
vietnam medical journal n02 - MARCH - 2020
56
đạt về quản lý CTRYT ở nhóm Điều đưỡng – Kỹ
thuật viên chiếm tỷ lệ cao nhất là 83,9% và so
với nhóm Dược sỹ - Bác sỹ với 65,6%, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Điều này
có thể được lý giải là do nhóm Dược sỹ, Bác sỹ
không thường xuyên trực tiếp làm công tác quản
lý, xử lý CTRYT hàng ngày nên tỷ lệ đạt thấp
hơn nhóm ĐD - KTV là những người trực tiếp
thực hành thường xuyên hàng ngày về quản lý
CTRYT. Về mối liên quan giữa kiến thức và thực
hành trong quản lý CTRYT, nghiên cứu này cho
thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa kiến thức và
thực hành về quản lý chất thải rắn y tế của
NVYT tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng với p <
0,001. Như vậy, người có kiến thức tốt là người
thực hành đúng về quản lý CTRYT, cho thấy vai
trò của tập huấn cho NVYT về quản lý CTRYT tại
các cơ sở y tế. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Văn Tĩnh (2012) cũng chỉ ra rẳng những NVYT
chưa được tập huấn về quản lý chất thải y tế có
thực hành không tốt cao hơn 7,4 lần những
nhân viên đã tham gia tập huấn. Tác giả cũng
tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
việc tập huấn với thực hành tốt của NVYT [5].
Thông qua các buổi tập huấn, cán bộ y tế có cơ
hội để trao đổi kinh nghiệm giữa các nhân viên
với nhau, với cán bộ tập huấn có chuyên môn
nghiệp vụ chuẩn để có thể thực hành tốt hơn
trong công tác này.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan
giữa kiến thức đạt của NVYT với độ tuổi; chức
danh chuyên môn (OR = 2,04; 95% CI= 1,05 -
3,96). Việc thực hành đạt của NVYT có mối liên
quan chặt chẽ với nhóm tuổi và chức danh
chuyên môn (OR = 2,73; 95% CI = 1,44 - 5,18).
Như vậy, nghiên cứu này cho thấy có mối liên
quan giữa kiến thức, thực hành của NVYT với độ
tuổi, chức danh chuyên môn, trong đó tuổi cao,
có thâm niên nghề nghiệp và nhóm điều dưỡng,
kỹ thuật viên có tỷ lệ đạt cao hơn so với nhóm ít
tuổi, nhóm chức danh bác sỹ, dược sỹ. Kiến thức
có liên quan với thực hành trong quản lý CTRYT,
do vậy, việc tập huấn nâng cao kiến thức cho
NVYT về quản lý CTRYT tại các cơ sở y tế là rất
quan trọng. Kiến thức có liên quan với thực hành
trong quản lý CTRYT, do vậy, việc tập huấn nâng
cao kiến thức cho NVYT về quản lý CTRYT tại
các cơ sở y tế là rất quan trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2008). Quy chế quản lý chất thải y tế.
Quyết định số 43/ 2007/ QĐ- BYT/ BYT-KCB ngày
10/10/ 2008, Bộ Y tế, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2015). Kiểm tra tình hình thực hiện Quy
chế quản lý chất thải y tế, Công văn số 6998/ BYT-
KCB ngày 10/10/ 2015, Bộ Y tế, Hà Nội.
3. Chu Thị Luyến (2016). Kiến thức, thực hành của
nhân viên y tế trong quản lý chất thải rắn y tế và
một số yếu tố liên quan tại bệnh viên Tim Hà Nội
năm 2015. Luận văn thạc sĩ Y học. Trường Đại học
Y Hà Nội.
4. Hoàng Thị Thúy (2012). Thực trạng quản lý chất
thải rắn y tế và kiến thức, thực hành của nhân viên
y tế Bệnh viện Đa khoa Đông Anh năm 2011. Tạp
chí Y học thực hành, 4 (806/2012), tr. 145.
5. Nguyễn Văn Tĩnh (2012). Nghiên cứu kiến thức,
thái độ, thực hành về xử lý chất thải của nhân viên
bệnh viện huyện, tỉnh Kiên Giang năm 2012. Luận
văn tốt nghiệp BSCKII Y tế công cộng, Trường Đại
học y Hà Nội.
6. Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-
BTNMT – Quy định về quản lý chất thải y tế được
Bộ Y tế – Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế,
Hà Nội.
KẾT QUẢ CAN THIỆP SỚM CHO TRẺ TỰ KỶ TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN
Lê Thị Kim Dung1, Nguyễn Thị Phượng1, Phạm Trung Kiên2,
Nguyễn Thị Thanh Mai3, Lê Thành Cương4
TÓM TẮT16
Mục tiêu:
Đánh giá kết quả can thiệp (CT) ở trẻ
rối loạn phổ tự kỷ từ 24-72 tháng tuổi.
Đối tượng và
1Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
2Đại học Quốc gia Hà Nội
3Đại học Y Hà Nội
4Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Thái Nguyên
Chịu trách nhiệm chính: Lê Thị Kim Dung
Email: ledungytn@gmai.com
Ngày nhận bài: 10.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 26.2.2020
Ngày duyệt bài: 5.3.2020
phương pháp:
Nghiên cứu can thiệp so sánh trước
sau, không có đối chứng, theo dõi dọc 12 tháng, được
thực hiện trên 105 trẻ từ 24 đến 72 tháng tuổi được
chẩn đoán xác định tự kỷ theo tiêu chuẩn DSM-IV tại
Thái Nguyên, từ năm 2015 đến 2018.
Kết quả:
Sau 6
tháng CT, kỹ năng ngôn ngữ, các hành vi, các rối loạn
kèm theo và một số vấn đề về thực thể Nhi khoa ít có
sự thay đổi (p>0,05). Sau 12 tháng CT, đa số các kỹ
năng, hành vi, các rối loạn và vấn đề thực thể Nhi
khoa kèm theo thay đổi đáng khích lệ (p<0,05).
Kết
luận:
Giáo dục đặc biệt kết hợp điều trị rối loạn kèm
theo cũng như các vấn đề thực thể về Nhi khoa là
hiệu quả, cần được duy trì áp dụng ở các bệnh viện,
trung tâm và gia đình trẻ tự kỷ.