
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1. Đặt vấn đề ....................................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................................ 2
2.1. Lịch sử nghiên cứu về từ đồng nghĩa ......................................................................... 2
2.2. Lịch sử nghiên cứu từ trái nghĩa ................................................................................ 4
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 6
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN.............................. 6
1.1. Lí thuyết về từ đồng nghĩa ......................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm từ đồng nghĩa .......................................................................................... 6
1.1.2. Phân loại từ đồng nghĩa ........................................................................................... 7
1.1.2.1. Cách phân loại truyền thống .................................................................................. 8
1.1.2.2. Cách phân loại dựa theo ngữ nghĩa và màu sắc phong cách .............................. 10
1.1.3. Tác dụng của từ đồng nghĩa .................................................................................. 11
1.2. Lí thuyết về từ trái nghĩa ......................................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm từ trái nghĩa .......................................................................................... 12
1.2.2. Phân loại từ trái nghĩa ........................................................................................... 13
1.2.3. Tác dụng của từ trái nghĩa ..................................................................................... 16
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................ 17
Chương 2. KHẢO SÁT, PHÂN LOẠI VÀ PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ CỦA TỪ ĐỒNG
NGHĨA, TỪ TRÁI NGHĨA TRONG TẬP THƠ KHÔNG BAO GIỜ LÀ CUỐI CỦA
XUÂN QUỲNH ................................................................................................................ 18
2.1. Khảo sát, phân loại và phân tích giá trị từ đồng nghĩa trong tập thơ Không bao
giờ là cuối của Xuân Quỳnh ............................................................................................ 18
2.2. Khảo sát, phân loại và phân tích giá trị từ trái nghĩa trong tập thơ Không bao giờ
cuối là của Xuân Quỳnh .................................................................................................. 25

Chương 3. VẤN ĐỀ DẠY HỌC TỪ ĐỒNG NGHĨA, TRÁI NGHĨA TRONG NHÀ
TRƯỜNG ......................................................................................................................... 37
3.1. Thực trạng dạy và học từ đồng nghĩa, trái nghĩa trong nhà trường hiện nay .... 37
3.2. Một số cách đổi mới phương pháp giảng dạy từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa ở nhà
trường hiện nay ................................................................................................................ 38
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 40
PHỤ LỤC BẢNG TỪ ...................................................................................................... 41

1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tiếng Việt là một ngôn ngữ rất đa dạng, đa chiều và phong phú với hệ thống từ vựng
khổng lồ. Theo khảo sát, hiện nay tiếng Việt có khoảng 17.000 âm tiết, tức là 17.000 thành
tố có thể tạo được từ và từ 17.000 thành tố đó người ta xáo trộn và kết hợp với nhau tạo
thành các từ mới, đặc biệt có thể có hàng triệu sự kết hợp. Theo GS Nguyễn Văn Khang và
PGS Phạm Văn Tình từng nhận xét rằng: “Chính cái giàu đẹp đã làm nên cái chất, giá trị,
bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt, kết quả của cả một quá trình và biết bao công sức dùi
mài…”. Thật vậy, sự giàu đẹp của tiếng Việt đã làm nên bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt,
bản sắc tức là những nét đặc trưng mà nếu mất đi thì nó không còn là nó. Tiếng Việt đẹp ở
chỗ là nó có một sắc thái riêng, độc đáo, thể hiện được trí tuệ dân gian và được thử thách
qua hàng ngàn năm người Việt giao tiếp tiếng nói với nhau. Ngoài ra, tiếng Việt giàu đẹp
không chỉ nhờ hệ thống từ vựng phong phú mà còn dựa vào thanh điệu và một số khía cạnh
khác trong văn chương. Trong đó, từ đồng nghĩa và trái nghĩa là hai khái niệm quan trọng
đã góp phần làm cho tiếng Việt trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
Từ đồng nghĩa, trái nghĩa là hai quan hệ ngôn ngữ phổ quát, đóng vai trò quan trọng
trong cấu trúc ngữ nghĩa. Nói nôm na, bản chất từ đồng nghĩa và trái nghĩa là những cặp
từ có cùng hoặc trái nghĩa với nhau về mặt ý nghĩa. Kết hợp với quan hệ bao hàm, quan hệ
đồng nghĩa và trái nghĩa là biểu hiện của tính hệ thống trong từ vựng của một ngôn ngữ.
Trong kho tàng từ vựng tiếng Việt, từ đồng nghĩa và trái nghĩa đóng vai trò trong việc tạo
nên sự phong phú, sinh động, gợi cảm cho ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Không những thế, từ đồng nghĩa, trái nghĩa còn là một hiện tượng độc đáo của tiếng
Việt, nó làm cho tiếng Việt thêm phong phú và mang đậm nét đặc sắc riêng mà không thể
lẫn với một thứ ngôn ngữ nào khác. Việc nghiên cứu từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa được giới
nghệ sĩ quan tâm, tìm hiểu và nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được ra đời từ lâu

2
dưới các góc nhìn khác nhau bởi lợi ích của nó. Cụ thể, việc nghiên cứu ấy sẽ góp phần
làm rõ hơn cấu trúc ngôn ngữ và qua đó nâng cao hiệu quả của hoạt động lời nói.
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa mang lại giá
trị to lớn về phương diện lí thuyết lẫn thực tiễn nhưng chỉ mới đi vào một số khía cạnh nhất
định. Nhận thấy hai nội dung từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa có nhiều vấn đề để khai thác
nên tôi lựa chọn đề tài “Khảo sát, phân loại và phân tích giá trị của từ đồng nghĩa, trái nghĩa
trong tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh” làm đối tượng nghiên cứu cho tiểu
luận. Từ đề tài đó, tôi sẽ đánh giá về vấn đề dạy học từ đồng nghĩa, trái nghĩa tiếng Việt
trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu về từ đồng nghĩa
Trong sự phát triển của từ vựng tiếng Việt, từ đồng nghĩa đã góp phần vào những
bước đường phát triển của ngôn ngữ Việt Nam. Đặc biệt, trong thế giới văn chương, thơ ca
thì từ đồng nghĩa được sử dụng như là một lớp từ vựng không thể thiếu trong việc lí giải,
khám phá, nâng cao ý nghĩa và giá trị biểu cảm cho văn bản nghệ thuật. Vì thế, “từ đồng
nghĩa” là một đề tài không còn mới mẻ đối với người đọc và trở thành nội dung được giới
nghệ sĩ săn lùng. Có thể khẳng định như vậy bởi từ trước đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này của những nhà phê bình nổi tiếng như Đỗ Hữu Châu với cuốn
Từ vựng tiếng Việt, Đỗ Thị Kim Liên với cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Giáo sư Nguyễn Thiện
Giáp,… Một số nhận định nổi bật sẽ được khái quát dưới đây:
Đỗ Hữu Châu nhận định rằng: “Đồng nghĩa trước hết là một hiện tượng có phạm vi
rộng khắp trong toàn bộ từ vựng, chứ không chỉ bó hẹp trong những nhóm với một số có
hạn những từ nhất định. Nói khác đi, đồng nghĩa trước hết là quan hệ về ngữ nghĩa giữa
các từ trong toàn bộ từ vựng chứ không phải trước hết là giữa những từ nào đấy. Đó là quan
hệ giữa các từ ít nhất có chung một nét nghĩa. Cũng có thể nói: quan hệ đồng nghĩa bắt đầu
xuất hiện khi bắt đầu xuất hiện một nét nghĩa đồng nhất giữa các từ.” [3, tr.101]. Hơn nữa,
tác giả còn nêu lên hiện tượng “chùm” từ ngữ có quan hệ đồng nghĩa – trái nghĩa với một

3
từ, phản ánh một cách tập trung quan hệ đồng nhất – đối lập trong từ vựng về mặt ngữ
nghĩa. Từ mỗi đơn vị của “chùm” từ ngữ này lại xuất hiện những từ đồng nghĩa – trái nghĩa
với nó, dẫn đến sự lan tỏa, mở rộng ra cả trường nghĩa.
Tiếp tục với từ đồng nghĩa, tác giả Đỗ Hữu Châu trong công trình Trường từ vựng
và các hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa (1973) đã dùng trường nghĩa để giải thích cho
đồng nghĩa, trái nghĩa dường như chỉ là mặt bổ sung, hoàn thiện cho quan hệ đồng nghĩa.
Bàn về vấn đề từ đồng nghĩa không thể vắng mặt tác giả Nguyễn Thiện Giáp. Ông
cho rằng: “Trong hệ thống ngôn ngữ, nói đến hện tượng đồng nghĩa là phải nói đến sự
giống nhau của các nghĩa sở biểu. Vì vậy, chúng tôi tán thành quan niệm cho từ đồng nghĩa
là những từ gần nhau về nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị một sắc thái của
một quan niệm.” [2]
Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến định nghĩa: “Từ
đồng nghĩa là những từ khác nhau về âm thanh, tương đồng nhau về nghĩa và có phân biệt
về một số sắc thái phong cách, sắc thái ngữ nghĩa, khả nắng kết hợp và phạm vi sử dụng”
và chỉ ra rằng: “Từ đồng nghĩa không phải là những từ trùng nhau hoàn toàn về nghĩa.
Chúng nhất định có những dị biệt nào đó bên cạnh những tương đồng”. Đây là hướng quan
niệm thỏa đáng được đông đảo người dung chấp nhận hơn cả. Cách định nghĩa như này
vừa ngắn gọn vừa đầy đủ. Các tác giả đã đi vào chi tiết, cụ thể về khái niệm từ đồng nghĩa
và chỉ ra được mức độ khác nhau của các từ đồng nghĩa, đó là phân biệt một số nét nghĩa
về sắc thái phong cách, sắc thái ngữ nghĩa, khả năng kết hợp và phạm vi sử dụng. [7, tr.8]
Ngoài ra, hai tác giả Đỗ Xuân Thảo và Lê Hữu Tỉnh đã đưa ra nhận định trong giáo
trình tiếng Việt II: “Từ đồng nghĩa là những từ khác nhau về âm thanh nhưng có chung ít
nhất một nét nghĩa”. Theo quan niệm này, các từ đồng nghĩa có mức độ đồng nghĩa cao
thấp khác nhau tùy theo số lượng nét nghĩa chung, nét nghĩa đồng nhất” [7, tr.8]
Thông qua quá trình khảo sát, tôi thấy hầu như các tác giả đi trước đã nghiên cứu
khá sâu và kĩ càng về vấn đề từ đồng nghĩa, cũng như cụ thể hóa một số khía cạnh nhất
định của nó. Tuy nhiên, các tác giả chỉ nghiên cứu một cách chung chung và ở phạm vi

