
TẠ P CHÍ VHDG s ố 3/2009 33
NGƯ Ờ I MƯ Ờ NG
v ừ VfiN HOÁ CỒ NG
CHIÊNG MƯ Ơ NG
KIỀ U TRUNG SƠ N
1. Khái quát về ngư ờ i Mư ờ ng
a. Quá trình chia tách Việ t - Mư ờ ng
Các nhà khoa họ c hầ u như thố ng nhấ t
rằ ng ngư ờ i Mư ờ ng có cùng nguồ n gố c vớ i
ngư ờ i Kinh (Việ t). Tuy nhiên, về thờ i điể m
chia tách Việ t cổ thành hai tộ c Việ t và Mư ờ ng
còn có nhiề u ý kiế n khác nhau. Các nhà
ngôn ngữ họ c xác đị nh tiế ng Việ t và tiế ng
Mư ờ ng tách khỏ i nhau khoả ng cuố i thờ i Bắ c
thuộ c (trư ớ c thế kỉ X), từ đó có thể suy ra quá
trình chia tách Việ t - Mư ờ ng diễ n ra từ thế kỉ
VII hoặ c VIII. Theo nhóm tác giả cuố n Góp
phầ n tìm hiể u tỉ nh Hoà Bình thì quá trình chia
tách kéo dài từ khi nhà Đông Hán thôn tính
nư ớ c Nam Việ t củ a Triệ u Đà đế n khi Việ t
Nam giành đư ợ c độ c lậ p, tứ c là trong khoả ng
mộ t thiên niên kỉ và hoàn thành vào thế kỉ X -
XI: "Đế n thế kỷ X, sau khi dân tộ c Việ t Nam
giành đư ợ c độ c lậ p và đế n thế kỷ XI, khi
thành Thăng Long xuấ t hiệ n thì sự phân chia
ra dân tộ c Mư ờ ng và dân tộ c Việ t (Kinh) đã
thành mộ t sự việ c hiể n nhiên củ a lị ch sử ' [7,
tr.12-14].
Còn theo nhà nghiên cứ u Phạ m Quố c
Quân, căn cứ vào kế t quả khai quậ t mộ cổ ,
so sánh mộ Việ t vớ i mộ Mư ờ ng cổ , thì thờ i
điể m chia tách Việ t - Mư ờ ng là khoả ng từ
thế kỉ XII đế n thế kỉ XIV: "Dư ớ i góc nhìn rấ t
hẹ p, chỉ ỏ cấ u trúc mộ cùng thành phầ n
tham gia tạ o nên cấ u trúc, tôi nghĩ rằ ng,
thế kĩ 12, 13 mớ i chỉ là khở i đầ u cho sự
tách Mư ờ ng khỏ i khố i Việ t Mư ờ ng chung.
Chính là khở i đầ u nên tâm thứ c tín ngư ỡ ng
và kiế n trúc mộ vẫ n trọ n giữ như củ a ngư ờ i
Việ t. Sang thế kỉ XIV, cũng từ góc nhìn mộ
táng, tôi thấ y đã có sự khác hẳ n giữ a mộ
Việ t và mộ Mư ờ ng, cho dù nhữ ng mẫ u số
chung vẫ n còn giữ đư ợ c từ tổ tiên trự c tiế p
củ a họ " [13, tr.28],
Như vậ y, từ nhữ ng góc tiế p cậ n theo
nhữ ng chuyên ngành khác nhau, đã và có
thể sẽ còn nhiề u quan điể m khác nhau về
thờ i điể m chia tách Việ t Mư ờ ng.
b. Đị a bàn cư trú củ a ngư ờ i Mư ờ ng
- Phân bô' khu vự c c ư trú
ở Bắ c Việ t Nam, ngư ờ i Mư ờ ng số ng
đị nh cư từ rấ t lâu đờ i. Cho đế n nay, dù ở
sát cạ nh ngư ờ i Kinh và ngư ờ i Thái, về cơ
bả n họ vẫ n giữ đư ợ c sự cố kế t cộ ng đồ ng,
ít có trư ờ ng hợ p số ng tách hoặ c đan xen
vớ i tộ c khác. Trư ờ ng hợ p số ng tách khỏ i
cộ ng đồ ng chủ yế u là nhữ ng ngư ờ i thoát li
đồ ng ruộ ng, làm cán bộ nhà nư ớ c.
ở phạ m vi làng xã, ngư ờ i Mư ờ ng quầ n
tụ thành cộ ng đồ ng, như ng ở phạ m vi
không gian lớ n hơ n thì lạ i phân tán. Hiệ n
nay, ngoài Hoà Bình - nơ i ngư ờ i Mư ờ ng cư
trú đông nhấ t (chiế m khoả ng 49% tổ ng số
ngư ờ i Mư ờ ng trong cả nư ớ c [6, tr.88]), ngư ờ i
Mư ờ ng còn có ở nhiề u tỉ nh khác: Yên Bái,
Sơ n La, Phú Thọ , Hà Tây, Ninh Bình,
Thanh Hoá, Nghệ An và Đắ c Lắ c. So vớ i
các tỉ nh vừ a liệ t kê, Hoà Bình là tỉ nh duy
nhấ t có ngư ờ i Mư ờ ng cư trú ở tấ t cả các
huyệ n. Các tỉ nh còn lạ i, mỗ i tỉ nh chỉ có mộ t
phầ n diệ n tích có ngư ờ i Mư ờ ng sinh số ng,
trong đó, nhữ ng tỉ nh có đị a bàn cư trú củ a
ngư ờ i Mư ờ ng lớ n hơ n cả là Thanh Hoá,
Phú Thọ , nhữ ng tỉ nh có đị a bàn cư trú củ a

34 NGHIÊN CỨ U - TRAO Đổ l
ngư ờ i Mư ờ ng nhỏ hơ n cả là Yên Bái, Đắ c
Lắ c (ở Đắ c Lắ c chỉ có mộ t xã có ngư ờ i
Mư ờ ng, vố n gố c Thị nh Lang và Cao Phong
thuộ c tỉ nh Hoà Bình vào cư trú từ 1954).
- M ôi trư ờ ng cả nh qua n nơ i c ư trú
Ngư ờ i Mư ờ ng dư ờ ng như không ư a
nhữ ng cánh đồ ng bằ ng phẳ ng, thẳ ng cánh
cò bay, cũng không ư a núi cao trùng điệ p,
sông sâu biể n lớ n, họ ư a chọ n nơ i thung
lũng, có đồ i núi, có suố i chả y qua. Nơ i đấ t
thấ p dành để làm ruộ ng, trồ ng trọ t, nơ i đấ t
cao cạ nh đồ i, núi dành để làm nhà ở . Nhà
truyề n thố ng củ a ngư ờ i M ư ờ ng là nhà sàn.
Hư ớ ng nhà phụ thuộ c vào thế đấ t, thư ờ ng
thì dự a lư ng về phía đồ i núi và nhìn về phía
ruộ ng lúa.
Có thể nói, nguồ n nư ớ c là tiêu chí lự a
chọ n đầ u tiên để đị nh cư củ a ngư ờ i Mư ờ ng.
Tuy nhiên, đó không phả i là sông lớ n, mà
chỉ là suố i hoặ c con lạ ch nhỏ . Thung lũng
nơ i ngư ờ i Mư ờ ng canh tác lúa nư ớ c cũng
không phả i là nhữ ng thung lũng lớ n, bằ ng
phẳ ng mà là nhữ ng thung lũng có đị a thế
phứ c tạ p, nhiề u tầ ng, nhiề u nhánh, bị chia
cắ t, đan xen bở i đồ i núi. Đặ c điể m này
dư ờ ng như cũng có thể nhậ n thấ y đư ợ c qua
âm hình bài chiêng Mư ờ ng.
c. Đờ i số ng kinh tế củ a ngư ờ i Mư ờ ng
Ngư ờ i Mư ờ ng số ng bằ ng nghề nông từ
lâu đờ i. Họ biế t tậ n dụ ng tấ t cả nhữ ng đị a
hình thích hợ p để làm ruộ ng. Đó là nhữ ng
nơ i dù không rộ ng rãi, bằ ng phẳ ng như
cánh đồ ng củ a ngư ờ i Kinh như ng gầ n
nguồ n nư ôc. Họ biế t cách biế n vùng đấ t
cao thành ruộ ng, đắ p bờ , đào m ư ơ ng dẫ n
nư ớ c, làm cọ n nư ớ c, đắ p đậ p v.v... Ngoài
ra, họ chăn nuôi trâu bò, lợ n gà, làm
nư ơ ng rẫ y, trồ ng hoa màu và nhữ ng cây
lư ơ ng thự c khác như ngô, sắ n, lúa nư ơ ng.
Nhữ ng ngày nông nhàn, đàn ông thư ờ ng
đi săn bắ t, hoặ c lấ y gỗ trong rừ ng, còn
đàn bà dệ t vả i, đan lát nhữ ng đồ gia dụ ng.
Ngư ờ i M ư ờ ng cũng khéo tay, nhữ ng vậ t
dụ ng do họ làm ra rấ t đẹ p và tố t, có thể
kể ra vài sả n phẩ m như : vả i (thổ cẩ m),
chăn, đệ m, bao đự ng dao, nỏ , chõ đồ xôi,
giỏ cá, chài lư ớ i, cơ i đự ng trầ u v.v... Tuy
nhiên, khác vớ i ngư ờ i Kinh, ngư ờ i Mư ờ ng
không biế n khả năng khéo tay củ a mình
thành mộ t nghề phụ rõ ràng, vì vậ y, họ
không có nhữ ng làng nghề và từ đó cũng
không phát triể n buôn bán, giao thư ơ ng.
Điề u này có lẽ xuấ t phát từ đặ c điể m môi
trư ờ ng tự nhiên nơ i CƯ trú củ a ngư ờ i
Mư ờ ng mà chúng tôi đã đề cậ p ở trên.
Số ng giữ a đị a hình đồ i núi đan xen và bao
quanh, ngư ờ i M ư ờ ng cầ n sự chủ độ ng,
hạ n chế sự lệ thuộ c vào bên ngoài. Họ tự
làm nhữ ng đồ gia dụ ng, nông cụ bằ ng
nhữ ng nguyên liệ u sẵ n có. Do đó, nhữ ng
vậ t dụ ng mà họ làm ra trư ớ c hế t thoả mãn
nhu cầ u củ a chính họ và phù hợ p vớ i điề u
kiệ n số ng củ a họ . Phụ nữ dệ t vả i, làm
chăn đệ m vì tụ c lệ khi lấ y chồ ng phả i có
đủ chăn đệ m cho nhà chồ ng. Đàn ông làm
các vậ t dụ ng phụ c vụ cho việ c săn thú,
bắ t cá và đan lát các đồ gia dụ ng khác khi
thấ y cầ n thiế t. Họ không có ý thứ c sả n
suấ t hàng loạ t m ộ t sả n phẩ m nào đó để
bán, vì thế không có nhữ ng làng nghề thủ
công như ngư ờ i Kinh.
Tính thuầ n nông khiế n ngư ờ i Mư ờ ng
có nhiề u thờ i gian nông nhàn và là điề u
kiệ n để các loạ i hình vãn hoá văn nghệ dân
gian trong đó có cồ ng chiêng hoạ t độ ng
thư ờ ng xuyên trong năm.
d. Cơ cấ u xã hộ i truyề n thông củ a
ngư ờ i Mư ờ ng
Chế độ xã hộ i Mư ờ ng xư a đư ợ c mệ nh
danh là ch ế độ lang đạ o (hay theo cách gọ i

TẠ P CHÍ VHDG s ố 3/2009 35
củ a GS. T ừ Chi: c h ế độ nhà lang). Ngư ờ i
Mư ờ ng có câu: Đ ấ t có lang, làng có đạ o.
Cơ cấ u xã hộ i Mư ờ ng bị chi phố i bở i chế độ
đó, mộ t chế độ mà nhà Nguyễ n, và sau
này là ngư ờ i Pháp vẫ n phả i duy trì nhằ m
đả m bả o chính sách cai trị củ a họ . C h ế độ
nhà lang chia xã hộ i Mư ờ ng thành hai tầ ng
lớ p chủ yế u: tầ ng lớ p quý tộ c và tầ ng lớ p
thư ờ ng dân. Tầ ng lớ p quý tộ c lang đạ o giữ
vai trò cai trị , quả n lí các Mư ờ ng; tầ ng lớ p
bình dân, nhữ ng lớ p ngư ờ i bị trị giữ vai trò
lao độ ng chính nuôi số ng toàn Mư ờ ng.
Tầ ng lớ p thư ờ ng dân chiế m đạ i đa số ,
như ng chỉ có mộ t họ Bùi, trong khi tầ ng lớ p
quí tộ c chiế m số ít lạ i phân chia thành
nhiề u dòng họ như Đinh, Quách, Bạ ch,
Hoàng, Xa... Đố i vớ i ngư ờ i Mư ờ ng, họ Bùi
đồ ng nghĩa vớ i thư ờ ng dân. Họ Bùi không
bao giờ trở thành lang đư ợ c.
Trậ t tự xã hộ i trong các mư ờ ng đư ợ c
duy trì theo nhữ ng luậ t lệ do lang cun đặ t
ra. Nhữ ng luậ t lệ đó trư ớ c tiên bả o đả m
quyề n lợ i cho nhà lang, sau đó mớ i tính
đế n lợ i ích củ a cộ ng đồ ng. Quyề n thố ng trị
củ a lang đư ợ c đả m bả o bằ ng bộ máy phân
cấ p tư ơ ng đố i chặ t chẽ , cao nhấ t là lang
cun rồ i đế n lang đạ o, dư ớ i nữ a là các ậ u
giúp việ c cho lang. Lang cun chiế m cứ nơ i
đấ t tố t nhấ t, thuậ n tiệ n cho sả n xuấ t nhấ t,
tạ o thành trung tâm củ a mộ t mư ờ ng lớ n gọ i
là m ư ờ ng chiề ng-, nhữ ng vùng đấ t lân cậ n
dành cho lang đạ o. Nhữ ng vùng đó cũng
đư ợ c coi là các m ư ờ ng vớ i nhiể u quy mô lớ n
nhỏ khác nhau và mang nhữ ng tên riêng
khác khau. Chẳ ng hạ n, trong Mư ờ ng Vang
có Mư ờ ng Chiề ng, Mư ờ ng Tôm, Mư ờ ng
Nạ c, Mư ờ ng Vó...; trong Mư ờ ng Bi có
Mư ờ ng Chiề ng, Mư ờ ng Khế n, Mư ờ ng Lồ ...
Các mư ờ ng nhỏ tạ o thành mộ t mư ờ ng lớ n
dư ớ i thế lự c cai trị củ a lang cun. Hoà Bình
có bố n dòng họ lang có thế lự c nhấ t vẫ n
đư ợ c lư u truyề n trong dân gian là: Đinh,
Quách, Bạ ch, Hoàng. Mỗ i mư ờ ng gắ n liề n
vớ i mộ t dòng họ lang. Ranh giớ i giữ a các
mư ờ ng lớ n căn c ứ vào thế lự c củ a lang cun.
Phạ m vi ả nh hư ở ng quyể n lự c củ a lang cun
tớ i đâu tứ c là ranh giớ i mư ờ ng tớ i đó.
Đông đả o dân Mư ờ ng thuộ c tầ ng lớ p bị
trị , họ phả i chị u sự cai trị củ a lang, phả i
tuân thủ nhữ ng luậ t lệ mà lang đặ t ra, nế u
vi phạ m sẽ bị phạ t rấ t nặ ng. Đã có nhiề u
trư ờ ng hợ p phả i bỏ m ư ờ ng trố n phạ t, mà đã
trố n thì phả i trố n cả nhà, vì ngư ờ i nhà sẽ
phả i chị u phạ t thay cho ngư ờ i phạ m lệ lang
bỏ trố n. Có thể dẫ n ra mộ t trư ờ ng hợ p cụ
thể : Cụ Bùi Văn Mậ n (sinh năm 1923) ở
Mư ờ ng Én, xã cẩ m Quý, huyệ n cẩ m Thuỷ ,
Thanh Hoá, kể rằ ng, họ Bùi củ a cụ vố n CƯ
trú ở Mư ờ ng Mặ c (thuộ c đấ t Mư ờ ng Vang
xư a bên Hoà Bình bây giờ ). Cụ tổ cách cụ
Mậ n 8 đờ i nhỡ làm chế t voi nhà lang nên
phả i mang cả gia quyế n chạ y trố n vào đây.
Tuy nhiên, trong xã hộ i truyề n thố ng
củ a ngư ờ i Mư ờ ng, cộ ng đồ ng vẫ n có vai trò
to lớ n, nhiề u khi cao hơ n cả quyề n lự c củ a
lang. Dù lang nắ m quyề n cai trị , luậ t lệ do
lang đặ t ra như ng phả i đư ợ c cộ ng đồ ng
chấ p nhậ n. Nế u lang đư a ra quyế t đị nh đi
ngư ợ c lạ i quyề n lợ i cộ ng đồ ng hoặ c có
nhữ ng hành vi trái vớ i truyề n thố ng văn hoá
củ a cộ ng đồ ng thì cộ ng đồ ng sẽ phả n ứ ng.
Khi đó vai trò củ a cộ ng đồ ng đư ợ c bộ c lộ
mạ nh mẽ . Đã có trư ờ ng hợ p lang bị cộ ng
đồ ng phế truấ t: "nhân dân Hạ Bì (Kim Bôi)
đã từ ng có lầ n đuổ i lang đi, đón Q uách Đố c
về làm lang, sau đó Q uách Đ ố c lạ i bị đuổ i
đi, nhân dân đón m ộ t la ng khá c về " [5,
tr.20]. Ngoài ra, cũng có nhữ ng trư ờ ng hợ p
dân đánh chế t lang [16, tr.681], như ng đó
là cá biệ t, không phổ biế n.

36 NGHIÊN CỪ U - TRAO Đổ l
e. Đờ i số ng tâm linh củ a ngư ờ i Mư ờ ng
- Quan niệ m về vũ trụ : Theo GS. Từ
Chi, ngư ờ i Mư ờ ng có quan niệ m "vũ trụ ba
tầ ng bố n thế giớ i", ô n g diễ n giả i như sau:
Vũ trụ ba tầ ng theo trụ c dọ c, gồ m tầ ng trờ i,
tầ ng mặ t đấ t và tầ ng dư ớ i mặ t đấ t. Tầ ng
tròi gồ m mộ t thế giớ i dành cho Ngọ c
Hoàng và các thầ n linh. Tầ ng m ặ t đấ t có
hai thế giớ i: thế giớ i củ a ngư ờ i số ng
(mư ờ ng ngư ờ i) và thế giớ i củ a ngư ờ i chế t
(mư ờ ng ma). Tầ ng dư ở i m ặ t đ ấ t cũng có
hai thế giớ i: thế giớ i trong lòng đấ t (mư ờ ng
Pư a Tin) và thế giớ i dư ớ i nư ớ c (mư ờ ng Vua
Khú). Vậ y, có nhữ ng năm thế giớ i! Như ng
tên củ a củ a Vũ trụ luậ n Mư ờ ng "Vũ trụ ba
tầ ng bố n thế giớ i" cho thấ y chỉ có bố n thế
giớ i. Có mâu thuẫ n ở đây chăng? Không,
bở i tầ ng mặ t đấ t nằ m trong mộ t quan niệ m
vũ trụ khác, mà GS. Từ Chi gọ i là "vũ trụ
hai bên", mộ t bên là thế giớ i củ a ngư ờ i
số ng và bên kia, xạ ả nh củ a nó - thế giớ i
củ a ngư ờ i chế t, tứ c là thự c ra nó chỉ là mộ t
thế giớ i [17, tr. 198-209],
Quan niệ m về vũ trụ củ a ngư ờ i Mư ờ ng
đư ợ c phả n ánh qua âm nhạ c cồ ng chiêng
củ a họ . Chúng tôi sẽ đề cậ p vấ n đề này
trong mộ t phầ n viế t khác.
- Thờ cúng: Ngư ờ i Mư ờ ng cũng chôn
ngư ờ i chế t như nhiề u tộ c ngư ờ i khác như ng
họ không cả i mả , không lấ y ngày mấ t củ a
ngư ờ i chế t làm ngày giỗ như ngư ờ i Kinh. Họ
cũng thắ p hư ơ ng cúng ngư ờ i đã khuấ t hàng
năm như ng làm chung vào ngày Tế t, hoặ c
ngày lễ trọ ng nào đó. Vớ i họ , ngư ờ i chế t, khi
đã làm xong lễ mai táng, tứ c là đã vĩnh viễ n
ở mư ờ ng ma. Có lẽ vì không giỗ theo ngày
mấ t hàng năm mà ngư ờ i Mư ờ ng cầ n có mo
nhòm họ . Ngư ờ i chế t (hồ n) nhấ t thiế t phả i
đư ợ c õng Mo Mư ờ ng đư a lố i, giớ i thiệ u, chỉ
dẫ n họ hàng ở mư ờ ng ma để biế t lố i mà
xư ng hô, biế t đư ờ ng mà cư xử khi sang đó.
Vì thế , ngày nay, dù các đêm mo đã giả m
nhiề u, các bài mo cũng phả i lư ợ c bớ t, như ng
mo nhòm họ nhấ t thiế t không đư ợ c bỏ . Lễ
thứ c tang ma Mư ờ ng là mộ t hiệ n tư ợ ng văn
hoá độ c đáo đã đư ợ c nhiề u nhà nghiên cứ u
văn hoá đề cậ p (J. Quidinier, T ừ Chi,...),
chúng tôi sẽ không nhắ c lạ i quá chi tiế t về
vấ n đề này.
Ngoài tụ c thờ cúng tổ tiên, ngư ờ i
Mư ờ ng còn thờ thành hoàng làng, thờ Tả n
Viên Sơ n Thánh (thẩ n núi), thờ thổ công
(hầ u hế t nhà nào cũng có miế u nhỏ thờ thổ
công đặ t ở ngoài vư ờ n). Đây là tín ngư ỡ ng
khá phổ biế n ở các làng Mư ờ ng. Ngư ờ i
Mư ờ ng có quan niệ m về hồ n, vía ngư ờ i
số ng khá đặ c biệ t và thư ờ ng có lễ cúng vía
cho ngư ờ i số ng để cầ u sứ c khoẻ , nhấ t là
đố i vớ i trẻ con và ngư ờ i già.
f. Lề hộ i và nghệ thuậ t
- Lễ hộ i: Ngư ờ i Mư ờ ng cũng có lễ hộ i
cổ truyề n như các tộ c khác. Từ sau năm
1954, mộ t số lễ hộ i củ a họ không còn đư ợ c
duy trì. Từ 1993 trỏ lạ i đây, sinh hoạ t lễ hộ i
tín ngư ỡ ng củ a ngư ờ i Mư ờ ng đư ợ c phụ c
hồ i. Đáng chú ý nhấ t là lễ hộ i Khai hạ đã
đư ợ c duy trì hàng năm tạ i Mư ờ ng Bi. Từ
"Khai hạ " có thể hiể u đơ n giả n nhấ t: "khai"
là bắ t đầ u, "hạ " là hạ cây nêu, báo hiệ u hế t
Tế t; vậ y "Khai hạ " là bắ t đầ u mộ t năm mớ i,
bắ t đầ u vào vụ trố ng cấ y. Ngư ờ i Mư ờ ng tổ
chứ c lễ Khai hạ để cầ u các vị thầ n linh phù
hộ cho mộ t năm trồ ng cấ y mư a thuậ n gió
hoà, mùa vụ bộ i thu. Các vùng mư ờ ng củ a
ngư ờ i Mư ờ ng đề u tổ chứ c lễ hộ i Khai hạ
như ng thờ i điể m diễ n ra lễ hộ i này thì mỗ i
nơ i mộ t khác. Chẳ ng hạ n, ở Tân Lạ c (Mư ờ ng
Bi) tổ chứ c vào ngày mồ ng 8 Tế t, còn ở

TẠ P CHÍ VHDG s ố 3/2009 37
Thung Nai huyệ n Cao Phong lạ i tổ chứ c
vào mồ ng 5 Tế t.
Như bấ t cứ lễ hộ i nào, lễ hộ i Khai hạ
cũng có hai phầ n: lễ và hộ i. Sau phầ n lễ
dâng cúng các vị thầ n linh ở miế u là các trò
vui chơ i, ca hát, đánh cồ ng chiêng củ a
phầ n hộ i. Phầ n hộ i là phầ n các loạ i hình
nghệ thuậ t dân gian Mư ờ ng đư ợ c dị p trình
diễ n. Do đó, lễ hộ i Mư ờ ng là yế u tố quan
trọ ng góp phầ n bả o lư u, gìn giữ các loạ i
hình nghệ thuậ t truyề n thố ng củ a ngư ờ i
Mư ờ ng, trong đó có cồ ng chiêng.
- Nghệ thuậ t: Nghệ thuậ t củ a ngư ờ i
Mư ờ ng khá đa dạ ng phong phú.
+ về m ĩ thuậ t: Ngư ờ i Mư ờ ng có phong
cách riêng thể hiệ n qua kiế n trúc, trang
phụ c, trang trí v.v... Đáng lư u ý nhấ t là hoa
văn trên cạ p váy đã đư ợ c GS. T ừ Chi
nghiên cứ u và công bố (1).
+ Về m úa: vấ n đề ngư ờ i Mư ờ ng có
múa hay không đã từ ng gây tranh cãi trong
giớ i nghiên cứ u nghệ thuậ t. Tuy nhiên, có
mộ t điể u cầ n khẳ ng đị nh là ở nhữ ng nghi lễ
cầ u cúng, nhữ ng yế u tố múa đư ợ c biể u
hiệ n rấ t rõ. Nhữ ng độ ng tác củ a ông Mo
trong lúc làm Mo; nhữ ng độ ng tác củ a các
con dâu quạ t mát cho bố chồ ng nằ m trong
quan tài; nhữ ng độ ng tác trong các trò diễ n
v.v..., minh chứ ng cho điể u đó. Các nhà
biên đạ o múa dự a trên nhữ ng yế u tố múa
nêu trên, nâng cao phát triể n thành nhữ ng
điệ u múa mang phong cách Mư ờ ng như
múa Nâng Bỏ ng, múa Sênh tiề n, múa
Kiế m, múa Q uạ t Ma v.v...
+ về âm nhạ c: Kho tàng dân ca dân
nhạ c Mư ờ ng khá phong phú, đa dạ ng, v ề
dân ca: Họ có các làn điệ u ru (ru ngày, ru
đê m ỵ hát vi hát đố i (th ư ờ n g rang - bọ
mạ ng') trong sinh hoạ t đờ i thư ờ ng; có diễ n
xư ớ ng M o trong nghi lễ tang ma và hát
xắ c bùa trong phong tụ c cầ u m ay ngày
Tế t. Về dân nhạ c: Họ có ban nhạ c "Cò ke
ố ng sáo" gồ m các nhạ c khí: nhị (cò ke),
sáo, đàn tam , sênh tiề n, tiu cả nh; có sáo
ôi vớ i nhữ ng làn điệ u tâm tình thủ thỉ và
đặ c biệ t là dàn cồ ng chiêng vớ i hệ thố ng
bài bả n dặ c sắ c. Vớ i luậ t chơ i, cấ u trúc và
phư ơ ng thứ c diễ n tấ u đặ c biệ t, âm nhạ c
cồ ng chiêng M ư ờ ng sẽ đư ợ c giớ i thiệ u
riêng trong m ộ t phầ n viế t khác.
2. Khái qu át về văn hoá cổ ng chiêng
Mư ờ ng
Nói tớ i văn hoá cồ ng chiêng Mư ờ ng là
nói tớ i tổ ng thể các mố i liên hệ văn hoá
giữ a ngư ờ i M ư ờ ng vớ i cồ ng chiêng, tậ p
trung ở quan niệ m, cách ứ ng xử củ a ngư ờ i
Mư ờ ng vớ i cồ ng chiêng, ở lí do tồ n tạ i, hay
ý nghĩa củ a cồ ng chiêng trong đờ i số ng
củ a ngư ờ i Mư ờ ng. T ừ đó, chúng tôi trình
bày văn hoá cồ ng chiêng Mư ờ ng qua các
biể u hiệ n cụ thể củ a nó như cách gọ i tên,
các trư ờ ng hợ p sử dụ ng và cách ứ ng xử
củ a ngư ờ i Mư ờ ng đố i vớ i cồ ng chiêng.
a. Cách gọ i tên củ a ngư ờ i Mư ờ ng đôi
vớ i cổ ng chiêng
Tên gọ i và cách gọ i tên mộ t cái gì đó
cũng là m ộ t biể u hiệ n văn hoá đáng quan
tâm. Vấ n để tên gọ i cồ ng chiêng trong
cộ ng đồ ng Mư ờ ng khá phứ c tạ p. Đã có
nhiề u nhà nghiên cứ u đề cậ p tớ i vấ n đề
này, có thể khái quát như sau:
Về tên g ọ i chung: Ngư ờ i Mư ờ ng sử
dụ ng tên "chiêng" là phổ biế n.
Về tên g ọ i riêng: Ngư ờ i Mư ờ ng gọ i tên
riêng củ a chiêng theo hai tiêu chí chủ yế u
sau:
- Gọ i theo kích cỡ