
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xác định về trách nhiệm của thanh niên, Hồ Chí Minh từng cho rằng: “thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” [11; tr.185]. Xác định và củng cố
vai trò “chủ tương lai của nước nhà” trong bối cảnh hiện nay khi trình độ của
phát triển của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi có cách nhìn nhận mới về trách
nhiệm của thanh niên, sinh viên. Thanh niên (nói chung), sinh viên (nói riêng)
có trình độ tương đối cao, có điều kiện và xu hướng tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển của xã hội. Trách nhiệm nghề nghiệp là một đòi hỏi tất yếu của xã hội
đối với mỗi cá nhân, trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội, sinh
viên phải thấy được trách nhiệm của mình đối với sự phát triển lâu bền của xã
hội và có hành động thiết thực thể hiện trách nhiệm của mình. Trước yêu cầu
phải đáp ứng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức;
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước mang định hướng XHXN; bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN và nâng cao vị thế của đất nước cần xem xét trách nhiệm nghề
nghiệp của thanh niên, sinh viên.
Trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều khó khăn do dịch bệnh, khủng
hoảng kinh tế, những vấn đề của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cách mạng
công nghệ, đòi hỏi các cán bộ y tế tương lai phải nhận thức mới về trách nhiệm
nghề nghiệp của mình. Ngành Y là ngành lao động đặc biệt, liên quan đến sức
khỏe, tính mạng của con người, đòi hỏi trách nhiệm đặc biệt cao, sự cầu thị đặc
biệt cao. Đại dịch COVID-19 tạo ra áp lực đặc biệt lớn đối với nhân viên y tế, thu
nhập của nhân viên y tế công sụt giảm dẫn đến nhiều người lao động tại cơ sở y tế
công dao động về vị trí việc làm hiện tại. Một bộ phận sinh viên ngành Y chưa ý
thức rõ trách nhiệm đối với nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
tình hình mới. Một số sinh viên chỉ tính đến quyền lợi, chế độ đãi ngộ cán bộ
ngành y nên nhụt chí trước khó khăn về quyền lợi của cán bộ nhân viên y tế trong

2
và sau đại dịch COVID-19. Để thúc đẩy sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân,
cần tìm hiểu nhận thức về trách nhiệm nghề nghiệp của sinh viên khối ngành Y,
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy nhận thức về trách nhiệm nghề nghiệp
của các em, để góp phần vào xây dựng một nền y học hiện đại, dân tộc khoa học
và đại chúng.
Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa là cơ sở đào tạo công lập các cán bộ Y,
Dược có lịch sử lâu năm nhất so với các trường đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại
học y đang đóng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Trường là đơn vị có cá nhân và
tập thể nhận được nhiều phần thưởng cao quý của Chính phủ, Bộ, ban ngành về
học tập, nghiên cứu khoa học, văn hóa thể dục thể thao, hoạt động phòng chống
dịch bệnh, công tác Đoàn, Hội. Tuy vậy, xu hướng tồn tại của trường cao đẳng
tại địa phương luôn khó khăn. Để trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa khẳng định
được thương hiệu đào tạo, giữ được sự sống còn trong chiến lược phát triển lâu
dài, thành công hơn nữa trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng con người phát triển
toàn diện, cung cấp đội ngũ lao động ngành Y ra thị trường lao động thì việc tìm
hiểu nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp của sinh viên ngành Y là quan trọng.
Vì các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Khảo sát nhận thức trách nhiệm
nghề nghiệp của sinh viên khối ngành Y Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa trong
giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
- Đề tài có mục tiêu:
Tìm hiểu nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp của sinh viên khối ngành Y
Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Để thực hiện được mục tiêu đó, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu:
(1). Xác định một số vấn đề lý luận về trách nhiệm, trách nhiệm nghề nghiệp,
của sinh viên khối ngành Y tại trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa.
(2). Khảo sát nhận thức về trách nhiệm nghề nghiệp của sinh viên khối ngành Y
đang học tại Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa.
(3). Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nâng cao nhận thức thực hiện trách
nhiệm nghề nghiệp của chính quy Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.

3
Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm nhận thức, trách nhiệm, trách nhiệm nghề nghiệp
1.1.1. Khái niệm nhận thức
Có nhiều nghiên cứu về nhận thức, đặc biệt là triết học, có nhiều trường phái
nên có nhiều cách hiểu khác nhau về nhận thức. Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật
biện chứng để tìm hiểu, có thể liệt kê một số nghiên cứu điển hình.Từ điển triết
học cho rằng, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực ở trong tư
duy của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và gắn
liền không thể tách rời thực tiễn[2; tr.407]. Mục đích của nhận thức là đạt tới
chân lý khách quan. Nhận thức có mối quan hệ chặt chẽ với thực tiễn, thực tiễn
có vai trò to lớn đối với nhận thức.
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, nhận thức là quá trình hoặc kết quả
phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết,
hiểu biết thế giới khách quan, hoặc kết quả của quá trình đó [3]. Khái niệm
“nhận thức” còn có thể được hiểu là nhận ra và biết được, hiểu được một vấn đề
nào đó.
Theo PGS. Nguyễn Ngọc Hà nhận thức được hiểu đồng nghĩa với ý thức của
con người và tư duy của con người [4; tr.143]. Nhận thức là quá trình phản ánh
tích cực, chủ động sáng tạo của con người trước hiện thực khách quan.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm nghề nghiệp
Theo Từ điển Triết học, trách nhiệm là “phạm trù của đạo đức học và luật
học, phản ánh thái độ xã hội đặc biệt và thái độ đạo đức pháp luật của cá nhân
đối với xã hội, đối với nhân loại nói chung; thái độ này biểu thị ở sự hoàn thành
nghĩa vụ đạo đức của mình và các tiêu chuẩn pháp luật”[2; tr.595].
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, GS. Hoàng Phê cho rằng, trách nhiệm là phần
việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết
quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả. Hoặc cũng có nghĩa là sự ràng
buộc đối với lời nói, hành vi của mình, phải bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì
phải gánh chịu phần hậu quả[3; tr.1292].

4
Trách nhiệm là yêu cầu phải thực hiện để khắc phục, giải quyết một vấn đề
nào đó về các vấn đề tự nhiên, xã hội và chính bản thân cá nhân theo chiều hướng
tích cực. Một người có trách nhiệm là người nhận thức được vị trí, sứ mệnh của
mình trong thế giới, nhằm thúc đẩy cá nhân, tự nhiên, cộng đồng phát triển. Trong
các cộng đồng khác nhau thì nội dung, mức độ trách nhiệm sẽ khác nhau.
Như vậy, các nghiên cứu trên đã xác định “Trách nhiệm” là một khái niệm
dùng để chỉ nhận thức của cá nhân đối với tự nhiên, xã hội và chính bản thân
mình. Ở những điều kiện lịch sử khác nhau (thời gian, cộng đồng, sự tiến bộ của
xã hội) trách nhiệm khác nhau. Xã hội tiến bộ dựa trên sự phát triển nhận thức
về trách nhiệm, những đóng góp tích cực của nhận thức về trách nhiệm đã thúc
đẩy dân chủ ngày càng được phát triển lên trình độ mới.Trách nhiệm gắn với
tiêu chuẩn đạo đức, pháp luật của xã hội.
Tài liệu của Lê Thị Cúc, Đặng Thị Hoàng Liên cho rằng, trách nhiệm xã hội
là một năng lực của cá nhân bộc lộ ra qua những hành vi hướng đến hỗ trợ
nhóm, cộng đồng. Năng lực này có được thông qua quá trình học hỏi, bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng và thái độ trên cơ sở chuẩn mực xã hội [5].
Quan điểm cho rằng, trách nhiệm xã hội là trách nhiệm của cá nhân đối với
xã hội mà họ sống trong đó, nó được hiểu như nghĩa vụ mà một cá nhân cần có
đối với xã hội, có thể được bắt nguồn từ phúc lợi của người thân hoặc mở rộng
đến cộng đồng lớn hơn.
Trách nhiệm xã hội là nhận thức của con người về khả năng đảm nhận các
vấn đề liên quan đến địa phương, quốc gia, nhân loại. Để nhận thức và thực hiện
được trách nhiệm xã hội, cá nhân phải nhận thấy được quan hệ của bản thân với
cộng đồng, nhận thấy được năng lực bản thân trong việc xây dựng các giá trị.
Trách nhiệm xã hội sẽ được nhận thức và thực hiện khác nhau ở các chủ thể
khác nhau (lứa tuổi, giới, cộng đồng), trên cơ sở môi trường khác nhau (thời
gian, địa điểm, cộng đồng khác nhau).
Nếu “trách nhiệm” là danh từ chung chỉ cái phải đạt đến, phải thực hiện (về
mặt xã hội) của bất kỳ chủ thể nào thì “trách nhiệm xã hội” dùng để chỉ cái mà
cá nhân phải đạt đến, phải thực hiện (về mặt xã hội) đối với một đối tượng rộng

5
lớn, mang tính cộng đồng như quê hương, nhà nước, quốc gia, nhân loại. “Trách
nhiệm xã hội” (TNXH) là khái niệm dùng để chỉ nhận thức của cá nhân về yêu
cầu phải đáp ứng đối với các vấn đề của xã hội. Trách nhiệm xã hội của cá nhân
sẽ có điểm thống nhất ở khía cạnh trách nhiệm công dân, song sẽ có những điểm
riêng dựa trên năng lực nhận thức, vị trí cụ thể của từng cá nhân trong bối cảnh
xã hội cụ thể.
-Trách nhiệm nghề nghiệp (TNNN) là một khái niệm hẹp của trách nhiệm xã
hội. Cá nhân có trách nhiệm nói chung, trong đó có trách nhiệm đối với bản
thân, gia đình, cộng đồng xã hội, đặc biệt đối với người ở độ tuổi lao động thì
trách nhiệm đối với nghề nghiệp là cần thiết, nhân tố đóng vai trò quyết định đối
với sự phát triển xã hội. Với cùng các điều kiện khách quan, nhưng nghề nghiệp
khác nhau sẽ đòi hỏi nhận thức về TNNN khác nhau.
Trách nhiệm nghề nghiệp của cá nhân trước hết thể hiện sự nhận thức của cá
nhân về xã hội, nó thúc đẩy hành vi thực hiện trách nhiệm nghề nghiệp của xã
hội nói chung. Lý tưởng và trách nhiệm luôn song hành với nhau. Lý tưởng sống
là cơ sở cho thực hiện trách nhiệm xã hội. Cá nhân xác định rõ mình là ai trong
xã hội, mình có vai trò, vị trí gì trong xã hội và mình phải đóng góp gì cho xã
hội. Lý tưởng sống cao đẹp thúc đẩy hình thành và thực hiện TNXH ở mỗi cá
nhân. Trên cơ sở từ lý tưởng cao đẹp của cá nhân, nhận thức về TNNN là cơ sở
để cá nhân phác thảo trong mình con đường đi, đích đến, xác định tiêu chí, giá
trị tốt đẹp để thực hiện. Cá nhân sẽ trách nhiệm trong lựa chọn nghề, trách
nhiệm tìm hiểu yêu cầu, tiêu chí của nghề nghiệp, mong muốn nhận được tốt
hơn những nghĩa vụ của mình phục vụ nghề trong một giai đoạn nhất định.
Đồng thời, việc thực hiện TNXH lại giúp mỗi thanh niên được bồi đắp thêm lý
tưởng sống cao đẹp. Muốn thực hiện TNXH cá nhân phải có năng lực nhận thức
về bản thân và rèn luyện khả năng đảm trách các vấn đề xã hội.
1.2. Một số yêu cầu trong giáo dục sinh viên Việt Nam hiện nay
Thanh niên là những cá nhân có lứa tuổi từ 16-30 tuổi[6], hiện nay họ
chiếm trên ¼ dân số cả nước, số lượng sinh viên tại các trường đại học ở Việt
Nam hiện nay là khoảng 2% dân số. Sinh viên hầu hết ở lứa tuổi thành niên, do