
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
-------------------------
TIỂU LUẬN HẾT MÔN HỌC
Học phần: Các lí thuyết và phương pháp tiếp cận văn học
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Lớp: 22 SNV1
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Trường
Đà Nẵng, tháng 12/2023

ĐỀ:
“Có một chân lí của lí thuyết khiến nó trở thành hấp dẫn, nhưng đó không
phải là tất cả chân lí, bởi lẽ có một sự thật là văn chương không hoàn toàn có thể
lí thuyết hóa được.” (Antoine Compagnon)
Quan điểm của anh (chị)? Trên cơ sở ứng dụng một hình thái lí thuyết trong
tiếp nhận tác phẩm văn chương, hãy phân tích, giải thích và làm sáng tỏ ý kiến
trên. (khảo sát qua truyện ngắn Lạc rừng của Hoàng Hải Lâm)
BÀI LÀM
1. Mở đầu
Trong “Lời nói đầu” cuốn Văn chương như là quá trình dụng điển của
mình, Ngô Tự Lập đã dẫn ra Sơ đồ Aristotle và nhận xét của M.H.Abrams trong
Chiếc gương và ngọn đèn: Lí thuyết lãng mạn và truyền thống phê bình (1953):
“Mặc dù bất kì lí thuyết nào cũng đều có tính đến cả bốn yếu tố, nhưng mỗi lí
thuyết chỉ chủ yếu hướng đến một yếu tố mà thôi. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên
cứu có xu hướng lấy một trong bốn yếu tố làm cơ sở cho việc định nghĩa, phân
loại, phân tích tác phẩm nghệ thuật, cũng như làm tiêu chí chính để đánh giá”.
Bốn yếu tố mà M.H.Abrams đề cập là tác phẩm, tác giả, độc giả và thực tại, mà
trong đó, theo Sơ đồ Aristotle, thì tác phẩm là yếu tố trung tâm. Ngô Tự Lập đi
đến khẳng quyết: Các lí thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác
nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau.” [1]. Lí thuyết là cơ
sở để tiếp cận văn chương dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể hơn lí thuyết chính
là tiền đề để người đọc “giải mã” một tác phẩm văn chương cụ thể. Tiếp nhận văn
chương theo quan niệm “giải mã” văn bản là “lấy văn bản làm trung tâm”; sau đó
tiến hành phân tích các lí thuyết liên quan và cắt nghĩa các yếu tố, cấu trúc văn
bản để diễn dịch nội dung ý nghĩa của văn bản – cái vốn được coi là nằm ngay
trong văn bản. Từ đó, có thể rút ra khẳng định: lí thuyết là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến quá trình tiếp nhận văn chương. Bàn về vấn đề này, Antoine
Compagnon đưa ra quan điểm rằng: “Có một chân lí của lí thuyết khiến nó trở

thành hấp dẫn, nhưng đó không phải là tất cả chân lí, bởi lẽ có một sự thật là văn
chương không hoàn toàn có thể lí thuyết hóa được”. Có thể thấy, nhận định trên
của Antoine Compagnon đã thể hiện mối liên hệ gần gũi giữa lí thuyết và văn
chương; đồng thời nêu lên quan điểm riêng: “bởi lẽ có một sự thật là văn chương
không hoàn toàn có thể lí thuyết hóa được”, hiểu nôm na là lí thuyết không thể
giải mã tác phẩm văn chương một cách toàn vẹn. Về mặt lí thuyết, văn chương có
thể được xem là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, có chức năng phản ánh hiện
thực và thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người. Còn lí thuyết ở đây có thể được
xét là lí thuyết nói chung và lí thuyết văn học nói riêng. Bản chất của lí thuyết
chính là hệ thống các phạm trù và luận điểm phức hợp. Tức, vấn đề lý thuyết có
thể phức tạp và trừu tượng hơn rất nhiều so với luận điểm và giả thuyết. Còn lí
thuyết văn học có thể hiểu là thông diễn học – áp dụng cho việc giải thích các tác
phẩm văn chương. Vậy, lí thuyết hay lí thuyết văn học có giải mã được tác phẩm
văn chương một cách toàn vẹn hay không? Để trả lời câu nghi vấn này, tôi sẽ ứng
dụng hình thái lí thuyết tự sự học trong tiếp nhận tác phẩm văn chương để giải
thích và làm sáng tỏ quan điểm của Antoine Compagnon thông qua quá trình phân
tích truyện ngắn Lạc rừng của Hoàng Hải Lâm.
2. Nội dung nghiên cứu
Sau quá trình tiếp cận và tìm hiểu về quan điểm ở phần mở đầu của Antoine
Compagnon, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm nêu trên. Trong cuốn sách Lý
thuyết Văn học và Văn hoá của Peter Barry, có một câu nói cho rằng: “Lý thuyết
văn học và văn hóa không chỉ giúp cho việc “giải thiêng” lý thuyết một cách rõ
ràng và dễ tiếp cận hơn, mà còn giúp khám phá lại những giá trị của các tác phẩm
văn học kinh điển.” [6]. Từ đó, lí thuyết văn học có thể được hiểu như là “lí thuyết
phê bình” hoặc “lí thuyết văn hóa” nằm trong nghiên cứu văn học, là tập hợp các
khái niệm và giả định tri thức để qua đó giải thích văn bản văn học cụ thể. Hơn
nữa, quá trình khám phá những giá trị nội dung lẫn nghệ thuật mà tác phẩm văn
chương đem lại, đòi hỏi tác giả phải biết ứng dụng lí thuyết văn học trong cụ thể
hoá thành các mô hình tiếp nhận. Điều đó dẫn đến việc khám phá đời sống văn

chương gắn liền với lí thuyết, cụ thể là lí thuyết văn học – yếu tố mà tác giả phải
đặt lên hàng đầu khi phân tích. Ứng với quá trình đó, lí thuyết đòi hỏi người học
không chỉ hiểu mà còn phải chiếm lĩnh được lí thuyết – có nghĩa là đạt được kĩ
năng lí thuyết. Chung quy lại, nếu kĩ năng phương pháp luận là cái cần thiết để
trở thành một nhà nghiên cứu thông thường thì kĩ năng lí thuyết là cái cần thiết để
trở thành nhà nghiên cứu bậc cao. Vậy, Antoine Compagnon cho rằng: “Có một
chân lí của lí thuyết khiến nó trở thành hấp dẫn” là hoàn toàn phù hợp bởi lí thuyết
có những chân lí hấp dẫn nhằm giúp chúng ta hiểu về bản chất của văn chương
một cách toàn diện, sâu sắc và khoa học hơn; đồng thời, cung cấp cho chúng ta
những cách nhìn mới mẻ về văn chương.
Không thể phủ nhận được tầm quan trong của lí thuyết đối với văn chương
nhưng thực chất, lí thuyết không phải là tất cả nên không thể nào cụ thể hóa văn
chương một cách toàn diện. Trái ngược với nhận xét “Có một chân lí của lí thuyết
khiến nó trở thành hấp dẫn”, Antoine Compagnon đưa ra nhận xét liên kết với
nhân xét nêu trên: “nhưng đó không phải là tất cả chân lí, bởi lẽ có một sự thật là
văn chương không hoàn toàn có thể lí thuyết hóa được”. Thật vậy, văn chương
không hoàn toàn có thể lí thuyết hóa được do văn chương là một hiện tượng mang
tính sáng tạo, mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm văn
chương là một thế giới nghệ thuật độc đáo mang những giá trị riêng biệt. Do đó,
việc lí thuyết hóa văn chương chỉ có thể mang tính tương đối, không thể bao quát
hết được những giá trị của tác phẩm văn chương. Ví dụ, khi ứng dụng hình thái lí
thuyết cấu trúc luận trong tiếp nhận tác phẩm văn chương, chúng ta có thể phân
tích dựa trên các yếu tố cấu trúc như: cốt truyện, nhân vật, tâm lý,... Tuy nhiên,
những yếu tố này chỉ là một phần của tác phẩm, không thể phản ánh hết được giá
trị của tác phẩm. Giá trị của tác phẩm còn thể hiện ở những yếu tố phi cấu trúc
như cảm xúc, tư tưởng, triết lý nhân sinh,…
Khi nhắc đến việc văn chương không thể lí thuyết hóa được thì có rất nhiều
nguyên nhân: Thứ nhất, văn chương là một hiện tượng tinh thần phức tạp, mang
tính đa nghĩa và đa chiều. Nó không thể được giản lược thành những quy tắc và

định nghĩa cứng nhắc, do đó việc lí thuyết hóa văn chương là một điều khó khăn
và không hoàn toàn có thể đạt được. Thứ hai, văn chương là sản phẩm của tâm
hồn con người, là sự phản ánh của đời sống, là sự sáng tạo của nghệ sĩ. Nó mang
trong mình những giá trị tinh thần phong phú, đa dạng nên không thể bị đóng
khung trong những khái niệm, nguyên tắc khô cứng của một khuôn mẫu lí thuyết
nào. Cuối cùng, văn chương chính là sự kết hợp của nhiều yếu tố gồm: ngôn ngữ,
hình ảnh, âm thanh, ý tưởng, và cảm xúc. Những yếu tố này tương tác với nhau
một cách phức tạp, tạo nên những hiệu ứng thẩm mỹ không thể đoán trước. Và
những nguyên nhân trên nhằm khẳng định: lí thuyết cũng có những giới hạn nhất
định nên nó không thể giải mã được hết các chiều kích phức tạp của văn chương.
Thông qua những lập luận trên, một lần nữa đã khẳng định: “Có một chân lí của
lí thuyết khiến nó trở thành hấp dẫn, nhưng đó không phải là tất cả chân lí, bởi lẽ
có một sự thật là văn chương không hoàn toàn có thể lí thuyết hóa được” là một
nhận định đúng đắn về mối quan hệ giữa lí thuyết và văn chương.
Những phân tích ở trên đã một phần làm rõ quan điểm của Antoine
Compagnon, tuy nhiên để có thể phân tích cặn kẽ về khía cạnh: mọi hình thái của
lí thuyết hoàn toàn không thể giải mã văn chương một cách toàn vẹn, tôi sẽ dựa
vào hình thái lí thuyết tự sự học để tiếp nhận tác phẩm văn chương, tức là tiếp
nhận truyện ngắn Lạc rừng của Hoàng Hải Lâm dưới góc nhìn tự sự học. Trước
hết, tôi sẽ khái quát một số lí thuyết liên quan đến thể loại truyện ngắn và hình
thái tự sự học. Truyện ngắn là hình thức tự sự văn xuôi cỡ nhỏ, sáng tác bằng hư
cấu. Với tên gọi “truyện ngắn” không hẳn là do tính chất dung lượng của tác phẩm
ngắn mà do đây là thể loại nắm bắt cuộc sống thông qua lát cắt, khoảnh khắc dựa
vào một bố cục đặt biệt. Truyện ngắn có nhiều đặc điểm khác nhau, chẳng hạn:
truyện ngắn có dung lượng ngắn, các đặc điểm về nhân vật, ngôn ngữ, không gian,
thời gian,…; kết cấu đơn giản nhưng lối kết thúc bất ngờ; ngôn ngữ súc tích, hàm
ẩn, có tính gợi mở cao;… nổi bật nhất là truyện ngắn phản ánh hiện thực qua lát
cắt của cuộc sống nhưng xoáy vào những hiện tượng có vấn đề. Còn “tự sự học”
(narratology) hay còn gọi là “trần thuật học” là một nhánh của thi pháp học hiện
đại, “xuất phát từ các nguyên tắc lí thuyết nghiên cứu trước hết các văn bản văn

