
Ngày nhận bài: 26-02-2025 / Ngày chấp nhận đăng bài: 31-03-2025 / Ngày đăng bài: 08-04-2025
*Tác giả liên hệ: Từ Thị Huyền Trang. Bộ môn Nha Khoa Cơ Sở, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail: trangtu@ump.edu.vn
© 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
28 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
ISSN: 1859-1779
Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 28(4):28-35
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.04
Khảo sát mức độ đau, trầm trọng hóa đau, trầm cảm và
lo âu trên bệnh nhân rối loạn thái dương hàm
Phan Minh Khôi1, Nguyễn Thị Kim Anh2, Từ Thị Huyền Trang3,*
1Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Văn Lang, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
3Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát mức độ đau, trầm trọng hóa đau, trầm cảm và lo âu trên bệnh nhân rối loạn thái dương hàm (RLTDH)
đến khám tại Phòng khám chuyên khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2021 đến năm
2023.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 85 bệnh nhân RLTDH. Sử dụng lần lượt thang đo
mô phỏng trực quan (VAS), thang đo mức độ trầm trọng hóa đau (PCS), bảng câu hỏi đánh giá trầm cảm (PHQ-9) và bảng
câu hỏi đánh giá lo âu (GAD-7) để khảo sát.
Kết quả: Trung bình cường độ đau (VAS) là 47,2 (26,9). Trung bình mức độ trầm trọng hóa đau (PCS) là 23 (13,2); có 29,4%
bệnh nhân có biểu hiện trầm trọng hóa đau (PCS >30). Trung bình mức độ trầm cảm (PHQ-9) là 10,5 (6,1); 52,9% có biểu
hiện trầm cảm (PHQ-9 >10); 28,2% ở mức độ nhẹ. Trung bình mức độ lo âu GAD-7 là 8,3 (5,3); 52,9% bệnh nhân có biểu
hiện lo âu (GAD-7 >8); 30,6% ở mức độ nhẹ. Có sự tương quan thuận giữa điểm số PCS với 3 thang đo còn lại: VAS, PHQ-
9, GAD-7 (hệ số tương quan: 0,552; 0,36; 0,46).
Kết luận: Kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải đánh giá song song các tình trạng trầm cảm, lo âu và trầm
trọng hóa đau trong quá trình thăm khám, điều trị và theo dõi đáp ứng điều trị trên đối tượng bệnh nhân RLTDH.
Từ khóa: rối loạn thái dương hàm; trầm trọng hóa đau; trầm cảm; lo âu
Abstract
PAIN INTENSITY, PAIN CATASTROPHIZING, DEPRESSION AND ANXIETY
IN PATIENTS WITH TEMPOROMANDIBULAR DISORDERS
Phan Minh Khoi, Nguyen Thi Kim Anh, Tu Thi Huyen Trang
Objective: The study aimed to evaluate the clinical characteristics, including pain intensity, pain catastrophizing,
depression and anxiety among patients with temporomandibular disorders (TMD), who visited the Specialized Clinic of

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.04 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 29
Odonto-stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City from 2021 to 2023.
Methods: A cross-sectional study was conducted. The level of pain, pain severity, depression and anxiety state were
collected using Visual Analog Scale (VAS), Pain Catastrophizing Scale (PCS), Patient Health Questionnaire-9 (PHQ-9)
and the Generalized Anxiety Disorder-7 (GAD-7), respectively.
Results: Among the 85 patients with TMD, the average pain intensity by VAS was 47.2±26.9. The average pain
catastrophizing level by PCS was 23±13.2, with 29.4% of patients showed signs of pain catastrophizing (PCS >30). The
average depression level by PHQ-9 was 10.5±6.1, with 52.9% of patients exhibiting depression symptoms (PHQ-9 >10),
predominantly at a mild level (28.2%). The average anxiety level by GAD-7 was 8.3±5.3, with 52.9% of patients showing
anxiety symptoms (GAD-7 >8), mostly at a mild level (30.6%). Correlation analysis revealed a positive correlation
between the pain catastrophizing level and the other three measures: pain intensity, depression level, and anxiety level
(correlation coefficients were 0.552, 0.36, and 0.46, respectively; p <0.05).
Conclusion: The findings emphasized the importance of assessing not just the severity of pain, but also the tendency
to exaggerate the distress and suffering associated with pain, along with the presence of depressive symptoms and
levels of anxiety in the management of TMD patients.
Keywords: temporomandibular disorders; pain catastrophizing; depression; anxiety
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo McNeill C (1997), rối loạn thái dương hàm
(RLTDH) là tình trạng đau hoặc rối loạn chức năng liên quan
đến vùng khớp thái dương hàm, các cơ hàm, và các cấu trúc
liên quan [1]. Các triệu chứng thường gặp của RLTDH là đau,
tiếng kêu khớp và giới hạn vận động hàm. Tổng quan hệ
thống của Ryan J (2019) dựa trên 42 nghiên cứu dịch tễ học
cho thấy tỉ lệ người trưởng thành có dấu hiệu/triệu chứng của
RLTDH dao động từ 1 - 75%, tùy thuộc vào dân số nghiên
cứu [2]. Mặc dù tiếng kêu khớp là triệu chứng chiếm tỉ lệ cao
nhất (66,6%), nhưng đa số bệnh nhân đến khám là vì nguyên
nhân đau (chiếm khoảng 55,7%) [3]. Do đó, việc phân tích,
đánh giá các đặc điểm và khía cạnh của đau là một trong
những vấn đề mà nhà lâm sàng quan tâm nhất.
Khi đánh giá đau trên bệnh nhân RLTDH, các khía cạnh
phổ biến thường được khai thác là cường độ, vị trí, thời gian
đau, kiểu đau và ngưỡng đau. Tuy nhiên, đối với bệnh nhân
đau mạn tính, cơn đau có thể chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố khác như tuổi, giới, chủng tộc. Ngoài ra, các yếu tố tâm lý
như trầm cảm, lo âu, stress hay suy nghĩ tiêu cực đều cho
thấy mối liên quan tuyến tính đến cảm giác và mức độ đau
của bệnh nhân [4]. Các yếu tố tâm lý này là nguy cơ khiến
tình trạng đau trở nên trầm trọng và kéo dài hơn, đáp ứng
không tốt với điều trị hoặc thậm chí là từ bỏ điều trị. Ngoài
ra, tác động của đau và các trải nghiệm liên quan đến đau còn
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Do đó, ngoài việc đánh giá các đặc điểm cơ bản của đau, thì
việc khai thác thêm các tình trạng trầm cảm, lo âu và những
suy nghĩ, cảm nhận của bệnh nhân về cơn đau trong quá trình
thăm khám cũng hỗ trợ rất nhiều cho việc tiên lượng, lập kế
hoạch và theo dõi điều trị [5].
Để đánh giá một trải nghiệm chủ quan như đau, tùy vào
mục đích và đối tượng, người đánh giá có thể lựa chọn sử
dụng những thang đo khác nhau. Một số thang đo đau đang
được sử dụng phổ biến có thể kể đến như: Thang điểm đau
mô phỏng trực quan (Visual analogue scale – VAS) đo lường
cường độ đau, Thang đo mức độ trầm trọng hóa đau (Pain
catastrophizing scale - PCS) đánh giá suy nghĩ tiêu cực,
phóng đại của bệnh nhân trong trải nghiệm đau thực tế hoặc
trong suy ngẫm về cơn đau. Tương tự, để đánh giá mức độ
trầm cảm và lo âu trên lâm sàng, những công cụ đo thường
được sử dụng nhiều trong nghiên cứu gồm có: HDRS
(Hamilton Rating Scale for Depression), PHQ-9 (Patient
Health Questionnaire-9) đánh giá trầm cảm; GAD-7
(General Anxiety Disorder-7) và STAI (State Trait Anxiety
Inventory) đánh giá mức độ lo âu.
Nghiên cứu của Reiter S (2018) mô tả mối tương quan
giữa tình trạng đau dai dẳng với trầm cảm và cảm nhận về
đau trên 163 bệnh nhân RLTDH [6]. Kết quả cho thấy, nhóm
bệnh nhân có tình trạng đau mạn tính kéo dài trên 90 ngày
có mức độ trầm cảm trên 10 điểm chiếm 20%, cao hơn nhóm
đau ít hơn 90 ngày (6,8%). Gần đây nhất, kết quả từ nghiên
cứu của Simone L (2020) cho thấy: ở nhóm bệnh nhân

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4* 2025
30 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.04
RLTDH, 20% có điểm số PHQ-9 trên 10 điểm và 29% có
điểm số GAD-7 trên 10 điểm [7]. Tại Việt Nam, nghiên cứu
của Lâm Bửu Châu (2020) đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu,
stress ở hai nhóm có và không có triệu chứng RLTDH [8].
Kết quả cho thấy, nhóm đối tượng có triệu chứng RLTDH có
điểm trung bình trầm cảm, lo âu, stress cao hơn đáng kể so
với nhóm không có triệu chứng RLTDH. Nhìn chung, chưa
có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam xem xét đánh giá những
khía cạnh như trầm cảm, lo âu trên đối tượng bệnh nhân
RLTDH; cũng như khảo sát suy nghĩ và cảm nhận của bệnh
nhân khi đau. Một trong những lý do quan trọng đó là chưa
có thói quen sử dụng các công cụ đánh giá các yếu tố này
trong thăm khám lâm sàng.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát mức độ đau,
trầm trọng hóa đau, trầm cảm và lo âu trên bệnh nhân rối
loạn thái dương hàm” đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt –
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh bằng thang đo mô
phỏng trực quan VAS, thang đo mức độ trầm trọng hóa đau
PCS, bảng câu hỏi đánh giá mức độ trầm cảm PHQ-9 và
bảng câu hỏi đánh giá mức độ lo âu GAD-7 với mục tiêu: (1)
Xác định trung bình cường độ đau, mức độ trầm trọng hóa
đau, mức độ trầm cảm và mức độ lo âu trên bệnh nhân
RLTDH trên bệnh nhân RLTDH qua thang đo VAS, thang
đo PCS, bảng câu hỏi PHQ-9 và bảng câu hỏi GAD-7 và (2)
Xác định tương quan giữa các yếu tố cường độ đau, mức độ
trầm trọng hóa đau, mức độ trầm cảm và mức độ lo âu trên
bệnh nhân RLTDH.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân trên 18 tuổi đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt,
Phòng khám chuyên khoa Răng Hàm Mặt Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh được chẩn đoán có RLTDH khi có
ít nhất một trong những dấu hiệu và triệu chứng sau (theo
DC/TMD 2014, trục I): Đau ở vùng hàm, vùng thái dương,
vùng trong tai hay trước tai, đau đầu xung quanh vùng thái
dương; có tiếng kêu khớp khi vận động; Há miệng hạn chế
(<40mm); kẹt hàm khi há; kẹt hàm khi đóng.
2.1.1. Tiêu chuẩn loại trừ
Người đang có bệnh lý sưng đau nhiễm trùng vùng hàm
mặt; đang điều trị ung thư hoặc các bệnh lý nghiêm trọng
ảnh hưởng đến tính mạng; không thông hiểu tiếng Việt; đang
ở trong trạng thái không thích hợp để tham gia trả lời bộ câu
hỏi (ví dụ như: bồn chồn, bứt rứt, kích động, gây hấn, v.v.).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu
Tối thiểu là 80 đối tượng (tính bằng công thức theo ước
lượng tỉ lệ (α là 5% và sai số biên lựa chọn là 10%), và ước
lượng chỉ số trung bình (α là 5% và sai số tương đối là 5%).
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Cường độ đau được đánh giá qua thang đo mô phỏng trực
quan (VAS). Thang VAS được biểu diễn là một đường thẳng
dài 100mm với điểm chặn 2 đầu: Điểm 0 tương ứng với không
đau, điểm 100 tương ứng với đau không chịu đựng nổi. Bệnh
nhân được yêu cầu đánh dấu một điểm trên đường thẳng mô
tả chính xác cường độ đau của họ trong 14 ngày gần nhất. Sau
đó, nghiên cứu viên đo chiều dài từ 0 đến điểm đánh dấu, ghi
nhận số mm biểu thị cho cường độ đau của bệnh nhân.
Mức độ trầm trọng hóa đau được đánh giá qua thang đo
mức độ trầm trọng hóa đau (Pain Catastrophizing Scale –
PCS) [9]. Thang đo gồm 13 câu hỏi, đánh giá trên ba phương
diện bao gồm: (1) sự tập trung suy ngẫm về cơn đau
(rumination), (2) sự phóng đại hoá cơn đau (magnification) và
(3) phản ứng bất lực trước cơn đau (helplessness). Mỗi câu hỏi
có thang điểm từ 0 đến 4 tương ứng với năm mức độ. Tổng
điểm có giá trị từ 0 đến 52. Bệnh nhân chọn một giá trị từ 0
đến 4 để đánh giá mức độ phù hợp của từng mô tả với những
suy nghĩ và cảm nhận của bệnh nhân khi đau. Số điểm càng
cao tương ứng với mức độ trầm trọng hóa đau càng tăng. Đối
tượng có biểu hiện trầm trọng hóa đau khi tổng điểm PCS ≥30
[10].
Mức độ trầm cảm được đánh giá qua bảng câu hỏi đánh giá
trầm cảm (Patient Health Questionnaire-9: PHQ-9), gồm 9 câu
hỏi chính, mỗi câu hỏi có 4 đáp án tương ứng với 4 mức độ từ
0 đến 3 [11]. Người làm khảo sát chọn một giá trị từ 0 (không
chút nào) đến 3 (gần như mọi ngày) để đánh giá mức độ
thường xuyên họ gặp phải các triệu chứng trong vòng 2 tuần
vừa qua.
Mức độ lo âu được đánh giá qua bảng câu hỏi đánh giá lo

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.04 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
|
31
âu (Thang đánh giá mức độ rối loạn lo âu toàn thể: Generalized
Anxiety Disorder Scale - GAD-7), phát triển bởi Spitzer RL
[12]. Thang đo gồm 7 câu hỏi, mỗi câu hỏi có 4 đáp án tương
ứng với 4 mức độ từ 0 đến 3 đánh giá về các biểu hiện lo âu
trong thời gian 2 tuần qua. Điểm của mỗi câu được đánh giá
dựa vào thời gian (số ngày) xuất hiện của các biểu hiện đó.
2.2.4. Xử lý và phân tích dữ liệu
Số liệu được thu thập bằng các bộ câu hỏi in trên giấy hoặc
bảng câu hỏi online thông qua mã QR.
Sau khi thu thập sẽ được nhập vào phần mềm Excel để
quản lý trước khi chuyển sang phần mềm thống kê chuyên
dụng JASP phiên bản 17.2.1.
Nghiên cứu đánh giá độ tin cậy nội tại của bộ câu hỏi bằng
hệ số Cronbach’s alpha.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 85 đối tượng, trong đó có 29 nam
(34,1%) và 56 nữ (65,9%). Các đối tượng tham gia nghiên cứu
có độ tuổi trung bình ghi nhận là 28,9 ± 9,4. Độ tuổi trung bình
ở nam là 26,5 và nữ là 30,1. Trong đó, có 88,2% bệnh nhân có
triệu chứng đau. Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng
RLTDH trên 90 ngày chiếm 63,5%.
Mức độ tin cậy nội tại của thang đo mức độ trầm trọng hóa
đau (PCS), mức độ trầm cảm (PHQ-9) và mức độ lo âu (GAD-
7) đánh giá bằng chỉ số Cronbach’s α lần lượt là 0,95 (KTC:
0,93 - 0,97); 0,87 (KTC: 0,82 – 0,91); 0,90 (KTC: 0,86 – 0,93).
Chỉ số Cronbach’s α của cả 3 thang đo đều trên 0,7. Nhìn
chung, mức độ tương quan giữa các câu hỏi trong cùng một
bộ câu hỏi có độ tin cậy nội tại cao.
3.2. Đặc điểm cường độ đau, mức độ trầm trọng
hóa đau, mức độ trầm cảm và lo âu trên mẫu
nghiên cứu
Cường độ đau trung bình là 47,2 ± 26,9; cường độ đau
trung bình ghi nhận ở nữ (51,7) cao hơn so với nam (38,3)
có ý nghĩa thống kê (p <0,05) (Bảng 1).
Trung bình mức độ trầm trọng hóa đau (PCS) trên 85 bệnh
nhân RLTDH ghi nhận là 23,0 ± 13,2. Đa số bệnh nhân trong
nghiên cứu không có biểu hiện trầm trọng hóa đau (PCS
<30). Điểm số trung bình từng khía cạnh trong thang đo PCS
lần lượt là: tập trung suy ngẫm về cơn đau (rumination): 7,1
± 4,5; phóng đại hoá cơn đau (magnification): 6,3 ± 3,3; phản
ứng bất lực trước cơn đau (helplessness): 9,6 ± 6,4. PCS ở
nữ (25,4) cao hơn so với nam (18,2) có ý nghĩa thống kê
(p <0,05). Trong số 85 bệnh nhân, có 29,4% có biểu hiện
trầm trọng hóa đau (PCS ≥30) và 70,6% không có biểu hiện
trầm trọng hóa đau (Bảng 1).
Trung bình mức độ trầm cảm (PHQ-9) trên 85 bệnh nhân
RLTDH ghi nhận là 10,4 ± 6,1. PHQ-9 ở nam (11,6) cao hơn
so với nữ (9,9) không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Trong
mẫu nghiên cứu, 52,9% bệnh nhân RLTDH có dấu hiệu trầm
cảm (PHQ-9 ≥10), đa số ở mức độ nhẹ (28,2%) và trung bình
(18,8%); mức độ nặng chiếm 5,9% (Bảng 1).
Trung bình mức độ lo âu (GAD-7) trên 85 bệnh nhân
RLTDH ghi nhận là 8,3 ± 5,3: GAD-7 ở nam (9,1) cao hơn
ở nữ (7,9) không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Trong mẫu
nghiên cứu, 52,9 % bệnh nhân có dấu hiệu lo âu (GAD-7
≥8); tỉ lệ ở các mức độ nhẹ, trung bình và nặng lần lượt là:
30,6%; 28,2% và 11,8% (Bảng 1).
Bảng 1. So sánh đặc điểm cường độ đau, mức độ trầm trọng hóa đau, mức độ trầm cảm và mức độ lo âu trên 85 bệnh nhân RLTDH theo giới
Nam (n = 29) Nữ (n = 56) Tổng (n = 85) p
VAS (TB ± ĐLC) 38,3 ± 25,3 51,7 ± 26,7 47,2 ± 26,9 0,019*
PCS
Suy ngẫm (TB ± ĐLC)
Phóng đại (TB ± ĐLC)
Bất lực (TB ± ĐLC)
Tổng (TB ± ĐLC)
5,4 ± 4,3
5,3 ± 3,5
7,5 ± 5,9
18,2 ± 12,9
7,9 ± 4,5
6,8 ± 3,1
10,7 ± 6,4
25,4 ± 12,7
7,1 ± 4,5
6,3 ± 3,3
9,6 ± 6,4
23 ± 13,2
0,018*
0,072
0,026*
0,011*
PHQ-9 (TB ± ĐLC) 11,6 ± 7,1 9,9 ± 5,5 10,4 ± 6,1 0,22
GAD-7 (TB ± ĐLC) 9,1 ± 5,5 7,9 ± 5,1 8,3 ± 5,3 0,313
VAS: Visual analogue scale; PCS: Pain catastrophizing scale; PHQ-9: Patient Health Questionnaire-9; GAD-7: General Anxiety Disorder-7; Phép kiểm Mann-
Whitney; *: p <0,05

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4* 2025
32 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.04
3.3. So sánh trung bình cường độ đau, mức độ
trầm cảm và lo âu theo phân loại trầm trọng hóa
đau
Kết quả Bảng 2 cho thấy: Trung bình VAS, PHQ-9 và
GAD-7 ở nhóm có biểu hiện trầm trọng hóa đau (67,2; 13,9;
7,2) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có biểu
hiện trầm trọng hóa đau (38,8; 9,1; 7,2) (p <0,01).
Bảng 2. Cường độ đau, mức độ trầm cảm và mức độ lo âu theo
phân loại điểm số trầm trọng hóa đau (PCS)
PCS <30
n = 60
PCS ≥30
n = 25 p
VAS 38,8±23,9 67,2±22,9 <0,001***
PHQ-9 (TB ± ĐLC)
Không trầm cảm
(<10) (%)
Trầm cảm (≥10) (%)
9,1±6,2
55
45
13,87±4,1
28
72
<0,001***
0,023*
GAD-7 (TB ± ĐLC)
Không lo âu (<8)
(%)
Lo âu (≥8) (%)
7,2±4,9
52
48
11±5,3
36
64
0,002**
0,187
VAS: Visual analogue scale; PCS: Pain catastrophizing scale;
PHQ-9: Patient Health Questionnaire-9; GAD-7: General Anxiety
Disorder-7; Phép kiểm: Mann-Whitney, chi bình phương; * p <0,05;
** p <0,01; *** p <0,001
So sánh về tỉ lệ biểu hiện trầm cảm và lo âu ở hai nhóm có
và không có biểu hiện trầm trọng hóa đau, ta thấy: Ở nhóm
bệnh nhân có biểu hiện trầm trọng hóa đau (PCS ≥30) có tỉ
lệ biểu hiện trầm cảm (72%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so
với nhóm nhóm bệnh nhân có không có biểu hiện trầm trọng
hóa đau (PCS <30) (45%). Tương tự, ở nhóm có biểu hiện
trầm trọng hóa đau (PCS ≥30) có tỉ lệ bệnh nhân có dấu hiệu
lo âu (64%) cao hơn không có ý nghĩa thống kê so với nhóm
ít biểu hiện trầm trọng hóa đau (PCS <30) (48%).
Kết quả từ Hình 1 cho thấy ở nhóm bệnh nhân có mức độ
trầm cảm tương ứng từ không, rất nhẹ, nhẹ, trung bình, nặng,
có tỉ lệ biểu hiện trầm trọng hóa đau lần lượt là 6%; 26%;
33%; 44%; 60%. Như vậy, ở những nhóm bệnh nhân
RLTDH có mức độ trầm cảm càng nặng thì tỉ có biểu hiện
trầm trọng hóa đau càng cao.
Kết quả từ Hình 2 cho thấy ở nhóm bệnh nhân có mức độ
lo âu tương ứng từ không, nhẹ, trung bình, nặng có tỉ lệ biểu
hiện trầm trọng hóa đau lần lượt là 8%, 35%, 33%, 60%.
Tương tự với phân loại mức độ trầm cảm, nhóm bệnh nhân
có mức độ lo âu nặng (60%) có tỉ lệ biểu hiện trầm trọng hóa
đau cao hơn so với các mức độ khác.
Hình 1. Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm trọng hóa đau theo 5 mức
độ trầm cảm
Hình 2. Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm trọng hóa đau theo 4 mức
độ lo âu
3.4. Mức độ tương quan giữa các yếu tố cường
độ đau, mức độ trầm trọng hóa đau, mức độ trầm
cảm và mức độ lo âu
Bảng 3. Tương quan giữa cường độ đau VAS, tổng điểm PCS, tổng
điểm PHQ-9 và GAD-7 ở 85 bệnh nhân RLTDH
VAS PCS PHQ-9 GAD-7
VAS 1 0,55***ρ 0,12 ρ 0,16 ρ
PCS 1 0,36***r 0,35** ρ
PHQ-9 1 0,82*** ρ
GAD-7 1
VAS: Visual analogue scale; PCS: Pain catastrophizing scale; PHQ-9:
Patient Health Questionnaire-9; GAD-7: General Anxiety Disorder-7;
r: hệ số tương quan Pearson; ρ: hệ số tương quan Spearman; *: p <0,05,
**: p <0,01, ***: p <0,001
Kết quả từ Bảng 3 cho thấy: Mức độ trầm trọng hóa cơn
đau (PCS) có tương quan có ý nghĩa thống kê với cả 3 yếu
tố cường độ đau (VAS) (ρ = 0,55; p <0,001), mức độ trầm
cảm (PHQ-9) (r = 0,35; p <0,001) và mức độ lo âu (GAD-7)
94
74 67 56
40
6
26 33 44
60
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Không (0-4) Rất nhẹ (5-9) Nhẹ (10-14) Trung bình
(15-19) Nặng (20-27)
Mức độ trầm cảm
Không trầm trọng hóa đau Có trầm trọng hóa đau
92
65 67
40
8
35 33
60
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Không (0-4) Nhẹ (5-9) Trung bình (10-14) Nặng (15-21)
Mức độ lo âu
Không trầm trọng hóa đau Có trầm trọng hóa đau

