Khai thác giá trị văn hóa lễ hội đền Chiêu Trưng (xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) để phát triển du lịch
lượt xem 2
download
Nghiên cứu Lễ hội đền Chiêu Trưng với mục đích tìm hiểu, phân tích những giá trị văn hóa trong lễ hội, chỉ ra thực trạng và đưa ra một số giải pháp vừa bảo tồn vừa khai thác phát triển du lịch tâm linh kết hợp du lịch sinh thái để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân địa phương.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khai thác giá trị văn hóa lễ hội đền Chiêu Trưng (xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) để phát triển du lịch
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 27 KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI ĐỀN CHIÊU TRƯNG (XÃ THẠCH BÀN, HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH) ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH Nguyễn Thị Thanh Hòa, Trần Thị Hoài Phương Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội Tóm tắt: Lễ hội đền Chiêu Trưng ra đời với lịch sử trên 500 năm, lễ hội, người dân tưởng nhớ, tri ân công lao to lớn danh tướng Lê Khôi vừa cầu “mong mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh”. Năm 2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Lễ hội đền Chiêu Trưng xếp hạng di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề mà các cấp chính quyền và nhân dân địa phương quan tâm hiện nay là làm thế nào để vừa bảo tồn giá trị của di sản văn hóa lễ hội đền Chiêu Trưng vừa khai thác để phát triển du lịch văn hóa tâm linh ở mảnh đất ven biển này. Nghiên cứu Lễ hội đền Chiêu Trưng với mục đích tìm hiểu, phân tích những giá trị văn hóa trong lễ hội, chỉ ra thực trạng và đưa ra một số giải pháp vừa bảo tồn vừa khai thác phát triển du lịch tâm linh kết hợp du lịch sinh thái để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân địa phương. Từ khóa: Lễ hội; lễ hội đền Chiêu Trưng; đền Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi; du lịch; xã Thạch Bàn; Hà Tĩnh. Nhận bài ngày 14.6.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 20.7.2020 Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Thanh Hoà; Email: ntthoa@hnmu.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Trong nhiều năm gần đây, sự phát triển du lịch đã lan tỏa đến không gian di sản, tổ chức nghi lễ, lễ hội tại một số địa điểm tín ngưỡng của cộng đồng như đền Bà chúa Kho (thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh), chùa Hương (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), chùa Đồng Yên Tử (huyện Đông Triều, Quảng Ninh), miếu bà Chúa Xứ (Châu Đốc, An Giang),… Những di tích này vừa là địa điểm hành hương đồng thời là điểm đến du lịch di tích lịch sử văn hóa có sức hút đối với du khách trong và ngoài nước. Quá trình phát triển du lịch di sản diễn ra cùng với sự hồi sinh thực hành văn hóa tín ngưỡng dân gian, trong đó có lễ hội thờ các danh tướng có công với đất nước, là một khía cạnh nổi bật của sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và trọng tâm của động thái kiến tạo văn hóa truyền thống. Quá trình biến đổi trong lễ hội trở thành nguồn lực phát triển du lịch thể hiện sự vận dụng giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện đại hóa. Trong đó, nguồn lực văn hóa tâm linh gắn liền với chiến lược phát triển du lịch
- 28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI dựa vào cộng đồng, tôn trọng tính chân thực của văn hóa truyền thống, trao quyền cho cộng đồng để đi đến mức độ tham gia sâu sắc hơn. Do vậy, du lịch văn hóa tâm linh thể hiện tính tương thích giữa nhu cầu trải nghiệm của du khách với khả năng đáp ứng văn hóa của cộng đồng theo theo hướng gia tăng sự tham gia và trình diễn văn hóa của cộng đồng. Nghiên cứu này đặt trong bối cảnh khai thác phát triển du lịch tại đền Chiêu Trưng (xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) với sức hút từ hoạt động nghi lễ, lễ hội và sản phẩm du lịch được xây dựng trên nền tảng diễn trình lễ hội của cộng đồng. Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển du lịch văn hóa tâm linh thông qua khai thác nguồn lực văn hóa lễ hội tại đền Chiêu Trưng, qua đó sáng tỏ vai trò của thực hành văn hóa dân gian trong tăng cường sức hút của điểm đến. Đồng thời nhận diện một số đặc điểm về vai trò tham gia của cộng đồng đối với khai thác và bảo tồn văn hóa truyền thống trước tác động của phát triển du lịch. Nghiên cứu này giới hạn loại nguồn lực văn hóa là diễn trình các nghi thức tế lễ và tổ chức trò chơi trong ngày hội. Đây là một trong những nguồn lực văn hóa nổi trội và có giá trị trong khai thác phục vụ du lịch tại đền Chiêu Trưng trong thời gian gần đây, thể hiện hướng đi mới của phát triển du lịch bền vững và bảo tồn văn hóa truyền thống. Để thu thập tài liệu trên thực địa, bài nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điền dã Dân tộc học với các thao tác như phỏng vấn sâu để thu thập các thông tin từ người trong cuộc (thủ từ, người tham gia đám rước, cư dân địa phương, ban quản lý di tích, cụ cao niên, khách du lịch trong và ngoài vùng,…)1. Ngoài ra, là người con của mảnh đất Hà Tĩnh nên hàng năm khi lễ hội tổ chức, tác giả đã sử dụng phương pháp quan sát tham dự để có cái nhìn khách quan, chân thực về lễ hội, thực trạng cung ứng các dịch vụ xung quanh khu vực đền Chiêu Trưng và bãi biển nơi đây. 2. NỘI DUNG 2.1. Bối cảnh ra đời và nguồn lực văn hóa để phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại lễ hội đền Chiêu Trưng Lễ hội đền Chiêu Trưng tưởng nhớ Lê Khôi, người anh hùng dân tộc, danh tướng tài ba thời Lê. Lê Khôi sinh ra và lớn lên tại làng Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hòa, là con trai của Lê Trừ, cháu ruột của Lê Lợi. Đại Việt Sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên) ghi chép lại, Lê Khôi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, lập nhiều chiến công. Tháng 12, năm 1424, Lê Lợi cho quân tiến vào Nghệ An, trong trận Bồ Ải, Lê Khôi cùng với Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê Tông Kiều, Lê Bôi, Lê Văn An làm tiên phong, đánh thắng quân Minh. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, Lê Khôi được ban chức Kì Lân Hổ Vệ Tướng Quân, quyền Hành Tổng Quản, hàm Nhập Nội Thiếu úy, sau thăng hàm Tư Mã, được đem Kim Phù. Tháng 5, năm 1429, vua Lê Thái Tổ ban biển ngạch công thần cho 93 viên, Lê Khôi được phong tước Đình thượng hầu. Năm 1430, Lê Khôi được triều đình sai trấn thủ Hóa châu, ông bỏ điếm canh, triệt giới nghiêm, chiêu tập dân phiêu lưu, khuyến khích làm ruộng, huấn luyện binh sĩ, chính lệnh nghiêm minh, nhân dân yêu kính, quân Chiêm Thành sợ oai. Năm 1446, Đô đốc Lê Khả đem đại binh đánh Chiêm, Lê Khôi làm 1 Các nhân vật được phỏng vấn đã được thay đổi tên gọi.
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 29 tiền quân, phá tan đồn ải quân Chiêm, vượt Thi Giang, đến cửa biển Thi Nại, rồi vượt biển đến đất Chiêm. Lê Khôi đến đâu, quân Chiêm tan vỡ đến đấy, đánh đến thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai. Khi đem quân trở về, Lê Khôi lênh bệnh, mất ở chân núi Long Ngâm, cửa biển Nam giới, thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Triều đình bãi triều ba ngày, truy phong tước Nhập nội Đô đốc, thụy là Trung Hiển. Sau truy tặng Nhập nội kiểm hiệu Tư không, Bình chương sự, đổi tên thụy là Vũ Mục công. Để tưởng nhớ công ơn của tướng quân Lê Khôi, nhân dân bốn xã Thạch Kim, Mai Phụ (nay là xã Thạch Bắc), Thạch Bàn và Thạch Hải đã lập tám đền thờ ông, trong đó làng Mai Phụ có công cất giữ mũ áo của ông trong suốt thời kì chiến tranh nên được coi là xã cả, tuy nhiên nơi thờ chính Lê Khôi là đền Chiêu Trưng (đền Lê Khôi) trên núi Long Ngâm nay thuộc xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà. Hàng năm lễ hội từ mùng 1 đến mùng 3 tháng Năm (chính hội ngày mùng 3 tháng Năm) ở đền chính và 7 đền thờ vọng ở bốn xã để kỉ niệm ngày hóa của tướng quân. Đền Chiêu Trưng hay còn gọi là đền Lê Khôi nằm trên ngọn núi Long Ngâm thuộc dãy núi Nam Giới (còn gọi là núi Quỳnh Viên) vùng Cửa Sót, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là ngôi đền có cảnh quan thiên nhiên đẹp, ba bề là biển cả.1 Lễ hội đền Chiêu Trưng đã tồn tại 574 năm (1446 – 2020), là một trong số lễ hội lớn được tổ chức hai năm một lần của cả dải đất ven biển miền Trung. Từ năm 1940 đến năm 1980, đất nước xảy ra chiến tranh xảy ra triền miên vì thế lễ hội đền Chiêu Trưng không được tổ chức với quy mô toàn vùng. Từ năm 1981 đến nay, lễ hội được khôi phục, quy mô tổ chức ở cấp độ tỉnh thu hút hàng nghìn người dân trong và ngoài vùng tham gia. 2.2. Thực trạng lễ hội đền Chiêu Trưng 2.2.1. Phần lễ Hàng năm, lễ hội đền Chiêu Trưng (đền thờ Lê Khôi) ở diễn ra trong ba ngày từ mùng 1 đến mùng 3 tháng Năm gồm lễ Mộc dục, lễ Yết cáo, lễ Khai hội, lễ Rước (các năm chẵn được tổ chức quy mô toàn vùng). Ngày 30 tháng Tư diễn ra lễ Sái tảo, Ban Lễ nghi tiến hành lau dọn sạch sẽ khu vực thờ cúng. Sau đó là lễ Mộc dục với nghi thức “tắm tượng” Thánh, các thành viên trong Ban Nghi lễ cầm một mảnh vải đỏ mới nhúng vào chậu nước ngũ vị đã được đun sôi để lau sạch tượng Thánh. Mảnh vải sau khi làm lễ Mộc dục được được phát cho các thành viên trong Ban Nghi lễ mang về làm khước và ngư dân trong làng để làm dấu trên mai thuyển, cầu mong những chuyến ra khơi an toàn, tôm cá đầy khoang. Ngày mùng 1 tháng Năm, lễ Khai hội được diễn ra, lễ vật gồm một mâm xôi gà, trầu cau, hoa trái, bánh kẹo dâng lên Đức Thánh để báo cáo với đức Thánh về lễ rước vào ngày hôm sau. 8 giờ sáng ngày mùng 2 tháng Năm lễ rước được tiến hành. Đoàn rước gồm năm kiệu, mỗi kiệu gồm 30 người, năm người đi đầu cầm cờ thần, một người cầm cờ hiệu, có 2 - 4 người vác lọng và ô, 4- 8 người gồng kiệu, bốn người con gái (trinh nữ) cầm giải ở bốn góc, 4 - 6 người khiêng trống to và chiêng, hai nam thiếu niên mang và đánh trống nhỏ, hai xểnh xoảng, hai trống 1 Ban chấp hành Đảng bộ xã Thạch Bàn, Đảng bộ huyện Thạch Hà (2015), Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Bàn (1965-2015), Cổng thông tin điện tử xã Thạch Bàn.
- 30 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI con, bốn âm nhạc (hai sáo, hai nhị). Chính giữa là thuyền lớn, trên thuyền đặt bàn thờ, có lọng vàng che và phía sau có cắm cây cờ đại, bên mạn thuyền cắm một số cờ ngũ hành. Ngoài ra, bốn xã còn có 40 cờ ngũ hành cắm ở các trung tâm xã và mang theo đoàn rước. Số người tham gia đoàn rước khoảng trên dưới 150 người. Ngoài ra, mỗi xã đều có đoàn lễ. Đoàn lễ xã Mai Phụ (Thạch Bắc ngày nay) gồm 10 người mặc áo binh lính màu vàng có nẹp giải đỏ, đội nón gõ sơn, mang kiếm, đô, chùy, biển, giáo đi đầu đoàn rước, tiếp theo là kiệu lớn, trên kiệu có cân đai, áo mũ của Đức Thánh. Đoàn lễ xã Thạch Kim gồm đội múa gồm 10 thiếu nữ mặc áo dài trắng, đầu đội khăn xếp và 10 thiếu nữ cũng mặc như thế và được chia ra tám người đội tráp hoa quả và hai người cùng dâng hương theo đoàn. Đoàn rước chia làm ba phần, phần thứ nhất là rước thuyền từ các đền (Thạch Kim, Thạch Bàn, Thánh Mẫu, Ngư Ông) đền thờ vọng xã Mai Phụ; phần thứ hai là các đoàn trước tập trung tại đền ở xã Mai Phụ, sau đó rước bằng thuyền về đền chính; phần thứ ba là rước bằng đường bộ cách đền chính 500m. Riêng ở xã Thạch Hải do không nằm sát bờ nên không tham gia rước bằng thuyền trong lễ hội mà rước bằng đường bộ. Ở phần rước ở đường bộ, đoàn rước được xếp thành hàng. Đi đầu đoàn rước là cụ ông chỉ huy làm nhiệm vụ dẫn lộ, tiếp đến bốn nam thanh niên gánh trống chiêng và có người đi hai bên đánh trống, tiếp đến là mười nam thanh niên vác đồ lễ bộ binh khí và tám nam trung niên cao lớn gánh kiệu mặc quần áo binh lính màu đỏ nẹp vàng. Đi đầu là kiệu của xã Mai Phụ (xã cả), trên long ngai đặt bát hương và một chiếc rương (hòm) bên trong có binh giáp của Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi, mũ được đặt trong hộp sơn mài hình tròn bên trong là mũ của đức Thánh, đặt trước Long ngai là đôi giày màu đỏ có thêu hình rồng vàng. Đi sau kiệu là bốn nam trung niên vác lọng và ô để che kiệu, hai lọng đi trước màu đỏ có trang trí Tứ linh màu vàng, hai ô đi sau màu vàng. Tiếp đến là đoàn rước xã Thạch Kim gồm ba kiệu, đi trước là 15 người cầm cờ (gồm cờ Tổ quốc, cờ thần, cờ hội, cờ ngũ phương), kế theo là đội múa dâng hoa, sau đội múa dâng hoa có bốn nam thanh niên vác biển “Tĩnh Túc và Hồi Tỵ”, tiếp đến là ba chiếc kiệu với ba bát hương, ba bài vị của ba vị thần ở ba đền (đền thờ vọng Lê Khôi ở xã Thạch Kim, đền thờ Thánh Mẫu và đền cá Ngư Ông), mỗi kiệu có hai lọng (màu vàng và màu đỏ) được trang trí Tứ Linh, bốn nam thanh niên gánh kiệu và bốn thiếu nữ mặc áo dài truyền thống cầm giải đi bốn bên. Đi sau cùng là lễ rước của xã Thạch Bàn, gồm có năm nam thiếu niên mặc áo trắng quần xanh, bốn mang và đánh trống tiểu cổ và một thổi sáo. Theo sau là đội nhạc gồm trống tiêu cổ và sáo, tiếp đến là đội cờ gồm bốn nam thiếu niên khác cầm cờ Tổ quốc, cờ thần, cờ ngũ phương và cờ hội. Kiệu rước của xã Thạch Bàn, được che bởi chiếc lọng màu đỏ, trang trí Tứ linh, bốn nam thanh niên khiêng kiệu mặc quần đen áo trắng, trên kiệu đặt bát hương thờ đức Thánh và bức tượng Lê Khôi. Khi chiêng trống nổi lên, đoàn rước diễn ra trong không khí trang nghiêm, long trọng tiến về đền chính. Đi đầu đoàn rước trong lễ hội là đội múa sư tử. Chiều ngày mùng 2 tháng Năm, Ban Nghi lễ thực hiện lễ Yết Cáo lễ vật gồm lễ vật gồm hương, hoa, đăng hoa, trà, quả, thực (mâm cơm canh và cá rán hoặc thịt luộc, một bát nước mắm, ba đĩa xôi thịt, một đĩa xôi thủ và năm cơi trầu, rượu đặt ở Thượng điện, Trung điện, Hạ điện, Lăng mộ và Miếu Bà Chúa ở cổng đền. 13 thành viên trong Ban Lễ nghi sẽ thực
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 31 hiện nhiệm vụ đã được phân công. Trên hương án đặt bát hương lớn, bộ tam sư, đài rượu, chén thờ, bảng chúc văn. Hai bên kê quán tẩu, đẳng tế (trên đặt các bộ mịch, đài thờ, nến thờ,…). Sau đó, Ban Lễ nghi trải ba cái chiếu: Chiếu trên cùng là chỗ dâng rượu và đọc chúc văn; chiếu giữa là nơi ẩm phúc (hưởng lộc của thần gồm trầu và rượu); chiếu dưới là nơi ban lễ cúi lạy, đứng, trở lại vị trí. Hai bồi tế thì sắp hàng hai bên phía sau. Trong khi tế, nhạc sinh đều cử và điểm chiêng trống cho thêm phần long trọng. Sau khi đèn hương đã chuẩn bị xong, đánh ba hồi trống, người xướng tế (Điển) đứng ở phía Đông (Đông xướng) xướng. Lễ Yết tiến hành ba tuần hương, kéo dài khoảng hai giờ. Khi Đông xướng hô lễ tất, thì khách hương, dân làng tiếp tục vào dâng lễ. 10 giờ ngày mùng 3 tháng Năm lễ Chính kỵ, các nghi thức tế lễ được diễn ra trọng thể (các bước tiến hành và lễ vật dâng cúng giống như lễ Yết Cáo ngày mùng 2). Chiều mùng 3 tháng Năm, kiệu rước của bốn xã sẽ rước từ đền chính trở về bảy đền thờ vọng. Cũng trong ngày chính hội, Ban tổ chức sẽ công bố và trao giải các cuộc thi diễn ra trong suốt ba ngày qua. Đây cũng là lúc người dân nơi đây được vừa tạ ơn đức Thánh vừa được hưởng trọn vẹn phút giây giải trí, những ngày vui đoàn tụ gia đình, làng xóm sau những tháng ngày mưu sinh vất vả. 2.2.2. Phần hội Các trò chơi trong lễ hội đền Chiêu Trưng diễn ra trong suốt ba ngày (từ mùng 1 đến mùng 3). Ngoài các trò chơi dân gian vẫn được duy trì như chơi cờ người, cờ bói, cờ thẻ, thả diều, tổ chức các diễn xướng dân gian mang đậm chất địa phương như hát ví dặm Nghệ Tĩnh, hát chầu văn. Những năm gần đây, Ban tổ chức đã đưa thêm một số trò chơi thể thao vừa rèn luyện sức khỏe vừa tôn vinh tinh thần đoàn kết tập thể như cuộc thi bóng chuyền bãi biển, bóng đá bãi biển, kéo co. Ở trò chơi kéo co, các đội thi theo hình thức bốc thăm, đấu vòng tròn. Mỗi đội từ 10-15 người (tùy theo quy định mỗi năm), không phân biệt nam hay nữ. Trò chơi không chỉ ca ngợi sức khỏe, sự dẻo dai mà còn mang lại cho người dân tiếng cười sảng khoái sau những ngày lao động mệt nhọc. Cuộc thi thả diều sáo cũng thu hút nhiều người tham gia. Các chủ diều đến từ các địa phương khác nhau, mỗi năm có trên dưới 20 chủ diều, chia thành các đội. Ban tổ chức chấm giải dựa trên ban tiêu chí: kích thước diều, số lượng sáo diều theo quy định; độ lên cao thẳng đứng vuông góc với mặt đất; độ vang ngân của sáo. Trung tâm của phần hội là cuộc thi đua thuyền. Cuộc thi bơi thuyền được diễn ra ngay ở Cửa Sót, phía trước cổng đền. Thành phần tham dự cuộc thi bên cạnh nhân dân bốn xã còn có cư dân của các địa phương lân cận, mỗi năm có đến vài chục thuyền tham gia. Thuyền dự thi trang trí hình rồng lộng lẫy, mỗi thuyền có 17 người, 14 tay chèo, một người cầm lái, một người chỉ huy, những người còn lại bắt nhịp hát vang: Mấy khi ba xã hội đồng; Trên phụng nghi đức Thánh;Dưới thuyền rồng chèo bơi; Dô hò! Là dô hò là hò dô hò. Người tham gia chèo thuyền trong trang phục mình trần đóng khố. Ban tổ chức dùng hai chiếc phao có cắm cờ tiêu cách nhau khoảng 700 - 800m để phân ranh giới giữa các thuyền. Thuyền nào về trước sẽ giành chiến thắng và giành giải thưởng. Hội thi chèo thuyền là một sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, thể thao của cư dân các xã trong vùng. Cuộc thi chèo thuyền bắt nguồn từ câu chuyện Lê Khôi cầm quân đánh Chiêm Thành
- 32 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI ở châu Thuận Hóa. Ông vượt sông Ly Giang, qua xứ Đa Lang, Cổ Lũy cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn, Bình Định). Trên đường về, Lê Khôi lâm bệnh nặng, thuyền dừng ở cửa biển Nam Giới và ông mất ở chân núi Long Ngâm. Các trò chơi trong lễ hội đền Chiêu Trưng không chỉ tạo ra không khí vui tươi, giải trí cho người dân địa phương mà còn rèn luyện sức khỏe cao hơn nữa là nâng cao tinh thần đoàn kết, thắt chặt tình làng xóm, đề cao tính cố kết cộng đồng. Giá trị lớn nhất mà lễ hội mang lại là dịp để những người con xã quê được tề tựu đông đủ, được giao lưu nhằm thắt chặt tính cố kết cộng đồng qua các đám rước, các trò chơi đồng đội, bừa cơm cộng cảm ngày chính hội. Lễ hội diễn ra trong ba ngày (chính hội là mùng 3 tháng Năm) để người đi làm xa đều sắp xếp thời gian về hội ngộ cùng gia đình, làng xã. Lễ hội cũng là cơ hội để người dân địa phương quanh vùng mở rộng cơ hội làm ăn thông qua việc đầu tư xây dựng các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi, nghỉ dưỡng, cung cấp dịch vụ, đặc sản biển cho du khách nhằm tăng thu nhập cho người dân nơi đây. Lễ hội còn là hình thức tuyên truyền truyền thống tốt đẹp của quê hương, nâng cao niềm tự hào dân tộc, khích lệ tinh thần yêu nước của các thế hệ đi trước với thế hệ trẻ ở địa phương. Bên cạnh những giá trị tích cực nêu trên, hiện nay lễ hội đền Chiêu Trưng hiện nay còn tồn tại một số hạn chế. Về thời gian tổ chức lễ hội, lễ hội kéo dài trong ba ngày làm ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân địa phương. Chủ trương của Nhà nước đã đề ra khi tổ chức lễ hội hiện nay là: Tổ chức lễ hội tại các địa phương thực hiện đúng quy định của pháp luật, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, giảm tần suất, thời gian tổ chức đối với những lễ hội có quy mô lớn. Với tinh thần chỉ đạo nêu trên, việc giảm thời gian tổ chức lễ hội nhất là lễ hội cấp địa phương (trong đó có lễ hội đền Chiêu Trưng) là hết sức cần thiết. Trên thực tế, để lễ hội diễn ra trong ba ngày đòi hỏi chính quyền và người dân địa phương phải chuẩn bị các công việc trước đó hàng tháng trời, việc tổ chức lễ hội thờ tướng Lê Khôi lại được diễn ra trên địa bàn rộng ở bốn xã, điều này không tránh khỏi sự tốn phí về vật chất của các địa phương và đặc biệt ảnh hương đển cuộc sống sinh hoạt và lao động sản xuất của ngư dân bốn xã ven biển. Mặt khác, lễ hội diễn ra càng dài ngày với ý thức hạn chế của nhiều du khách dẫn đến việc ô nhiễm cả môi trường đất, môi trường nước biển làm ảnh hưởng cảnh quan sinh thái ven biển Hà Tĩnh như tình trạng xả giấy rác, vứt đồ ăn thừa, túi nilong. Không chỉ vậy, việc tập trung số lượng người quá đông tại thời điểm diễn ra lễ hội thường xuyên dẫn đến tình trạng mất an toàn an ninh trật tự như trộm cắp, đánh nhau trên địa bàn. Sự xung đột về văn hóa ứng xử giữa du khách với người địa phương làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục cũng trở thành vấn đề nhức nhối với chính quyền địa phương trong thời gian diễn ra lễ hội. 2.3. Phát triển sản phẩm du lịch văn hóa gắn với đền Chiêu Trưng Lợi thế lớn nhất mà ngôi đền Chiêu Trưng là nằm trên đỉnh núi Long Ngâm, với vị trí ba mặt giáp biển, đứng trên đền du khách được thưởng ngoạn không gian núi non yên tĩnh, trải nghiệm sự hoang sơ của bãi biển Quỳnh Viên. Vị trí địa lý và cảnh quan thiên nhiên là một trong số yếu tố thuận lợi để khai thác du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa tâm linh. Du khách đến đền dâng lễ xin lộc đức Thánh Lê Khôi, cầu mong sức khỏe, ra khơi được an toàn, thuyền cá đầy khoang (với ngư dân). Không những vậy, du khách có thể đến chiêm bái nhiều không gian linh thiêng xung quanh đền Chiêu Trưng như miếu thờ Thánh Mẫu (nằm phía
- TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 33 sau đền), di tích Hỏa Hiệu nằm trên núi Long Ngâm xưa là nơi đốt lửa báo hiệu khi có giặc, dưới chân núi có miếu thờ Cá Ông (tín ngưỡng của người đi biển), phía đông đền Chiêu Trưng có ngôi chùa cổ Quỳnh Viên tự, tương truyền đây là nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã tu tiên và đắc đạo. Từ năm 2016, quần thể khu nghỉ dưỡng Quỳnh Viên resort nằm dưới chân núi Long Ngâm, cách đền Chiêu Trưng 500m (đường bộ) đã đi vào hoạt động với diện tích 20 ha đã xây dựng 12 villa cao cấp, 48 phòng khách sạn đủ cung cấp cho các đoàn khách từ 80 đến 120 người (phỏng vấn anh H, Quản lý Khu nghỉ dưỡng Quỳnh viên resort). Đặc biệt khu nghỉ dưỡng này sở hữu bãi biển Quỳnh Viên đẹp, riêng biệt phù hợp với nhu cầu của nhiều du khách trong nước và quốc tế hiện nay. Điều đáng nói là chủ đầu tư của Quỳnh Viên là một Việt kiều Ba Lan, ông vốn là người con của Hà Tĩnh, luôn nuôi dưỡng ý nguyện được đầu tư và đóng góp kinh tế để phát triển quê hương. Thực tế hiện nay, ngoài khu nghỉ dưỡng Quỳnh Viên, quanh đền Chiêu Trưng chưa có hệ thống nhà hàng, khách sạn hay các khu dịch vụ nào để phục vụ nhu cầu khách thập phương. Để đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa ở quanh khu vực đền Chiêu Trưng hiện nay, chính quyền xã Thạch Hà cần phối hợp chính quyền các xã lân cận nhằm kết nối các điểm du lịch hấp dẫn. Với những người ưu trải nghiệm các khu du lịch mới, du khách có thể đến Vinpearl Hà Tĩnh chừng hơn 2km đường biển (hoạt động từ năm 2017), vừa ngồi trên thuyền vừa được thưởng ngoạn cảnh đẹp trên biển. Nếu đi theo đường bộ, du khách đi ô tô chừng 13km dừng chân nghỉ dưỡng và trải nghiệm các dịch vụ cao cấp tại Vinpearl Hà Tĩnh. Cách đền khoảng 12km là Trung tâm thành phố, khách du lịch có thể mua sắm và vui chơi giải trí tại Trung tâm thương mại Vincom Hà Tĩnh. Với những ai yêu thích tắm biển, ngoài tắm biển ở bãi Quỳnh Viên, du khách có thể di chuyển bằng ô tô khảong 6-7km đến bãi biển Thạch Hải với hệ thống dịch vụ du lịch biển khá sầm uất. Xa hơn, cách đền khoảng 14km là bãi biển Lộc Hà khai thác du lịch muộn hơn biển Thạch Hải nhưng hệ thống cung ứng dịch vụ cho khách tương đối đầy đủ và hiện đại. Tuy nhiên để phát triển du lịch ở quanh khu vực đền Chiêu Trưng, chính quyền xã Thạch Bàn cần có chính sách khích lệ các doanh nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như đường xá, hệ thống nhà hàng, khách sạn, dịch vụ cung cấp hải sản và đồ lưu niệm biển ở dưới chân đền nhằm thu hút nhiều đối tượng khách tham quan. Song việc xây dựng khu dịch vụ này cần được tổ chức, quản lý quy hoạch bài bản để không làm ảnh hưởng đến cảnh quan sinh thái và không làm ô nhiễm môi trường biển tạo ra sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh kết hợp du lịch biển được bền vững. 3. KẾT LUẬN Sự gia tăng của du lịch đại chúng tác động lên kinh tế - xã hội và văn hóa mang đến lợi ích song cũng hàm chứa ảnh hưởng tiêu cực. Trong bối cảnh phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại đền Chiêu Trưng, khai thác nguồn lực văn hóa, xây dựng sản phẩm du lịch vừa là giải pháp tăng sức hút của điểm đến đồng thời là cơ hội để bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, quá trình này cần thiết phải đảm bảo sự tham gia của cộng đồng, trao đổi ý kiến và tổ chức lễ
- 34 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI hội. Nhu cầu trải nghiệm của du khách không chỉ đến từ phong cảnh, kiến trúc di tích mà còn đến từ hoạt động nghi thức, trò chơi trong ngày hội cần mang tính truyền thống vừa giàu tính nghệ thuật. Nghiên cứu này cũng cho thấy xu hướng xây dựng sản phẩm du lịch gắn liền với trình diễn văn hóa của cộng đồng địa phương, đồng thời hạn chế hoạt động tổ chức lễ hội kéo dài làm cho ngày hội trở nên nghèo nàn dễ gây nhàm chán. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng gợi mở về cách thức gia tăng sự tham gia của cộng đồng địa phương đối với bảo tồn văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện đại hóa ngày nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chấp hành Đảng bộ xã Thạch Bàn, Đảng bộ huyện Thạch Hà (2015), Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thạch Bàn (1965-2015), Cổng thông tin điện tử xã Thạch Bàn. 2. Nguyễn Văn Dũng (2001), Góp phần tìm hiểu nhân vật lịch sử Lê Khôi (?-1446), Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Huế, Đại Học Huế. 3. Cao Đức Hải (2010), Quản lý lễ hội và sự kiện, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 4. Phan Thư Hiền, Đặng Thị Thúy Hằng (2018), Danh tướng Lê Khôi với Quê hương Hà Tĩnh, Nxb. Nghệ An, Nghệ An. 5. Bùi Dương Lịch (1972), Nghệ An ký, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 2. 6. Hoàng Nam (2005), Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 7. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (trọn bộ tái bản năm 2020). 8. Dương Văn Sáu (2004), Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch, Nxb. Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội. CULTURE VALUE EXPLOITATION OF CHIEU TRUNG TEMPLE FESTIVAL (THACH BAN COMMUNE, THACH HA DISTRICT, HA TINH PROVINCE) FOR TOURISM DEVELOPMENT Abstract: In more than 500 years, the Chieu Trung Temple Festival has been considered as a way to express gratitude towards the great merit of General Le Khoi and pray for good weather and prosperity among the local people. Chieu Trung Temple Festival associates with historical and cultural relics worshiping general Le Khoi at Long Ngam mountain in Nam Gioi (Thach Ban commune, Thach Ha district). In 2017, the Chieu Trung Temple Festival was recognized as a national intangible cultural heritage by the Ministry of Culture, Sports and Tourism. However, both the local authority and people still paid much concern on preserving the value of cultural heritages at Chieu Trung temple festival and developing spiritual culture tourism in this coastal land. The results aim to analyze the cultural value of the festival, point out the current situation, as well as propose several solutions for preserving and developing spiritual tourism and eco-tourism that enhance the material and spiritual life of local people. Keywords: Festival, Chieu Trung Temple Festival, Chieu Trung Dai Vuong Le Khoi Temple, travel, Thach Ban commune, Ha Tinh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tài nguyên văn hóa di sản – Cơ sở dữ liệu cho ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam
10 p | 83 | 11
-
Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật Chèo cổ ở Vùng Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch
14 p | 140 | 8
-
Một số di sản Hán Nôm và phương hướng tiếp cận: Phần 1
352 p | 33 | 7
-
Khai thác giá trị di sản văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch ở Gia Lai
6 p | 57 | 7
-
Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa thời Hùng Vương qua hình tượng Lang Liêu và truyện bánh chưng bánh dày
7 p | 73 | 6
-
Văn hóa vật chất qua địa danh của vùng Cái Răng thời Pháp thuộc
6 p | 45 | 6
-
Giải pháp duy trì và phát triển loại hình du lịch văn hóa tại Hà Tiên
12 p | 83 | 5
-
Khai thác các giá trị văn hóa và lễ hội truyền thống ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ phát triển du lịch
6 p | 112 | 4
-
Giải pháp phát huy bền vững giá trị không gian Hội Gióng đền Sóc trong hoạt động du lịch
7 p | 74 | 4
-
Tích hợp giá trị văn hóa, lịch sử các di tích quốc gia đặc biệt trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vào giảng dạy các môn Khoa học xã hội và nhân văn tại trường Đại học Hạ Long
4 p | 94 | 4
-
Khai thác làng nghề dệt của người Chăm ở Châu Phong trong phát triển du lịch
9 p | 42 | 4
-
Một số giá trị văn hóa tiêu biểu của làng cổ Lộc Yên huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
8 p | 71 | 3
-
Khai thác giá trị của lễ hội Dạ Cổ Hoài Lang, tỉnh Bạc Liêu vào hoạt động du lịch
4 p | 39 | 3
-
Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong dạy – học Truyện Lục Vân Tiên theo định hướng giáo dục phẩm chất cho học sinh phổ thông
7 p | 33 | 2
-
Một số phương thức khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam
10 p | 3 | 1
-
Chuyển đổi số phục vụ khai thác giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Nông
6 p | 2 | 1
-
Khai thác và vận dụng những chất liệu âm nhạc dân gian để xây dựng chủ đề trong sáng tác âm nhạc giao hưởng của các nhạc sĩ Việt Nam
2 p | 5 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn