Journal of Science – 2015, Vol.7 (3), 52 – 65<br />
<br />
Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br />
<br />
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG MÁY SẤY NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI VÀO QUÁ<br />
TRÌNH SẤY KHÔ CÁ TRA PHỒNG TẠI AN GIANG<br />
Trần Nghĩa Khang1, Nguyễn Văn Thành2, Nguyễn Phạm Kim Tuyến2<br />
ThS. Trường Đại học An Giang<br />
KS. Trường Đại học An Giang<br />
<br />
1<br />
2<br />
<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 20/11/14<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
02/02/15<br />
Ngày chấp nhận đăng: 08/15<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
This research examines drying catfish fillets by slar dryers in An Giang province.<br />
The results show that, in the idling stage, the drying chamber temperature of solar<br />
dryers are from 40 oC to 46,5 oC at air velocity of 2 m/s. This range of temperature<br />
is higher than environment temperature from 6 oC to 12 oC. The solar dryers could<br />
Title:<br />
dry catfish fillets effectively under the sunny condition. Under drying by the solar<br />
Investigation of applying solar<br />
dryer at air velocity of 0,5 m/s for 16 hours, the water content in dried fishes were<br />
dryers to drying catfish fillets in<br />
under 35% (w/w). The average drying chamber temperature is 50.11 oC. However,<br />
An Giang province<br />
in cloudy condition, the water content in dried catfishes remained is at 54.5% after<br />
Từ khóa:<br />
16 hours of drying by solar dryer, the average drying chamber temperature was<br />
An Giang, đối lưu cưỡng bức,khô only 35.62 oC. The study showed that dried catfish fillets could reach the lowest<br />
cá Tra phồng, quá trình sấy, thiết moisture contain after 16 hours and highest quality if they were dried in solar<br />
bị sấy NLMT<br />
dryers at air velocity of 0.5 m/s under sunny condition. The moister contain in<br />
dried catfish fillets would increase and the quality would decrease with the<br />
Keywords:<br />
An Giang, forced convection,<br />
increase of air velocity at 1m/s, 1,5m/s and 2m/s. In comparison of drying<br />
dried catfish fillets, drying<br />
methods, the quality of catfished fillets dried by the solar dryers is absolutely<br />
process, solar dryers<br />
better than those dried by direct sunlight. The peroxide concentration in the<br />
former samples were two times lower than the later samples. The productivity of<br />
the solar dryers was about 233.8 W.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đề tài nghiên cứu lắp đặt thiết bị sấy năng lượng mặt trời (NLMT) dùng sấy khô<br />
cá tra phồng tại tỉnh khu vực tỉnh An Giang. Kết quả cho thấy trong điều kiện sấy<br />
không tải, nhiệt độ buồng sấy của thiết bị sấy NLMT nằm trong khoảng từ 40 oC<br />
đến 46,5 oC với tốc độ thổi gió là 2 m/s. Nhiệt độ của thiết bị cao hơn nhiệt độ môi<br />
trường cùng thời điểm từ 6 oC – 12 oC. Thiết bị sấy NLMT có thể sấy khô cá tra<br />
phồng một cách hiệu quả dưới điều kiện nắng tốt. Lượng nước khô thành phẩm<br />
dưới 35% ẩm sau 16 giờ sấy ở tốc độ gió 0,5 m/s. Nhiệt độ trung bình buồng sấy ở<br />
điều kiện sấy này là 51,11 oC. Tuy nhiên, trong điều kiện mây nhiều, độ ẩm cá khô<br />
sau khi sấy 16 giờ vẫn còn khá cao (54,5%), nhiệt độ trung bình của buồng sấy chỉ<br />
đạt 35,62 oC. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng khô cá Tra thành phẩm có thể đạt tới<br />
độ ẩm thấp nhất sau 16 giờ sấy và đạt chất lượng cao nhất khi cá được sấy ở tốc<br />
độ gió 0,5 m/s. Độ ẩm của cá thành phẩm sẽ cao và chất lượng cá thành phẩm sẽ<br />
giảm nếu tốc độ gió sấy tăng dần lần lượt từ 1 m/s, 1,5 m/s và 2 m/s. Khi so sánh<br />
giữa các phương pháp làm khô, chất lượng sản phẩm được sấy bằng máy sấy<br />
<br />
52<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol.7 (3), 52 – 65<br />
<br />
Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br />
<br />
NLMT cao hơn rõ rệt khi so với phương pháp phơi khô trực tiếp dưới ánh nắng<br />
mặt trời. Lượng peroxide trong mẫu cá phơi khô cao gấp 2 lần lượng peroxide<br />
trong mẫu cá sấy bằng máy sấy NLMT. Công suất của máy sấy NLMT là khoảng<br />
233,8 W.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mujumdar (1987) và Mahapatra & Imre (1997)<br />
cho rằng phương pháp phơi khô thực phẩm dưới<br />
ánh sáng trực tiếp tồn tại một số nhược điểm như:<br />
Cần nhiều nhân lực và diện tích, sản phẩm bị hao<br />
hụt do chim, động vật và côn trùng tấn công. Sản<br />
phẩm chịu tác động bất lợi của tia tử ngoại, nhiễm<br />
tạp chất từ gió, bụi của môi trường xung quanh,<br />
độ ẩm không đồng đều. Sản phẩm khó bảo quản<br />
do côn trùng và trứng côn trùng dễ xâm nhập. Gần<br />
như không điều khiển được quá trình làm khô như<br />
nhiệt độ phơi, độ ẩm không khí sấy, tốc độ gió.<br />
<br />
GIỚI THIỆU<br />
<br />
1.1. Tiềm năng và các ứng dụng năng lượng<br />
mặt trời trong sản xuất<br />
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về sử dụng<br />
năng lượng mặt trời (NLMT) do nằm ở khu vực<br />
cường độ bức xạ khá cao, với tổng bức xạ lên đến<br />
100-175 kcal/cm2.năm (Hoàng Dương Hùng,<br />
2006). Tỉnh An Giang có vị trí vào giữa 10-11o vĩ<br />
Bắc, là một trong những tỉnh có số giờ nắng trong<br />
năm rất dài từ 7-10 giờ/ngày, tổng số giờ nắng<br />
trung bình lên tới 2400 giờ/năm (Cổng thông tin<br />
điện tử An Giang, 2008). Theo Nguyen và Pryor<br />
(1997) ghi nhận, tổng năng lượng bức xạ trung<br />
bình được đo ở Châu Đốc (một thành phố của An<br />
Giang) lên tới 17.90 MJ/m2, cao thứ ba cả nước.<br />
Có thể thấy rằng với điều kiện số giờ nắng dài và<br />
cường độ nắng lớn, khu vực An Giang rất có tiềm<br />
năng trong việc phát triển các kỹ thuật ứng dụng<br />
NLMT vào sản xuất.<br />
<br />
1.2. Nguyên tắc hoạt động và phân loại thiết bị<br />
sấy năng lượng mặt trời<br />
Theo Kalogirou (2009), Sharma, Chen và Vu Lan<br />
(2009), thiết bị sấy NLMT được coi là một giải<br />
pháp hiệu quả thay thế cho quá trình phơi truyền<br />
thống vì những ưu điểm: Chất lượng sản phẩm<br />
được cải thiện do quá trình sấy được kiểm soát tốt<br />
hơn, rút ngắn đáng kể thời gian sấy, giảm chi phí<br />
nhân công và không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư ban<br />
đầu (Mahapatra & Imre, 1997; Mujumdar, 1987).<br />
Quá trình thu nhiệt từ mặt trời của thiết bị sấy<br />
NLMT có thể được giải thích bằng hiệu ứng lồng<br />
kính (Hoàng Dương Hùng, 2006). Đây là hiện<br />
tượng tích lũy năng lượng bức xạ của mặt trời<br />
phía dưới một tấm kính hoặc một lớp khí nào đó<br />
theo nguyên lý “Độ trong đơn sắc của một tấm<br />
kính hay một lớp khí sẽ giảm dần khi bước sóng λ<br />
của ánh sáng tới càng tăng”, Hình 1 minh họa<br />
nguyên tắc thu nhiệt của thiết bị sấy NLMT.<br />
<br />
Về ứng dụng NLMT, nhiều nghiên cứu từ George<br />
và Nathan, Singh và Kumar(2012), Kelly và<br />
Gibson (2011), Kalogirou (2009), Hoàng Dương<br />
Hùng (2006) cho thấy, NLMT đã và đang được<br />
ứng dụng rộng rãi ở rất nhiều nơi. Trong đó ứng<br />
dụng phổ biến nhất và sớm nhất là phơi khô thực<br />
phẩm bằng ánh nắng trực tiếp từ mặt trời. Ngoài<br />
ra NLMT còn được sử dụng cho nhiều mục đích<br />
khác như: nhà máy nhiệt điện NLMT, máy nước<br />
nóng sử dụng NLMT, máy sấy NLMT, bếp nấu<br />
NLMT, thiết bị chưng cất dùng NLMT.<br />
Phương pháp làm khô thực phẩm bằng NLMT dù<br />
rất phổ biến nhưng tồn tại nhiều khuyết điểm.<br />
<br />
Hình 1. Hiệu ứng nhà kính trong bộ thu NLMT<br />
<br />
53<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol.7 (3), 52 – 65<br />
<br />
Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br />
<br />
(Hoàng Dương Hùng, 2006)<br />
<br />
ánh sáng mặt trời vì được đặt trong buồng sấy.<br />
Nếu không khí nóng được dẫn vào buồng nhờ đối<br />
lưu tự nhiên thì gọi là thiết bị sấy NLMT đối lưu<br />
tự nhiên. Nếu không khí nóng được thổi vào thì<br />
gọi là đối lưu cưỡng bức. Với bộ phận quạt thổi<br />
và ống dẫn, máy sấy NLMT dạng đối lưu cưỡng<br />
bức có thể dẫn dòng không khí nóng đến bất kỳ vị<br />
trí nào để phục vụ cho nhiều mục đích. Dòng<br />
không khí cưỡng bức cũng tăng tốc độ khuyếch<br />
tán hơi nước và rút ngắn thời gian sấy (Khattab,<br />
1996). Cấu tạo của thiết bị sấy NLMT dạng đối<br />
lưu cưỡng bức được thể hiện ở Hình 2<br />
<br />
Sharma (2009) cho rằng, thiết bị sấy NLMT có<br />
thể đượcphân thành hai loại chính là thiết bị sấy<br />
mặt trời trực tiếp và thiết bị sấy NLMT gián tiếp.<br />
Ở thiết bị sấy mặt trời trực tiếp, buồng sấy được<br />
gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà kính, sản phẩm<br />
sấy tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Do<br />
vậy thiết bị sấy NLMT dạng này có cấu tạo đơn<br />
giản nhưng có nhược điểm là sản phẩm bị mất<br />
màu hoặc có những biến đổi bất lợi do tiếp xúc<br />
trực tiếp với ánh sáng mặt trời.<br />
Theo Mujumdar (1987), thiết bị sấy NLMT gián<br />
tiếp có 2 bộ phận gồm bộ thu nhiệt và buồng sấy.<br />
Sản phẩm khi sấy sẽ không tiếp xúc trực tiếp với<br />
<br />
Hình 2. Cấu tạo máy sấy NLMT gián tiếp dạng đối lưu cưỡng bức<br />
(Kalogirou & Soteris, 2009)<br />
<br />
Rất nhiều ứng dụng của thiết bị sấy NLMT đối<br />
lưu cưỡng bức dùng sấy nhiều loại nông sản như<br />
chuối, chà là, nho, ớt, đậu, hạt giống, mơ, khóm ở<br />
Ấn Độ, Thái Lan và các nước Châu Phi. Hầu hết<br />
kết quả cho thấy máy sấy NLMT có ưu điểm là<br />
cho sản phẩm có chất lượng sấy tốt, tiết kiệm<br />
nhiên liệu và nhân công, thiết bị cấu tạo đơn giản<br />
dễ sử dụng. Ở Việt Nam cũng đã có một số<br />
nghiên cứu ứng dụng máy sấy NLMT để sấy nông<br />
<br />
sản như dùng để sấy cà phê (Võ Đăng Phong,<br />
2011) hay sấy lúa (Thúy Hằng, 2013). Ngoài ra<br />
Nguyễn Thị Hồng Nhung (2011) cũng có nghiên<br />
cứu rất đáng chú ý về phương pháp trữ nhiệt trong<br />
thiết bị sấy NLMT. Tuy nhiên chưa thấy có<br />
nghiên cứu về sử dụng thiết bị sấy NLMT sấy khô<br />
các sản phẩm động vật hay thủy sản được công<br />
bố.<br />
54<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol.7 (3), 52 – 65<br />
<br />
Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br />
<br />
sông Cửu Long (ĐBSCL) (So, Maes, &<br />
Volckaert, 2006). Thành phần hóa học cơ bản của<br />
cá tra được thể hiện ở Bảng 1 và 2<br />
<br />
1.3. Giới thiệu về khô cá tra phồng<br />
Cá tra có tên tiếng Anh là Shutchi catfish và tên<br />
khoa học là Pangasius hypophthalmus là loại cá<br />
da trơn được nuôi phổ biến ở khu vực Đồng bằng<br />
Bảng 1. Thành phần hóa học cá tra theo trọng lượng cá<br />
<br />
Các thành phần hoá học (%)<br />
Số thứ tự<br />
<br />
Trọng lượng cá (g)<br />
Protein<br />
<br />
Lipid<br />
<br />
Tro<br />
<br />
Nước<br />
<br />
1<br />
<br />
500 – 1000<br />
<br />
15,97<br />
<br />
8,34<br />
<br />
1,52<br />
<br />
73,10<br />
<br />
2<br />
<br />
1000 – 1500<br />
<br />
15,96<br />
<br />
9,58<br />
<br />
1,40<br />
<br />
72,13<br />
<br />
3<br />
<br />
1500 – 2000<br />
<br />
16,00<br />
<br />
10,51<br />
<br />
1,33<br />
<br />
71,60<br />
<br />
4<br />
<br />
2000 – 2500<br />
<br />
15,97<br />
<br />
11,04<br />
<br />
1,25<br />
<br />
71,27<br />
<br />
5<br />
<br />
2500 – 3000<br />
<br />
16,00<br />
<br />
11,11<br />
<br />
1,22<br />
<br />
71,05<br />
<br />
6<br />
<br />
3000 – 3500<br />
<br />
15,95<br />
<br />
11,22<br />
<br />
1,21<br />
<br />
70,80<br />
(Nguyễn Duy Tân, 2009)<br />
<br />
Khô cá tra phồng là một trong những đặc sản<br />
truyền thống của tỉnh An Giang.Cá sau khi chế<br />
biến được tiến hành làm khô đến 35 - 45%. Cá có<br />
thể được làm khô bằng phơi nắng trực tiếp trên<br />
giàn phơi khoảng 3 nắng (Lê Đức Minh, 2006)<br />
hoặc sấy khô. Nguyên liệu cá tra đặc điểm là có<br />
khá nhiều chất béo 9 – 11%. Do vậy khi tiến hành<br />
sấy khô cá tra cần sấy ở nhiệt độ tương đối thấp.<br />
Độ ẩm sấy tốt nhất cần đạt 35 - 45% và nhiệt độ<br />
sấy 50 oC thì cho chất lượng tốt nhất. Nếu sấy<br />
nhiệt độ cao hơn 60 oC sẽ làm cá sậm màu và<br />
tươm dầu nhiều (Nguyễn Duy Tân, 2009).<br />
<br />
Sự phá hoại của côn trùng: côn trùng là một trong<br />
những nguyên nhân gây hư hỏng rất lớn đối với<br />
cá khô. Cá dễ bị ruồi tấn công trong quá trình phơi<br />
khô, chúng đẻ trứng vào trong cá và ấu trùng sẽ<br />
phát triển và làm hỏng sản phẩm nếu chúng chưa<br />
được tiêu diệt trong các công đoạn làm khô<br />
(Nguyễn Trọng Cẩn, 1990).<br />
Sự hút ẩm: khi độ ẩm của không khí cao cá khô sẽ<br />
hút ẩm. Mức độ hút ẩm phụ thuộc vào độ ẩm của<br />
không khí. Khi áp suất hơi nước bão hòa trên bề<br />
mặt cá khô nhỏ hơn áp suất riêng phần của hơi<br />
nước trong không khí thì sản phẩm sẽ hút ẩm. Sản<br />
phẩm khô sau khi hút ẩm dễ thối rữa, biến chất<br />
(Nguyễn Trọng Cẩn, 1990).<br />
<br />
1.4. Các biến đổi bất lợi diễn ra trong quá<br />
trình làm khô sản phẩm cá<br />
Trong quá trình phơi sấy, sản phẩm khô có thể có<br />
những biến đổi bất lợi sau: Sự oxi hóa thành phần<br />
béo. Thành phần béo của thủy sản có nhiều acid<br />
béo không bão hòa cao độ khi tiếp xúc với không<br />
khí sẽ dễ bị oxi hóa. Quá trình oxi hóa thường xảy<br />
ra tự động và liên tục, làm màu sắc chất béo từ<br />
vàng nhạt chuyển sang nâu sẫm và có mùi xấu.<br />
Các nhân tố làm cho sản phẩm bị oxi hóa: oxi<br />
không khí, ánh sáng, nhiệt độ, lượng nước, acid<br />
béo tự do, muối kim loại,… (Phan Thị Thanh<br />
Quế, 2005)<br />
<br />
Với tính chất đặc thù là lượng béo cao và dễ ôi<br />
hóa, quá trình và phương pháp làm khô cá tra<br />
phồng có vai trò rất lớn quyết định chất lượng của<br />
sản phẩm. Tuy nhiên hiện nay chưa thấy có<br />
nghiên cứu ứng dụng phương pháp sấy NLMT<br />
sấy khô cá tra phồng được công bố. Do vậy nhóm<br />
tác giả tiến hành thực hiện dự án này với mong<br />
muốn đẩy mạnh các nghiên cứu về ứng dụng<br />
NLMT vào sấy khô thực phẩm.<br />
<br />
55<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol.7 (3), 52 – 65<br />
<br />
Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology<br />
<br />
1 tới tháng 5. Các số liệu phân tích và đo đạc<br />
được lặp lại 3 lần, kết quả được tiến hành thống<br />
kê bằng chương trình Statgraphic 12.0 plus.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN<br />
NGHIÊN CỨU<br />
Thí nghiệm được tiến hành tại khu vực Thành phố<br />
Long Xuyên tỉnh An Giang, trong thời điểm tháng<br />
2.<br />
<br />
Cửa<br />
thoát khí<br />
Buồng<br />
sấy<br />
<br />
Móc treo cá<br />
<br />
Cửa đo<br />
<br />
Bộ thu<br />
Tấm thu<br />
<br />
Quạt<br />
Hình 3. Sơ đồ cấu tạo mặt cắt dọc thiết bị sấy năng lượng mặt trời<br />
<br />
Thiết bị sấy NLMT được thiết kế như mô tả ở<br />
Hình 3. Bộ thu của máy được đặt tại khu vực có<br />
nhận ánh sáng trực tiếp, độ nghiêng của tấm thu<br />
NLMT từ 20o - 25o và nằm trên trục Bắc Nam<br />
(Hình 4). Mỗi mẻ cá nghiên cứu có khối lượng 5<br />
kg. Các thông số cơ bản của máy đo đạc bao gồm:<br />
độ ẩm trung bình của không khí, nhiệt độ trung<br />
bình bộ thu NLMT. Nhiệt độ trung bình của<br />
không khí sấy sau khi qua bộ hấp thu và nhiệt độ<br />
trung bình của buồng sấy. Nhiệt độ, độ ẩm được<br />
ghi nhận bằng thiết bị đo chỉ số môi trường CEM<br />
DT-8820. Các số liệu được thu thập mỗi 15 phút<br />
vận hành.<br />
<br />
quản ở nhiệt độ -2 oC trong thời gian không quá 5<br />
ngày trong bao bì PA hút chân không. Sau khoảng<br />
8 giờ sấy (1 ngày nắng) khô cá được bao bằng bao<br />
PA hàn kín và để qua đêm ở nhiệt độ phòng cho<br />
đến khi được tiếp tục sấy vào ngày hôm sau.<br />
Các chỉ tiêu phân tích khô cá tra phồng bao gồm<br />
phân tích ẩm, chỉ số NH3, chỉ số peoxide và hàm<br />
<br />
Mẫu cá tra phồng bán thành phẩm được mua tại<br />
một cơ sở cố định trong suốt thời gian thí nghiệm.<br />
Khô cá tra bán thành phẩm là khô đã hoàn thành<br />
quá trình ngâm ươn và ngấm muối và có thể tiến<br />
hành làm khô. Mẫu cá bán thành phẩm được giữ<br />
lạnh ở nhiệt độ (2 - 8 oC) để vận chuyển và tiến<br />
hành phân tích và thí nghiệm ngay trong ngày sau<br />
khi mua. Mẫu khô cá sau khi sấy khô được bảo<br />
<br />
Hình 4. Thiết bị sấy NLMT<br />
<br />
lượng đạm tổng số và cảm quan. Cảm quan theo<br />
thang điểm Hedonic 5 bậc. Chỉ số NH3 được phân<br />
56<br />
<br />