ĐẠI HC ĐÀ NẴNGTRƯNG ĐI HC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT TỰ THUẬT
(AUTOBIOGRAPHICAL FICTION)
QUA TRƯỜNG HỢP MỘT NGƯỜI PHỤ NỮCƠN CUỒNG SI
CỦA ANNIE ERNAUX
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
VĂN HỌC TÂY ÂU -
ĐÀ NẴNG – 2024
ĐẠI HC ĐÀ NẴNGTRƯNG ĐI HC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT TỰ THUẬT
(AUTOBIOGRAPHICAL FICTION)
QUA TRƯỜNG HỢP MỘT NGƯỜI PHỤ NỮCƠN CUỒNG SI
CỦA ANNIE ERNAUX
Chuyên ngành: Sư phm Ngữ Văn
Mã s: 7140217
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
VĂN HỌC TÂY ÂU -
Ngưi hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN PHƯƠNG KHÁNH
ĐÀ NẴNG – 2024
1
ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT TTHUT (AUTOBIOGRAPHICAL FICTION)
QUA TRƯỜNG HỢP MỘT NGƯI PHỤ NỮ CƠN CUỒNG SI
CỦA ANNIE ERNAUX
Tóm tắt: Tiu thuyết tư thuật (Autobiographical Fiction) là mt thloi văn hc mà tác
giả lấy cuộc đời thực của mình làm chất liệu sáng tác chính để sáng tạo nên một tác phẩm
văn chương, trong đó có xuất hiện yếu tố cấu. Bài viết này hướng đến việc tìm hiểu
về đặc trưng của tiểu thuyết tự thuật trên phương diện nội dung lẫn nh thức tham chiếu
qua hai trường hợp Một người phụ nữCơn cuồng si của Annie Ernaux. Trong bài viết
này này, tôi không chxây dựng sở luận bao gồm: tình hình nghiên cứu về “t
thuật”, “tiểu thuyết tự thuật” nước ngoài Việt Nam, nêu các khái niệm liên quan,
khái lược các đặc trưng tiêu biểu của tiểu thuyết tự thut,... mà còn làm rõ các đặc trưng
của tiểu thuyết tự thut phương diện nội dung lẫn nghệ thuật qua hai tiểu thuyết tự
thuất nêu trên. Tiểu thuyết tự thuật hiện lên thức duy đặc quyền của phái nữ,
đồng thời là phương thức tái hiện cuộc đời theo “lối viết tự ăn mình của tác giả”. Sự hòa
trộn giữa hư cấu phi hư cấu cùng với ngôi kể thnhất với “cái tôi” trải nghiệm cũng
là những đặc trưng nổi bật của tiểu thuyết tự thuật phương diện nghệ thuật biểu hiện.
Thông qua quá trình phân tích trên, sđể định hình chuẩn xác đầy đủ hơn về
đặc trưng của tiểu thuyết tthut, hướng tới việc khẳng định sự phát triển mạnh mẽ ca
thloại văn học này trong bối cảnh văn học đương đại thế giới.
Từ khóa: Tiểu thuyết tư thuật; Một ngưi ph nữ; Cơn cuồng si; Annie Ernaux.
1. ĐẶT VẤN Đ
Trong dòng chảy văn học truyền thống, cái tôi cá nhân thường bị khuất lấp, bị gắn
chặt với những vấn đề của cái “ta” chung không được phép xuất hiện một cách trực
diện. Tuy nhiên, sự phát triển vượt bậc của xã hội ngày nay và đổi mới không ngừng của
tư tưởng nhân loại đã tạo ra một không gian mi cho các tác giả mạnh dạn khám phá và
2
thhiện bản ncá nhân trong các “đứa con tinh thần” của mình. Và điều này từng được
Marguerite Duras khẳng định rằng: “Các nvăn không viết khác ngoài bản thân
mình” [13]. Tiếp thu quan điểm trên, các nhà văn đương đi hu hết tập trung khai thác
triệt để đời sống riêng của mình và đưa vào trong tác phẩm bằng yếu tố tự thuật. Điển
hình là Annie Ernaux - một gương mặt ng trong làng “tiểu thuyết tự thuật” đã đóng
góp đáng kể nhằm đưa thloại này ngày càng phát triển. Trong sự nghiệp văn chương
của bà, phải kể đến hai tiểu thuyết tự thuật tiêu biểu là Một người phụ nữCơn cuồng
si. Khi đọc hai sáng tác này, độc giả sẽ xác định được “cái tôi” chất liệu chính trong
tác phẩm. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại việc phản ánh cái tôi cá nhân, hai tiểu
thuyết tự thuật này còn phản ánh những diễn biến xã hội xung quanh. Với tính chân thực
trực diện, yếu ttự thuật đã đi vào những trang giấy của Annie Ernaux một cách tự
nhiên, hài hòa trthành công cụ đắc lực để tác gikhai thác chiều sâu nội tâm cũng
như phản ánh những biến động của xã hội.
Việc nghiên cứu một cách hệ thống đề tài “Đặc trưng tiểu thuyết tự thut
(Autobiographical Fiction) qua trường hợp Một người phụ nữ Cơn cuồng si của Annie
Ernaux” sẽ giúp giải quyết vấn đề: nhận diện các đặc trưng của tiu thuyết t thuật. Kết
quả nghiên cứu dự kiến sẽ làm rõ các đặc trưng tiểu thuyết tự thuật qua hai tác phẩm Một
người phụ nữ Cơn cuồng si của Annie Ernaux, qua đó khẳng định tài năng sáng tác
độc đáo cũng như vị thế của Ernaux trong dòng chảy văn học hiện đại. những do
trên nên tôi quyết định chọn đề tài: “Đặc trưng tiểu thuyết tự thut (Autobiographical
Fiction) qua trường hp Một người phụ nữ Cơn cuồng si của Annie Ernaux” đnghiên
cứu cho bài tiểu luận ca mình.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái lược những vấn đề lý luận chung
2.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tự thut và tiểu thuyết tthuật ở nước ngoài
3
Ole Martin Skilleas trong công trình Knowledge and imagination in fiction and
autobiography đã nêu khái quát tác dụng của “tự thuật” trong quan điểm: “T thuật đc
biệt thú vị trong bối cảnh triết học đạo đức vì chúng cung cấp cho chúng ta những ví dụ
hiếm hoi mở rộng vcách người khác suy nghĩ, cảm nhận phản ánh, điều này
tầm quan trọng sống còn trong sự phát triển của phronesis (trí tuthc tế)” [12]
Trong bài nghiên cứu Autobiography as de-facement, Paul de Man phát biểu rằng:
“Lý thuyết về tự thuật bị cản trở bởi một loạt các câu hỏi ch tiếp cận lặp đi lặp lại
không chỉ đơn thuần là sai, theo nghĩa là chúng xa vời hoặc bất thường, mà còn hạn chế,
chúng coi những giả định về diễn ngôn tự thuật điều hiển nhiên thực tế lại rất
có vấn đề. Có thể thấy, Paul De Man đã chỉ ra một hạn chế lớn trong nghiên cứu tự thuật
đó là việc quá tập trung vào những định nghĩa cố định các hình thuyết sẵn có.
Từ đó, việc tiếp cận tự thut mt cách quá cng nhắc có thlàm mờ đi những khía cạnh
phức tạp, đa chiều của thể loại này. [5]
Khi bàn về mối liên hệ giữa nhật ký, tự thuật vi tiểu thuyết, Glen Cavaliero cho
rằng: “Trong bản chất hữu hạn và chọn lọc của chúng, nhật ký và tự thuật giống với tiểu
thuyết”. Hơn nữa, ông còn khẳng định: “Khi một nhà văn giàu trí tưởng tượng chuyển
sang tự thuật hoặc viết nhật ký, kết quả có thể không chmột bản ghi chép về các sự
kiện còn một cuộc khám phá vnguồn gốc shình thành tính cách của người
ghi chép” [2]
Bên cạnh đó, Robert Tracy trong công trình Stranger than Truth: Fictional
Autobiography and Autobiography Fiction đã nêu quan điểm nhân về khả năng của
nhà văn trong việc di chuyển vào ra khỏi trải nghiệm thực tế bản sắc thực sự của
mình trong việc tạo ra tự thuật hoặc tiểu thuyết tự thuật: “Với tôi, có vẻ như bản thân tôi
chủ đề tác phẩm nói đến, chủ đề của cuốn sách sẽ tách biệt khỏi tôi. Tôi được t
do để nói về tôi hoặc không nói về i” “chắc chắn mối quan hệ giữa cuộc
sống được mô tả trong tự thuật cuộc sống chthcủa thực sự đã sống.” [16,
tr.275]