TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG

TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ

(Khảo sát qua tập Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG

TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ

(Khảo sát qua tập Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ

HÀ NỘI, 2018

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và

lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình giúp đỡ

và hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ văn học Việt

Nam, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi và tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt khóa luận.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Hằng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, khóa luận với đề tài Nhân vật trẻ em trong truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được hoàn thành dưới sự cố gắng của bản thân

cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn Phương Hà cũng như các

thầy, cô trong Tổ văn học Việt Nam.

Khóa luận của tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào đã

từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Hằng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5

6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 6

NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 7

1.1. Khái niệm về nhân vật và nhân vật trẻ em ................................................. 7

1.1.1. Khái niệm về nhân vật............................................................................. 7

1.1.2. Khái niệm về nhân vật trẻ em ................................................................. 8

1.1.3. Khái quát về nhân vật trẻ em trong văn học Việt Nam ........................... 8

1.2. Tác giả Nguyễn Ngọc Tư ......................................................................... 12

1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 12

1.2.2. Hành trình sáng tác ............................................................................... 13

1.3. Vị trí của nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư .............. 15

Chƣơng 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN

CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .......................................................................... 17

2.1. Nhân vật trẻ em – nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu ..................... 17

2.1.1. Những đứa trẻ mồ côi chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh .......................... 17

2.1.2. Những đứa trẻ với tuổi thơ nhọc nhằn, bươn chải kiếm sống .............. 21

2.1.3. Những đứa trẻ là nạn nhân, phải gánh chịu những sai lầm của người lớn

......................................................................................................................... 23

2.2. Nhân vật trẻ em mang vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng ............................... 27

2.2.1. Trẻ em luôn khao khát được yêu thương .............................................. 27

2.2.2. Khát vọng vươn lên số phận ................................................................. 29

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN VỀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN

NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC

TƢ ................................................................................................................... 33

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 33

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình .............................................................. 33

3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ....................................................... 35

3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 38

3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc tự nhiên, đậm chất Nam Bộ .................................. 38

3.2.2. Sử dụng các biện pháp tu từ, gần gũi với sự liên tưởng của trẻ em. ..... 40

3.3. Giọng điệu. ............................................................................................... 42

3.3.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên ......................................................... 42

3.3.2. Giọng điệu xót xa, thương cảm ............................................................. 44

KẾT LUẬN .................................................................................................... 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Văn học từ 1975 đến nay, đang có những bước phát triển mạnh mẽ

với sự xuất hiện của thế hệ các nhà văn trẻ tài năng, giàu nhiệt huyết. Họ

không chỉ chứng kiến sự tàn phá, khốc liệt của chiến tranh mà còn là những

con người tự ý thức được sứ mệnh, trách nhiệm của mình để đáp ứng nhu cầu

của thời đại. Chúng ta không thể không nhắc đến những cây bút tài năng của

với nền văn học Việt Nam như: Y Ban, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan

Thị Vàng Anh, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư.

1.2. Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ, khỏe và đầy nhiệt huyết sáng

tạo của văn học Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Chị đã

chinh phục được hàng triệu trái tim độc giả bằng ngòi bút sắc sảocủa mình.

Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư rất bình dị, nguyên sơ nhưng lại mang đến

sức hút mạnh mẽ với độc giả và có sức lan tỏa lớn. Chúng ta có thể kể đến các

tác phẩm tiêu biểu như: Ngọn đèn không tắt, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9

câu chuyện khác, Khói trời lộng lẫy,…để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn

đọc.

1.3. Đọc truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, bên cạnh đề tài về người phụ

nữ, thế giới trẻ em cũng là nguồn cảm hứng trong sáng tác của chị. Với tài

năng nghệ thuật và nhãn quan của nhà văn, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nên

thế giới trẻ em trong sáng, hồn nhiên nhưng cũng chịu nhiều mất mát, thiệt

thòi và bất hạnh. Viết về trẻ em, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm tấm lòng, tình

cảm và cái nhìn ấm áp, bao dung.

Vì những lí do trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Nhân vật trẻ

em trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (khảo sát qua tập Cánh đồng bất

tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác) làm đối tượng nghiên cứu. Với mong

muốn đóng góp thêm cái nhìn mới về nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của

1

Nguyễn Ngọc Tư, qua đó thấy được vị trí và tài năng của Nguyễn Ngọc Tư

trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử nghiên cứu

Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện muộn nhưng chị nhanh chóng khẳng định

được vị trí của mình trong văn đàn Việt Nam. Ngay từ những trang viết đầu

tay, chị đã tạo dấu ấn với một phong cách văn chương mới lạ mang đậm chất

Nam Bộ. Giới nghiên cứu, nhà phê bình văn học đã dành nhiều lời, đánh giá

cao về phong cách văn chương và các sáng tác của chị.

Nhà văn Nguyễn Công Thuấn trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư và hành

trình đã đi khẳng định: “Khi tôi viết những dòng này thì Nguyễn Ngọc Tư đã

được bao bọc bởi quá nhiều hào quang cả sự thành công và những lời khen

ngợi…Hãy cứ để cho những vòng hào quang tỏa sáng tên với Nguyễn Ngọc

Tư và để những lời ngợi ca dành cho chị còn vang vọng mãi bởi đó là tấm

lòng của người đọc đối với nhà văn họ yêu mến. Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn

nhân hậu. Chị xứng đáng được nhận những vòng hoa và những vương viện

của lòng yêu thương” [14].

Năm 2006, tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận được nhận giải nhất của

Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã tạo nên thành công lớn trong sự nghiệp

sáng tác của chị. Khảo sát tập Cánh đồng bất tận người đọc nhận thấy

Nguyễn Ngọc Tư trưởng thành và chuyên nghiệp hơn trong cách viết và việc

sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm đã nhận được nhiều sự ca ngợi của các nhà

nghiên cứu, phê bình văn học.

TS. Nguyễn Đăng Điệp trong bài tham luận tại Hội nghị lí luận, phê

bình văn học đã khẳng định: “Cánh đồng bất tận không chỉ là truyện ngắn

xuất sắc của Nguyễn Ngọc Tư mà thực sự là một trong những truyện ngắn

xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại” [6]. Đồng quan điểm, nhà nghiên

cứu Phạm Xuân Nguyên nhấn mạnh: “Cánh đồng bất tận là một truyện hay.

Nó chứng tỏ bút lực của Nguyễn Ngọc Tư trong việc đào sâu vào thể hiện

2

cuộc sống và khơi sâu vào thân phận con người. Viết được một truyện như

thế chứng tỏ Tư có tài năng và lòng thương người. Đúng vậy thương người

bằng cái nỗi đau của con người, bằng cái nhìn thẳng vào những vùng sáng

tối, chồng chéo trên những khuôn mặt người và trong những cõi lòng

người” [11]. Có thể thấy, Nguyễn Ngọc Tư đã đi sâu vào thân phận con

người, khai thác tình người và bộc lộ nhiều giá trị nhân văn về cuộc sống, về

con người qua tác phẩm.

Năm 2008, tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác ra đời. Nguyễn Ngọc Tư

phát huy và khẳng định tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ địa phương và

đưa đối thoại vào trong văn. Tác phẩm đã khai thác triệt để các thế mạnh

trong ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư. Những câu chuyện thường mang nhiều

tầng nghĩa mà lắng sâu chất Nam Bộ giúp người đọc dễ đọc, dễ cảm nhận.

Tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác cũng nhận được những lời nhận xét, đánh

giá khá sắc nét. Nhà phê bình Minh Thi nhận định: “Gió lẻ và 9 câu chuyện

khác là một cách viết khác, một cuộc tìm kiếm khác, để tạo nên phong cách

đa dạng hơn và cũng nhiều triết lí hơn cho Nguyễn Ngọc Tư”. Có thể thấy,

Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến một sự mới mẻ với một chất giọng riêng

không giống với các tác phẩm trước.

Tìm hiểu kĩ hơn về sáng tác Nguyễn Ngọc Tư, bài viết Truyện thiếu

nhi của Nguyễn Ngọc Tư những khắc khoải nhân sinh, PGS.TS Nguyễn

Thị Bình đã nhận định: “Với tôi, gương mặt trẻ em, tiếng nức nở trẻ em, sự

thơm thảo hồn nhiên nhạy cảm tuyệt vời của trẻ em giữa một thế giới quay

cuồng dục vọng, tất bật mưu sinh, chai lì cảm xúc… Đấy mới là thước đo

trách nhiệm là điểm quy chiếu các giá trị nhân văn – thẩm mỹ quan trọng

nhất của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư… Trong rất nhiều tác phẩm của chị

dường như luôn có một đôi mắt trẻ con mở to nhìn vào cách hành xử của

người lớn, ngạc nhiên, chờ đợi, thắc mắc… Chúng bắt người lớn phải trả lời

3

về những mỗi buồn của chúng: sự thất học, mặc cảm con hoang, mang mặc

cảm bị bỏ rơi, bị sỉ nhục…”.

Nhận định về tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, tác giả Phạm Xuân

Nguyên đã có những nhận xét xác đáng: “Văn của Nguyễn Ngọc Tư, có thể

nói, là cách nhìn vào thế giới lớn ngổn ngang, phức tạp, đầy bất hạnh và bi

kịch, từ những đứa trẻ ngây thơ – già nua. Hoàn cảnh chung tạo nên cảnh

ngộ bất hạnh của chúng là sự tan vỡ của các gia đình, sự phản bội nhau của

các cặp vợ chồng” [6].

Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về truyện ngắn của

Nguyễn Ngọc Tư. Có thể kể đến luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Thu

Hiên (2013) với đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư đi sâu vào tìm hiểu các kiểu nhân vật trong truyện ngắn là những người

nông dân nghèo vùng sông nước Nam Bộ, những con người lao động có

phẩm chất tốt đẹp, giàu khao khát yêu thương, nhân vật mang tính bản năng,

số phận nhân vật mang sắc thái bi kịch. Đồng thời, luận văn cũng triển khai

một số phương diện nghệ thuật như: nghệ thuật miêu tả tâm lí để làm nổi bật

lên thế giới nội tâm của nhân vật, miêu tả ngoại hình nhân vật để thấy được

tính cách và số phận của nhân vật ở trong mọi hoàn cảnh.

Tác giả Phạm Thị Nga (2013) với khóa luận Nhân vật bi kịch trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã chỉ ra số phận bi kịch của các nhân vật:

những con người chung thủy nhưng bị bội tình; con người ở hiền bị ức hiếp,

người là nạn nhân của đói nghèo; con người cô đơn, lạc lõng; những thân

phận đau thương do chiến tranh.

Có thể thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu về hai tập truyện của

Nguyễn Ngọc Tư là những bài viết lẻ tẻ, mang tính chất gợi mở, cũng chưa

được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Tiếp nối những người đi

trước chúng tôi lựa chọn đề tài Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của

Nguyễn Ngọc Tư là đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

4

3. Mục đích nghiên cứu

Từ tên gọi của đề tài, chúng tôi hướng tới những mục đích sau:

- Thứ nhất: Tìm hiểu về nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn

Ngọc Tư, nhằm lí giải những số phận của những đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi,

bất hạnh nhưng tận sâu trong những tâm hồn bé nhỏ, thơ dại ấy lại luôn chất

chứa những khát khao về tình yêu thương, mái ấm gia đình, hạnh phúc.

- Thứ hai: Khẳng định tài năng Nguyễn Ngọc Tư mảng đề tài viết về

thiếu nhi nói riêng và những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với văn học

Việt Nam đương đại nói chung ở nhiều thể loại, trong đó tiêu biểu là truyện

ngắn.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Khóa luận hướng tới nghiên cứu nhiệm vụ sau:

- Nhận diện các kiểu nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn

Ngọc Tư (trẻ em nạn nhân của hoàn cảnh trớ trêu, đứa trẻ với tuổi thơ nhọc

nhằn kiếm sống; trẻ em mang vẻ hồn nhiên trong sáng luôn tha thiết được yêu

thương và khát vọng vươn lên cuộc sống).

- Chỉ ra một số phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật trẻ em trong

truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ,

giọng điệu).

5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung tìm hiểu thế giới nhân vật

trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một khóa luận, chúng tôi

khảo sát hai tập truyện ngắn là: tập Cánh đồng bất tận (Nxb Trẻ, năm 2005)

và tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Nxb Trẻ, năm 2008).

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Khóa luận tập trung các phương pháp sau:

- Phương pháp thống kê

5

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân tích, bình giảng tác phẩm

7. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của khóa luận được triển khai thành 3 chương sau:

Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Các kiểu nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn

Ngọc Tư.

Chương 3: Một số phương diện về nghệ thuật thể hiện nhân vật trẻ em

trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

6

NỘI DUNG

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Khái niệm về nhân vật và nhân vật trẻ em

1.1.1. Khái niệm về nhân vật

Từ xưa đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm nhân vật

văn học. Trong cuốn Từ điển văn học định nghĩa: “Nhân vật là yếu tố cơ bản

nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt

mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung

khắc họa. Nhân vật, do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác

phẩm văn học” [13; 86].

Tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng: “Nhân vật văn học là một trong những

khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng,

trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ

thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con

người trong ngôn từ nghệ thuật. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi

là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những

đặc điểm giống con người” [1; 241].

Giáo trình Lí luận văn học của GS. Phương Lựu đưa ra khái niệm về

nhân vật văn học: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu

tả, được thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những

nhân vật có tên như Tấm Cám, Thạch Sanh…Đó là những nhân vật mang nội

dung và ý nghĩa con người…Khái niệm nhân vật có khi được sử dụng một

cách ẩn dụ không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng cụ thể

trong tác phẩm. Nhân vật văn học là một hiện tượng mang tính ước lệ, có

những dấu hiệu để nhận ra” [9; 277].

Như vậy, trên đây là những nhận định tương đối toàn diện về nhân vật

văn học. Bởi nhân vật là điều kiện cần thiết để tác giả khám phá, đánh giá và

lí giải số phận, cuộc đời nhân vật, tạo sự hấp dẫn, thú vị đến với bạn đọc.

7

1.1.2. Khái niệm về nhân vật trẻ em

Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em, khái niệm trẻ em được hiểu như

sau: “Trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp

áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Luật pháp Liên

bang Hoa Kì quy định: “Trẻ em là người dưới 18 tuổi”.

Ở Việt Nam, pháp luật chưa có các quy định thống nhất về khái niệm

trẻ em trong từng nghành luật cụ thể. Theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục

trẻ em năm 2005 cho rằng: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” còn

Bộ luật dân sự (2005) lại ghi: “Trẻ em là những người dưới 15 tuổi”. Ở mỗi

quốc gia tùy thuộc vài sự phát triển thể chất, tâm sinh lí của trẻ mà có quy

định riêng độ tuổi gọi là trẻ em.

Trong phạm vi của khóa luận này, chúng tôi tạm quy ước nhân vật trẻ

em là những đứa trẻ dưới mười tám tuổi và được nhà văn khắc họa trong văn

học. Tác giả thể hiện cái nhìn về trẻ em, với những nét tính cách, đặc điểm số

phận trong đời sống văn hóa, xã hội, lịch sử một cách khái quát. Đồng thời,

nó cũng phản ánh những quy luật của đời sống và của trẻ thơ trong cuộc sống.

1.1.3. Khái quát về nhân vật trẻ em trong văn học Việt Nam

1.1.3.1. Trước 1975

Trong cuộc sống cũng như trong văn học, nhân vật trẻ em là đối tượng

thường được quan tâm nhiều hơn cả bởi trẻ em chính là những búp măng non

của đất nước, mang vẻ đẹp thuần khiết, cần được bảo vệ và nâng niu. Nhân

vật trẻ em từ lâu đã là một trong những đề tài thôi thúc tác giả để viết lên

những mảnh đời, những số phận bất hạnh khiến người đọc không khỏi xót xa,

thương cảm như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyên

Hồng.

Với nhà văn Nguyên Hồng, nhân vật trẻ em trong các tác phẩm của ông

đều là những đứa trẻ con của các gia đình lao động nghèo khổ, phải làm đủ

mọi nghề để tồn tại. Chúng không tự bảo vệ được mình trong xã hội đầy cạm

8

bẫy, bất công và luôn bị lạm dụng sức lao động một cách tàn nhẫn, thiếu thốn

cả vật chất lẫn tinh thần. Các em còn bị chính những người thân của mình

ngược đãi, bị hành hạ, đánh đập. Cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu mồ

côi cha từ năm mười hai tuổi, mẹ đi bước nữa và thường phải đi làm ăn xa.

Thiếu thốn về vật chất và thiếu sự chăm sóc của người thân khiến bé Hồng

phải lăn lộn nơi đầu đường xó chợ. Cùng chung cảnh ngộ với bé Hồng là

Thạo bé, Tý con trong tác phẩm Những mầm sống…Mỗi một đứa trẻ là một

số phận, một mảnh đời đau đớn, côi cút.

Nhắc đến tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chúng ta nhớ đến nhân vật

cái Tí, một em bé nhỏ tuổi nhưng sớm đảm đang, yêu thương bố mẹ, các em

và có trách nhiệm biết hi sinh vì gia đình. Khi sinh ra, Tí phải chịu nhiều khổ

cực. Do hoàn cảnh, cái Tí phải đi ở nhà Nghị Quế, bị coi thường thậm chí còn

phải ăn cả phần cơm thừa của một con chó. Độ tuổi đấy, các em phải được

yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ. Vậy mà, chính xã hội phong kiến đẩy con

người đến cùng cực ngay khi còn là một đứa trẻ. Người đọc không khỏi

những băn khoăn, trăn trở trước số phận đáng thương của em.

Khi đất nước bước vào cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, hình

ảnh trẻ em mang nhiệm vụ lớn lao, cao cả. Đó là những em bé tham gia liên

lạc, diệt ác trừ gian tà, sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng Cách mạng. Tác phẩm

Chiến sĩ ca nô của Nguyễn Huy Tưởng, miêu tả những ngày đầu chống thực

dân Pháp, lực lượng ta không cân sức với địch nhưng với lòng dũng cảm,

mưu trí, Tý - một em bé gan dạ, dũng cảm đã cùng năm anh em du kích kéo

về cả một đoàn thuyền cho ta. Sau này, Tý nhận được giải thưởng Huân

chương chiến sĩ hạng Nhì.

Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xuất hiện khá nhiều chuyện

về cuộc sống của trẻ em ở các đội Măng non, Thiếu niên tiền phong…Để lại

dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc là những em bé mang trong mình nỗi

căm thù giặc, sẵn sàng tiếp nối vững bước cha anh đi trước để bước vào cuộc

9

kháng chiến như những người anh hùng. Hàng loạt tác phẩm Những đứa con

trong gia đình, Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi, Chiếc lược ngà của Nguyễn

Quang Sáng,… thế giới nhân vật trẻ em được khắc họa rõ nét. Các em vừa đi

học, vừa đào hầm, đắp lũy, tham gia cách mạng khi giặc đến như một người

chiến sĩ kiên cường….Đó là những hình ảnh đẹp, trong tư thế oai hùng, bất

khuất của những chiến sĩ nhi đồng giàu lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng.

Qua đó, ta mới thấy được rằng tội ác chiến tranh càng không thể hủy diệt

được sức mạnh tinh thần của những gương mặt trẻ thơ, ngược lại càng bùng

lên một khí chất ngang tàng, kiên cường, dũng cảm.

1.1.3.2. Sau 1975

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa kết thúc thắng lợi, đất nước

hòa bình thống nhất. Chúng ta vừa khắc phục tổn thương nặng nề của chiến

tranh, vừa tiến hành công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Khi cuộc sống

hòa bình, ý thức về giá trị cá nhân lại có một vị trí cần thiết trong nền văn hóa

của cộng đồng. Vì vậy, điều mà mỗi con người quan tâm đến là nhu cầu cá

nhân. Văn học viết về trẻ em ở giai đoạn này chịu sự chi phối của thời đại.

Nhiều nhà văn lấy hình tượng trẻ em là nhân vật chính trong sáng tác. Có thể

kể đến các tác giả: Ma Văn Kháng, Nguyễn Nhật Ánh, Phạm Thị Hoài, Phan

Tìm hiểu đề tài thiếu nhi trong sáng tác của Ma Văn Kháng, ta thấy

Thị Vàng Anh,…

đời sống của những đứa trẻ được đưa vào cuộc sống trong gia đình. Trong

truyện Côi cút giữa cảnh đời đó là bé Duy, Thảm được khắc họa rõ nét. Sinh

ra một gia đình ấm êm, hạnh phúc nhưng bố của Duy bỏ nhà ra đi, sau đó mẹ

của em cũng rời xa em. Lúc này, bên cạnh em chỉ còn lại người bà giàu lòng

yêu thương, nhân hậu nuôi dạy em trưởng thành. Cuộc sống ấy không hề dễ

dàng với một đứa nhỏ, từ bé đã phải mưu sinh. Nhờ lòng kiên trì, sức mạnh

của ý chí, nghị lực cùng sự yêu thương, quan tâm của người bà đã giúp Duy

vượt qua được tất cả những gian khổ và cuối cùng hạnh phúc cũng được đến

10

bên em. Tài năng của Ma Văn Kháng, ở việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo

le, để rồi tự họ phải vươn mình, trải qua những trở ngại. Tác phẩm như một

lời cảnh tỉnh những bậc cha mẹ, cần quan tâm tới con cái. Đừng để tuổi thơ

của các em bị tổn thương, vẩn đục.

Đến với Kính vạn hoa của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, thấy được tác

phẩm kể về tình bạn, việc học hành, những câu chuyện về cuộc sống, và

những trò nghịch ngợm của ba đứa trẻ Qúy Ròm, Tiểu Long và Hạnh cận. Tất

cả tạo nên một thế giới trẻ thơ phong phú, đầy màu sắc và gần gũi. Bằng lối

viết giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ gần gũi dễ hiểu, hướng theo cách nhìn của trẻ

thơ, hồn nhiên, tinh nghịch. Có thể coi Kính vạn hoa là tác phẩm thành công

nhất của Nguyễn Nhật Ánh, một bộ truyện gối đầu giường của các em học

sinh lúc đó.

Tác phẩm Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, nhân vật bé Hon - một cô bé

đặc biệt mang trong mình chức trách là một thiên sứ đi xuống cõi trần gian.

Cô luôn khao khát được yêu thương và luôn ban phát tình yêu. Bé Hon, đi đâu

gặp ai cũng nở nụ cười trẻ thơ và lời mời ngọt ngào “thơm nào”. Đáng thương

thay, thiên sứ lại bị từ chối ngay trong chính gia đình yêu thương của mình.

Lúc đầu họ còn phấn khởi, dần dần cảm thấy khó chịu, cau có, rồi không ai

đón nhận nụ cười và đôi môi của bé nữa. Cuối cùng bé Hon vĩnh viễn từ giã

cuộc đời mình với đôi môi đỏ cháy. Một nhân vật - bé Hon hoàn toàn khác lạ

với các nhân vật trẻ em trong văn học truyền thống. Đây cũng là một lời đánh

thức con người khỏi sự vô cảm, thờ ơ với trẻ nhỏ.

Nhân vật trẻ em còn được đề cập trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của

Phùng Quán (Lượm, Tư dát, Quỳnh sơn ca) ở độ tuổi rất nhỏ. Chỉ mười ba,

mười bốn tuổi nhưng vẫn mang trong mình nhiệm vụ cao cả, nhiệt tình với

cách mạng. Không chỉ phải chiến đấu với giặc xâm lược mà các em còn phải

vượt qua những trông gai, thử thách trong cuộc sống luôn bủa vây xung

quanh. Đến với Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán độc giả như được hòa mình

11

vào chính nhân vật, thấu hiểu được cảm xúc của tác giả. Người đọc gấp

những trang sách lại vẫn thấy hiện hữu xung quanh mình những bóng hình

trẻ thơ ấy.

Kế thừa từ những người đi trước văn học sau năm 1975, thế giới nhân

vật trẻ em được tiếp cận từ đề tài đến hiện thực đời sống cũng phong phú, đa

dạng hơn giai đoạn trước, giúp cho người đọc hình dung về thế giới trẻ em

với nhiều màu sắc, góc độ mới. Tóm lại, trong dòng chảy văn học, thế giới

nhân vật trẻ em góp phần quan trọng trong bức tranh toàn cảnh đó. Trước năm

1975, nhân vật trẻ em chưa thực sự được nhiều nhà văn chú ý đến và chủ yếu

là những hình tượng nhỏ tuổi mà anh dũng, kiên cường với mục đích nêu

gương cổ vũ công cuộc kháng chiến. Sau 1975, khi đất nước hòa bình, nhân

vật trẻ em được các nhà văn khai thác ở nhiều góc độ, khía cạnh, đóng vai trò

to lớn. Nhân vật chính của tác phẩm, được nhà văn bộc lộ quan điểm nghệ

thuật, mặt khác trẻ em còn được khám phá trong mối quan hệ đa chiều với gia

đình, bạn bè, nhà trường, thầy cô, xã hội…Màu sắc những đứa trẻ ấy có sức

lan tỏa mạnh mẽ đến tâm trí bạn đọc. Nguyễn Ngọc Tư - một tác giả tiêu biểu

cho lối viết mới về trẻ em trong giai đoạn văn học hiện đại.

1.2. Tác giả Nguyễn Ngọc Tƣ

1.2.1. Cuộc đời

Nguyễn Ngọc Tư sinh ngày 01/01/1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm

Dơi, tỉnh Cà Mau. Sinh ra trong một gia đình lao động giàu truyền thống

Cách mạng, cha của chị là một người hay làm thơ, viết báo. Chính vì thế mà

máu văn chương cùng với nghề báo chí thấm sâu trong máu thịt của chị từ

nhỏ. Điều đó, có vai trò to lớn trong việc hình thành văn chương của chị.

Thuở nhỏ, Nguyễn Ngọc Tư là một cô bé hiền hòa, chăm chỉ giúp bố mẹ.

Vì hoàn cảnh gia đình không có điều kiện, chị chỉ học hết cấp 2, sau đó học

bổ túc, rồi tự chị học hỏi bên ngoài để tích lũy kinh nghiệm sống và khả năng

viết văn của mình. Ban đầu, chị thích viết và một phần muốn chia sẻ bớt gánh

12

nặng kinh tế gia đình. Nhưng khi người cha nhìn thấy tài năng của con mình,

ông không chỉ động viên: “Nghĩ gì, viết nấy, viết những gì con đã trải qua”.

Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu viết và tìm được niềm vui trong đó. Tác phầm đầu

tay của chị được gửi đến tạp chí và được đăng trên Văn nghệ bán đảo Cà

Mau. Sau khi trở thành phóng viên Tạp chí Văn nghệ và tham gia công tác tại

Hội văn học nghệ thuật Cà Mau đã giúp cho bản thân chị có điều kiện để phát

triển tài năng, đam mê nghệ thuật. Dường như các tác phẩm của chị được xuất

phát từ chính những trải nghiệm từ cuộc đời của chị và những hiểu biết sâu

sắc, đồng cảm với những con người nghèo khổ.

Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn tài năng, ra mắt bạn đọc nhiều tác

phẩm hay và thú vị. Đọc những trang văn của chị, mọi thứ hiện lên thật sinh

động, người đọc tưởng như mình đã bắt gặp nhân vật ở ngoài đời thực rồi.

Văn phong của Ngọc Tư lôi cuốn được bạn đọc với lối viết nồng hậu, nhẹ

nhàng nhưng gây ấn tượng mạnh mẽ tới độc giả bởi cái vẻ nhẹ nhàng trong

từng câu chữ. Vậy nên, chị còn rất trẻ nhưng nhanh chóng gặt hái được nhiều

giải thưởng cao quý trong văn học.

1.2.2. Hành trình sáng tác

Nguyễn Ngọc Tư là một trong những gương mặt nữ nhà văn trẻ tiêu biểu

của Nam Bộ đã mang đến dấu ấn đậm nét trên văn đàn Việt Nam đương thời.

Chị sáng tác rất nhiêu thể loại như: truyện ngắn, tạp văn, ký…và gặt hái được

nhiều thành công.

Nguyễn Ngọc Tư đến với truyện ngắn như một cái duyên, tình cờ. Trong

cuộc vận động sáng tác “Văn học tuổi 20” ( lần thứ 2) do Hội nhà văn thành

phố Hồ Chí Minh (báo Tuổi trẻ tổ chức năm 2000), Nguyễn Ngọc Tư đạt giải

nhất với tập truyện Ngọn đèn không tắt. Cùng với tập truyện này, chị đạt giải

thưởng văn học của Hội nhà văn Việt Nam vào năm 2001. Tác phẩm này đã

được chọn in lại trong “Tủ sách vàng” của Nhà xuất bản Kim Đồng năm

2003. Sau đó, chị tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình và được bình chọn là

13

một trong mười gương mặt tiêu biểu trong năm do Trung ương Đoàn trao tặng

và được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, trở thành hội viên trẻ tuổi nhất

(năm 27 tuổi)…Nguyễn Ngọc Tư cũng có tên trong tuyển tập truyện ngắn

Việt Nam được dịch, in ở Mĩ và được vinh dự chọn lên hình của chương trình

“Người đương thời” năm 2005. Năm 2008, chị được nhận giải thưởng văn

học ASEAN.

Sau thành công của tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt năm 2000,

Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục ra mắt độc giả một loạt các truyện ngắn: Ông ngoại

(2001), Biển người mênh mông (2003), Nước chảy mây trôi (2004). Năm

2005, tập truyện Cánh đồng bất tận ra đời, đoạt giải thưởng của Hội nhà văn

Việt Nam. Chị sáng tác không ngừng nghỉ và cho ra đời hàng loạt tác phẩm:

Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (2008), Khói trời lộng lẫy (2010), Đảo (2014),

Trầm tích (2014), gần đây nhất là tập truyện Không ai qua sông (2016). Từ

đó, chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư là cây bút tài năng, sức sáng tạo dồi dào, sáng

tác không nghỉ. Khi viết về truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư thường đề cập đến

hoàn cảnh của các gia đình nghèo, số phận buồn của những con người nhỏ bé,

những người nông dân hiền lành, lương thiện, chân chất với những ước mơ

bình dị đáng được cảm thông. Những câu chuyện của chị thường đượm buồn,

vì với bản thân chị viết về những số phận con người cực khổ kia sẽ chạm đến

trái tim bạn đọc.

Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư còn xuất

sắc với các thể loại khác: ký, tản văn và tạp bút. Cuối năm 2005, Nhà xuất

bản Trẻ phối hợp với Thời báo Kinh tế Sài Gòn đã ra mắt cuốn tạp văn đầu

tiên mang tên Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư. Đọc những trang viết này, ta thấy

được những bài viết luôn chất chứa những trăn trở, suy tư về cuộc đời, lẽ sống

mà không phải bất cứ một ai cũng có thể nắm bắt được. Ngoài ra, ở thể loại

ký, tản văn, tạp bút, Nguyễn Ngọc Tư còn có những tác phẩm xuất sắc như:

Sống chậm thời @ (in chung với Lê Thiếu Nhơn năm 2005), Ngày mai của

14

những ngày mai (2007), Yêu người ngóng núi (2009), Gáy người thì lạnh

(2012), Đong tấm lòng (2015). Các sáng tác của chị luôn được độc giả đón

nhận và giới phê bình văn học đánh giá cao.

Thành công liên tiếp mà chị đạt được cùng với số lượng cũng như chất

lượng, qua các tác phẩm cho thấy Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn nghiêm

túc, miệt mài lao động và tích lũy vốn sống để nuôi dưỡng cảm hứng và năng

lực sáng tác. Cho đến nay, qua chặng đường hơn mười năm cầm bút, thành

công ở cả hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định

được tên tuổi và vị trí của mình trong đội ngũ sáng tác trẻ đương đại.

1.3. Vị trí của nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ

Nguyễn Ngọc Tư sáng tác nhiều, nhưng có lẽ ám ảnh nhất trong nhiều

tác phẩm của chị là số phận của những đứa trẻ nghèo, lam lũ, cô đơn. Cũng

bởi, chị đã từng trải qua hoàn cảnh mà phải kìm nén biết bao mơ ước tươi đẹp

của tuổi thơ để mưu sinh. Vậy nên, những sáng tác của chị, chủ yếu viết về

những đứa trẻ có cuộc đời vất vả, bất hạnh, nhọc nhằn. Đó là đứa bé nghèo

đến nỗi thân thể gầy gò, khô quắt với mong ước kiếm được vài gói mì ăn liền

(Sầu trên đỉnh Puvan), chị em Nương và Điền sống trong bơ vơ, lạc lõng,

luôn khao khát đón nhận tình yêu thương (Cánh đồng bất tận), những đứa trẻ

sống không có tình thương, bị người lớn lợi dụng như thằng bé Sói (Ấu thơ

tươi đẹp). Đặc biệt là trong tập truyện ngắn Gió lẻ và 9 câu chuyện khác,

Nguyễn Ngọc Tư đã hiểu rõ và hóa thân vào từng hành động, cử chỉ nhân vật

trong truyện để nói lên những tình cảm, suy nghĩ một cách chân thực và

những số phận hẩm hiu, nghiệt ngã mà các em phải gánh chịu. Chính nét hồn

nhiên, trong sáng được biểu hiện qua từng câu chuyện khiến cho người đọc

phải ngậm ngùi xót xa và thương cảm. Trong câu chuyện Vết chim trời là hai

anh em Vĩnh và “tôi”, hai đứa bé phải hứng chịu hậu quả tâm lí từ lỗi lầm của

người lớn gây ra.

15

Trong các câu chuyện của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta còn thấy xuất

hiện những bóng dáng, mảnh đời những đứa trẻ nghèo, mồ côi bị cha mẹ bỏ

rơi, bị dòng đời xô đẩy. Đó là Phi phải tự thân lăn lộn kiếm sống, phải tự

thích nghi, học hỏi để tồn tại trong truyện Biển người mênh mông, Sói và

Nhiên với tính cách dị biệt, cục cằn, thô lỗ trong truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp.

Bên cạnh đề tài viết về phụ nữ, Nguyễn Ngọc Tư vừa mang đến một

cách nhìn mới về thân phận trẻ em. Đó là những đứa trẻ thiệt thòi, bất hạnh.

Chúng không được trưởng thành và lớn lên trong sự ấm êm của hạnh phúc,

đón nhận tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ mà thay vào đó

chúng phải gánh những nỗi đau, sự giằng xé, tổn thương từ mọi thứ xung

quanh. Bằng trái tim nhân hậu và tấm lòng chan chứa tình yêu thương,

Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện sự đau xót cho những số phận không may mắn

ấy. Qua đó, chị luôn dành tình cảm thiêng liêng, bày tỏ sự cảm thông đến với

các em.

16

Chƣơng 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN

NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ

2.1. Nhân vật trẻ em – nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu.

2.1.1. Những đứa trẻ mồ côi chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh

Mỗi một đứa trẻ khi sinh ra đều có quyền được hưởng những niềm hạnh

phúc và đón nhận tình yêu thương của cha mẹ. Thế nhưng, không phải bất kì

đứa trẻ nào, từ khi sinh ra cũng đón nhận được sự may mắn ấy. Ngược lại, các

em gánh chịu nhiều thiệt thòi, mất mát lớn lao đó là thiếu đi tình cảm thân

thương của cha mẹ.

Trong truyện ngắn Nhớ sông, nhân vật Giang, Thủy để lại ấn tượng với

người đọc. Năm 14 tuổi, hai em đã mồ côi mẹ, sống với người cha. Hàng

ngày, trôi dạt khắp nơi để kiếm sống. Một đứa trẻ bình thường khi đến tuổi

dậy thì cần có sự chia sẻ, chỉ bảo của người mẹ, thì Giang không có được may

mắn đó: “Giang nhớ cái ngày con Thủy có kỳ kinh nguyệt đầu tiên, nó lụi đầu

giấu vô mớ cốm gạo treo lủng lẳng, khóc mướt. Giang bảo không sao đâu,

không sao đâu, mà chực rơi nước mắt, Giang nghĩ phải chi còn má, Giang

cũng khóc mà không thể hỏi ai” [15; 124]. Giang cô đơn, lẻ loi khi phải rời xa

những chiếc ghe, dòng sông, con nước - nơi mà cả nhà cùng nhau sum họp,

yêu thương. Thương thay cho hai chị em không được cảm nhận tình cảm của

một người mẹ. Cùng cảnh ngộ, xót thương hơn khi Nương và Điền trong

truyện Cánh đồng bất tận, khao khát một gia đình, chúng thèm được đến

trường như bao bạn bè cùng trang lứa khác mà không được. Cuộc sống của

hai chị em “Trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi

nào đó, thật khó để phân biệt chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh

mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến những cái vẫy tay, được nhận

vài món quà quê như buồng chuối già hương hay bó rau ngót cắt trong vườn,

cùng lời dặn dò quyến luyến, đi mạnh giỏi nghen…” [15; 197]. Chúng là kiếp

người trên những cánh đồng hoang vắng. Đứa trẻ sống giữa gia đình nhưng

17

chúng vẫn “không gia đình”, sống giữa quê hương vẫn thấy “thiếu một quê

hương”. Nhiều lần Nương và Điền cố ra sức vẫy vùng nhưng càng lên tiếng

lại cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng: “Có lần khi đi trên sông thằng Điền giả đò té

chìm nghỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt

dợm lao xuống nước nhưng rồi cha lại điềm nhiên ngồi lại tiếp tực gọt đẽo,

chắc là nhớ thằng điền đã lặn lội nước sông từ năm 4 tuổi, sức mấy mà chết

trôi” [15; 183]. Sự lạnh lùng, vô tâm của người cha khi chứng kiến việc đứa

con trai của mình ngã xuống ao, ông vẫn dửng dưng, vô cảm, tình cảm của

cha con càng ngày càng xa cách. Đau đớn hơn, khi các em đến tuổi mới lớn,

không có mẹ ở bên cạnh để hướng dẫn, dạy bảo. Kỳ kinh nguyệt đầu tiên,

Nương bàng hoàng tưởng mình mắc căn bệnh không thể cứu chữa: “Thằng

Điền bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngấu nghiến, điên dại để lấy bã rịt

lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu tốt lắm cũng chẳng ăn thua. Hai

đứa nhìn nhau khóc, tôi đã nhìn thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường

bốn bề đồng nước” [15; 205]. Đọc đến đây chúng ta vừa thấy thương cho

những đứa trẻ, vừa thấy đau xót cho những thân phận thiếu đi sự quan tâm

của người cha mẹ. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận, không chỉ cho ta thấy

được những mảnh đời thiếu may mắn của mỗi nhân vật, mà còn thấy được

niềm xót thương của tác giả với những đứa trẻ mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi,

bất hạnh như Nương và Điền. Xây dựng kiểu nhân vật đứa trẻ mồ côi thiệt

thòi mất mát, Nguyễn Ngọc Tư để lại cho người đọc thấy được nỗi buồn,

niềm xót xa của một kiếp người.

Nhân vật Phi trong truyện Biển người mênh mông cũng mồ côi là đứa

trẻ thiệt thòi. Ngay từ khi chào đời, nó đã bơ vơ, lạc lõng “sinh ra đã không

có ba, Phi mới năm tuổi rưỡi thôi má đã bỏ anh ra đi”. Phi đã thiếu vắng tình

cảm của cha mẹ. Mỗi lần được gặp mẹ đều trong cảnh vội vàng, hấp tấp và

vẫn là những câu nói quen thuộc “có tiền xài không, lúc này học hành thế

nào,… Sao mà ốm nhom vậy? Rồi má cũng chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.”

18

[15; 107]. Thật đau xót, cứ tưởng như được gặp mẹ là một niềm vui, hạnh

phúc, tia hi vọng, nhưng với Phi lại là sự cô đơn, nỗi tuyệt vọng khi đó chỉ là

sự quan tâm thoáng qua của mẹ.

Trong truyện Sầu trên đỉnh PuVan, nhân vật Vĩnh là cậu bé mồ côi. Em

mất cả gia đình trong một trận bom. Ám ảnh trong kí ức của Vĩnh chính là

“một thằng bé gào khóc ngơ ngác trước căn nhà sập bẹp, cháy rùng rùng sau

trận bom… Vĩnh không biết làm gì trước vụn thịt rơi vãi của những người

thân mình trong một buổi bom đạn hôm xưa” [16; 56]. Yêu Lam nhưng Vĩnh

đã để mất cô trong cơn xoáy nước lớn làm cô chết đuối. Chứng kiến cái chết

của người yêu “Vĩnh gần như quỵ xuống khi những bông hoa bắt đầu tím

thẫm, như màu môi của Lam, mối tình đầu của anh khi người ta vớt xác cô ở

ngã ba sông” [16; 56]. Nỗi đau mất mát người thân, người yêu quá lớn đã in

hằn, khắc sâu trong lòng Vĩnh một vết thương khó lành. Vĩnh ra đi, để tìm sự

sống cho mình, tìm đến đỉnh Puvan như một niềm ao ước, khao khát, cháy

bỏng mà anh muốn đến đặt chân đến. Tưởng chừng khi tìm đến, chờ đợi

những bông sầu nở, con người tìm được niềm vui trong cuộc sống. Nhưng

không, khi có những hạt mưa rơi xuống miền đất nghèo nàn này, Vĩnh không

cảm thấy vui, hạnh phúc mà chỉ thấy nỗi cô đơn, bơ vơ. Con người đắm mình

trong những cơn mưa, những bông sầu từ từ chờ đợi hạt mưa mà bung tỏa,

chứng kiến cảnh tượng ấy, Vĩnh không thấy sự sống, nguồn ánh sáng mà chỉ

toàn là đau khổ, nhỏ bé, hiu hắt. Qúa nhiều đau thương, mất mát đã đến với

anh, một mình bơ vơ giữa mênh mông đất trời, tương lai mờ mịt, Vĩnh không

biết đi đâu giữa biển người mênh mông này.

Sự mất mát lớn nhất đối với tuổi thơ các em chính là nỗi cô đơn, không

có bạn bè. Đó là nhân vật Vĩnh trong truyện Núi lở sinh sống trên núi cách xa

với dân cư, hằng ngày cậu chỉ gặp một số khách lạ hoặc bố mẹ, ông nội. Sự

cô đơn bao trùm khắp cuộc sống của em. Vĩnh cô độc trong cuộc sống của

chính mình: “Một con gà trống tuyệt vọng tìm mồi trên sân, mỏ dội vào đá,

19

nghe tê rần. Con chó nằm gần đó, sủa những tiếng rời. Thằng bé hơi ngẩn ra

một chút, nó thông hiểu tiếng nói của loài vật – bạn bè nó, nên ngờ ngợ

chuyện gì đó khủng khiếp lắm, con nhồng mới nhảy nhót hoang mang, dã

dượt trong lồng” [16; 72]. Trong con người Vĩnh luôn ấn chứa một nỗi buồn

qua đôi mắt. Em không có người bạn nào cùng trang lứa cả, vì cậu sống tách

biệt trên núi, người bạn duy nhất, chỗ dựa duy nhất của cậu bé là ông nội.

Vĩnh cô đơn thiếu đi tình cảm của những người bạn cùng trang lứa, cô độc

ngay trong cuộc sống hiện tại.

Đọc truyện ngắn Cải ơi!, bạn đọc không khỏi xót thương cho những đứa

trẻ mồ côi, bơ vơ, chịu nhiều thiệt thòi, mất mát. Nhân vật Diễm Thương,

mười tám năm trước bị bố mẹ bỏ rơi ở ngã ba Sương. Nỗi đau quá lớn trở

thành một vết thương lớn, đề rồi cô trở nên thờ ơ, dưng dửng“bình thảnh lạnh

trơ, vui buồn không ra”. Diễm Thương cố tỏ ra vô cảm, lạnh lùng thế nhưng

tất cả chỉ là chỗ dựa để cô vấu víu. Có lẽ, chính sự tổn thương ấy là lí do mà

cô trở nên “lạnh trơ” đến thế. Không chỉ dừng lại ở đó, Diễm Thương tỏ ra

lạnh lùng, khi nhắc tới đứa con Cải ngày ngày ông Năm đi tìm, bị thất lạc vì

mải chơi mà làm mất đôi trâu, sợ hãi đã ra đi mà không trở về. Cô nói với

giọng đầy cay nghiệt: “Con Cải chết ngắc rồi. Sao tui thù con nhỏ đó quá

trời, có nhà mà bỏ, có cha mẹ mà không thèm,... cái thứ người đó cho nó chết

bụi cũng đáng… Còn tui người ta đã quăng quật ở đây mười tám năm, mà

không ai trở lại tìm, tui chờ hoài…” [15; 11]. Cha mẹ đã bỏ rơi Diễm

Thương, vì thế cô luôn mong ước có được sự quan tâm, che chở của họ. Vì

vậy, cô càng trở nên căm tức những đứa trẻ không biết nâng niu, giữ gìn tình

cảm gia đình, tình thương yêu của cha mẹ.

Trẻ em đâu có lỗi lầm gì vậy mà tại sao các em luôn phải chịu những nỗi

đau lớn lao trong cuộc đời này? Dường như, câu hỏi cất lên nhưng không có

ai trả lời. Nguyên cớ nào mà lại như vậy, bởi cuộc đời này đâu phải của riêng

ta mà từng mơ ước, mà nó luôn trôi nổi, cuốn theo những số phận, mảnh đời

20

khác nhau. Qua những số phận trẻ thơ mà Nguyễn Ngọc Tư diễn tả, bất cứ ai

đã đọc hay ngay cả khi gấp những trang văn đó lại đều thấy lòng mình day

dứt, đầy cảm thương cho những số phận, cảnh đời trẻ thơ. Đến với những

truyện ngắn của chị, người đọc thấy được những mảnh đời côi cút, bất hạnh,

làm lay động trái tim của độc giả.

2.1.2. Những đứa trẻ với tuổi thơ nhọc nhằn, bươn chải kiếm sống

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành – Biết ăn

ngủ, biết học hành là ngoan”. Thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình, những đứa

trẻ phải tự mình lao động cực nhọc, tự kiếm kế sinh nhai. Hình ảnh thằng Củi

trong truyện Sầu trên đỉnh Puvan, những đứa trẻ trong truyện ngắn Thổ Sầu.

Cuộc sống khiến các em phải lăn lộn giữa giông bão của cuộc đời để sinh tồn.

Những tâm hồn bé bỏng ấy già nua đi, không còn sự hồn nhiên, trong sáng

như bạn bè cùng trang lứa.

Truyện ngắn Sầu trên đỉnh Puvan hiện ra trước mắt người đọc hình

ảnh thằng Củi trong sự đói nghèo luôn bủa vây. Củi mang hình hài nhỏ bé của

“một thằng người khô quắt, gầy nhom, lúc nào cũng lem luốc, môi nẻ bong

chóc những cái vây nhỏ” [16; 46]. Vì thiếu thốn, nghèo đói mà em không

được đi học như bạn bè cùng trang lứa. Em phải ở nhà chăn nuôi, phụ giúp

việc nhà. Bi kịch của thằng Củi chính là sinh ra một vùng đất nghèo, thiên

nhiên đầy khắc nghiệt. Hạn hán diễn ra kéo dài, cả năm không có một hạt

mưa, cỏ cây cũng cháy hết, đến con vật cũng không thể tồn tại được và con

người cũng phải bỏ vào thành phố làm thuê, làm mướn. Cái đói, cái nghèo

luôn đeo bám, bất cứ lúc nào trong tâm trí em luôn canh cánh một nỗi lo đến

sự tồn tại của gia đình nó ngày mai sẽ ra sao? Củi tự mình bươn trải, kiếm kế

sinh nhai bằng việc dẫn đường cho khách để nhận được tiền công ba chục

ngàn, số tiền đó với em thật quý giá “Ba chục ngàn thì mua được ba chục gói

mì tôm. Những gói mì mới tinh từ tay ông Tàu chủ quán cứ lào xào trong tâm

trí thằng bé khiến đôi mắt khô vàng sáng lên” [16; 47]. Chỉ mấy đồng tiền ít

21

ỏi đó nhưng cũng làm cho em tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc, hai mẹ con

sẽ có miếng ăn qua ngày. Đã thế cuộc sống thiếu thốn, khó khăn ấy dạy thằng

bé cũng biết chắt chiu, nhặt từng những vỏ chai nhựa mọi người vứt đi, nó

nghĩ mẹ sẽ cần đến. Vùng đất nghèo đói trên đỉnh Sầu này, đã lâu rồi chưa có

hạt mưa nào. Khi trời bắt đầu đổ mưa, Củi sung sướng đến rơn lên, nó mong

một cơn mưa đến với nơi đây. Vì có mưa, sẽ có cơm ăn mà mình không phải

cực nhọc nữa, không phải lấy tiền từ những người xa lạ nữa. Nguyễn Ngọc

Tư đã khắc họa được diễn biến tâm lý của nhân vật, chạm đến được trái tim

của mỗi bạn đọc. Chính trái tim nhân hậu, lòng yêu thương trẻ nhỏ, nhà văn

mới thấu hiểu, đồng cảm và thấy được nỗi bi kịch của những tâm hồn bé nhỏ

như vậy.

Trong truyện Thổ Sầu người đọc thấy hiện lên là hình ảnh những đứa

trẻ cơ cực, thiếu thốn trong cái nghèo muôn kiếp. Chúng có những ao ước hết

sức bình dị, niềm khao khát cháy bỏng là được xem tivi. Bọn trẻ háo hức xem

cải lương, nhưng tiếc nuối khi chương trình chưa hết mà màn hình của chiếc

ti vi đen trắng cứ nhỏ xíu đi và tắt ngấm dần. Vì cái nghèo, các em phải khai

thác và tận dụng tối đa mọi thứ để có thể sinh tồn. Trong mắt đám người

thành thị đến du lịch, bọn trẻ như những sinh vật lạ, hay kẻ hoang dã, man rợ.

Cuộc sống thiếu thốn khiến chúng lam lũ kiếm sống, cùng phụ giúp cha mẹ,

sống nhờ vào tiền bán chuột đồng qua ngày, thậm chí có những lúc chỉ“ăn

cơm suông, nhưng hết cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi”. Dẫu là những đứa

trẻ nhỏ tuổi nhưng chúng lại có suy nghĩ sâu xa: em nghĩ đến người cha của

mình và nghĩ đến cả người mẹ, người ông đã khuất. Mảnh đất Thổ Sầu nghèo

cỡ nào, thì đứa trẻ không muốn rời đi - nơi chất chứa, lưu giữ nhiều kỉ niệm,

tình cảm yêu thương của gia đình và mọi người xung quanh.

Thế giới nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, được miêu

tả với số phận khác nhau, khiến cho người đọc cảm nhận được lối viết của chị

nhạy bén hơn. Chị cho người đọc thấy được những góc khuất, những mảnh

22

đời cơ nhỡ, nghèo đói không có tuổi thơ, thiếu thốn về mọi mặt. Bao nhiêu sự

bất hạnh đều đổ xuống cuộc sống mong manh, thiếu thốn của lũ trẻ mà ở

chúng chỉ có là sự ngây thơ và đáng thương vô tội. Qua lời văn của mình,

người đọc cảm thấy thương cho những số phận nhỏ nhoi, trải qua nhiều đau

thương trong cuộc sống.

2.1.3. Những đứa trẻ là nạn nhân, phải gánh chịu những sai lầm của

người lớn

Không phải bất cứ đứa trẻ nào khi sinh ra cũng được hưởng niềm vui,

hạnh phúc, trọn vẹn của cha mẹ, gia đình. Nhiều đứa trẻ khi sinh ra đã chịu sự

ghẻ lạnh, hắt hủi, trở thành nạn nhân, phải gánh chịu những sai lầm của người

lớn. Đứa trẻ ấy không chỉ mang tổn thương về tinh thần mà còn cả những vết

xước trong tâm hồn. Đó là hình ảnh chị em Nương và Điền trong Cánh đồng

bất tận, nhân vật Sói trong Ấu thơ tươi đẹp, là nhân vật em trong Gió lẻ.

Trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận, nhân vật Nương và Điền sinh ra

trong một gia đình lao động nghèo. Cha mẹ phải đi làm thuê, cuốc mướn.

Người mẹ vì đam mê cái đẹp mà đã phản bội người chồng. Người cha vì đói

nghèo, vết thương kí ức của người vợ tổn thương trở nên thô lỗ, cục cằn đến

tàn nhẫn. Ông căm ghét tất cả những người đàn bà và trả thù những người đàn

bà ấy bằng những cuộc tình ngắn ngủi. Vì lòng hận thù, chỉ cần những đứa

con nhắc đến hình bóng của vợ, ông sẵn sàng trút những trận đòn roi vô cớ

lên chúng. Nương và Điền thiếu thốn tình yêu thương của mẹ và tình yêu mến

của cha, tự mình mưu sinh trong cuộc sống, phải tự học cách thích nghi để tồn

tại. Nỗi đau của đứa trẻ, khi hàng ngày phải nghe những lời nhục mạ của

người cha dành cho người vợ bỏ đi theo nhân tình. Trong những ngày tháng

bơ vơ, trôi dạt theo đàn vịt chạy đồng, chúng chứng kiến thói nhẫn tâm, phụ

bạc của người cha với những người đàn bà qua đường. Chính sự căm giận của

người cha đã làm cho hai đứa trẻ không có được một căn nhà hạnh phúc, luôn

phải sống trôi dạt. Nương và Điền bị chấn thương nặng nề về mặt tâm lí, khi

23

chứng kiến những cuộc trả thù của người cha đã in sâu vào tâm trí Điền khiến

em khước từ luôn bản năng đàn ông vốn có mà tạo hóa ban cho. “Điền chối

bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản

năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm

thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm.

Giãy giụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt.

Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi mỏi nhừ,

gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi” [15; 199]. Với Nương, nỗi đau của

cô ngày càng lớn khi chứng kiến hành động của người cha và sự bế tắc của

cậu em trai. Nương cảm thấy mất niềm tin vào cuộc sống, cô đơn, lạc lõng

giữa biển người mênh mông. Nương và Điền luôn phải sống trong sự mặc

cảm, sự soi mói của những người xung quanh. Dường như chúng đang trốn

tránh với thế giới của loài người và đi tìm đến thế giới của loài vật. Những

tâm hồn trẻ thơ như một trang giấy trắng ấy bị tổn thương nặng nề. Không ai

khác, chính cha mẹ các em gây ra những chấn thương không thể chữa lành.

Cuộc sống của Nương và Điền dường như cũng chính là một bức thông điệp

gửi đến mọi người: cần có một trái tim bao dung, có lòng vị tha và tha thứ cho

những lỗi lầm của người khác. Có như thế thì mới không có sự hận thù, thì

những đứa trẻ mới được sống một cuộc sống vẹn đầy.

Giống với Nương và Điền, nhân vật không có tên trong truyện ngắn Gió

lẻ được Nguyễn Ngọc Tư thể hiện rất rõ nét. Một lần nó lén lấy dao cạo râu

của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, chuyện đơn giản vậy mà cha mẹ cô cãi

cọ, xúc phạm nhau nặng nề. Người mẹ không chịu được sự nhục mạ nên bà

đã treo cổ tử vẫn. Người cha không nhận lỗi về mình nên đã nghĩ ra cách nói

dối với mọi người là vợ mình bị ung thư nên buồn, tuyệt vọng quá mà tử tự.

Đứa trẻ chứng kiến hết mọi sự việc. Từ đó, nó luôn cảm thấy ghê sợ người

cha và những hành động của ông ấy. Nó đã học nói tiếng nói của chim

muông, cây cỏ “vì nói theo tiếng của con vật thì không thể làm tổn thương

24

nhau được”. Từ bỏ mái ấm gia đình, em ra ngoài đời phải nếm trải nhiều tủi

nhục, phải chứng kiến nhiều điều xấu xa, đê tiện của con người. Em được

Tám Nhơn Đạo nhận làm cha cưu mang, quan tâm như một người con ruột

của mình. Nhưng chính người mà nó rất biết ơn, kính trọng ấy lại giở trò đồi

bại “Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một

bàn tay lần vào áo em thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong

bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu” [16; 143]. Tưởng cứ ngỡ với người

cha nuôi này sẽ là niềm tin, sự bấu víu đối với em ở cuộc sống này nhưng

niềm hi vọng đó cũng bị đổ vỡ, em lại càng ghê sợ, muốn xa lánh người đàn

ông đó. Tất cả những hành động bên ngoài tưởng là người tốt, là nhân đạo

nhưng thực chất bên trong đó là vô cùng độc ác và đểu giả. Nó tiếp tục hành

trình lang thang trên một chiếc xe tải cũ cùng hai người lái xe tính tình khác

thường. Hành trình kiếm tìm nguồn sống của em chưa biết bao giờ mới tới

đích.

Trong truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp, nhân vật Sói và Nhiên cũng gánh

chịu những thiệt thòi từ chính những người thân của mình. Chỉ mười mấy

trang truyện xoay quanh một tấm bi kịch nhân vật chịu cảnh bố mẹ chia lìa

nhau. Sói và Nhiên, hai người vốn xa lạ, cùng cảnh ngộ gặp nhau ở trên tàu.

Bố mẹ các em đã chia tay nhau, đùn đẩy nhau và sống theo thú vui riêng của

bản thân mình, bỏ lại những đứa con phải mang trong mình “thương tích”.

Khi đến nhà của mẹ, Sói cảm giác không khác gì là một người khách xa lạ.

Thậm chí con chó cũng không còn nhớ mặt chủ nữa. Sói vô cùng căm giận nó

và có ý nghĩ vô cùng nhẫn tâm: sẽ giết con chó bằng thuốc độc, vì con chó coi

bạn của mẹ nó như là chủ còn nó chỉ là khách. Đã thế, thằng bé lại chứng kiến

cuộc sống tệ bạc của cha. Cha có người đàn bà khác, thậm chí người ấy còn

biết rõ cái quần cộc của ba mình nằm ở đâu. Sói bị bỏ rơi, trở thành một

người thừa, lạc lõng và đơn độc ngay trong gia đình của mình. Tính cách của

em cũng ngày càng cục cằn, thô lỗ. Nó quen đối đáp với người cha theo kiểu

25

nhát gừng, luôn trong tư thế sẵn sàng đấu khẩu với cha mình.“Sói có đôi mắt

buồn quá, tưởng như té vô đó thì không mong lội lên”. Một đôi mắt chất chứa

rất nhiều nỗi đau khổ không thể chia sẻ cùng ai. Thằng bé cô đơn trong tâm

trạng u uất. Tâm hồn của em như đã có vết thương sâu ở trong lòng. Sói

thường thức rất khuya để suy nghĩ. Một đứa trẻ bề ngoài luôn bướng bỉnh, láu

cá, nhưng ở sâu bên trong đó là một trái tim luôn chất chứa những tổn thương.

Sói không bao giờ để cho người cha nhìn thấy “khuôn mặt và đôi mắt mình.

Nó chỉ quay lưng và nói”. Một con người đầy lòng tự trọng, nó muốn che

giấu đi những giọt nước mắt yếu đuối. Nó cảm thấy tủi thân vì thiếu đi sự

quan tâm của người mẹ, sự vô tâm của người cha. Sói phải chịu những thiếu

thốn triền miên: “thằng Sói đã ngủ, nằm co như đầu hói, như con tôm luộc

nằm chơ vơ trên cái đĩa lớn. Cô độc” [16; 69].

Cũng như Sói, nhân vật Nhiên cô độc trong chính ngôi nhà ấm cúng có

cả cha lẫn mẹ. Mỗi lần em về nhà là thấy một người phụ nữ. Khi họ quan tâm,

thân thiết thì em lại càng tỏ ra căm ghét, bực tức. Cách trả lời của em lúc nào

cũng tỏ ra đầy khó chịu, bực dọc: “Muốn ăn thịt cô quá hà…cô uống thuốc

chuột chết đi, con thích vậy” [16; 60]. Đứa trẻ ấy cũng có những đêm không

ngủ. Nó sợ hãi khi phải nhìn thấy cảnh có một đôi giày của một người đàn

ông xa lạ trong nhà lẫn với thứ ánh sáng khác mẹ thay bằng màu xanh tái. Nó

luôn lạc loài giữa chính ngôi nhà của mình, luôn phải mất thời gian để làm

quen lại với tất cả.

Những nhân vật Sói, Nương, Điền, Nhiên là nạn nhân của sự đổ vỡ, chia

rẽ, li tán trong gia đình. Sự hẹp hòi, ích kỉ, vô tâm của người lớn đã để các em

lưu lạc mệt mỏi chán chường, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời. Sói lựa chọn sự

ra đi giữa biển người mênh mông, Nhiên cũng lựa chọn chấm dứt cuộc sống

này bằng cái chết đau đớn, xót xa, Nương cũng có kết thúc cay đắng.

Hầu hết trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là những đứa trẻ

bất hạnh. Các em không chỉ sống trong sự thiếu thốn, lam lũ, tự mình bươn

26

trải, mà còn trải qua cuộc sống gánh chịu những sai lầm và ảnh hưởng của

người lớn. Chính nỗi đau ấy, nhà văn bộc lộ tấm lòng xót xa, thương cảm với

số phận, mảnh đời của những đứa trẻ bất hạnh trong cuộc sống. Không chỉ

dừng lại ở đó, qua trang văn của Nguyễn Ngọc Tư còn phê phán, lên án

những bậc làm cha, làm mẹ dửng dưng thờ ơ, vô cảm trong chính cuộc sống

gia đình mình. Chị làm nổi bật lên sự vô tội không đáng có mà trẻ em vẫn

luôn chịu tổn thương, chưa nhận được quan tâm, chăm sóc. Bằng sự tài tình

của mình, Nguyễn Ngọc Tư cho người đọc thấy được hệ quả sai trái mà người

lớn gây ra đối với trẻ em.

2.2. Nhân vật trẻ em mang vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng

2.2.1. Trẻ em luôn khao khát được yêu thương

Mỗi một con người khi sinh ra đều khao khát được yêu thương. Đặc biệt

ở cái tuổi vô lo vô nghĩ, trẻ em luôn mong muốn, nhu cầu được yêu thương,

chia sẻ. Chính vì thế, trong những trang viết của mình, Nguyễn Ngọc Tư chia

sẻ:“Những ai khao khát được yêu thương, họ sẽ bộc lộ tình yêu thương mạnh

hơn người bình thường đã dư thừa đến nỗi không thèm tình cảm. Tôi thường

nhìn thấy quanh mình thường đã dư thừa đến nỗi không thèm tình cảm. Tôi

thường nhìn thấy quanh mình những đứa trẻ khao khát tình thương, những

người phụ nữ khao khát cuộc sống yên bình, được che chở. Nếu chú ý một

chút, người ta sẽ nhận ra ai cũng có nhu cầu được ấm áp, thương yêu ngay cả

những người mạnh mẽ, tàn nhẫn nhất cũng luôn mong muốn có một ngày

được hoàn lương, một mái nhà yên ấm” [4]. Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư đã xây

dựng rất nhiều nhân vật trẻ em với khao khát được yêu thương như chị em

Nương, Điền (Cánh đồng bất tận), nhân vật Sói và Nhiên (Ấu thơ tươi đẹp),

Phi (Biển người mênh mông)....

Trong truyện Cánh đồng bất tận, hai chị em Nương và Điền cô đơn, bị

đẩy vào tình cảnh phiêu bạt khắp nơi cùng đàn vịt chỗ nào cũng in hằn dấu

chân của hai chị em. Thiếu thốn mọi bề, vất vả, lam lũ đã đành, hai chị em

27

còn phải chạy trốn quá khứ, để tránh những con mắt dò xét, ngòm ngó của

mọi người xung quanh, nhất là không phải giải đáp những gì về má. Cuộc

sống khốn khổ là vậy, với hai chị em Nương và Điền có ước mơ rất giản dị

“có ông nội để mà yêu thương”, thèm được ông sai đi mua rượu, sai nướng

vài con cá khô để ông vui thú với bạn bè. Thậm chí, hai chị em thèm được

nghe ông la hét, đánh mắng dù họ chẳng có lỗi lầm gì. Niềm khao khát được

giao cảm, được trò chuyện với mọi người xung quanh của hai chị em giống

như bầy vịt chăn thả trên đồng cần có lúa để ăn mà đẻ trứng. Họ thèm được

nói chuyện với cha mình dù đó là những lời quát mắng, xa lạ với người dưng,

nước lã. Hai chị em tìm đến đàn vịt để tâm sự, yêu thương. Nương và Điền

thèm khát bình yên, thiếu thốn tình thương của một mái ấm gia đình. Một ước

mơ nhỏ nhoi là được ở bên gia đình đầm ấm hạnh phúc, đón nhận tình cảm,

quan tâm, chăm sóc của cha. Nương và Điền là hình ảnh của những đứa trẻ

mang trong mình nhiều tổn thương, sâu thẳm trong trái tim chất chứa tổn

thương ấy là niềm mong ước, khát khao tình yêu thương của gia đình thật

mãnh liệt.

Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, khao khát được yêu thương là

một thuộc tính đẹp đẽ của mỗi con người. Những nhân vật có số phận bất

hạnh thì họ lại khao khát, tha thiết yêu thương đến mãnh liệt, cháy bỏng.

Nhân vật Sói và Nhiên trong truyện Ấu thơ tươi đẹp phải sống cuộc sống gia

đình tan vỡ, li tán của một gia đình. Cuộc sống của các em toàn là những lời

ăn tiếng nói cộc cằn, thô lỗ và bốp chát của người cha. Chúng phải tự tỏ ra

mình trơ cứng, cục cằn để tự bảo vệ mình, chống lại sự dày vò và hành hạ một

cách nhẫn tâm của người lớn. Những chuyến tàu không biết là trở về hay đưa

đi khiến các em dần kiệt sức. Trong sâu thẳm trong con người của Sói vẫn là

tâm hồn của một đứa trẻ, đau đớn và yếu đuối. Thằng Sói ao ước về hình ảnh

một gia đình “Một đứa trẻ nằm gối lên đùi người mẹ, đầu đứa trẻ khác lại gối

lên bụng đứa kia” [16; 66]. Một niềm mơ ước thật nhỏ nhoi, đọc đến đây thôi

28

không khỏi những day dứt trong trái tim của những bậc làm cha làm mẹ. Với

những tâm hồn ngây thơ, trong sáng các em luôn tha thiết mình có được

những tình cảm vẹn đầy từ những người thân yêu của mình.

Nhân vật Phi trong truyện ngắn Biển người mênh mông, sinh ra từ kết

quả trong một lần mẹ cậu bị cưỡng bức. Chỉ có bà ngoại là thương và thấu

cảm Phi. Ngoại mất, Phi lăn lộn giữa cuộc đời mênh mông, phiêu bạt nay đây

mai đó bằng những lời ca tiếng hát cho qua ngày, kiếm miếng cơm manh áo.

Đau đớn nhất là không ai để tâm đến cuộc sống của anh, ngay cả người mẹ đã

sinh ra Phi. Khi gặp được ông Sáu Đèo – người chưa từng quen Phi, vậy mà

quan tâm, lo lắng cho anh như với người thân. Phi không chỉ cảm nhận được

tình cảm yêu thương, ấm áp của ông mà ông còn trân trọng Phi. Khi mất, ông

đã trao toàn bộ niềm tin, tài sản cuối cùng của ông là con bìm bịp cho Phi.

Một con vật nhỏ bé, cũng là sợi dây để chắp nối và gìn giữ một tình cảm, sự

yêu thương của những con người xa lạ với nhau. Cuối cùng giữa mênh mông

đất trời, Phi cũng được đón nhận trái tim yêu thương và sự quan tâm chân

thành của người khác dành cho anh.

Tâm hồn trẻ em như mầm xanh của cây, các em luôn mang trong mình

sự hồn nhiên, trong trẻo và tha thiết chào đón những tình cảm yêu thương.

Cho dù chịu thiệt thòi, mất mát, thì bên trong con người của chúng vẫn giữ

được sự hồn nhiên, tha thiết yêu thương của mình, bởi lẽ cuộc sống này chứa

chan đầy ước mơ, khát khao mà các em có thể dễ dàng vươn tới. Qua cái nhìn

nhân hậu, cùng với sự hiểu biết thấu đáo Nguyễn Ngọc Tư thấu cảm tất cả

những khao khát của các em và chị đem đến những trang văn: mộc mạc, giản

dị, chân thực về những tâm hồn trẻ thơ luôn tha thiết, chan chứa tình yêu

thương.

2.2.2. Khát vọng vươn lên số phận

Mỗi con người không phải lúc nào cũng được may mắn, được đong đầy

những tình yêu và niềm hạnh phúc. Bởi thực tế cho ta thấy, không chỉ người

29

lớn gặp phải những trông gai, thử thách, mà trẻ em không tránh được thiếu

thốn, gian khổ đang bủa vây các em. Chính vì thế, chúng luôn hy vọng, đặt

niềm tin về một cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn.

Truyện ngắn Cánh đồng bất tận, hình ảnh Nương và Điền với cuộc

sống bơ vơ, lưu lạc cùng đàn vịt và người bạn gió thân quen… Từ khi mẹ bỏ

nhà đi, cha đốt nhà dắt hai đứa lên chiếc thuyền nhỏ, nay đây mai đó. Cho

nên, hai chị em không thấy được sự tồn tại của cha mặc dù cha luôn ở ngay

bên cạnh chúng nhưng mọi thứ đều trở nên xa lạ “cha thờ ơ, lạt lẽo, chuyện gì

cần nói thì nói vài câu nhát gừng”… nhiều năm trôi qua, hai chị em vẫn cảm

thấy xa cách cha” [15; 183]. Mọi thành viên trong gia đình thì không gần gũi,

chia sẻ mọi chuyện với nhau mà mỗi người lại tự tạo cho mình một niềm vui

riêng. Đôi khi họ còn thấy xa lạ ngay với chính bản thân mình. Đau khổ là thế

nhưng chị em Nương và Điền luôn tìm cách vượt lên hoàn cảnh. Chúng đã tự

tạo ra ngôn ngữ mới để giao tiếp với nhau nhằm quên đi nỗi cô đơn, nỗi đau

đớn mà chúng phải chịu đựng. Xuất phát từ quan niệm: Trong cuộc sống, con

người luôn bao dung, độ lượng, phải biết mở lòng mình ra để sống với những

người xung quanh mình. Có thể nói, nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sống và

nhìn mọi người không chỉ bằng đôi mắt mà còn bằng cả tấm lòng nhân hậu và

nhất là biết tha thứ cho lỗi lầm của người khác. Đúng như nhà văn Hữu Thỉnh

đã khẳng định: “Thông điệp của Tư ở đây là con người sống phải biết khoan

dung và tha thứ. Chỉ có lấy ân báo oán thì con người mới có thể nguôi ngoai

được lòng thù hận và nỗi đau, nhờ đó, người sẽ người hơn, sẽ lớn lên. Ông bà

mình đã dạy thế và Tư đã chuyển tải thông điệp đó một cách tài tình, đau

đớn” [2]. Nương phải chịu bao nỗi nhọc nhằn, cay đắng khi sống cùng một

người cha mang đầy hận thù. Nhưng cô không vì những nỗi khó khăn ấy mà

cự tuyệt vào tương lai, mong chờ một ngày mai cha sẽ đổi thay, cuộc sống

của cha con sẽ tốt đẹp hơn. Kể cả khi đứa em trai bỏ đi, đến khi bản thân

mình bị xâm hại, cô vẫn luôn suy nghĩ: “Nếu cô có con đứa bé đó, nhất định

30

nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường… Đứa bé không cha

nhưng chắc chắn sẽ được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời,

vì được mẹ dạy, là trẻ con đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” [15;

218]. Ở hoàn cảnh này, Nương không oán hận, trách cứ người cha bội bạc,

không thù ghét, không bi quan đến mức tìm đến cái chết, cô có niềm tin lớn

lao vào một ngày mai tươi sáng. Có lẽ, trong tâm hồn tinh thế của Nương hình

ảnh, niềm hi vọng về một người cha trở về là một con người bình thường xưa

cũ, cuộc đời chị em Nương và Điền sẽ không lận đận, phải chạy đồng nữa.

Hai chị em đã từng khao khát được trồng những cây từ khi rời Bầu Sen, được

chạy chơi trong sân mọc đầy vú sữa, do tự tay mình trồng, đơm hoa kết trái

được, rất ngon. Giờ đây, một mơ ước nhỏ nhoi là có một gia đình theo đúng

nghĩa là gia đình, một mái nhà không phải phiêu bạt khắp nơi. Nguyễn Ngọc

Tư hòa mình vào thế giới ấy, cùng cảm nhận, nhìn ngắm mọi thứ, khám phá

cuộc sống, lắng nghe những khao khát, mong ước trong tâm hồn của chúng.

Như vậy, chị mới có thể viết nên những trang văn hay, chứa đựng nhiều cảm

xúc sâu sắc, tinh thế.

Nhân vật em trong Gió lẻ sau cú sốc về tinh thần khi thấy người mẹ tử

tự, người cha không nhận lỗi về mình, chấn động tinh thần khiến nó mất khả

năng giao tiếp. Nó đã bỏ đi lang thang, không có tên, người ta gọi bằng bất cứ

một cái tên nào. Cô đơn, lạc lõng bao trùm, em tự học cách để quên đi nỗi

buồn, quên đi nỗi cô đơn ấy. Em đã tìm cách nói chuyện với con cò, con chó,

thậm chí học cách nói chuyện của chim muông. Khi nói chuyện với những

con vật này, em nhận thấy tình yêu thương và chúng không bao giờ chết vì

tiếng của nhau, không giống như người mẹ phải chết vì lời nói cay độc của

người cha. Em đã nhận ra mình không còn tồn tại trên đời này nữa, nhưng

linh hồn luôn khao khát, mong mỏi được đón nhận những tình yêu thương,

được trở về tiếng nói của con người: “Những gì em đã mất, chỉ tiếng nói em

còn nghĩ tới, đôi khi. Ban trưa, nghe tiếng rao chè ơi hỡi ơi hời, hay tiếng gọi

31

nhau vời vợi, em bỗng thèm nói – giống – người. Để khi anh Tìm Nội sụp

khóc bên mộ nội, em sẽ vỗ về, bảo “anh cứ khóc, tôi ngồi cạnh đây, tôi chờ”.

Em cũng muốn nói với Ông Buồn, em thích ông cười” [16; 153]. Sâu thẳm

trong tâm hồn em là được trở lại, mong ước để trở thành một con người, để

giao tiếp với mọi người xung quanh. Nhân vật có ở bất cứ hoàn cảnh nào thì

Nguyễn Ngọc Tư cũng không quên để họ nuôi dưỡng, vươn lên những khát

vọng về cuộc sống tươi đẹp hơn.

Bằng con mắt tinh tế của mình, bạn đọc có thể cảm nhận được tấm

lòng đặc biệt đầy chân thành của Nguyễn Ngọc Tư dành cho trẻ thơ. Những

tình cảm dồn nén bao lâu nay, nhưng khi viết về trẻ em nó khơi gợi, thúc giục

chị những trang viết khác lạ. Đó là những đứa trẻ bơ vơ, bị đẩy vào cùng cực,

trẻ em nghèo khó, lam lũ, những đứa trẻ mồ côi, hay bị cha mẹ bỏ rơi, lớn lên

mà không có tình thương yêu của cha mẹ. Nguyên nhân do gia đình tan vỡ, sự

vô trách nhiệm, tàn nhẫn của người lớn, cha mẹ. Đồng thời, thấy được niềm

lạc quan, yêu đời trong những đứa trẻ, cố gắng hết mình để vươn lên thoát

khỏi cuộc sống cơ cực của các em trong cuộc sống hiện tại. Bên cạnh đó,

mang nét đẹp trong phẩm chất, tính cách của con người Nam Bộ nói chung và

trẻ thơ Nam Bộ nói riêng: cần cù, lam lũ, ý chí, nghị lực lớn lao. Qua đây,

Nguyễn Ngọc Tư muốn nói lên trẻ em cần được chăm sóc và đón nhận tình

cảm của tất cả mọi người. Viết về số phận trẻ thơ, chị thổi một luồng gió mới

vào nền văn học Việt Nam hiện đại, người đọc thấy được bao điều tốt đẹp qua

những lời văn của chị. Đó là kết quả của cuộc hành trình mà chị rong ruổi

kiếm tìm lại chính mình trên cuộc đời.

32

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN VỀ NGHỆ THUẬT THỂ

HIỆN NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN

NGỌC TƢ

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình

Nguyễn Ngọc Tư dùng ngòi bút sắc sảo của mình đã tái hiện, khắc họa

lên bức chân dung về các nhân vật một cách rõ nét, chân thực và qua đó bộc

lộ tính cách nhân vật.

Đặc điểm đầu tiên đó là toàn bộ các nhân vật trẻ em của Nguyễn Ngọc

Tư đều mang những cái tên rất dân dã, đời thường, giản dị: Củi, Vĩnh, Nương,

Điền, Phi, Sói,...thậm chí những nhân vật không có tên như em trong Gió lẻ.

Nương và Điền (Cánh đồng bất tận) gợi lên cho người đọc thấy được niềm

mơ ước về một cuộc sống yên bình, no ấm của những người nông dân vất vả

cùng với mảnh vườn, thửa ruộng. Khi cha mẹ chúng chia tay, thì cái tên cũng

chính là niềm hoài niệm thật đau buồn về một mái ấm gia đình có đầy đủ cả

cha lẫn mẹ. Thằng Củi trong truyện ngắn Sầu trên đỉnh Puvan ta có thể hình

dung ra được hình dáng lẫn số phận của nó. Có thể thấy, cho dù nhân vật có

số phận, tính cách ra sao thì Nguyễn Ngọc Tư luôn chọn cho các em những

cái tên chất chứa sự hiền lành, mộc mạc nhất. Những cái tên ấy nó luôn gắn

bó sâu nặng với làng quê, những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh.

Trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đa số có ngoại hình xấu

xí, thô kệch. Đó là hình ảnh thằng bé Củi (Sầu trên đỉnh Puvan) hiện ra “một

linh hồn mười lăm tuổi trong cơ thể đứa bé lên chín, ở trần, gầy nhom, lem

luốc, hai xương vai bén ngót, nhô lên cao, môi nẻ ra, bong những cái vảy

nhỏ” [16; 46]. Nhân vật Phi ( Biển người mênh mông) thiếu sự đùm bọc, sẻ

chia của cha mẹ, như cái cây tự sinh tồn giữa cuộc đời “ăn vận lôi thôi, quần

jean bạc lỗ chỗ, lai rách te tua, áo phông, dài quá mông, râu ria rậm rạp,

móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc

33

như người ta vẹt bụi ô rô” [15; 109]. Chỉ qua một vài chi tiết nhỏ ấy thôi, bạn

đọc sẽ dễ dàng thấy được một con người bụi đời, sống buông thả và đầy khắc

khổ của Phi.

Mỗi nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư có những tính cách,

hình dáng khác nhau qua việc miêu tả của nhà văn. Như hình ảnh Diễm

Thương trong truyện ngắn Cải ơi được nhà văn miêu tả với “khuôn mặt cũng

hay, không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đố ai biết nó

nghĩ gì” và “mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chớm như rễ tre” cùng “nụ cười

héo hắt” [15; 7]. Cái tài của chị không hề miêu tả cụ thể, rõ ràng mà chỉ miêu

tả mang tính khái quát và qua đó người đọc tự hình dung lên một tính cách

lạnh lùng, bất cần đời nhưng ẩn sâu trong đó là một tâm hồn yếu đuối, đầy

đau khổ của Diễm Thương. Đa phần trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn

Ngọc Tư đều mang hình dáng chịu bất hạnh, cực khổ như Củi, Phi,..

Ngoài việc miêu tả hình dáng bên ngoài, chị còn đặc biệt chú ý đến việc

miêu tả hình ảnh đôi mắt của nhân vật. Đó là đôi mắt của đứa trẻ trong Núi lở

“đôi mắt rất sạch, sáng, to tròn”, đôi mắt của sổ của tâm hồn ấy nhìn vào

điều gì là thấy sự sống ở đấy. Khi nhìn vào nước, nước sẽ trong, nhìn màn

đêm tối đên như vậy mà lại lé hở những ánh sáng. Một đôi mắt thật đặc biệt

không chỉ biết nhìn mà còn biết nói “Nó ngước lên trời, nơi những đám mây

bắt đầu sà xuống, bịu xịu như một cô gái sắp khóc, ánh mắt nói rằng thằng bé

rất bồn chồn” [16; 71]. Một đứa trẻ hiện lên trong mắt bạn đọc đầy vẻ tự

nhiên, chất phác chất chứa nhiều ngây thơ, ẩn chứa đằng sau của đôi mắt sáng

ấy lại là sự lo lắng, bồn chồn, khắc khoải của nhân vật. Đó còn là đôi mắt thấy

sợ hãi và mặc cảm: “Đôi mắt thằng bé rất bất an, dường như đây không phải

nhà của nó”. Qua hình ảnh đôi mắt của trẻ thơ, hiện lên cho bạn đọc thấy

được cả một thế giới nội tâm bên trong con người em.

Có thể thấy, chân dung ngoại hình của các nhân vật trẻ em đều mang

trong mình những đặc điểm riêng, nhưng bên cạnh đó đứa trẻ chứa đựng nét

34

chung của con người Nam Bộ: chịu nhiều khổ cực, thiệt thòi, lam lũ nhưng rất

giàu và chan chứa tình yêu thương. Ngoại hình các nhân vật trẻ thơ ấy gợi lên

một cảm xúc xót xa, day dứt trước sự sống mong manh, nhỏ nhoi đang ngày

càng bao vây trước những giông bão của cuộc đời. Từ chân dung cuộc đời của

các em, người đọc phần nào khám phá được phần nào ngụ ý và quan niệm mà

tác giả gửi gắm.

3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

Không chỉ chú ý miêu tả hình dáng bên ngoài mà các nhà văn còn tập

trung lột tả, đi sâu vào miêu tả tâm lí của nhân vật. Đọc những trang văn của

Nguyễn Ngọc Tư, chị như một nhà tâm lí xuất sắc. Chị rất dễ dàng khi nhập

thân vào thế giới nội tâm nhân vật, nắm bắt và diễn tả những cung bậc cảm

xúc, suy tư của chúng một cách thật nhuần nhuyễn. Nguyễn Ngọc Tư rất tế

nhị thể hiện tâm lí buồn, cô độc, day dứt của con người.

Đó là nỗi đau của thằng Vĩnh trong truyện Núi lở khi nó phải chứng

kiến nỗi đau thương quá lớn trong đời. Nỗi đau ấy được nhà văn thể hiện

cùng với những kí ức và hiện tại về người ông nội của mình: “Thằng bé càng

xa đỉnh núi, ký ức của nó về ông nội càng nhì nhùng, loang lổ như khúc phim

trầy xước” [16; 81]. Tâm hồn của thằng bé đang bị giằng xé, giữa một bên là

bố mẹ và một bên là người ông của mình, nó không đành lòng để người ông ở

lại phía sau. Với nó, người ông là tất cả, là nguồn sống của nó, chỉ có ông là

người bạn, người thân với nó mà thôi. Cha mẹ bỏ người ông ở lại phía sau.

Thằng bé cũng không hiểu lí do tại sao cha mẹ mình lại nhẫn tâm thế. Qua

những dòng kí ức về người ông nội, người đọc cảm thấy tình cảm chân thành

của thằng bé giành cho người ông thật lớn lao.

Ở Cánh đồng bất tận ta thấy rất rõ thủ pháp nghệ thuật độc thoại nội

tâm. Đó là nhân vật Nương xưng “tôi” kể lại, với thủ pháp pháp trần thuật của

tác giả qua cuộc độc thoại nội tâm của Nương và Điền. Vì vậy, cả tác phẩm

là một chuỗi những tâm trạng triền miền của Nương. Tất cả những sự việc đã

35

trải qua, không chỉ được Nương kể lại mà như được “sống lại”, rạch rọt từng

cung bậc, từng cảm xúc, cảm giác. Ví dụ như đoạn miêu tả cuộc độc thoại của

Nương khi ở Bàu Sen:“Tôi ôm quắp thằng Điền nghe con sóng nhỏ lách tách

vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu

dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và

xao xuyến hỏi, má có khỏe hôn con?). Thằng Điền hỏi lại, “mắc gì mà nhớ?

Lãng òm…”. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên

đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền chữa mắt cho

thằng Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người

ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm hi vọng ư? Và tôi ngủ

trong xốn xang” [15; 190]. Nương còn bộc bạch nỗi khao khát của hai chị

em: “Chị em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn, khao khát được trồng cây từ

khi rời Bàu Sen, vì biết chẳng bao giờ quay lại sống bình thường. Dường như

chúng tôi nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông

sân mọc đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái và ăn được, ăn

rất ngon. Nhưng cái mơ ước nhỏ nhoi là nhìn thấy nó lớn lên cũng mong

manh, khi mà đến chưa nóng chỗ đã phải rời đi nơi khác” [15; 194]. Đó là

nỗi khao khát được sống, được yêu thương của họ. Một niềm ước mong đã ấp

ủ, chất chứa từ sâu trong tâm hồn của hai đứa trẻ chỉ chờ khi có cơ hội, niềm

khát vọng ấy được vỡ òa. Sau những ngày tháng phiêu bạt, thèm nhớ quê

hương, nhận ra cơn gió quen thuộc – ngọn gió mang nhiều kỉ niệm. Những

hình ảnh thân quen về xóm làng, hiện lên bủa vây trong tâm trí Nương chất

chứa nhiều nỗi tâm sự. Những kí ức mà Nương cố quên nhưng cứ hiện hữu.

Đau đớn nhất là khi bị cưỡng bức, những dòng suy nghĩ của cô cứ thế tuôn

trào: “Mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không rõ là phèn hay máu, nhoèn nhoẹt.

Thôi nghen, ông trời, như thế này là đủ rồi, đừng thêm nữa. Ước gì cha tôi

hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng đã thử đó

là một cách tự học để sống. Chỉ sợ sự giao tiếp thân xác là tôi chưa từng trải

36

qua. Nhưng lúc nầy cảm giác đó thật đơn điệu. Đầu tiên là sự xé toạc và đau

đớn như lũ kiến cánh được giải thoát, chúng bò rân khắp thân thể, tôi thấy

mình đang chết. Rồi ký ức lùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hương vị người

đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó

giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi, tại sao tôi

không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả

đó tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra

sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về)” [15; 217]. Nương cứ để

cho dòng kí ức ấy được trở lại với thực tại, nhưng dường như bản thân nhân

vật lại không đón nhận tình cảm theo một cách đúng nghĩa, ở đây Nguyễn

Ngọc Tư luôn ấn định Nương sống trong nỗi cô đơn, lạc lõng từ lâu đã trở

thành một việc bình thường của chính mình. Chị để lại cho người đọc dấu hỏi

lớn: Nương chỉ là một cô gái đơn thuần, bình thường như bao cô gái khác

nhưng tại sao sâu thắm trong trái tim cô lại chất chứa những nỗi đau mà đáng

ra cô không trải qua. Bởi vì chính bản thân cô phải chịu nhiều bất hạnh, tự

mình phải lăn lội giữa cuộc đời còn quá sớm, thiếu sự quan tâm của cha và

tình yêu thương của mẹ. Để chống chọi với sự sinh tồn của cuộc đời, buộc

Nương phải trưởng thành hơn, ngay cả trong suy nghĩ, băn khoăn của mình

cũng như trong cuộc sống. Nương vật lộn với dòng kí ức, đau đớn khi bị

cưỡng bức, đầu tiên cảm nhận của cô là nỗi đau đến xé toạc, như lũ kiến đang

bò râm ran khắp thân thể cô, rồi cô chợt nhớ đến người mẹ của mình với

người đàn ông buôn vải, cùng những khoái lạc mà sao giống bản thân mình

hiện tại. Nguyễn Ngọc Tư thật khéo léo, dẫn đường đưa bạn đọc vào chiều

sâu trong tâm trạng của nhân vật để khám phá những điều thú vị.

Truyện ngắn Biển người mênh mông, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng lời văn

nửa trực tiếp: “Phi chợt tỉnh, bàng hoàng, đó là lúc anh đang mơ màng nghe

tiếng mưa long tong trên mái nhà, Phi đang thèm ai đó kêu mình thức dậy”,

“Phi vừa ngủ dậy, đứng lặng, lắng nghe tiếng bìm bịp buồn buồn xa vời vợi

37

trong ánh nắng chiều, Phi nhớ triền dừa nước xanh miết ở trước nhà ngoại

mình, nhớ đứt ruột” [15; 105]. Tâm trạng của Phi cứ thế tuôn chảy, Phi “tỉnh,

bàng hoàng” đến mơ màng như chính lòng mình đang khát khao điều gì. Tất

cả chuỗi cảm xúc của Phi như sợi dây kết nối với bạn đọc để đi sâu vào thế

giới tâm hồn của nhân vật.

Có thể thấy, Nguyễn Ngọc Tư rất tài tình trong việc khéo léo, linh hoạt

khắc họa thế giới bên trong của nhân vật một cách lắng đọng. Chỉ bằng vài từ

hay cụm từ trong câu viết mà đã thể hiện được đầy đủ những cung bậc tâm

trạng, dòng cảm xúc, tới những suy tư, trăn trở trong nội tâm của từng nhân

vật. Chính nhờ sự tài năng hiếm có ấy, mà chị đã lôi cuốn được sự khám phá

của người đọc. Mang lại sự chờ ngóng trong các tác phẩm của chị sau này.

3.2. Ngôn ngữ

Cùng một đề tài viết về trẻ thơ nhưng mỗi nhà văn có một cách sử dụng

ngôn ngữ riêng. Nếu Nguyến Nhật Ánh đưa ngôn ngữ của giới trẻ vào trong

các tác phẩm: dùng tiếng lóng, ngôn ngữ tuổi teen...để miêu tả tính cách,

ngoại hình của nhân vật thì Nguyễn Ngọc Tư dùng ngôn ngữ mộc mạc tự

nhiên, đậm chất Nam Bộ với các biện pháp tu từ, giàu khả năng liên tưởng.

Bên cạnh đó, sử dụng những ngôn ngữ này một cách nhuần nhuyễn vì bản

thân chị là một người con Nam Bộ, sống và lớn lên ở miền đất này. Nguyễn

Ngọc Tư mang ngôn ngữ bình dị, hàng ngày vào trang văn khiến câu văn giản

dị, tự nhiên.

3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc tự nhiên, đậm chất Nam Bộ

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thể hiện cá

tính sáng tạo, cũng như phong cách, tài năng của nhà văn. Có thể thấy, dấu ấn

rõ nét trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là ngôn ngữ mang đậm chất

Nam Bộ. Hầu hết, các trang văn của chị từ tên tác phẩm đến tên nhân vật, tâm

tư tình cảm, khát vọng của trẻ thơ đều được chị dùng ngôn ngữ mộc mạc, gần

gũi với đời sống hàng ngày, mang đậm chất Nam Bộ.

38

Có thể khẳng định, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự

thành công của Nguyễn Ngọc Tư. Điều đó, mang đến cho bạn đọc một cái

nhìn gần gũi, chân thực, sinh động và hấp dẫn về miền đất Nam Bộ. Nhà văn

Nguyễn Quang Sáng cho rằng: “Với một giọng văn mộc mạc, bình dị, ngôn

ngữ đời thường, đã tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hương vị

cuối cùng của Tổ quốc – mũi Cà Mau…Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư,

những con người lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa bên trong cả một tâm hồn

nhân hậu tinh tế qua cách đối nhân xử thế…”.TS. Huỳnh Công Tín nhận

xét:“Từ ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn ngữ nhân vật đều khá thuần nhất chất

Nam Bộ. Số lượng từ ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của chị khá lớn, đặc điểm

này tạo nên ở truyện của chị một giọng văn riêng mà nhiều người cảm thấy

yêu thích” [17; 310].

Khắc họa nhân vật trẻ em, Nguyễn Ngọc Tư sử dụng một loạt từ địa

phương với những từ ngữ xưng hô được dùng khi giao tiếp với người thân

trong gia đình như: “má”, “ba”, “tía”, “má con tao”, “má sắp nhỏ”; “tao”,

“bây”, “cưng”, “chế”, “mấy đứa nhỏ”, “tụi nó”, “mầy”,...

“Nhà cửa ở đâu mà đi bụi, hả em cưng?” (Gió lẻ)

“Thằng Tứ Hải, đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với má con tao nì. Để không

ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen” (Nhà cổ)

Sử dụng những từ này, giúp các em thể hiện sắc thái thân mật, gần gũi,

tình cảm giữa mọi người với nhau, qua đó thấy được sự chân thực trong tình

huống giao tiếp.

Ngoài ra, Nguyễn Ngọc Tư còn đưa ra một hệ thống các từ thể hiện sắc

thái biểu cảm của người nói được đặt ở cuối câu cảm thán hay câu hỏi. Đó là

các từ gắn với những câu hỏi của các em như: “à”, “nghen”, “vậy”, “hen”,

“chớ”, “vậy à”, “ha”, “hả”, “chớ bộ”, “mà”, “hôn”...

“Thằng nhỏ Sói cười kha kha kha, nói, cha muốn con ăn gà để nổi mề

đay cùng mình hả?” (Ấu thơ tươi đẹp)

39

“Phải chi ông nầy là ông nội mình, thương đỡ chơi hen Hai?”(Cánh

đồng bất tận). Lời nói của Điền nghe mà chứa chan, cảm thương cho hai chị

em khi thiếu tình cảm của người ông, Điền dùng ngôn ngữ Nam Bộ thể hiện

sự chân thành của mình qua lời nói.

Nguyễn Ngọc Tư là người con Nam Bộ, chị chịu ảnh hưởng của văn hóa

vùng miền. Cho nên khi diễn đạt, nhà văn đưa từ ngữ sinh hoạt hàng ngày dân

dã, mộc mạc, tự nhiên trở thành ngôn ngữ văn học. Chị dùng tài năng và ngòi

bút điêu luyện của mình để tạo nên các tác phẩm với ngôn ngữ riêng, mang

nhiều nét khác biệt. Vậy nên, Nguyễn Ngọc Tư được coi là nhà văn hiếm có

vẫn giữ được cốt cách diễn đạt của người Nam Bộ trong sáng tác văn chương.

3.2.2. Sử dụng các biện pháp tu từ, gần gũi với sự liên tưởng của trẻ em.

Viết về những đứa trẻ, ngoài việc sử dụng ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ,

Nguyễn Ngọc Tư còn sử dụng các biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ và so sánh.

Những phép so sánh trong các tác phẩm của chị mang một vẻ riêng: giàu hình

ảnh, sinh động, ngộ nghĩnh và chất chứa nhiều cảm xúc. Lối so sánh ấy rất

gần với những liên tưởng của trẻ em, được diễn tả một cách chân thực, và

luôn gây sự ám ảnh mạnh mẽ đối với người đọc.

Trong truyện Cánh đồng bất tận, người cha trong suy nghĩ của nhân vật

Nương và Điền: “Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn

hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ

mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.” [15; 183]; “Những suy nghĩ cồn cào làm

cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều mây và gió. Thoắt quang đãng

thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…” [15; 190]; “Cha giống như một

con thú trở về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hương

vị của miếng mồi, và ngẫm ngợi thòm thèm con mồi kế tiếp. Có lúc sự vật lôn

làm vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu, và tôi hãi hùng nhận

ra chỗ đau ấy cứ rộng thêm ra” [15; 195]; “Cha làm chuyện đó thì cũng

giống như mấy con vịt đạp mái…” [15; 197]. Hai chị em có những suy nghĩ,

40

ví von rất độc đáo về người cha của mình, có khi cha được ví thành đồ vật, rồi

lại so sánh như những con thú, với những biểu hiện tâm lí của cha. Có những

lúc chúng lo lắng sợ mình sẽ làm tổn thương người cha, nhiều khi lại hi vọng

một sự đổi thay của người cha hơn là sự sợ hãi hay trách móc trước những

hành động thô lỗ của ông. Bên cạnh đó, Nương còn liên tưởng về cánh đồng:

“Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Khi chúng tôi quyết định

dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi nầy.

Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa

rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn” [15; 163]. Đây chính là liên tưởng tới cuộc

sống đầy vất vả chứa đựng những dự cảm, lo âu bất an đang ập đến gia đình

của chúng.

Ngoài việc dùng biện pháp liên tưởng, so sánh mà tác giả còn thể hiện tài

năng trong việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ, nhiều biểu tượng mang chứa nhiều

nghĩa. Ví dụ như ta thấy ở hình ảnh của không gian Nam Bộ không chỉ nói về

vùng đất Nam Bộ, mà còn phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của những

đứa trẻ nơi đây. Trong những trang văn của chị có hình ảnh “Gió” – là những

cơn gió mùa, những luồng gió chất chưa những nỗi buồn, nỗi nhớ: “Rẫy bắp

ở Mai Lâm đón gió lẻ bằng những luống cây nghiêng ngửa. Vài ngọn gió cô

độc đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tượng buồn cười, chỗ thẳng

chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm cho những cây bắp đã trổ cờ

ngã rạp tạo một tầm nhìn thấu vô nhà ông Tám Nhơn Đạo” (Gió lẻ). Điền

ngó nắng rưng rưng ngoài sân, nói “Sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”;

“Gió chướng trở ngọn, trên những cánh đồng ủ ê tin buồn”; “Bây giờ, gió

chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng bất tận” (Cánh đồng bất tận). Hình

ảnh gió cứ được trở đi trở lại qua những tác phẩm của chị, mỗi một cơn gió

với những tên gọi khác nhau, gắn với tâm trạng buồn của đứa trẻ mỗi khi nhớ

về kỉ niệm của mình qua hay những hoài niệm về quá khứ và có khi là cả

những nỗi đau nữa.

41

Ngoài việc sử dụng những phép liên tưởng, so sánh, ẩn dụ thì Nguyễn

Ngọc Tư còn dùng các câu hỏi tu từ để phân tích chiều sâu tâm trạng ngổn

ngang của nhân vật. Trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận, tác giả sử dụng

khá nhiều câu hỏi tu từ như:

“Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng nầy, hồi trưa nầy mình đã làm gì giống

má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay lại tôi

ngồi bắt chí cho thằng Điền?”.

“ Má tôi cũng đã từng chọn nhanh như thế sao?”.

“Không biết con bị có con không, hả ba?”.

Mỗi một câu hỏi tu từ nó diễn tả nỗi suy tư, nỗi nhớ trong lòng nhân vật

Nương. Nguyễn Ngọc Tư đã hóa thân vào từng nhân vật để nhấn mạnh nỗi

nhớ của Nương về những kí ức trong quá khứ.

Việc sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ, giúp cho câu văn càng trở

nên sinh động, hấp dẫn với bạn đọc, đồng thời tạo sự liên tưởng gần gũi với

trẻ em. Qua đó, bạn đọc thấy được ngụ ý của nhà văn, những ý nghĩa ẩn kín

của nhân vật.

3.3. Giọng điệu.

Khảo sát qua tập Cánh đồng bất tận và tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác

của Nguyễn Ngọc Tư mang nhiều chất giọng riêng, mới lạ. Khi thì giọng điệu

đôn hậu, ấm áp, đầy chân tình. Có lúc giọng điệu dân dã, mộc mạc hay là

giọng trong sáng, hồn nhiên và giọng điệu xót xa, thương cảm. Đặc biêt, qua

hai tập này, khi viết về trẻ em nổi lên hai giọng điệu chủ đạo: giọng điệu trong

sáng, hồn nhiên và giọng điệu xót xa, thương cảm

3.3.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên

Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, hình ảnh trẻ thơ - những đứa trẻ

lam lũ, gánh chịu những thiệt thòi, mất mát, nhưng ẩn sâu trong tâm hồn

chúng chất chứa một bóng hình của một đứa trẻ mang nét hồn nhiên, trong

42

sáng theo đúng nghĩa. Nét hồn nhiên, trong sáng thể hiện qua từng lời nói,

cách nghĩ, cách cảm nhận và đặc biệt qua giọng điệu.

Đọc Ấu thơ tươi đẹp ta thấy thấp thoáng đằng sau những câu nói của

những đứa trẻ là giọng điệu hồn nhiên của nhân vật Sói trong cuộc trò chuyện

với người cha của mình:

- “Con ghét mấy con chó quá. Lần nào vô nhà tụi nó cũng sủa nhoi hết

- Con là chủ cái nhà đó mà chó coi thua khách.

- Khách nào?

- Cha hỏi làm chi, khách của mẹ thì mắc mớ gì cha…

- Về kỳ này con mua thuốc chuột thuốc chết mấy con chó.

- Chơi gì ác vậy?

- Đâu có chơi.

- ...Cha rảnh dữ ha, đi tội nghiệp mấy con chó” [16; 62].

Sói mang nét ngây thơ ngay từ những câu nói của mình. Sói giận hờn,

trách móc con chó đã không nhận ra mình. Trả lời người cha một cách vô tư,

thẳng thắn mà cộc cằn, thô lỗ, bởi các em nghĩ sao nói thế. Nguyễn Ngọc Tư

thổi vào các em một chất giọng riêng hồn nhiên, trong sáng ngay từng lời ăn

tiếng nói.

Hay truyện ngắn Thương quá rau răm, những đứa trẻ ngây thơ khi bày

trò để tạo sự bận rộn và níu chân bác sĩ Văn ở lại bằng trò chơi nghịch ngợm

“còng kẹp” chim thằng Út Chót, mang đến bác sĩ chữa trị. Khi bị thét đứa trẻ

vô tư nói: “Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú

không bỏ về thành phố” [15; 21]. Nét ngây thơ của đứa trẻ chứa đựng ngay

trong suy nghĩ, lời nói của nó, chỉ vì nó nghĩ làm như vậy thì bác sĩ sẽ ở lại

mà không biết rằng đấy là câu nói đùa của người lớn.

Bên cạnh đó, sự trong sáng ngây thơ của đứa trẻ mới đến được người

dân Thổ Sầu cảm nhận qua vẻ bề ngoài “thất vọng não nề của chúng” và

“giãy nảy, kêu khóc bên đôi giày leo núi và bộ đồ tắm biển thừa thãi” với câu

43

nói, giọng điệu ngây ngô, ấm ức cằn nhằn khi ra về: “Hổng vui gì hết…Nhìn

người ta nghèo hổng vui gì hết”. Đây là lời nói thẳng thắn của những đứa trẻ

khi lần đầu tới Thổ Sầu, vô tư trách hờn.

Qua lối viết mới này, ta thấy được một chất giọng riêng trong cách viết

của Nguyễn Ngọc Tư. Một chất giọng “không rào trước đón sau, nghĩ gì nói

vậy” toát lên sự hồn nhiên, trong sáng một cách chân thực nhất, đầy đủ nhất

trong tính cách của trẻ em. Bằng từng lời nói, ngữ điệu của đứa trẻ, ta nhận ra

tài năng của nhà văn trong việc khai thác giọng điệu hồn nhiên, trong sáng

của trẻ thơ.

Giọng điệu xót xa, thương cảm được coi là giọng chính trong sáng tác

3.3.2. Giọng điệu xót xa, thương cảm

của Nguyễn Ngọc Tư nói chung, khi viết về trẻ thơ có số phận bất hạnh của

chị nói riêng. Qua đó, nhà văn thể hiện tình cảm da diết, lòng thương cảm với

hoàn cảnh éo le, cơ cực của trẻ thơ. Giọng điệu này được thể hiện thông qua

lời kể, lời miêu tả, đặc biệt trong thế giới nội tâm của nhân vật được Nguyễn

Ngọc Tư đào sâu.

Ngay ở những câu văn đầu tiên của Cánh đồng bất tận, nhà văn tái hiện

một không gian rộng lớn chất chứa nỗi buồn, nỗi cô đơn, mang giọng điệu

chứa đựng nhiều xót xa, thương cảm: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh

đổng rộng. Khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như

cũng gom hết nắng đổ xuống nơi nầy. Những cây lúa chết non trên đồng, thân

đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn” [15; 163].

Một không gian của đói nghèo - tưởng chừng như tốt đẹp nhưng không hề tốt

đẹp cho con người.

Đọc Cánh đồng bất tận, những lời nói của Nương và Điền mà khi ta

nghe thôi mới thấy tội nghiệp làm sao. Điền luôn ao ước: “Phải chi ông nầy

là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình

44

nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có...ông nội để thương, thèm muốn

bên đường”. Niềm mơ ước nhỏ nhoi của Điền cũng không có được, còn

Nương đã thốt lên những tiếng thở dài và dường như là sự chấp nhận: “Tôi

lắc đầu, bảo thôi, mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm. Mà, đã

ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao?” [15;

194]. Đến tuổi trưởng thành thì người con gái cũng cần có một bến đỗ và

Nương cũng đã đến nhưng ở người con gái này chỉ suy tư, trăn trở về điều đó

thôi: “Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ

với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của con, tiếng

muỗng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn

một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm bợ,

thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt

thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ,

một người thợ gặt? Một anh chạy đò? Ý nghĩ mình là bản sao của má làm tôi

sợ. Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm

chán suốt đời, hay nửa chừng bỏ dở. Và bi kịch chất đống lên những người ở

lại” [15; 212]. Không chỉ dừng lại ở những suy nghĩ về tương lai sau này, mà

Nguyễn Ngọc Tư còn miêu tả hai chị em Nương và Điền khi đến tuổi trưởng

thành mà không có ai dạy bảo về sự phát triển sinh lí (kỳ kinh nguyệt đầu

tiên) “Máu chảy từ hai đùi không tạnh được…tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt

và chết dần. Thằng Điền với bứt đọn chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu,

điên dại để lấy bã rịt lại chỗ máu…Hai đứa tôi nhìn nhau khóc, tôi đã mơ

thấy ngôi mộ của mình” [15; 199]. Đọc những câu văn ấy lên, người đọc

không khỏi những xót xa, những ngẹn ngào, trước tình cảnh éo le mà một đứa

con gái mới dậy thì như Nương phải chịu đựng. Thật đau xót, ngay từ khi còn

bé đã thiếu thốn tình cảm của người mẹ, khi mới lớn phải chịu những trận đòn

tệ bạc của người cha, đến thời con gái không được chỉ bảo, Nương cảm thấy

45

hoảng loạn đến sợ hãi trông thấy những thay đổi ở tuổi dậy thì. Khiến hai chị

em đành phải học lấy cách sống, tự trưởng thành.

Tất cả các nhân vật đều mang trong mình trái tim yêu thương và cách

thể hiện tình cảm của mỗi người khác nhau, như hình ảnh của Nương. Cô hiểu

vì sao cha trở nên phụ bạc, tàn nhẫn, thấu hiểu được nỗi uất hận mà Điền chịu

đựng: “Cha vẫn thường đánh chị em tôi thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là

khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc ngủ dài, mở mắt ra

vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh” [15;

182]. Mặc dù, chúng biết được cha đánh chúng chỉ vì má bỏ đi nhưng chúng

vẫn im lặng:“tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau nầy chị em

tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra mình bị đòn chỉ vì là con của

má, vậy thôi” [15; 183]. Người đọc không khỏi day dứt, xót xa, thương cảm

cho cảnh ngộ của Nương và Điền.

Hình ảnh em trong Gió lẻ khiến người đọc phải rơi nước mắt trước số

phận bất hạnh, từ chối tiếng nói của con người, sợ hãi khi nghe tiếng nói của

mọi người xung quanh. Đó là nỗi sợ hãi quá lớn khiến em phải tìm đến ngôn

ngữ khác“Em luôn nghĩ, không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới

cái chết vì tiếng hót của con chim khác? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu

vào đá vì tiếng sủa của con chó khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự

chìm chỉ vì tiếng kêu của con bò khác? Tiếng nói của con vật không dùng để

làm tổn thương nhau, em nghĩ” [16; 139]. Giữa con người với con người lại

không tìm ra được niềm vui, hạnh phúc mà luôn là sự dối trá, em phải tìm đến

tiếng nói của loài vật thì mới không bị tổn thương.

Giọng điệu xót xa, thương cảm thấm đẫm từng câu văn của Nguyễn

Ngọc Tư. Bằng trái tim chân thành của bản thân mình, cùng giọng điệu xót

xa, nhà văn cảm thông, chia sẻ với cuộc đời, số phận trẻ em bất hạnh. Chị

luôn thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc về cuộc sống, số phận của những nhân vật

trẻ thơ trong các tác phẩm của chị. Khi viết về trẻ em nhà văn lựa chọn giọng

điệu hồn nhiên, trong sáng và xót xa thương cảm. Chính những điều này giúp

46

cho người đọc thấy được cảm hứng chủ đạo, tình cảm, thái độ của nhà văn với

tâm hồn bé thơ, góp phần tạo nên phong cách độc đáo, một cái nhìn riêng đối

với nhà văn trong mảng sáng tác về đề tài trẻ em.

47

KẾT LUẬN

1. Cùng với sự xuất hiện của những cây bút phụ nữ trẻ như Vi Thùy Linh,

Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân... Nguyễn Ngọc Tư đã

nhanh chóng khẳng định được vị trí, tài năng của mình trong dòng chảy văn

học Việt Nam hiện đại. Trên hành trình sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư cố gắng

hết sức mình, chị gặt hái được nhiều thành công và cho ra đời rất nhiều truyện

ngắn hay, hấp dẫn, thu hút sự chú ý bạn đọc. Với tập Cánh đồng bất tận và

tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác. Đây là hai tập truyện ngắn mà Nguyễn

Ngọc Tư dành nhiều cảm hứng viết về thế giới trẻ em.

2. Tìm hiểu về nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chị

quan tâm, khắc họa những kiểu nhân vật trẻ em: những đứa trẻ mồ côi, chịu

nhiều thiệt thòi, bất hạnh sớm phải tự mình bươn trải cuộc sống và gánh chịu

những sai lầm của người lớn. Dù cuộc sống cực khổ nhưng tâm hồn trẻ thơ ấy

mang vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên luôn tha thiết được yêu thương, khát vọng

vươn lên số phận. Nhà văn bộc lộ niềm xót xa, thương cảm và giành những

tình yêu thương hết mực của mình đối với những cảnh đời trẻ thơ bất hạnh.

Qua đó, Nguyễn Ngọc Tư gửi gắm niềm tin, niềm hi vọng, ý nghĩa lớn lao

của mình qua từng tác phẩm.

3. Về phương diện nghệ thuật, mỗi nhà văn lựa chọn cho mình một phương

thức biểu đạt riêng, phù hợp với cá tính sáng tạo của mỗi cá nhân. Nguyễn

Ngọc Tư đã đi tìm hiểu nhân vật từ ngoại hình đến chiều sâu nội tâm nhân

vật. Chị sử dụng ngôn ngữ hết sức mộc mạc tự nhiên, đậm chất Nam Bộ. Các

nhân vật trẻ em ấy được tái hiện bằng giọng điệu trong sáng, hồn nhiên, với

nhân vật có số phận bất hạnh nhà văn thể hiện bằng giọng điệu cảm thương,

xót xa. Bằng tất cả những điều đó Nguyễn Ngọc Tư đã khai thác các nhân vật

trẻ thơ một cách chân thực và sinh động. Viết về thế giới nhân vật trẻ thơ,

Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định được bản lĩnh, sự thành công với đề tài này.

Chị dành tất cả trái tim, sự xót xa, đau đớn của mình trước những số phận bất

48

hạnh của trẻ em, trăn trở, lo lắng trước sự tha hóa của giá trị đạo đức. Tuy

nhiên, người đọc vẫn nhận thấy một niềm tin đầy nhân văn vào vẻ đẹp tuổi

thơ, vào niềm khao khát hướng đến những điều tốt đẹp nhất.

49

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân, (2006), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

2. Đối thoại với Cánh đồng bất tận – lợi ích chân lí, báo Tuổi Trẻ, ngày

12/04/2006.

3. Nguyễn Trọng Bình, Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ

phương diện quan niệm nghệ thuật về con người.

http://www.viet-studies.info/

4. Nguyễn Trọng Bình, Phong cách truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư nhìn

từ góc độ tự sự.

www.viet – studies.net/

5. Nguyễn Đăng Điệp, Văn trẻ có gì mới, Báo Văn Nghệ, số 41, ngày

8/10/2006.

6. Bùi Đức Hào, Thử nhận định về Gió lẻ sau hiện tượng Cánh đồng bất

tận trong hành trình văn học Nguyễn Ngọc Tư.

http://www.diendan.org/

7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên, 2007), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

8. Vũ Thị Thu Hiên, (2013), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội 2.

9. Phương Lựu (chủ biên), (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

10. Phạm Thị Nga, (2013), Nhân vật bi kịch trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP Hà Nội 2.

11. Phạm Xuân Nguyên, (2004), Khi cánh đồng mở ra, talawas.org.

12. Phạm Xuân Nguyên, (2008), Nguyễn Ngọc Tư – một báo hiệu khác từ

Gió lẻ, báo Tuổi Trẻ.

13. Nhiều tác giả, (1984), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Công Thuấn, (2011), Nguyễn Ngọc Tư và hành trình đã đi.

http://phongdiep.net/

15. Nguyễn Ngọc Tư, (2005), tập truyện Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.

16. Nguyễn Ngọc Tư, (2008), tập truyện Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Nxb

Trẻ.

17. Huỳnh Công Tín, (2006), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, Nxb Văn hóa

thông tin.