ y
củ a Đứ c P hậ t không thể so sánh vớ i nhữ ng
lờ i dạ y khác11. C húng ta không thể nói
rằ ng lờ i dạ y củ a ngư ờ i là “bằ ng”, “hơ n" hay
“kém" so vớ i nhữ ng cái khác. Sự so sánh sẽ
chỉ có thể có đư ợ c ở m ộ t’điể m chung dư ợ c
xem xét giữ a hai yế u tô. Nhữ ng lờ i dạ y củ a

78 HAJINE NAKAMURA
Phậ t không tán thành nhữ ng q uan điể m và
vai trò củ a các họ c thuyế t khác. Bả n th ân
Đứ c P hậ t dư ờ ng như đ ạ t đế n việ c nhậ n
thứ c vê lí do tồ n tạ i củ a các trư ờ ng phái
triế t họ c khác. T ấ t cả các nhà triế t họ c càng
gắ n vố i tư tư ở ng củ a riêng họ thì sẽ càng
sai lầ m. N hư ng phả i có mộ t sô' lí do trong
mỗ i ý kiế n mà chừ ng nào họ còn tin vào
nó(5>. Cũng theo Thích ca, P h ậ t đồ - nhữ ng
ngư ờ i muôn xa lánh mộ t kiêu q uan niệ m vê
triế t họ c - phả i suy ngẫ m vê bả n th ân họ
trong mọ i thờ i điể m, chông lạ i nhữ ng điêu
mà họ không hề có đị nh kiế n.
Mộ t quan điể m hư ớ ng vê các tôn giáo
khác có thê nhìn thấ y biêu hiệ n trong
M ahayana củ a đạ o P hậ t, đặ c biệ t là trong
kinh “S addha rm ap u n d arik asu tra ”((;). Ngay
cả các họ c thu y ế t th ấ p hơ n, kinh Phậ t
(Sutra) cũng cho rằ n g đó là nhữ ng “upayas”
có nghĩa là Đứ c P h ậ t dạ y con ngư ờ i đi vào
chính đạ o. Tư tư ở ng này đư ợ c tiế p tụ c ỏ
thờ i Shingon th ầ n bí (P hậ t giáo bí truyề n).
Trong thờ i Shingon, ngay cả nhữ ng giáo
điêu dị giáo củ ng đư ợ c xem như mộ t phầ n
củ a Phậ t giáo. Phậ t giáo không phả i là mộ t tôn
giáo đặ c biệ t mâu thuẫ n vớ i các tôn giáo khác
nhữ ng lạ i mâu thuầ n voi chính nó, vê Chân h'
Tuyệ t đổ i. Nhữ ng tôn giáo khác không là gì
như ng lạ i là mộ t biể u hiệ n củ a chân h' cuố i
cùng. Tư tư ở ng tuyệ t đố i ở đây là mộ t nguyên
lí duy nhấ t đư ợ c gọ i là “Phậ t giáo“.
Tinh th ầ n khoan dung không đư ợ c duy
trì trong cách cư xừ giữ a nhữ ng tín đồ P h ậ t
giáo thờ i kì sau ở Ân Độ . Đó là quy luậ t tự
nhiên củ a lị ch sử mà trong xã hộ i hiệ n đạ i,
nhữ ng tầ ng lớ p P hậ t đồ phả i đố i m ặ t vớ i
nhữ ng tôn giáo và nhữ ng họ c th uy ế t triế t
họ c khác, cho nên nó trở thành mộ t tôn
giáo th iêt lậ p và tạ o nên nhữ ng nghi lễ và
phong tụ c đặ c biệ t. Tuy nhiên, hầ u hế t
nhữ ng tín đồ P hậ t giáo ỏ Ân Độ tin tư ở ng
rằ ng, quan điể m cơ bả n củ a đạ o P hậ t
không mâu th u ẫ n vớ i quan điể m củ a các
tôn giáo khác, không có ý đị nh bô sung
chúng mộ t cách tích cự c. Và mộ t kế t quả là
P h ậ t giáo khi truy ề n bá sang các nư ớ c châu
Á, đã ít gây ra nhữ ng va chạ m giữ a các tín
ngư ỡ ng bả n xứ củ a nhữ ng ngư ờ i tiế p nhậ n
nó. Nhữ ng tín ngư ỡ ng phong tụ c nguyên
thủ y bả n đị a hầ u như không bị phá vỡ bở i
P h ậ t giáo và có thê dễ dàng tồ n tạ i, cho đèn
khi chúng đư ợ c xem như là đạ o đứ c theo
quan diêm củ a P h ậ t giáo; chúng vẫ n có thê
tồ n tạ i song song vớ i nhữ ng tư tư ở ng Ph ậ t
giáo mớ i truyề n vào và th ỉ n h thoả ng bị thu
h ú t vào trong Ph ậ t giáo. Trong nhữ ng thờ i
kì sau, P hậ t giáo tự bả n th ân nó thông
nh ấ t vớ i tôn giáo nguyên thủ y tạ o cho
chúng nhữ ng nên tả ng triế t họ c.
Trong thự c tế , có rấ t nhiề u các họ c
th uy ế t triế t họ c và tôn giáo khác nhau trên
th ế giớ i, nhữ ng nh à triế t họ c trư ờ ng phái
V edata cũng bày tỏ quan diể m tư ơ ng tự
như P h ậ t giáo. Dự a trên nề n tả ng N hấ t
thầ n luậ n Tuyệ t đôi, họ cho rằ ng các họ c
th uy ế t tôn giáo khác có cơ sở củ a chúng từ
B rahm an. Theo họ , có rấ t nhiêu nguyên lí
cơ bả n - nhữ ng nguyên tố , các vị thầ n, hơ i
thở , thờ i gian... nhữ ng cái đư ợ c nhiêu
trư ờ ng phái triế t họ c khẳ ng đị nh là tư ơ ng
dư ơ ng vớ i Nguyên lí T uyệ t đố i. Và đó là lí
do tạ i sao có nhiề u các trư ờ ng phái vố i
nhữ ng tư tư ở ng đa dạ ng. Tuy nhiên, từ
quan điể m củ a phái V edanta, không mộ t
cái nào trong đó đáng đư ợ c quan tâm như
Chân lí Tuyệ t đôi. N hữ ng nhà triế t họ c đã
hiể u sai bả n chấ t củ a vấ n đề , trun g thành
vớ i nhữ ng quan điể m sai lầ m củ a họ về cái
Tuyệ t đô’i.
Tuy nhiên, nhữ ng tư tư ở ng củ a họ là
sai lầ m, nhiíng nhữ ng quan điể m tôn giáo
khác này cũng nằ m trong họ c thuy ế t về
Linh hồ n (Atman) củ a trư ờ ng phái
V edanta. Nhữ ng nhà triế t họ c phái Vedata
đi đế n nhậ n xét rằ ng nhữ ng quan diể m tôn
giáo khác này là nhữ ng biể u hiệ n củ a

Folklore nư ớ c ngoài 19
Atman, và phẩ n nào là cỉ úng đắ n cho dù
bả n th ân chúng không hoàn thiệ n.
Triêt họ c Vedata không bao giờ có đư ợ c vị
trí trong xã hộ i như các tôn giáo khác. Quan
điể m củ a phái V edanta thự c sự khác biệ t vố i
nhữ ng quan điể m dị giáo khác vê tầ m ả nh
hư ở ng. Trong kinh “M anđukyakarikas”
chúng ta đọ c đư ợ c như sau: “Họ nhữ ng
ngư ờ i th ừ a nh ậ n tín h hai m ặ t trong quan
điể m củ a họ và mâu th uẫ n vớ i nhau. Tuy
nhiên, (nhữ ng ngư ờ i theo phái V edanta)
không m âu th u ẫ n (vớ i các m ặ t khác)”(7).
Theo S ank ara, điể m này đư ợ c so sánh vố i
nhữ ng cánh tay không gắ n vổ i cơ thê củ a
chúng.
Trong triế t họ c J ain a thờ i kì sau, ý
kiế n tư ơ ng tự cũng đư ợ c nêu ra.
Hem acandra nói: “N hữ ng cuộ c tran h luậ n
giữ a các trư ờ ng phái triế t họ c tạ o ra sự dô'
kị , bở i vì mộ t bên thì khăng k hăng giữ ý
kiế n trong khi nhữ ng bên khác thì phả n
đổ i. N hư ng trong đạ o Jain a, họ chủ trư ơ ng
không giáo điề u và không thả o lu ậ n bở i vì
họ thừ a n hậ n nhữ ng lờ i dạ y củ a N ava”(8).
Như mộ t cách thứ c tư duy mà trong
mọ i quan điể m dị giáo có vài lí do tồ n tạ i,
nhữ ng nhà triế t họ c tru n g cô An Độ đã cố
gắ ng th iế t lậ p mộ t “hộ thông tổ ng hợ p triế t
họ c thê giói” hay mộ t “Hệ thông quan niệ m
củ a th ế giớ i”.
Họ cũng rấ t kiên nh ẫ n để tìm ra nhữ ng
lí do tồ n tạ i vớ i nhau mà nhữ ng tư tư ơ ng
khác nhau bị đư a vào trong cùng mộ t
trư ờ ng phái khi có vài lí do rõ ràng. Nhữ ng
tư tư ở ng khác đư ợ c quan tâm vố i nghĩa là
(upaya) đư a sự tôi tăm đi đế n chính đạ o.
Nói chung trong mọ i tôn giáo Ân Độ chúng
ta không tìm thấ y mộ t quan niệ m vồ “dị
giáo” như trong ý thứ c quen dùng củ a
ngư ờ i phư ơ ng Tây.
Mộ t phư ơ ng pháp tư duy đư ợ c ph át
hiệ n không chỉ trong nhữ ng lờ i giáo huấ n
mà còn thể hiệ n trong nguyên tắ c cai trị
đầ u tiên củ a nhiề u hoàng đê và ngư ờ i cầ m
quyề n trong lị ch sử An Độ . Ví dụ , vua
Asoka, bả n thân ông là mộ t đệ tử tụ c gia
số m n h ấ t củ a P h ậ t giáo, không bao giờ loạ i
trừ các tôn giáo khác. T rái lạ i, ông còn cố
gắ ng bả o vệ và giúp đỡ các tôn giáo khác -
Bàlam ôn, Jain a, Ajivikas... Ong “tôn sùng
cả thầ y tu và ngư ờ i thê tụ c củ a các tôn
giáo” . Mong m uôn chân th à n h củ a ông ta
là “mọ i ngư ờ i ở mọ i tôn giáo chung sông
cạ nh nhau mộ t cách hoà bình ” và hợ p tác
vớ i nh au đê làm tăn g thêm hạ n h phúc củ a
con ngư ờ i. Dù cho đứ c vua Asoka tạ o cho
P h ậ t giáo là mộ t tôn giáo có đị a vị quan
trọ ng, ông cũng không ngư ợ c đãi nhữ ng tôn
giáo khác trê n đ ấ t nư óc mình.
Đứ c vua Kharavela, ngư ờ i giành đư ợ c
quyên cai trị miề n nam An Độ sau sự sụ p đố
củ a triề u đạ i M auryan, là mộ t ngư ờ i bả o trợ
cho các thầ n củ a đạ o Jaina, như ng ông cũng
tu sử a các đề n và tư ợ ng củ a các tôn giáo khác.
Ông đư ợ c gọ i là “Sarvapasandapujaka”
(ngư ờ i tôn sùng tấ t cả các tôn giáo khác).
Nhữ ng nhà vua củ a triề u đạ i K asana,
nhữ ng ngư ờ i cai trị m iên Bắ c An Độ , cũng
bả o vệ các tôn giáo khác nhau. Ví dụ như
vua K aniska đã đúc rấ t nhiêu tiề n kim loạ i
trên đó có chạ m khắ c hình ả nh các vị thầ n
- củ a Hi Lạ p, đạ o Thờ Lử a, đạ o H indu và
P h ậ t giáo. Triề u đạ i G upta thê kỉ thứ tư
cũng có sự khoan dung tấ t cả các tôn
giáo<ll',. Nhữ ng thê kỉ sau, vua A kbar vĩ dạ i
(1556-1605), cai trị hầ u hế t An Độ đã có ý
đị nh th iế t lậ p m ộ t tôn giáo mớ i tổ ng hợ p
tấ t cả các tôn giáo đã từ ng tồ n tạ i trư ớ c
đây. Ong tuyên b<5 rằ ng đạ o Hindu và đạ o
Hồ i nên tôn thờ chung mộ t vị thầ n. Như ng
ông ta th ể hiệ n sự khoan dung không chỉ
vớ i đạ o H indu và đạ o Hồ i mà còn vớ i cả đạ o
Jaina, đạ o Thờ Lử a, và đạ o Cơ Đôc. Ong
cũng thừ a n h ậ n sự thờ phụ ng M ặ t trờ i. Dù
chư a hoàn thàn h, như ng yế u tố khoan

80 HAJINE NAKAMURA
dung cơ bả n đã đư ợ c ông giữ vữ ng trong
chính sách tôn giáo củ a m ình.
Mộ t quan niệ m về nhữ ng niề m tin khác
nhau là biể u hiệ n củ a sự vậ n dộ ng nhữ ng
tôn giáo hiệ n đạ i ở Ân Độ . Mộ t nhà cách
tâ n tôn giáo thê kỉ 19, Ram M ohan Rai đã
th àn h lậ p mộ t giáo hộ i gọ i là B rahm a -
Samaj, và ông ta biế n nó th à n h mộ t thành
tố cơ bả n củ a xã hộ i cho nhữ ng ai tin vào
cùng mộ t th ầ n linh b ấ t kể giai cấ p, tầ ng
lớ p, dân tộ c và tôn giáo củ a họ . R am akrsna,
ngư ờ i đã tìm ra đạ o R am akrsn a tuyên bố
rằ ng “mọ i tôn giáo, đi theo các con đư ờ ng
khác nhau, cuố i cùng sẽ đi đế n mộ t vị thầ n
chung”*1 °. “Và tấ t cả các tôn giáo cùng tồ n
tạ i là điể u có th ậ t”(12). Vivenkanada, môn
đồ củ a ông, đã trìn h bày mộ t diễ n văn nổ i
tiế ng ở Hộ i nghị tôn giáo quố c tê đư ợ c tô
chứ c tạ i Chicago, ngày 27 th án g 9 năm
1893, nói rằ ng: “Oi T h ánh thầ n duy nhấ t,
mà đạ o H indu gọ i là B harm an, đạ o thờ Lử a
gọ i là A hura M azdah, đạ o P h ậ t gọ i là P hậ t,
đạ o Do Thái gọ i là Jehovah, đạ o Cơ Đố c gọ i
là C húa Trờ i có the ban cả m hứ ng cho
chúng ta. Đạ o Cơ Đố c không phả i là Hindu
hay P h ậ t giáo. P h ậ t giáo và Hin đu không
phả i là Cơ Đố c... Tuy nhiên, mọ i thứ phả i
phát triể n phù hợ p vớ i năng lự c củ a mình,
giữ cá tính củ a m ình m ộ t cách vữ ng chắ c,
so sánh vớ i các giá trị tinh th ầ n khác... Hộ i
nghị này thừ a nhậ n rằ ng Giáo Hoàng, Đứ c
cha và các hiên n hân không nên giữ độ c
quyên bở i bấ t kì trậ t tự tôn giáo nào. Và nó
cũng xác nhậ n rằ ng không có mộ t tôn giáo
nào trên thê giở i này mà lạ i phụ c vụ cho
nhữ ng cá nh ân quyề n quý. Tôi tin tư ở ng
chắ c chắ n rằ ng chúng ta sẽ đọ c đư ợ c các
khẩ u hiệ u và biêu ngữ củ a tấ t cả mọ i tôn
giáo trong tư ơ ng lai như sau: Hãy giúp đỡ
lẫ n nhau. Đừ ng tra n h giành nhau. Hãy hoà
thu ậ n vói ngư ờ i khác. Đừ ng triệ t phá ngư ờ i
khác. Giữ sự hài hoà và hoà bình. Đừ ng
quan tâm đế n nhữ ng vấ n đề vô ích”(1:ỉ ). “Tôi
tả n thàn h sự tồ n tạ i củ a như ng tôn giáo
trong quá khứ . Tôi tôn sùng Chúa cùng vớ i
họ ”'1^ .
Nhữ ng sự kiệ n này như đã đê cậ p ở
trên không giông vở i phư ơ ng Tây. Trong
lị ch sử củ a châu Âu, chúng ta thư ờ ng thấ y
nhữ ng tôn giáo đôi lậ p vớ i nhau mà chúng
đã đư a đế n nhũng xung độ t chính trị và
quân sự không thế trá n h khỏ i. N hư ng
chúng ta rấ t khó tìm thấ y mộ t trư ờ ng hợ p
chiế n tran h tôn giáo ở An Độ . T ấ t nhiên,
cũng có mộ t s ố nhà cầ m quyên ở An Độ đã
đàn áp nhữ ng tôn giáo phổ biế n đư ợ c ngư ờ i
Ân tạ o ra bở i vì họ chỉ tin vào mộ t sô tôn
giáo bả n đị a. Như ng chúng ta cũng không
tìm thấ y mộ t nh à cầ m quyể n nào, là tín dồ
Phậ t giáo hay đạ o Ja in a , lạ i ngư ợ c đãi các
tôn giáo khác.
Điề u này càng trở nên rõ ràng hơ n nế u
chúng ta so sánh nó vớ i nhữ ng thự c tế ở
phư ơ ng Tây. Ngay cả đạ o Hồ i hay đạ o Cơ
Đôc là nguyên n hân bắ t đầ u củ a nhữ ng
cuộ c chiế n tra n h tôn giáo. Theo sự giả i
thích củ a trư ờ ng phái Canvanh, căm ghét
vở i nhữ ng ngư ờ i phạ m tộ i và nhữ ng ngư ờ i
dị giáo lạ i đư ợ c xem như là mộ t ư u điể m 11 ”.
Không hiế m nhữ ng nh à lãnh đạ o tôn giáo
phư ơ ng Tây thư ờ ng bị h àn h hạ và bị giế t.
Trái lạ i, ở An Độ , không có mộ t cuộ c chiế n
tôn giáo nào. Trong lu ậ t lệ củ a đạ o P h ậ t và
đạ o Jaina, họ không bao giờ trừ n g phạ t
nhữ ng ngư ờ i dị giáo. N hữ ng gì mà họ đố i
xử vói nhữ ng ngư ờ i dị giáo chỉ như là họ
đôì xử vớ i nhữ ng ngư ờ i cùng đẳ ng cap
khác. Nhữ ng nhà lãnh đạ o tôn giáo ỏ Ân
Độ ra đi trong sự bình yên và đư ợ c chăm
sóc bở i nhữ ng môn đồ và nhữ ng ngư ờ i đi
theo. Sự dung hoà là cá tín h rõ ràn g nhấ t
trong văn hoá Ân.
Theo thông kê nghiên cứ u vê cuộ c sông
lí tư ở ng gầ n đây cho thấ y là có rấ t nhiêu
nhữ ng sinh viên An Độ , nhữ ng ngư ờ i nghĩ
rằ n g trong rấ t nhiề u nhữ ng cách số ng khác

Folklore nư ớ c ngoài 81
nhau, thì điề u cao đẹ p n h ấ t là nh ậ n ra và
thâu hiể u sự tồ n tạ i củ a nhữ ng con đư ờ ng
khác. Thự c tế này cho th ấ y rằ ng phư ơ ng
thứ c tư duy có tính khoan dung vẫ n sông
trong lòng nhữ ng ngư ờ i Ân Độ (16).
Vậ y thì cái gì là lí do đằ ng sau tinh
thầ n dung hoà trong tâm hồ n ngư ờ i Ân?
H.Oldenberg đã liệ t kê các nguyên nhân
sau: "Môi trư ờ ng và hoàn cả nh tự nhiên
củ a An Độ , sự xâm chiế m sớ m và dễ dàng
củ a bộ tộ c Aryan, không có các cuộ c chiế n
lớ n, không khí điề m tĩn h trong giai cấ p
Bàlam ôn...”117’. Nhữ ng cuộ c chiế n tran h ỏ
An Độ xả y ra bở i bọ n lính đ ánh thuê, chứ
không phả i do ngư ờ i bả n xứ . Thự c tê này
góp phầ n lí giả i sự p há t triể n hơ n nữ a quan
niệ m vê tín h khoan dung củ a ngư ờ i An.
Qua hàng thê kỉ trong lị ch sử An Độ , không
có quân độ i viễ n chinh đi xâm chiế m theo
lệ nh củ a nhà cẩ m quyên. Theo bài báo củ a
Arianos: “M egasthenes nói rằ ng ngư ờ i Ân
không bao giờ tấ n công nhữ ng ngư ờ i ngoài
biên giớ i, và nhữ ng ngư ờ i khác cũng không
bao giờ tấ n công ngư ờ i An. A lexandros là
trư ờ ng hợ p ngoạ i lệ đã tiế n đánh ngư ờ i An
Độ ”ll8). “Ngư ờ i Ân không xâm chiế m các
nư ớ c khác bở i tín h công bằ ng trong tinh
th ầ n họ . Tình yêu hoà bình củ a ngư ờ i An
hoàn toàn đư ợ c n hậ n ra bở i các họ c giả
phư ơ ng Tây. Từ “hoà b ình ” (peace) có nghĩa
gố c là chấ p nhậ n ngư ờ i khác hay nh ữ n g tư
tư ở ng khác bên cạ nh m ình. Vì th ế quan
điể m vê' tình yêu hoà bình trong ngư ờ i Ân
bắ t nguồ n từ mộ t phư ơ ng thứ c tư duy mà
các họ c thu yế t triế t họ c và tôn giáo khác
trên th ế giố i không có như ng là biể u hiệ n
bằ ng Cái Tuyên Đôi.D
(P h ư ơ n g V iệ t T h u - K h o a N g ữ v ă n
Trư ờ ng ĐIISP 11 à Nộ i dị ch từ bả n
tiêng Anh The ways o f th ink in g o f
Ea stern peoples. Yushodo co. LTD.
Tokyo. Japan. 1988., tr. 159-165.
Tên củ a phầ n này trong nguyên tác
là "Tinh thầ n khoan dụ ng và sự hoà
giả i” (trong phầ n về An Độ ), chúng
tôi đ ặ t tiêu đê như vậ y cho rõ nghĩa).
(I) -(5): S u tta - n ipata
(6) Đạ i Lăng Già Ni Càn Tử Sở thuyế t kinh,
Đạ i Bát Niêt Bàn kinh
(7) M an d uk ya ka rika . 3-17
(8) V ita ra g astu ti 30
(9) Rock Ed ict, chư ơ ng 12
(10) Ram a S hank ar T riathi: “Religions
teleration und er the Im peria l G ustas" (Sự khoa
dung tôn giáo dư ớ i thờ i hoàng đ ế Gustas), 1939, tr.
1-12
(II) Romain Rolland: La vie de Ram akrishna,
tr. 93
(12) Sđd, tr. 186
(13) Romain Rolland: La vie de Ramakrishna,
tr. 47-48
(14) Sđd, tr. 110
(15) . Max Weber: Die protestantische Ethik und
der Geist des Kapitalismus. 121
(16) Charles M orris: So sán h sứ c m ạ n h củ a
lí tư ở ng số ng trong văn hoá ph ư ơ ng Đông và
phư ơ ng Tây (Tiể u luậ n triế t họ c Đông Tây-
Charles Moore, Honolulu 1951, tr. 353-370)
(17) . H. Oldenberg: Die Lehre der UpanishacLen
und die Anfange des Buddhism us, s3.
(18) A rianos. V4. V7
(19) Sđd, IX, 12
"CHÚ KHUYỂ N" TRONG...
( T iế p th e o t r a n g 8 3 )
có nhữ ng “chú khuyể n” lậ p công xuấ t sắ c.
Hiệ n thự c cuộ c sông thay đổ i dầ n, nhữ ng
điêu kiệ n mố i trong nuôi chó, sử dụ ng chó
sẽ có lúc đư ợ c phả n ánh vào văn họ c nghệ
thu ậ t, trong đó có ca dao, tụ c ngữ . Trong
tư ơ ng lai, chắ c qu an niệ m vê điêu tố t củ a
“chú khuyể n” sẽ p hát triể n và quan niệ m
cũ sẽ m ấ t dầ n đi.
N.N.D - N.H
(1) N g u y ễ n X u â n K ín h , P h a n Đ ă n g N h ậ t
(Chủ biên), Kho tàng ca dao ngư ờ i Việ t, tậ p I. II,
Nxb. Văn hoá - Thông tin, 2001.
(2) Nguyề n Xuân Kính (Chú biên). Kho tàng
tụ c ngữ ngư ờ i Việ t, tậ p I, II. Nxb. Văn hoá -
Thông tin. 2002.
(3) Chỉ thông kê nhữ ng tụ c ngữ chính,
không kê các dị bả n.