CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM – CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT
1. Diễn xướng
Diễn xướng là một thuật ngữ trong ngành văn hóa dân gian học để chỉ những
thể loại văn hóa dân gian có sự kết hợp giữa ca hát và hành động của con người.
Diễn xướng do người Việt tự sáng tạo ra. Khác với biểu diễn hay trình
diễn, diễn xướng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường sống của mình.
Diễn xướng sự giao lưu, gắn kết giữa người biểu diễn người xem, giữa người
trong làng và người ngoài làng, giữa con người và thiên nhiên
Vậy thì diễn xướng có hai yếu tố quan trọng là:
• Diễn: Là những gì con người làm ra
• Xướng: Là những gì con người hát lên
Tóm lại, diễn xướng toàn bộ các phương thức nghệ thuật kết hợp giữa ca
hát và hành động của con người theo chiều thẩm mỹ của dân tộc.
Đặc trưng trong từng loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống bao giờ
cũng sự phản ánh một hình ảnh chân thực, đọng tinh tuý nhất đặc trưng
văn hoá truyền thống riêng của một cộng đồng, một tộc người một vùng văn hoá
cụ thể - gắn mật thiết với chủ thể sáng tạo môi trường văn hoá nuôi dưỡng
đó.
như những làn điệu Chèo lới lơ, con rừng mộc mạc, trong sáng, bình
dị đậm màu sắc văn hóa làng, không chỉ sản phẩm của người dân châu thổ sông
Hồng thuộc, còn theo bước chân người dân thời kinh tế mới lan tỏa vào Tây
Nguyên như Đắc Lắc, Kon Tum.
Bởi vậy ta mới thấy rằng ngoài Hát Chèo một số loại hình biểu diễn
tiếng được phần đông biết đến như Tuồng, Cải lương, Múa rối nước v.v khu vực
phía Bắc nói riêng hay nghệ thuật biểu diễn Việt Nam nói chung vẫn còn vàn
các di sản phi vật thể khác, cũng đặc sắc, cũng thú vị, lôi cuốn khán thính giả với
những đặc điểm riêng biệt về cách thức biểu diễn, nguồn gốc, ý nghĩa lẫn vai trò
khác nhau trong nền văn hóa nước nhà có thể kể đến như một vài cái tên dưới đây:
2. Dân ca vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh
Cũng như Bình-Trị-Thiên. Thanh-Nghệ-Tĩnh tên ghép của Thanh Hóa,
Nghệ An Tĩnh do sự tương đồng về ngữ âm, văn hóa, thống nhất trong
ngôn ngữ âm nhạc cổ truyền.
Riêng địa phận Thanh a giai điệu “Hò Sông Mã/Hò Dọc ng ”,
địa phận Nghệ An cùng nh giai điệu “Ví Giặm/Dặm Nghệ nh rất đặc
trưng.
Hò Sông Mã còn được gọi là Hò Dọc Sông Mã là một thể loại dân ca ở vùng
Thanh Hóa. Lời ca của Hò Sông Mã mang thể thơ lục bát:
2
Vắng cơm một bữa chẳng sao
Vắng em một bữa lao đao cả ngày
Vắng em chỉ một phiên đò
Trầu ǎn chẳng có chuyện đò thì không…
Các làn điệu Sông được hát theo lối xướng - xô, câu kể của một
người bắt cái (thường người cầm lái) được luân phiên với câu đồng thanh phụ
họa của các trai đò.
Các điệu được thể hiện theo suốt chặng đường đò đi. Khi con thuyền bơi
ngược dòng nước, người ta thể hiện điệu Đò Ngược, sau mỗi câu kể của người
bắt cái như hiệu lệnh để cùng thống nhất động tác lấy đà, các trai đò vừa hùa nhau
hát câu xô vừa chống sào đẩy thuyền tiến về phía trước.
3. Ca Trù
Ca Trù, còn được gọi là: Hát Đào, Hát Đầu, Hát Nhà Trò, Hát Cửa
Đình, Hát Cửa Quyền, Hát Nhà Tơ, là bộ môn nghệ thuật mang tính hàn lâm, được
nuôi dưỡng giữ gìn trong dân gian suốt 10 thế kỷ qua. Nhiều làng quê các tỉnh,
thành thuộc đồng bằng Bắc bộ như Nội (Phường Thái Hà), Tây, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc… những cái nôi của các làn điệu Ca Trù. Làng Lỗ Khê (Đông Anh -
Nội) dân cả làng làm nghề hát Ca Trù, kể cả khu vực Bắc miền Trung là làng
Cổ Đạm - Hà Tĩnh.
Thưởng thức Ca Trù thưởng thức Thơ Nhạc. Trong lối hát Ca Trù, cả
người hát, người đàn, người thưởng thức đều tham gia cuộc hát. Họ phối hợp ăn ý
với nhau cũng làm cho Nhạc Thơ hòa quyện vào nhau, đưa cuộc hát đạt đến
sự hoàn hảo, tao nhã, trang trọng.
4. Lý Miền Bắc
Lý, trong âm nhạc dân gian Việt Nam, một trong rất nhiều làn điệu dân ca
của người Việt. cùng với các làn điệu khác như hò, lả, nam ai, nam bình, hát
xoan, hát xẩm, hát ru v.v tạo những nét độc đáo của dân ca Việt Nam. Thể loại
mặt trên khắp 3 miền đất nước nhưng đặc biệt phát triển miền Trung miền
Nam.
Do sự giao lưu, tiếp xúc các điệu phổ biến khắp ba miền của Việt
Nam với các làn điệu phong phú. Riêng điệu “Lý Con Sáo”, chỉ với câu ca dao:
Ai đem con sáo sang sông
Cho nên con sáo sổ lồng bay xa…
Các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian đã ghi nhận bộ tới 30 bài, trong
đó 4 bài Con Sáo trung du Bắc Bộ trong hát ghẹo, 3 bài Lý Con Sáo Bắc
trong hát quan họ Bắc Ninh và hát trống quân, 1 bài Lý Con Sáo Thanh Hóa…
5. Hát Xoan
Hát Xoan còn gọi “Khúc môn đình” (Hát cửa đình), lối hát thờ thần,
thành hoàng, thuộc dân ca nghi lễ, phong tục gắn với hội mùa của người dânPhú
Thọ, một tỉnh thuộc vùng trung du Việt Nam.
3
Thường vào mùa xuân, các phường xoan lần lượt khai xuân đình, miếu
làng. Vào ngày mùng 5 âm lịch thường hát hội đền Hùng. Thời điểm hát được
quy định tại một điểm nhất định, mỗi “phường” chọn một vị trí cửa đình. Hát cửa
đình giữ cửa đình mục đích nhân dân địa phương kết nghĩa với nhau. Theo lệ dân
tại chỗ vai anh, họ (làng khác) vai em. Khi kết nghĩa rồi cấm trai gái hai bên
dân và họ kết hôn với nhau do là anh em.
6. Hát XẩmA
Hát Xẩm là hình thức hát rong có địa bàn hoạt động khắp cả nước. Nhưng chỉ
trong Hát Xẩm cổ vùng đồng bằng Bắc bộ mới làn điệu riêng. Khi biểu diễn,
người Hát Xẩm thường vừa hát vừa đánh đàn bầu (còn gọi đàn Xẩm) hoặc kéo
nhị, phối hợp với người đánh sênh, vỗ trống mảnh-đây những nhạc cụ thường sử
dụng trong dàn nhạc Xẩm. Đôi khi thêm cả trống đế, mõ, hoặc một số nhạc cụ
khác.
“Hát Xẩm một loại hình ngh thuật ca nhạc dân gian mang tính chuyên
nghiệp nguồn gốc từ những người khiếm thị miền Bắc Việt Nam. Tính chuyên
nghiệp của hát xẩm dựa vào bốn yếu tố: văn học, làn điệu, nhạc cụ môi trường
diễn xướng. Theo tài liệu của thế giới về âm nhạc thì ca hát ra đời trước và sân khấu
ra đời sau vậy sẽ không chuyện hát xẩm lấy làn điệu chèo để làm giàu cho
mình ngược lại nghệ thuật chèo đã vay mượn các làn điệu của nghệ thuật hát
xẩm. Khi ngh thuật ca trù rơi vào sự bế tắc đã lấy điệu xẩm Huê Tình vào để sử
dụng, cũng xin được nói thêm điệu xẩm huê tình lúc bấy giờ rất phổ biến. Bộ môn
ngh thuật này đã đi vào quên lãng nguy thất truyền. (trích GS Trần
Quang Hải”).
7. Hát Ống/Hát Ví
Hát Ống/Hát một thể loại âm nhạc dân gian mộc mạc nhưng trữ tình
luôn làm xao xuyến lòng người của cộng đồng nông dân thôn Hậu, Liên Chung
(Tân Yên-Bắc Giang).
“Thôn Hậu hội tụ đủ các yếu tố của một làng quê thuần Việt, mang đậm nét
truyền thống nông thôn Bắc Bộ với đình Ao Vườn cổ kính, cổng làng, giếng nước
còn phủ bóng thời gian, con ngõ nhỏ dài hun hút, những rặng tre bám dọc đường
làng…
Các bậc cao niên trong làng kể lại: Hát ví, hát ống xuất phát từ nguồn vui
trong lao động sản xuất nông nghiệp, dần dần được phát triển với nhiều loại hình
như: hát hoạ, hát đố, hát giao duyên, giã bạn…”.
8. Hát Chầu VănA
Hát Chầu Văn lễ nhạc hát chầu Thánh nên vai trò quan trọng trong lễ
hầu đồng. Lời ca, tiếng nhạc của cung văn nhằm mời gọi các vị Thánh về. Hát văn
làm cho buổi lễ sống động. Những người hát văn vừa chơi nhạc cụ vừa thay nhau
hát trong một vấn hầu thường kéo dài từ 4-8 tiếng.
4
Các nhạc cụ chính gồm: đàn nguyệt, trống ban (trống con), phách, cảnh,
thanh la, ngoài ra còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như: trống cái, sáo, đàn thập lục,
đàn nhị, kèn bầu, chuông, mõ, đàn bầu v.v
Nghi lễ hát chầu văn lên đồng có thể chia thành bốn phần chính:
1. Mời thánh nhập
2. Kể sự tích và công đức
3. Xin thánh phù hộ
4. Đưa tiễn
Bài hát thường chấm dứt với câu: “Xa loan thánh giá hồi cung!
9. Hát Trống Quân
Hát Trống Quân hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến các
tỉnh đồng bằng trung du của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra. Một số nơi
nghệ thuật Trống Quân phát triển như Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, vùng
ven Hà Nội, Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
Hát trống quân mỗi địa phương chút ít khác nhau về làn điệu, cách
thức, thời điểm hát nhưng đặc điểm chung cách thức hát xướng giống nhau,
làn điệu gần giống nhau sử dụng một loại trống để đánh nhịp khi hát đoạn
“Lưu không” giữa những câu đối đáp.
Hát Trống Quân phổ biến Bắc Bộ thường được tổ chức vào những tuần
trăng tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những
ngày hội. Trong những ngày mùa, những người thợ gặt nơi khác đến thường tổ
chức hát với trai hoặc gái trong làng hoặc giữa họ với nhau vào buổi tối, lúc nghỉ
việc. Hát trống Quân thường được tổ chức ngoài sân nhà hoặc bãi cỏ rộng, gần
đình làng, giữa một bên là nam và một bên là nữ.
10. Hát Dô
Hát một thể loại nhạc nghi lễ thờ cúng Thần hoàng Tản Viên xuất xứ
từ Lạp Hạ, nay là xã Liệp Tuyết.
Thể loại âm nhạc nghi lễ truyền thống này chỉ được hát trong dịp lễ cúng tế
Thần hoàng Tản Viên được người dân trong làng tổ chức theo chu kỳ 36 năm một
lần. Các bài hát cúng tế này lời văn đậm chất lãng mạn trữ tình không kém
chi các thể loại Hát Quan Họ, Hát Trống quân v.v
11. Hát Đúm
Mỗi năm vào dịp đầu Xuân, truyền thống văn hóa Lễ Hội Hát Đúm của
người dân Thủy Nguyên (Hải Phòng) được dàn dựng tại 3 Phục Lễ, Phả Lễ
Lập Lễ.
Bài bản của Hát Đúm rất phong phú. Đầu tiên, khi mới gặp nhau những
câu hát chào, những câu hát mừng. Tiếp sau đó thể hát hỏi, hát đố, hát họa,
hát huê tình, hát cưới… và cuối cùng là hát ra về.
Hát Đúm kéo dài từ sáng tới trưa, từ trưa tới tối. Giữa các canh hát, các
mời trầu nước, tặng vật kỷ niệm cho các chàng để tỏ lòng mến mộ. Chiều, các
5
mời các chàng về nhà mình ăn bữa cơm đầu xuân để biết nhà cửa và có sức tiếp tục
hát tới khuya. Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác, cuộc hát đúm kéo dài đến
Mồng 10. Qua những buổi hát, nhiều đôi đã kết nhau để cuối năm nên duyên
chồng vợ.
Bởi tục lệ ấy các gái đây nào cũng thuộc một số bài hát để
đi hội gặp các chàng trai mời hát mở khăn đối đáp. Hát thường chỉ dựa vào
hai thể thơ lục bát song thất lục bát. Tuy không nhiều làn điệu, nhưng lại rất
phong phú về đề tài, đòi hỏi người hát phải rất giỏi về đối đáp.
Như vậy, qua bài viết này, chúng ta đã cái nhìn tổng quan về các nghệ
thuật biểu diễn truyền thống miền Bắc Việt Nam, từ các thể hát của các dân tộc
thiểu số vùng núi phía Bắc, đến các loại hình biểu diễn tiếng như Chèo,
Tuồng, Cải lương, Múa rối nước…•
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống những minh chứng sinh động cho sự
phong phú đa dạng của văn hoá Việt Nam, cũng như cho sự sáng tạo tiếp
biến của người Việt Nam trong quá trình giao lưu văn hoá với các dân tộc khác.
Các nghệ thuật biểu diễn truyền thống không chỉ những sản phẩm văn hoá của
người dân, còn những biểu tượng của lịch sử, địa lý, tâm hồn của một
vùng đất một phần không thể thiếu trong di sản văn hoá quý giá của dân tộc
Việt Nam, và cần được bảo tồn và phát huy trong thời hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thanh Tâm. “Nghệ thuật biểu diễn truyền thống nhìn từ chuyên
ngành Việt Nam học.” Thành Địa Việt Nam Học.•
2. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Dân ca Thanh-Nghệ-Tĩnh.”
Đọt Chuối Non.•
3. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Ca Trù.” Đọt Chuối Non.
4. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Lý Miền Bắc.” Đọt Chuối
Non.•
5. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Xoan Phú Thọ.” Đọt
Chuối Non.•
6. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Xẩm.” Đọt Chuối Non.
7. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Ống/Hát Bắc Giang.”
Đọt Chuối Non.•
8. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Chầu Văn.” Đọt Chuối
Non.•
9. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Trống Quân.” Đọt Chuối
Non.•
10. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Dô.” Đọt Chuối Non.
11. Đặng, Hoàng. “Dân ca dân nhạc Việt Nam: Hát Đúm.” Đọt Chuối Non.