BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN CÔNG HẬU
TIẾP CẬN NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” TỪ MỘT SỐ TÀI LIỆU TIẾNG ANH
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN CÔNG HẬU TIẾP CẬN NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” TỪ MỘT SỐ TÀI LIỆU TIẾNG ANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: ThS. HỒ THANH TÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khoá luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu nêu trong Khoá luận là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ KHOÁ LUẬN
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Quý Thầy Cô Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. Trong quá trình học tập, tôi đã nhận được từ quý Thầy Cô những hướng
dẫn tận tình trong nghiên cứu khoa học Lịch sử, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm…
Quý Thầy Cô là những hình mẫu về tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa
học và tận tâm trong giảng dạy.
TS. Trần Thị Thanh Thanh, người đã trao cho tôi tình yêu khoa học và cũng
như góp phần kiến lập nền tảng vững chắc về kiến thức cũng như phương pháp
để tôi có thể vững bước trên con đường học tập và nghiên cứu khoa học Lịch
sử.
ThS. Hồ Thanh Tâm, người hướng dẫn khoa học. Trong quá trình thực hiện
Khoá luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được từ Thầy sự hướng dẫn tận tình, cẩn
trọng và tinh thần nghiêm túc, trung thực trong nghiên cứu khoa học. Những
phương pháp nghiên cứu khoa học mà tôi học tập từ Thầy sẽ là hành trang
không thể thiếu trong suốt chặng đường nghiên cứu khoa học về sau.
Cô Nguyễn Thị Thu Hà, người trao cho tôi niềm đam mê, mang đến những
kiến thức ban đầu về Lịch sử.
Thầy Nguyễn Thượng Toàn, người tiếp tục trao cho tôi những kiến thức
Lịch sử, dìu dắt, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thi Tốt nghiệp
Trung học Phổ thông và Đại học.
Gia đình, những người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quãng
đời sinh viên.
TP. Hồ Chí Minh, Mùa thu 2018
NGUYỄN CÔNG HẬU
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ················································································· 1 1. Lý do chọn đề tài ····································································· 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ··························································· 2 3. Mục đích nghiên cứu ································································· 3 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ····················································· 4 5. Phương pháp nghiên cứu ···························································· 4 6. Nguồn tài liệu ········································································· 5 7. Đóng góp của đề tài ·································································· 6 8. Bố cục của đề tài ······································································ 6 Chương 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TIẾP CẬN ĐA DẠNG CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU KHI TÌM HIỂU VẤN ĐỀ LỊCH SỬ ··················· 8 1.1. Lý do cần tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu ···························· 8 1.2. Cách thức để tiếp cận nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu ····················· 10 1.3. Sự cần thiết phải tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu đối với nội dung “Cách mạng tư sản” ··································································· 12 Chương 2. NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI VÀ MỘT SỐ TÀI LIỆU TIẾNG ANH ·································································· 14 2.1. Cách mạng Anh (1640 - 1689) ················································· 14
2.1.1. Nội dung “Cách mạng Anh” trong giáo trình “Lịch sử Thế giới Cận đại” ································· 14 2.1.2. Nội dung “Cách mạng Anh” trong tài liệu “Holt World History: The Human Journey” ················ 17 2.1.3. Thảo luận ································································· 25 2.2. Cách mạng Hoa Kì (1775 - 1783) ·············································· 28
2.2.1. Nội dung “Cách mạng Hoa Kì” trong giáo trình “Lịch sử Thế giới Cận đại” ································ 28 2.2.2. Nội dung “Cách mạng Hoa Kì” trong tài liệu “A History of Western Society” và “Holt World History: The Human Journey” ································································ 29 2.2.3. Thảo luận ································································· 34 2.3. Cách mạng Pháp (1789 - 1799) ················································· 35
2.3.1. Nội dung “Cách mạng Pháp” trong giáo trình “Lịch sử Thế giới Cận đại” ································ 36
2.3.2. Nội dung “Cách mạng Pháp” trong tài liệu “A History of Western Society”, Bài giảng online của Giáo sư John Merriman “Lecture 6 - Maximilien Robespierre and the French Revolution” và “Holt World History: The Human Journey” ················································ 38 2.3.3. Thảo luận ································································· 49 Chương 3. GIÁ TRỊ CỦA VIỆC TIẾP CẬN NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” TỪ TÀI LIỆU TIẾNG ANH (XÉT Ở GÓC NHÌN CỦA VIỆC DẠY HỌC) ············································································ 51 3.1. Mở rộng nguồn dữ liệu nhận thức về nội dung “Cách mạng tư sản” ····· 51 3.2. Đề xuất cập nhật vào đề cương học phần “Lịch sử Thế giới Cận đại” ···· 53 3.3. Vận dụng những kiến thức mới vào dạy học Lịch sử tại trường Phổ thông ··································································· 64 KẾT LUẬN ············································································ 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO ·························································· 69 PHỤ LỤC ·············································································· 71
1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Lịch sử là một khoa học luôn chỉnh sửa lại mình trên cơ sở những phát hiện mới của khảo cổ, hoặc từ những tư liệu Lịch sử bị lãng quên, bị thất lạc, bị che giấu vì những lý do xã hội nào đó, tới nay mới có điều kiện lộ sáng.” [2, tr.5] Có lẽ vì thế mà khi một ấn phẩm mới được xuất bản chứa đựng sự bổ sung, cập nhật thông tin hoặc chỉ đơn thuần giới thiệu một cách tiếp cận mới, nêu một nhận định hay gợi ra một quan điểm nhận thức mới … luôn nhận được sự hân hoan đón nhận từ độc giả.
“Cách mạng tư sản” là một chủ đề quan trọng trong học phần Lịch sử Thế giới Cận đại dùng để giảng dạy sinh viên chuyên ngành Lịch sử (và những chuyên ngành lân cận) và cũng là nội dung trọng yếu trong chương trình môn Lịch sử hiện đang được áp dụng tại trường Phổ thông (và trong chương trình dự kiến ban hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Khi tiếp cận chủ đề này, không thỏa mãn với những nội dung được trình bày, không thuyết phục với những nhận định chưa logic của Giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại1, chúng tôi đã mở rộng việc tìm kiếm tài liệu, và nhận thấy: có khá nhiều tài liệu được viết bằng tiếng Anh2, tài liệu dịch (chủ yếu từ tiếng Anh, Pháp) được lưu hành trên Internet hay được xuất bản thành sách dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo… Trong giới hạn nội dung các cuộc cách mạng tư sản mà chúng tôi quan tâm, các tài liệu này hoặc là trình bày tròn vẹn nội dung một cuộc cách mạng, hoặc là trình bày một (hay một số) vấn đề liên quan đến các cuộc cách mạng, hoặc trình bày khái quát nội dung các cuộc cách mạng dưới dạng bài giảng, tài liệu giáo khoa … và điều đáng lưu ý là, các thông tin Lịch sử, và gắn với nó là các quan điểm, nhận định, cách tiếp cận …, được trình bày trong các tài liệu vừa nêu, với chúng tôi, là thuyết phục và rõ ràng. Từ đây, chúng tôi nghĩ rằng cần tiến hành một công trình nghiên cứu để tổng hợp và giới thiệu các thông tin, nhận định, quan điểm mới (trong đối tượng so sánh chủ yếu là Giáo trình) để mở rộng nguồn dữ liệu thông tin Lịch sử về chủ đề “Cách mạng tư sản”, từ đó, đề xuất cập nhật những nội dung mới vào đề cương học phần Lịch sử Thế giới Cận đại dùng trong việc giảng dạy sinh viên khoa Lịch sử - Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, cung cấp nguồn tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên và vận dụng vào dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông, đặc biệt là góp phần gợi ý cho các tác giả sách giáo khoa trong việc chuẩn bị biên soạn nội dung “Các cuộc cách mạng tư sản” theo chương trình dự kiến ban hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1 Chúng tôi đề cập đến 2 cuốn Giáo trình sau: [4] và [8] Tuy nhiên, cuốn Giáo trình chính mà chúng tôi sử dụng chủ yếu làm đối tượng so sánh trong Khóa luận này là [8], từ đây, xin gọi tắt là Giáo trình. 2 Chúng tôi giới hạn việc tìm kiếm bằng tiếng Anh vì đây là ngôn ngữ mà chúng tôi có thể sử dụng được.
2
Đề tài “TIẾP CẬN NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” TỪ MỘT SỐ TÀI LIỆU TIẾNG ANH” được thực hiện nhằm triển khai các ý tưởng, dự định nêu trên. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong không gian học thuật hiện nay, việc tiếp cận các vấn đề Lịch sử từ các nguồn tài liệu tiếng Anh đang trở nên rất phổ biến và đạt nhiều thành tựu. Điều này được thể hiện trong thư mục tham khảo của các công trình nghiên cứu và các tài liệu được dịch để xuất bản. Tuy nhiên, do hướng nghiên cứu của đề tài thuộc về một nội dung/chủ đề trong cấu tạo chương trình của một môn học trong không gian Đại học nên không có nhiều công trình được nghiên cứu theo hướng so sánh, giới thiệu các thông tin lịch sử, quan điểm, nhận định … Do vậy, để góp phần mang đến nhận thức chung về không gian các tài liệu được xuất bản bằng tiếng Việt có cùng hướng nghiên cứu với đề tài Khóa luận, chúng tôi sẽ trình bày một số ấn phẩm là bài giảng (được biên soạn dựa trên tài liệu tiếng Anh), sách (tiêu chí lựa chọn là có cách trình bày khác với Giáo trình về niên đại, phân kỳ Lịch sử…) và một vài tài liệu được dịch sang tiếng Việt.
Trong tập 2 của cuốn Lịch sử Thế giới (ấn bản năm 2000 của Nhà xuất bản Văn hóa), Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang đã có cách phân kỳ “Cận đại” và “Hiện đại” không giống với cách phân kỳ quen thuộc của các nhà Sử học Marxist. Theo đó, Cách mạng Anh, cách mạng Hoa Kỳ được trình bày trong chương 8. Cách mạng dân chủ ở Anh. Chế độ đại nghị thành lập và chương 12. Nước Huê Kỳ thành lập (cuốn 1); còn Cách mạng Pháp được chọn làm sự kiện mở đầu thời Hiện đại với Chương 1. Cách mạng Pháp năm 1789 (cuốn 2). Như vậy, cách phân kỳ của Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang khác với Giáo trình và tất nhiên, quan điểm nhận thức và nội dung trình bày các sự kiện cũng không giống mà cụm từ “Cách mạng dân chủ ở Anh” có thể xem là một thí dụ dễ thấy. Chủ yếu sử dụng các tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, năm 2005, trong Các bài giảng chuyên đề về Lịch sử các nước Tây Âu và Hoa Kỳ (Tập II), Lê Phụng Hoàng đã trình bày bài giảng “Nhìn lại một vài vấn đề cách mạng tư sản Anh trong thế kỷ XVII”. Chủ yếu xoay quanh hai vấn đề Ruộng đất và Chính quyền, với dung lượng hơn 100 trang sách, Lê Phụng Hoàng đã phản biện lại những luận điểm được trình bày trong Giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại của Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng với những lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục.
Được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt với sự giúp đỡ về tài chính của Phòng Thông tin - Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh niên đã ấn hành cuốn Khái quát về Lịch sử nước Mỹ (Outline of U.S. History - bản quyền thuộc Bureau of International Information Programs, U.S. Department of State). Hai chương: Chương 3. Chặng đường giành độc lập và Chương 4. Xây dựng một chính phủ quốc gia đã trình bày chi tiết diễn trình của
3 cuộc Cách mạng Hoa Kỳ từ lúc khởi đầu cho đến khi Tổng thống Washington nhậm chức (1789) và một vài sự kiện sau đó. Trong suốt phần trình bày sinh động, rõ ràng đó, chúng tôi đặc biệt ấn tượng với tiểu mục “Tầm quan trọng của cuộc Cách mạng Mỹ” vì nội dung này có ý nghĩa tổng kết giá trị của Cách mạng Hoa Kỳ như là một cuộc cách mạng vì tự do chứ không phải những lối mòn quen thuộc như cách Giáo trình nhận xét.
Đặng Thanh Tịnh đã xuất bản cuốn Lịch sử nước Pháp năm 2008. Tuy các tài liệu mà tác giả sử dụng để biên soạn được khai thác từ tiếng Việt và các ấn bản tiếng Hán nhưng chúng tôi vẫn xếp vào trong đề mục này vì khi khảo sát việc trình bày nội dung Cách mạng Pháp của tác giả trong Chương 3. Cuộc đại cách mạng Pháp 1789 và Đế chế Napoleon Bonaparte, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng về thông tin Lịch sử và cả một số nhận định với tài liệu Holt World History: The Human Journey.
Năm 2008, Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh đã tái bản cuốn Lược sử nước Anh của Bùi Đức Mãn. Tuy chưa có những kết luận mang tính nhận định về bản chất, đặc điểm của cách mạng Anh (do hạn chế dung lượng của cuốn sách và phù hợp với nhan đề “Lược sử”) qua các đề mục “Charles I và cuộc nội chiến”, “Cromwell: Nhà độc tài quân phiệt”, “James II - Cuộc cách mạng 1688” … thuộc 2 chương: Chương 9. Cuộc nội chiến và nên Cộng hòa và chương 10. Nền quân chủ Phục hưng, cùng nội dung trình bày, tài liệu tham khảo dùng cho việc biên soạn đã cho thấy cách tiếp cận vấn đề khác với Giáo trình và tương đồng với các tài liệu tiếng Anh mà chúng tôi có dịp tham khảo.
Các ấn phẩm nêu trên đã cho thấy những nỗ lực bổ sung, cập nhật thông tin, nhận định về nội dung “Cách mạng tư sản” từ nguồn tài liệu tiếng Anh là một xu thế đang được chấp nhận, lan tỏa trong cộng đồng học thuật. Tuy chưa có cùng đối tượng và phạm vi nghiên cứu với đề tài của Khóa luận để có một công trình giới thiệu về ba cuộc cách mạng nhưng sự tồn tại của những ấn phẩm nêu trên là những gợi ý trong tư duy, góp phần cung cấp các đối tượng làm cơ sở so sánh giữa nguồn tài liệu tiếng Anh tiếp cận được và Giáo trình cũng như tạo lập niềm tin đối với người thực hiện khóa luận. 3. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận được thực hiện nhằm các mục đích sau: 1. Giới thiệu các thông tin, nhận định, quan điểm mới được chúng tôi tiếp
cận được từ các tài liệu tiếng Anh.
2. So sánh thông tin, nhận định, quan điểm được trình bày trong Giáo trình và các tài liệu tiếng Anh, từ đó, thảo luận về tính cụ thể - rõ ràng của thông tin - sự kiện lịch sử, tính thỏa đáng, thuyết phục và nhận định cũng như quan điểm lịch sử.
3. Tạo lập nguồn tài liệu tham khảo cho những đối tượng quan tâm và có nhu
cầu sử dụng.
4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Theo quan điểm sử học Marxist, “Cách mạng tư sản” là khái niệm dùng để chỉ các cuộc cách mạng diễn ra trong thời kỳ Cận đại do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm mục tiêu cao nhất là xóa bỏ những cản trở của quan hệ sản xuất phong kiến đã lạc hậu để xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ quan niệm này, “Cách mạng tư sản” sẽ là các cuộc “Cách mạng Nêđéclan”, “Cách mạng tư sản Anh giữa thế kỉ XVII”, “Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ và sự thành lập nước Mĩ”, “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”… hay những cuộc các mạng khác tiếp tục diễn ra ở Pháp, Hoa Kỳ, các cuộc chiến tranh thống nhất Đức, Italia đều mang tính chất của cách mạng tư sản. Tuy nhiên, cụm từ “Nội dung “Cách mạng tư sản”” trong tên đề tài chỉ đề cập đến 3 cuộc cách mạng là: Cách mạng Anh (1640 - 1689), Cách mạng Hoa Kỳ (1775 - 1783), Cách mạng Pháp (1789 - 1799)3 cho phù hợp với giới hạn dung lượng của Khóa luận tốt nghiệp đại học. Chúng tôi xem đây là những trường hợp để minh họa hay gợi ý cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bậc học cao hơn hay không gian nghiên cứu khác.
Một số tài liệu tiếng Anh: chúng tôi chủ yếu tiếp cận 2 nguồn tài liệu: Bài giảng online của GS. John Merriman và Joanne Freeman tại Đại học Yale và một số tài liệu lưu hành trên internet dưới dạng sách giáo khoa (được trình bày cụ thể hơn ở đề mục “Nguồn tài liệu”).
Tiếp cận nội dung “Cách mạng tư sản” từ một số tài liệu tiếng Anh là sự trình bày, giới thiệu các thông tin, nhận định, quan điểm mới (trong đối tượng so sánh chủ yếu là Giáo trình) được chúng tôi tiếp cận được từ các tài liệu tiếng Anh nêu trên. 5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện Khóa luận, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp liên kết - so sánh và phương pháp nghiên cứu trường hợp (case - study).
Phương pháp Lịch sử và phương pháp logic: chúng tôi sẽ trình bày các sự kiện theo trình tự thời gian (lịch đại), trên cơ sở mô tả cụ thể các sự kiện lịch sử, chúng tôi sẽ trình bày những nhận định, quan điểm nhận thức về các vấn đề chính của các cuộc cách mạng, xem xét tính thỏa đáng của nhận định, quan điểm nhận thức đó trong mối quan hệ với các sự kiện và quá trình riêng biệt cũng như trình bày những nhận thức và quan điểm riêng.
Phương pháp liên kết - so sánh: chúng tôi tiếp cận nhiều tài liệu đề cập đến cùng một vấn đề, do vậy, thao tác tất yếu của tư duy là so sánh để tìm ra
3 Tùy thuộc vào các quan điểm khác nhau, các tài liệu không thống nhất về mốc thời gian của các cuộc cách mạng. Chúng tôi chọn lựa các mốc thời gian như đã trình bày vì cho rằng những sự kiện diễn ra ở thời điểm đó xứng đáng được xem là mốc mở đầu và kết thúc các cuộc cách mạng.
5 điểm giống và khác nhau, liên kết các thông tin trong tài liệu để xem xét tính thỏa đáng và thuyết phục, từ hai cơ sở này, chúng tôi đi đến việc chọn lựa tài liệu mà chúng tôi cho là có giá trị hơn hết để giới thiệu, trình bày trong khóa luận. Tất nhiên, việc tiếp cận các tài liệu tiếng Anh sẽ rất có giá trị cập nhật, bổ sung, điều chỉnh sự kiện - thông tin lịch sử, nhận định … khi đặt trong mối quan hệ so sánh với Giáo trình.
Để thực hiện Khóa luận, chúng tôi sử dụng các thông tin từ các bài giảng
Phương pháp nghiên cứu trường hợp: lựa chọn ba cuộc cách mạng: Cách mạng Anh (1640 - 1689), Cách mạng Hoa Kỳ (1775 - 1783), Cách mạng Pháp (1789 - 1799), chúng tôi xem đây là những trường hợp để minh họa hay gợi ý cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu cùng hướng nội dung “Cách mạng tư sản” ở những bậc học cao hơn hay không gian nghiên cứu khác. 6. Nguồn tài liệu online và các tài liệu giáo khoa tiếng Anh.
Bài giảng online của Giáo sư John Merriman và Joanne Freeman của Đại
học Yale, gồm:
1. Merriman, J. (Fall 2008). Lecture 5 - European Civilization, 1648 -
1945. 25 - 12 - 2017. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-202/lecture-5
2. Merriman, J. (Fall 2008). Lecture 6 - Maximilien Robespierre and the
French Revolution. 25 - 12 - 2017. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-202/lecture-6
3. Freeman, J. (Spring 2010). Lecture 2 - Being a British Colonist. 18 - 1
- 2018. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-116/lecture-2
4. Freeman, J. (Spring 2010). Lecture 12 - Civil War. 25 - 3 - 2018.
retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-116/lecture-12
Cuốn “Holt World History: The Human Journey” (bản online): ấn phẩm này trình bày nội dung “Cách mạng tư sản” qua các chủ đề sau: Chapter 20. 1550 - 1789 Enlightenment and Revolution in England and America và Chapter 21. 1789 - 1815 The French Revolution and Napoléon.
Cuốn “A History of Western Society” (bản in): ấn phẩm này đề cập nội dung “Cách mạng tư sản” qua các chủ đề: Chapter 16. Absolutism and Constitutionalism in Western Europe (ca 1589 - 1715) và Chapter 21. The Revolution in Politics 1775 - 1815.
Cuốn “World Studies: Medieval Times to Today” với chủ đề: Chapter 7. Changes in the Western World gồm 2 đề mục The Enlightenment và Political Revolutions.
6
Cuốn “World History: Patterns of interaction” đề cập qua các chủ đề: Chapter 22. 1550 - 1789 Enlightenment and Revolution với 2 tiểu mục The Scientific Revolution, The Enlightenment và Chapter 23. 1789 - 1815 The French Revolution va Napoléon với 2 tiểu mục The French Revolution Begins, Revolution Brings Reform and Terror.
Tất cả các tài liệu vừa nêu đều được tham khảo để thu nhận các thông tin về sự kiện Lịch sử, quan điểm và nhận định. Tuy nhiên, khi tiếp cận nội dung từng cuộc cách mạng, chúng tôi lựa chọn và trình bày dựa trên một hay một vài tài liệu mà chúng tôi cho rằng được trình bày kỹ lưỡng và có chất lượng cao hơn. 7. Đóng góp của đề tài
1. Giới thiệu các thông tin, nhận định, quan điểm mới được chúng tôi tiếp cận được từ các tài liệu tiếng Anh nêu trên. Chúng tôi rất quan tâm đến việc hiểu rõ (hay mức độ chi tiết, cụ thể) của sự kiện Lịch sử vì chỉ khi dựa trên sự hiểu biết này, tất nhiên kèm theo nguồn tư liệu vững chắc và đa dạng, thì những quan điểm, nhận định về các vấn đề quá khứ, trong trường hợp này là các cuộc “cách mạng tư sản”, mới đủ sức thuyết phục và nhận được nhiều sự chia sẻ từ cộng đồng học thuật, góp phần vào không gian rộng lớn, đa chiều của nhận thức lịch sử.
2. Cung cấp nguồn tài liệu tham khảo cho các tác giả chuẩn bị biên soạn sách giáo khoa cũng như cung cấp thêm dữ liệu để giảng viên phụ trách điều chỉnh, cập nhật vào đề cương học phần Lịch sử Thế giới Cận đại, nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động dạy và học của giáo viên Phổ thông và sinh viên chuyên ngành Lịch sử. 8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Khoá luận
gồm có 3 chương: Chương 1. Sự cần thiết của việc tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu khi tìm hiểu vấn đề Lịch sử
Khoa học là một khái niệm vừa đơn giản nhưng lại vừa phức tạp, và ngược lại, vì thế, đã khiến các nhà nghiên cứu phải trăn trở và suy nghĩ về nó. Trong thời kì “thế giới phẳng” như hiện nay, nếu chúng ta cứ tiếp thu một vấn đề theo lối mòn thì có lẽ khoa học nói chung và khoa học Lịch sử nói riêng chẳng còn mấy sức “quyến rũ”. Do vậy, việc “tiếp cận” nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu là một hoạt động cần thiết. Nội dung của chương này bao gồm 3 vấn đề: Lý do cần tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu, Cách thức để tiếp cận nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu, Sự cần thiết phải tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu đối với nội dung “Cách mạng tư sản”. Chương 2. Nội dung “Cách mạng tư sản” được trình bày trong Giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại và một số tài liệu tiếng Anh
7
Trong chương hai chúng tôi sẽ mở rộng tiếp cận nội dung “Cách mạng tư
sản” dựa trên các nguồn tài liệu sau: 1. Tài liệu giáo trình: Holt, Rinehart and Winston. (2005). Holt World History: The Human
McKay, J.P., J.P., Hill, B.D., & Buckler, J. (1999). A History of Western
Littlefield, H.W. (1965). History of Europe 1500 - 1848, New York:
2. Bài giảng online của Giáo sư John Merriman và Joanne Freeman của
Journey. Texas: Holt, Rinehart and Winston. Society. Boston, MA: Houghton Mifflin. Barnes & Noble Inc. Đại học Yale. Qua quá trình tiếp cận, cập nhật thông tin về Cách mạng Anh, Hoa Kì, Pháp từ các tài liệu tiếng Anh, bài giảng điện tử, chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu, thảo luận cũng như cập nhật và đưa ra quan điểm của cá nhân đối với từng vấn đề. Nội dung của chương này bao gồm 3 vấn đề: Cách mạng Anh (1640 - 1689), Cách mạng Hoa Kì (1775 - 1783) và Cách mạng Pháp (1789 - 1799). Chương 3. Giá trị của việc tiếp cận nội dung “Cách mạng tư sản” từ tài liệu tiếng Anh (xét ở góc nhìn của việc dạy học)
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày tính ứng dụng của Khoá luận trong việc dạy học, thể hiện qua các đề mục: (1) Mở rộng nguồn dữ liệu nhận thức về nội dung “Cách mạng tư sản”, (2) Đề xuất cập nhật vào đề cương học phần “Lịch sử Thế giới Cận đại”, (3) Vận dụng những kiến thức mới vào dạy học Lịch sử tại trường Phổ thông.
8 Chương 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TIẾP CẬN ĐA DẠNG CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU KHI TÌM HIỂU VẤN ĐỀ LỊCH SỬ
Khoa học là một khái niệm vừa đơn giản nhưng lại vừa phức tạp, và ngược lại, vì thế, đã khiến các nhà nghiên cứu phải trăn trở và suy nghĩ về nó. Trong thời kì “thế giới phẳng” như hiện nay, nếu chúng ta cứ tiếp thu một vấn đề theo lối mòn thì có lẽ khoa học nói chung và khoa học Lịch sử nói riêng chẳng còn mấy sức “quyến rũ”. Do vậy, việc “tiếp cận” nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu là một hoạt động cần thiết. 1.1. Lý do cần tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu
Nhà sử học nổi tiếng Edward Hallett Carr đã từng nói, sử học “là cuộc đối thoại không bao giờ dứt giữa hiện tại và quá khứ” [22]. Người nghiên cứu cũng như học tập Lịch sử luôn tìm cách đối thoại với quá khứ theo những hướng khác nhau. Nếu như nghiên cứu và học tập Lịch sử chỉ giới hạn, hướng mình trong những phương thức tiếp cận nhất định thì cũng chỉ là việc sưu tầm, học tập từ một số nguồn dữ liệu mà thôi.
Trái lại, nếu như mạnh dạn tiếp nhận và vận dụng những phương pháp cũng như sưu tầm được nhiều nguồn sử liệu thì vấn đề sẽ càng hấp dẫn và thu hút. Khoa học Lịch sử cần và rất cần phải có sự tiếp cận cũng như cách thức tiếp cận cụ thể như đa diện (multidimension) và đa chiều (multi - perspective) để có thể hiểu rõ bản chất và lý giải những vấn đề logic hơn, thoả đáng hơn nhằm tăng tính thuyết phục. Thực tế cho thấy, sinh viên khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm còn thiếu hụt kiến thức về nội dung “Cách mạng tư sản”. Đây là một vấn đề không hề đơn giản vì thế để hiểu thấu đáo đòi hỏi người học cần phải tiếp cận nhiều quan điểm, khai thác nhiều nguồn tài liệu … Nếu như cứ tiếp cận theo hướng một chiều, cũng như giáo điều, thì sẽ không thể giúp người học xây dựng cơ sở, nền tảng vững chắc để có thể hiểu đúng bản chất của “Cách mạng tư sản” trong tiến trình Lịch sử Thế giới thời Cận đại.
Trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin, mọi người đều có thể truy cập những thông tin cần thiết về những vấn đề quan tâm. Chỉ cần gõ vào từ khoá “American Revolution” vào giao diện Google, thì rất nhanh, màn hình sẽ hiển thị trên 7 triệu kết quả có liên quan. Trong số hàng ngàn trang tài liệu đó có những chuyên khảo, báo cáo, bài giảng online, của các đại học lớn tại Hoa Kì, sách, mẩu tin ngắn … Trong tình hình đó, vấn đề đặt ra đối với công tác nghiên cứu cũng như giảng dạy là không thể hạn chế hay bưng bít thông tin, mà phải ra sức nghiên cứu cũng như tìm hiểu cơ sở của các nhận định khoa học, đề xuất những phương pháp xử lý thông tin thích hợp.
Khoa học sẽ không bao giờ tỏ ra lỗi thời và nhàm chán, nếu như chúng ta những người nghiên cứu luôn biết cách làm mới nó sao cho phù hợp với xu thế cũng như tư duy của thời đại. Ngoài ra, khoa học bên ngoài chúng ta là sự vận động không ngừng nhưng nếu người nghiên cứu cứ với tư tưởng “bế quan toả cảng” trong khoa học với nhiều lí do như không hợp với góc nhìn, không phù hợp với tư duy,… thì có lẽ khoa học sẽ ngày càng lạc hậu và trở nên khô cằn.
9
Khoa học nói chung và khoa học Lịch sử nói riêng, việc tiếp cận là một vấn đề mang tính sống còn, bởi lẽ qua tiếp cận hàng loạt những vấn đề sẽ được thay đổi sắc màu, những hoài nghi luận được đặt ra góp phần để khoa học phải vận động và vận động không ngừng. Khoa học sẽ không bao giờ có điểm dừng và thế giới sẽ bước vào thời kì u tối nếu như không có khoa học. Chính khi bắt đầu có khoa học cũng là lúc thế giới bắt đầu bước vào thời kì ánh sáng, thời kì mà trí tuệ con người bắt đầu được nâng lên những tầm cao mới.
Ở mỗi quốc gia, việc tiếp cận một vấn đề, có thể nói, hoàn toàn khác nhau và sự khác nhau đó do nhiều yếu tố tác động. Tuy nhiên, trong khoa học nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung, khi sự tự do trong tư duy càng mở rộng thì vấn đề càng sáng tỏ; nếu như sự tự do càng nẩy nở và không có cực đại nhất định thì đó sẽ là điều kiện hết sức cần thiết để khoa học có thể nhảy múa và định hình đúng như bản chất của nó chứ không như sự định hình, mà ở đó chịu nhiều tác động định kiến, để rồi sau khi định hình thì kiến thức khoa học lại phải tiếp tục đục đẽo và sửa mình.
Khoa học Lịch sử là sự phục dựng quá khứ dựa trên những sử liệu gốc và góc nhìn cũng như cách lập luận của cá nhân người nghiên cứu. Khoa học là sự kế thừa, vì thế, qua các thời kì, hàng loạt những công trình ra đời xoay quanh vấn đề thì cốt lõi vấn đề chỉ là thế nên sẽ không còn tính hấp dẫn đối với người nghiên cứu và độc giả. Vì thế, tiếp cận mang tính chất cập nhật trong khoa học là việc hết sức cần thiết mang tính sống còn của khoa học Lịch sử, đồng thời sự tiếp nhận góc nhìn của sử gia phương Tây sẽ là cơ sở để bàn luận, thay đổi, mở rộng hay bổ khuyết những thiếu sót trong nghiên cứu của cá nhân và cộng đồng khoa học.
Nếu như khoa học cứ theo một đường mòn thì sự nghiên cứu về sau sẽ là vô ích. Qua đó, cho thấy việc tiếp cận là vấn đề mang tầm cao mới là sự tận dụng mọi phương tiện vào việc nghiên cứu. Xét ở góc độ xoay quanh vấn đề “Cách mạng tư sản”, nếu như cứ khu biệt xoay quanh các giáo trình nội bộ trong nước thì có lẽ tư duy về vấn đề “Cách mạng tư sản” cũng chẳng có gì mới mẻ. Khoa học phải vận động và thế hệ đi sau phải có những góc nhìn mới mang tính đột phá và kèm theo là sự thừa hưởng những thành quả đi trước để làm nền chứ không là kim chỉ nam bởi lẽ nếu như dựa vào những kết quả đi trước để viết về vấn đề đi trước thì chắc cũng chẳng có gì hấp dẫn.
Khoa học Lịch sử - phải mở rộng cách tiếp cận đi thì hơn! Việc tiếp cận sẽ bổ sung cũng như cập nhật những thông tin có giá trị giúp khoa học Lịch sử thêm phong phú và hấp dẫn người nghiên cứu cũng như bắt kịp sự vận động khoa học từ bên ngoài. Ngoài ra, thông qua quá trình tiếp cận người nghiên cứu sẽ có cơ sở so sánh cũng như đánh giá được khả năng nhận thức vấn đề cũng như góc nhìn của của bản thân về một vấn đề.
Chính thể của quốc gia hoặc rộng hơn là toàn cầu sẽ phủ cả màu đen nếu như tất cả những bộ óc dừng hoạt động - cảnh tượng mà chúng ta đều không dám nghĩ đến. Do vậy, thế giới này cần có những bộ óc vượt thời đại để khoa học tiến bước vào thời kì hoàng kim đến rực sáng vì tư duy rộng mở thoát ly mọi định kiến sẽ rưới những tinh hoa, tiếp tục đưa khoa học tiến bước vào những không gian mới ở tương lai.
10
Có thể nói, khoa học mang tính chất của chính thể và chính thể này được xem là remote điều khiển tư duy, cách tiếp cận vấn đề của những nhà khoa học, người nghiên cứu,… Nhận thấy được vấn đề, và đặc biệt trong thời đại “thế giới phẳng” như ngày nay, việc “tung - hứng” những vấn đề khoa học trong nội bộ xét cùng đã lạc hậu, việc dựa vào thành quả đi trước để làm bệ đỡ, la bàn cho bước đi sau thật đáng trách bởi nếu như tư duy về một vấn đề cứ xoay quanh nội bộ thì mãi đến sau này vấn đề cũng chỉ được phản chiếu với một màu sắc. Thế giới đang chuyển mình bước vào thời đại mới - thời đại hội nhập, giao lưu cũng như học tập và tiếp nhận nền khoa học của nhau. Khi những cánh cửa khoa học trên thế giới sẵn sàng mở ra, với vai trò là người nghiên cứu, học tập Lịch sử, chúng ta hãy mạnh dạn bước vào “thế giới mới”, để tìm ra những điều hấp dẫn về Lịch sử. Khi bước vào “thế giới mới”, chúng ta sẽ được tiếp nhận cũng như dễ dàng tiếp cận các công trình nghiên cứu khác nhau của nhiều nước, nhiều sử gia nổi tiếng với nhiều góc nhìn, và do đó, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội được tiếp cận vấn đề mà chúng ta quan tâm. 1.2. Cách thức để tiếp cận nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu Trước hết, việc tiếp cận phải mang tính khách quan, mang tính phát triển, tính sáng tạo. Trong một thế giới đang thay đổi qua từng nhịp thở, những cách tiếp cận vấn đề mang tính giáo điều, cứng nhắc, duy ý chí cũng như sự chậm trễ trong chuyển đổi sẽ không thể đem lại kết quả mong muốn, thậm chí còn phản tác dụng. Vấn đề đặt ra đối với người nghiên cứu và học tập cũng như giảng dạy về vấn đề Lịch sử là cần phải dựa nền tảng lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin, căn cứ vào tình hình hình thực tiễn để đưa ra những phân tích phù hợp với thực tế khách quan. Tuy nhiên, cả Marx cũng như Lenin không thể gánh vác được nhiệm vụ đưa ra câu trả lời sẵn cho những vấn đề nảy sinh sau khi các ông qua đời 50 năm, 100 năm hay nhiều thế hệ nữa. Nhiệm vụ đặt ra cho các thế hệ hậu sinh là phải tìm những cách tiếp cận mới để nhận thức và lý giải các vấn đề trên cơ sở nền tảng phương pháp luận của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lenin, đó là quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể - hệ quả phương pháp luận của hai nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Bản thân các nhà kinh điển cũng không coi lý thuyết của chính mình như một cái gì đó hoàn thiện, bất biến mà luôn đòi hỏi có sự bổ sung, vận dụng và phát triển sáng tạo trong những điều kiện Lịch sử cụ thể. Bởi lẽ, “mọi lý thuyết đều màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi” (Goethe) và chính các nhà lý luận cũng không bao giờ coi học thuyết của mình là những câu trả lời vạn năng cho mọi tình huống xuất hiện trong thực tiễn nghiên cứu khoa học.
Trong thời kì đổi mới tư duy khoa học cùng với bầu không khí dân chủ trong khoa học đã ngày càng thể hiện rõ, sự can thiệp của “bàn tay quản lý hành chính” vào phân xử đúng sai trong khoa học không còn thô bạo nữa “các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta nói chung đã không cấm đoán, trừng trị và cũng ít gây khó khăn ngăn cản sáng kiến…” [10, tr.17]. Vì thế, đã tạo mọi điều kiện để người nghiên cứu có thể thể hiện được tư duy sáng tạo cũng như mạnh dạn cập nhật góc nhìn từ các sử gia phương Tây.
11
Tiếp cận là một khái niệm khá trừu tượng mà cho phép mỗi chúng ta có thể đưa ra một vài dòng chữ miễn phù hợp và hợp lí. Theo chúng tôi, “tiếp” trong “tiếp cận” nghĩa là tiếp thu thông tin khoa học kịp thời và chuẩn xác nhất còn “cận” trong “tiếp cận” là sự giới hạn “tiệm cận” nghĩa là “cận” chính là ranh giới phân chia đặc tính khoa học của người nghiên cứu này với người nghiên cứu khác, trường phái nghiên cứu này với trường phái nghiên cứu khác, quốc gia này với quốc gia khác. Chính bản thân từ “tiếp cận” đã tạo nên muôn màu khái niệm. Nhưng từ lý thuyết đến thực tiễn lại càng khó khăn hơn nhiều lần nếu như nhà nghiên cứu hoàn toàn không có chuyên môn sâu về vấn đề tiếp cận thì đó là một điều rất nguy hiểm. Bởi lẽ, như đã nói, trong trong thời đại thông tin lan tràn như ngày nay đó là một ích lợi trong công tác nghiên cứu nhưng nếu người chập chững mới bước chân vào khoa học thì sẽ khó thở trước nhiều nguồn thông tin trên các trang mạng xã hội về một vấn đề nhất định. Trong thời đại đại bùng nổ thông tin như ngày nay việc tiếp cận một vấn đề thông qua các kênh tư liệu Âu - Mĩ là một điều không hề khó nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải tiếp cận có chọn lọc và trên hết là phải phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng tiếp cận tư liệu.
Thông qua quá trình cập nhật, phân tích, nghiên cứu các tư liệu, giáo trình và các bài giảng online cập nhật từ các trường Đại học như Đại học Yale,… Chúng tôi, sẽ có cơ sở cũng như nền tảng để đối chiếu cũng như thảo luận một số vấn đề. Đó thực sự là một việc làm không đơn giản đòi hỏi người nghiên cứu phải hiểu rõ, thấu đáo vấn đề và quan trọng hơn là đặt vấn đề đúng vào thời điểm mà nó xuất hiện. Qua quá trình tiếp cận, chúng tôi sẽ thảo luận cũng như góp phần nêu lên nhận định bản thân về vấn đề từ đó góp thêm một góc nhìn khách quan. Ngoài ra, thông qua quá trình tiếp cận chúng tôi sẽ có cơ sở cũng như tiếp thu được nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh một vấn đề Lịch sử. Song, trong quá trình tiếp cận chúng tôi cũng tìm hiểu một cách cẩn trọng và suy nghĩ thấu đáo về vấn đề để khi đưa ra những kết luận sẽ có giá trị và như một đóng góp nhỏ cũng như góc nhìn cá nhân đối với vấn đề. Trong quá trình tiếp cận đôi khi chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng bởi những thông tin tiếp cận được đồng thời chúng tôi cũng không vội kết luận đúng hoặc sai. Bởi chúng tôi cho rằng, trong khoa học không có kết luận nào là đúng hay sai mà chỉ có lập luận đủ sức thuyết phục hay chưa mà thôi. Và khoa học sẽ chết đi nếu tại thời điểm đó tác giả cho rằng vấn đề là đúng hoàn toàn hoặc sai hoàn toàn, vì nếu đúng hoặc sai thì xem như quá rõ ràng đâu cần người nghiên cứu phải tiếp tục. Vì khoa học ngày càng tiến bộ và những thông tin có giá trị ngày càng được cập nhật cũng như được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau qua nhiều kênh khác nhau. Và bản thân người nghiên cứu phải cập nhật cũng như tập hợp nhanh chóng và nghiên cứu một cách cẩn trọng và đưa ra những nhận định cá nhân cũng như góp thêm một góc nhìn mới, nhận định riêng của bản thân về vấn đề. Tri thức khoa học là loại tri thức có thể sai hoặc đúng và thậm chí nó có thể sai hoặc đúng trong những trường hợp nhất định. Quá trình tiếp cận cũng như nghiên cứu là quá trình vô hạn để đi đến một chân lí khách quan. Trong quá trình tiếp cận, việc diễn ra va chạm giữa đúng và sai là vấn đề tất yếu và người nghiên cứu có quyền mắc sai lầm nhưng cũng đồng thời có trách nhiệm tiếp tục nghiên cứu nhằm sửa chữa, có trách nhiệm thay thế một quan
12 điểm nhiều sai lầm này bằng một quan niệm ít sai lầm hơn và cứ thế tiến gần đến chân lý. Như vậy, việc tiếp cận các nguồn tại liệu nghiên cứu đa dạng phải diễn ra với một tư duy rộng mở để sẵn lòng đón nhận những quan điểm không giống mình; một tư duy phê phán để phán xét độ tin cậy của thông tin và tính thuyết phục của nhận định; một tư duy phát triển, sáng tạo để có thể tạo ra những cái mới mang dấu ấn cá nhân - thành tựu trong nghiên cứu. Và hơn tất cả để khoa học đạt được những thành quả nhất định đòi hỏi nó phải được nghiên cứu một cách độc lập vì mọi sự ràng buộc sẽ khiến khoa học ngày càng lạc hậu, xơ cứng, do vậy mất đi tính hấp dẫn. 1.3. Sự cần thiết phải tiếp cận đa dạng các tài liệu nghiên cứu đối với nội dung “Cách mạng tư sản”
Trong chương trình Lịch sử Thế giới Cận Hiện đại ở các trường đại học, Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản từ thế kỉ XV đến thế kỉ XX chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận một sự thật là, chủ nghĩa tư bản hiện đại là một hệ thống ngày càng mang tính toàn cầu. Nhìn lại lịch sử có thể thấy chủ nghĩa tư bản đã mang tính thế giới kể từ sau khi các cuộc cách mạng tư sản hoàn thành và chủ nghĩa tư bản xác lập ở châu Âu và Bắc Mĩ. Qua đó, cho thấy việc tìm hiểu cũng như cập nhật tư liệu về vấn đề “Cách mạng tư sản” là một việc làm nhằm tiếp tục góp phần vào sự phục dựng lại quá trình ra đời của hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Có thể thấy một thực trạng khá phổ biến là cách tiếp cận đơn chiều trong công tác giảng dạy Lịch sử về vấn đề “Cách mạng tư sản”. Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài, công tác giảng dạy Lịch sử thế giới ở các trường đại học Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ hệ thống học thuật của Liên Xô về cả nội dung và phương pháp giảng dạy. Việc giảng dạy vấn đề “Cách mạng tư sản” không nằm ngoài thực trạng này. Dù rằng đội ngũ các chuyên gia, các nhà nghiên cứu đã đầu tư nhiều công sức để biên soạn lại hệ thống giáo trình, sách giáo khoa về Lịch sử thế giới, tuy nhiên chúng ta vẫn còn thấy đâu đó, trong một số giáo trình, sách giáo khoa những quan điểm giáo điều, cứng nhắc, thiếu sức thuyết phục hoặc chưa đồng bộ về một số vấn đề. Đồng thời, sinh viên còn thiếu độ sâu khi nhận thức về “Cách mạng tư sản” cũng như cảm thấy khó khăn trước những thông tin tản mạn. Tình hình đó đòi hỏi chúng tôi cố sức tiếp cận thêm các tài liệu để thoả mãn nhu cầu nhận thức quá khứ và phục vụ trong cho công tác dạy học. Thêm nữa, qua việc mở rộng hướng tiếp cận sẽ cung cấp một góc nhìn mới về Lịch sử cũng như cách thức thể hiện, trình bày một vấn đề về khoa học Lịch sử từ các học giả phương Tây. Từ đó, tạo nên cơ sở để có thể so sánh cũng như đối chiếu về phương thức và phương pháp học tập cũng như nghiên cứu Lịch sử. Tiếp cận là vấn đề cấp thiết và cần thiết trong khoa học Lịch sử. Vì ở mỗi chính thể khác nhau thì vấn đề sẽ được tiếp thu và cập nhật cũng như thể hiện ở mức độ khác nhau. Suy cho cùng, việc tiếp cận cũng chỉ hướng đến góp phần để vấn đề thêm sáng tỏ cũng như tạo nên sức hấp dẫn của vấn đề. Nội dung “Cách mạng tư sản” cho đến nay vẫn còn nhiều bất đồng, bởi lẽ sự bất đồng trong khoa học cũng chỉ sinh ra từ góc nhìn khác nhau. Vì thế, việc tiếp cận những tài liệu cũng như những bài giảng
13 đáng tin cậy từ các trường Đại học lớn tại Hoa Kì như góp thêm một nguồn tài liệu, sự biện luận nhằm làm sáng rõ những vấn đề còn hoài nghi. “Cách mạng tư sản” theo các sử gia phương Tây và dưới góc nhìn của họ khi so sánh và đối chiếu với góc nhìn cũng như cách tiếp cận với các tài liệu lưu hành như Giáo trình hiện đang được sử dụng tại các trường đại học trong nước quả thật có những bất đồng cũng như cách lập luận và đi đến kết luận không đồng nhất. Vì thế, việc tiếp cận sẽ góp phần đi sâu hơn cũng như có cái nhìn mang tính toàn diện, rộng mở hơn trong đánh giá các cuộc cách mạng. mạng tư sản” là một việc làm hết sức cần thiết trong tình hình dạy học hiện nay.
Như vậy, theo chúng tôi, việc mở rộng hướng tiếp cận về nội dung “Cách
14 Chương 2. NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI VÀ MỘT SỐ TÀI LIỆU TIẾNG ANH
Trong chương hai chúng tôi sẽ mở rộng tiếp cận nội dung “Cách mạng tư
sản” dựa trên các nguồn tài liệu sau: 1. Tài liệu giáo trình: Holt, Rinehart and Winston. (2005). Holt World History: The Human
McKay, J.P., J.P., Hill, B.D., & Buckler, J. (1999). A History of Western
Littlefield, H.W. (1965). History of Europe 1500 - 1848, New York:
2. Bài giảng online của Giáo sư John Merriman và Joanne Freeman của
Cách mạng Anh là cuộc cách mạng thứ hai trên thế gới sau cách mạng Hà Lan
Journey. Texas: Holt, Rinehart and Winston. Society. Boston, MA: Houghton Mifflin. Barnes & Noble Inc. Đại học Yale. Qua quá trình tiếp cận, cập nhật thông tin về Cách mạng Anh, Hoa Kì, Pháp từ các tài liệu tiếng Anh, bài giảng điện tử, chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu, thảo luận cũng như cập nhật và đưa ra quan điểm của cá nhân đối với từng vấn đề. 2.1. Cách mạng Anh (1640 - 1689) thế kỉ XVI. Chúng tôi dựa trên:
(1) Giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại của tác giả Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng, được sử dụng giảng dạy Học phần Lịch sử Thế giới Cận đại để điểm lại sơ nét về cách mạng Anh.
(2) Holt World History: The Human Journey, là tài liệu chính phục vụ cho
Với 10 trang đầu bàn về nguyên nhân, tác giả đề cập đến những tiền đề về xã
công tác tiếp cận của chúng tôi đối với cuộc cách mạng Anh. 2.1.1. Nội dung “Cách mạng Anh” trong giáo trình “Lịch sử Thế giới Cận đại” Bất kỳ một lĩnh vực khoa học nào đều có những nguyên tắc riêng của nó. Khoa học Lịch sử cũng thế, để đi đến hai từ gọi là cách mạng chắc hẳn phải có nguyên nhân, diễn biết, và kết quả. Theo giáo trình, tác giả đã giành 22 trang để trình bày về cách mạng Anh. Trong đó, 10 trang đề cập về nguyên nhân, 10 trang về tiến trình cách mạng, và 2 trang để bàn về kết quả cũng như những đánh giá của tác giả. hội cũng như tư tưởng để dẫn đến cách mạng và sự phân bố giai cấp trong xã hội.
Đại ý về nguyên nhân, tôi xin tóm tắt như sau: đến thế kỉ XVI, công thương nghiệp Anh bắt đầu khởi sắc, thời kỳ huy hoàng công thương bắt đầu với những biến đổi. “…công nghiệp chế biến len tăng lên mạnh mẽ và nước Anh trở thành nước cung cấp hoàng hoá bằng len cho các thị trường bên ngoài” [8, tr.9], nhưng “…do sự phát triển củ công nghiệp len dạ ngày càng mạnh, nên nghề nuôi cừu trở thành nghề có lợi nhất. Địa chủ không thoả mãn với địa tô thu được của nông dân nên đều tăng nguồn
15 thu nhập riêng bằng cách tước đoạt ruộng đất mà nông dân đang cày cấy … biến thành đồng cỏ chăn cừu …” [8, tr.11]. Qua hai trích dẫn trên, phản ánh rằng chính thời kỳ huy hoàng công thương ở các thành thị tráng lệ đã kéo theo sự thay đổi tang thương ở các vùng nông thôn với hiện tượng được biết đến là “Nạn rào đất cướp ruộng” [11, tr.309], hiện tượng trên được xem là quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tàn bạo ở nước Anh với hiện tượng “cừu ăn thịt người”. Nền chính trị Anh cũng chứa đựng những mâu thuẫn vì “…đến đầu thế kỉ XVII, giữa vua và nghị viện,…luôn có sự xung đột gay gắt…” [8, tr.17]. Với những mâu thuẫn kinh tế, xã hội, chính trị,… được tác giả phân tích khá thận trọng và khi mâu thuẫn không thể giải quyết theo chiều hướng hoà giải thì ắt nó phải được giải quyết trong một bầu không khí đầy tang thương.
4 Trong bài giảng thuộc học phần Lịch sử Thế giới Cổ Trung đại, TS. Hà Bích Liên xác định các đặc điểm chung của nền cộng hoà là: + Một chính thể không vua. + Tội nặng nhất đó là chuyên quyền. + Quyền lực có được thông qua bầu cử.
Trong tiến trình cách mạng Anh, tác giả trình bày theo trình tự như sau: (1) Cuộc nội chiến lần thứ nhất (1642 - 1646): Ban đầu chỉ đơn giản là cuộc tranh quyết giữa nhà vua và nghị viện, nhưng trong không khí của sự thù hận và phẫn uất các đội dân binh ở Luân Đôn cũng đứng lên cầm vũ khí. Trong giai đoạn này, một nhân vật xuất hiện với uy thế nổi bật đó là Oliver Cromwell, với những chủ trương đánh vào tinh thần người dân đã giúp ông có trong tay một đạo quân đủ mạnh để chống lại kẻ thù và đã đưa cuộc nội chiến sang một giai đoạn mới. Oliver Cromwell là một trong những lãnh tụ của phái Độc lập “Phái Độc lập vốn đại diện cho quyền lợi của tầng lớp quý tộc mới và tư sản loại nhỏ và vừa nên căn bản đối lập với yêu cầu của quần chúng.” [8, tr.21] (2) Phong trào phái San bằng: “Phái San bằng đại biểu lợi ích cho đông đảo nhân dân là nông dân, thợ thủ công và tiểu tư sản” [8, tr.21]. Phái San bằng muốn đưa cách mạng tiến xa nhưng phái Độc lập sau khi nắm được thành quả thì với họ sự nghiệp cách mạng đã chấm dứt. Vì thế, tất yếu cuộc đấu tranh diễn ra giữa phái San bằng và phái Độc lập, thực chất là cuộc tranh đấu giữa tầng lớp tư sản và quý tộc mới với quần chúng nhân dân. (3) Cuộc nội chiến lần thứ hai (1648) và bản án tử hình Charles I: Trong lúc phái Trưởng lão “chủ trương thoả hiệp với vua, coi chiến tranh là phương tiện để buộc vua phải nhượng bộ một số quyền lợi” [8, tr.19] cùng với phái Độc lập tìm cách thương lượng để buộc nhà vua phải công nhận chính quyền nhưng Charles I vẫn muốn bảo vệ nền quân chủ chuyên chế. Trước kẻ thù chung là chính quyền phong kiến đại diện Charles I, phái Trưởng lão và Độc lập đã liên kết lại với nhau. Cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ và kết thúc bằng việc nhà vua bị bắt. Với sự phán xét bởi Nghị viện ngày 30 - 1 - 1649 Charles I lên ngọn đầu đài “trước sự reo hò của đông đảo quần chúng” [8, tr.22]. (4) Chế độ Cộng hoà4 và những phong trào cuối cùng của phái San bằng: Sau khi xử tử nhà vua, ngày 19 - 5 - 1649, nền cộng hoà được chính thức tuyên bố.
16 “Tầng lớp sĩ quan trong quân đội, đứng đầu là Crômoen, nắm những chức vụ quan trọng” [8, tr.23]. “Tình hình kinh tế dưới chế độ cộng hoà không sáng sủa gì hơn mà trái lại, ngày càng trầm trọng” [8, tr.23]. Phái Độc lập không hề thực hiện bất cứ yêu sách nào trong “Bản thoả ước nhân dân” - do phái San bằng thảo ra và đến 1647 họ vẫn không quan tâm đến vua và nghị viện, cái họ cần là dân chủ và các thứ thuế đè nặng họ, nhưng “Bản thoả ước nhân dân” không hề đề cập đến vấn đề ruộng đất. Và việc phái Độc lập không thi hành “Bản thoả ước nhân dân” đã khiến người dân xem đây là “xiềng xích mới” của họ và họ phải tiếp tục đấu tranh. Nhưng dưới sự đàn áp khốc liệt của Cromwell, phái San bằng tan rã hoàn toàn. (5) Phong trào của những người “Đào đất”: Phong trào được sự ủng hộ của quần chúng vì hướng đến cái mà quần chúng nhân dân cần đó là đất đai. Phong trào diễn ra theo chiều hướng ôn hoà “Bằng tình yêu và lòng kiên nhẫn, chúng ta sẽ thắng” [8, tr.24]. Tuy nhiên, cương lĩnh của họ là mối nguy cho những người hữu sản vì họ tuyên bố “Đất đai chẳng thuộc về ai cả, hãy làm chung và ăn chung”. Vì thế giai cấp tư sản và những phe cánh của họ xem phong trào mang tính ôn hoà này sẽ là mối nguy nên họ dùng vũ lực đàn áp khiến phong trào tan rã. (6) Cuộc chiến tranh xâm lược Ireland, Scotland và sự tan vỡ của nền Cộng hoà: Cromwell tiến hành xâm lược Ireland, Scotland và đạt được những thành quả nhất định. Trên cơ sở lực lượng lớn mạnh Anh phát động chiến tranh chống lại Hà Lan kẻ thù trên mặt biển và kết thúc với sự thắng lợi. Cromwell đã dùng quân đội giải tán “Nghị viện Dài”, đó là đòn tấn công vào nền cộng hoà và triệu tập “Nghị viện Nhỏ” nhưng cũng tiến hành giải tán sau đó, thực chất là thanh toán nền cộng hoà ở Anh. (7) Chế độ bảo hộ độc tài của Cromwell (1653 - 1658): Đề ngăn cản phong trào quần chúng, giai cấp tư sản và quý tộc mới sẵn sàng thủ tiêu nền cộng hoà và Cromwell trở thành “Nhà bảo hộ” độc tài. Trong khi đó, làn sóng căm phẫn trong quần chúng nhân dân ngày càng dâng cao và cuộc chiến với Tây Ban Nha tuy thắng nhưng chiến phí bỏ ra không đấp vào đâu, cùng với hàng loạt khủng hoảng bắt đầu. Trước tình hình đó, sức mạnh của chính quyền bảo hộ không còn vững chắc, đại tư sản và quý tộc tìm cách khôi phục chế độ quân chủ. Sau khi Cromwell chết, con trai là Richard kế nghiệp nhưng không giải quyết được khó khăn vì thế đã bị tước danh hiệu Bảo hộ của Richard đồng thời cũng chấm dứt thời kỳ độc tài do Cromwell lập nên. (8) Sự phục hồi triều đại Schiua và chính sách phản động của nó: Trong thời kỳ Richard thống trị, mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Cuối cùng, chế độ quân chủ được phục hồi và Charles II đang lưu vong trở về lên ngôi. Sau đó, James II kế nhiệm nhưng cả Charles II và James II với những chính sách của mình đã ảnh hưởng đến tài sản cũng như quyền của giai cấp tư sản và quý tộc. Vì thế một lần nữa, họ tìm cách lật đổ James II và tìm một nền quân chủ khác để đảm bảo lợi ích của họ. (9) Cuộc chính biến 1688 và những hậu quả của nó: Người thay thế James II là William of Orange, thống đốc Hà Lan nhưng ông là con rể James II nên có thể danh chính mà thay thế ngôi. Năm 1688, William of Orange cùng quân lính đổ bộ vào Anh và tiến về Luân Đôn. James II bị cô lập, trốn sang Pháp. William of Orange lên ngôi, lấy danh là William III. Để đảm bảo quyền lợi của giai cấp tư sản và quý tộc, Nghị
17 viện thông qua “đạo luật về quyền hành”. Theo đó, nhà vua không có quyền duy trì hay bãi bỏ luật, đặt thuế,… khi chưa có sự đồng ý của nghị viện. Như vậy quyền của nhà vua bị thu hẹp, quyết định nhà vua có hiệu lực khi có chữ kí của thủ tướng và các bộ trưởng thi hành nghị quyết của Nghị viện cũng như chịu trách nhiệm trước Nghị viện chứ không phải trước nhà vua. Những quy định đó, nhằm ngăn chặn phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế và chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến.
Cuối cùng, tác giả giành 2 trang và đưa ra ba kết luận, đại ý như sau: (1) Cách mạng Anh đã phá tan nền quân chủ phong kiến. Với lực lượng quần chúng, nó đã đập tan nền quân chủ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất mới phát triển.
(2) Cách mạng Anh tiến hành bởi sự liên minh giai cấp tư sản và quý tộc. Tuy có nguồn gốc khác nhau nhưng vì có chung kẻ thù là chế độ phong kiến nên buộc họ phải liên minh lại với nhau. “Cromwell, con người có vai trò lớn lao trong những ngày đầu cách mạng, chính là nét tượng trưng của sự liên minh đó” [8, tr.29]. Nhưng, không vì thế mà phủ định vai trò của quần chúng nhân dân, họ là những người đưa cách mạng đến thắng lợi. Tác giả, cho rằng nền cộng hoà được thiết lập chính là nhờ vào sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng nhân dân. “Vấn đề đặt ra trước cách mạng tư sản là vấn đề ruộng đất” [8, tr.29]. Nhưng sau khi giành chính quyền giai cấp tư sản Anh đã đoạt luôn cả ruộng đất và về chính quyền họ cũng không dám duy trì nền cộng hoà mà phải thiết lập nền quân chủ lập hiến. Cùng với đó, tác giả cũng cho rằng cách mạng Anh diễn ra dưới hình thức tôn giáo.
(3) Tác giả cho rằng vì quyền lợi giai cấp mà cách mạng phải dừng lại. Và còn cho thấy mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân trong tiến trình của cuộc cách mạng. 2.1.2. Nội dung “Cách mạng Anh” trong tài liệu “Holt World History: The Human Journey” Đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc cách mạng sắp và sẽ diễn ra đó là cả quá trình tích luỹ những nguyên nhân, hai từ chính trị là mấu chốt của cuộc cách mạng sắp và ắt sẽ diễn ra ở Anh. Bởi lẽ, khi quyền tối cao của một vị vua được xem là thần thánh thì tuyệt nhiên họ sẽ khó chịu cũng như phản cảm trước sự phản đối của bất kỳ một cá nhân hay tập thể nào nhằm hạn chế uy quyền tối thượng đó. Và chính niềm tin vào sự thần thánh đã khiến vua Anh - Charles I, khó có thể hoà cùng nhịp thở với thần dân cũng như nền chính trị nước Anh lúc bấy giờ. Nghị viên luôn ra sức phản đối quyền tối cao của đức vua, khiến mâu thuẫn ngày càng lên đến đỉnh điểm và khó có thể kết thúc bằng một cuộc thương thuyết. Có lẽ chúng ta đã linh cảm về một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng đang bắt đầu “chuyển dạ”. Đúng thế! Mâu thuẫn đã đưa đến xung đột và một cuộc nổi dậy ở Anh, một cuộc nổi dậy nhằm chống lại nhà cầm quyền đương thời. Nhà vua - Charles I không thể nhận được tiền từ Nghị viện. Trong tình thế đó, nhà vua cố ra sức ép mọi người cho vay tiền và bắt giam những người chống lại. Nghị viện phản đối hành vi của nhà vua đồng thời trình lên cho Charles I một văn kiện gọi là Luật khiếu nại về quyền (Petition of Right ). Văn kiện tuyên bố: (1) đức vua sẽ không được đánh thuế quốc dân nếu như chưa có sự đồng ý từ Nghị viện, tức nếu nhà
18 vua muốn đánh thuế người dân phải thông qua Nghị viện, (2) nhà vua không được tuyên bố quân luật, (3) nhà vua không được đưa lính bộ binh vào nhà tù trong thời bình và (4) nhà vua không được bắt giam người nếu như chưa có cáo buộc cụ thể.
Nhà vua đã chấp thuận kí vào Luật khiếu nại về quyền (1628), một sự thoả hiệp giữa nhà vua và Nghị viện tưởng chừng sẽ được giải quyết ổn thoả. Nhưng nhà vua đã không thực hiện đúng theo những gì đã cam kết, trái lại vẫn tiến hành đánh thuế và sử dụng mọi phương pháp có thể để có được tiền.
Trước hành vi của nhà vua, Hạ nghị viên phản đối quyết liệt. Nhận thấy sự tồn tại của Nghị viện là bước cản của mình, Charles I đã ra lệnh giải tán Nghị viện và trong suốt 11 năm nhà vua đã không triệu tập Nghị viện bất kì một lần nào cho đến năm 1640.
Ngoài ra, Charles I cũng có sự phiền muộn về vấn đề tôn giáo. Nhà vua muốn theo nghi thức tôn giáo của nhà thờ Anh giáo. Nhà vua xoa dịu những giới hạn đối với tín đồ công giáo cũng như đưa ra những giáo điều nhất định của nhà thờ công giáo vào trong Anh giáo. Trong lúc đó, phong trào người theo Thanh giáo đang có chiều hướng tăng về sức mạnh. Nhiều người theo đạo Tin Lành tiên tiến đã rời khỏi đất nước và đến trốn tránh ở Mĩ. Tôn giáo của bang Scotland là một hình thức của đạo Tin Lành được xem là hệ thống cai quản giáo hội của giáo hội Scotland. Khi Charles I cố gắng cưỡng ép giáo hội người Scottish phải theo tập tục giáo phái Anh, điều đó dẫn đến cuộc bạo loạn chống lại nhà cầm quyền bùng nổ. Những người Scots cảm thấy những thay đổi mà Charles I muốn là quá công giáo. Năm 1638, nhiều người Scots kí một tuyên bố gọi là Khế ước quốc gia (National Covenant). Trong thoả thuận trang nghiêm đó, những người Scots thề rằng bất kì một sự thay đổi nào đến nhà thờ Scottish sẽ được xem là hành vi xâm phạm tôn giáo của họ cũng như sự tự do chính trị của họ. Đối với Scottish Presbyterians, lòng trung thành của họ đối với nhà thờ đến trước lòng trung thành đối với nhà vua. Charles I đưa quân đến Scotland nhưng không thể nào có thể chấm dứt cuộc nổi loạn. Đề tìm kiếm tiền nhiều hơn nhằm phục vụ cho quân đội của mình, nhà vua cho triệu tập Nghị viện. Tuy nhiên, những thành viên của Nghị viện khăng khăng đòi thảo luận những phàn nàn của họ trước bất cứ việc gì khác, vì thế một lần nữa Charles I giải tán Nghị viện. Sau đó người Scots đã đánh bại quân đội của Charles I. Đức vua nhận thấy sẽ không bảo vệ nước Anh nếu không có thuế mới, nhà vua một lần nữa gọi Nghị viện để cùng thảo luận vào năm 1640, nhưng sau đó Nghị viện cũng bị giải thể một lần nữa khi nó không thể cùng nhà vua đưa những khoản tiền cần thiết - trong Lịch sử gọi là Nghị viện ngắn (Short Parliament). Tuy nhiên, nhà vua ngây lập tức đã phải gọi cho một người khác để kiểm tra lực lượng Scotch. Hành động cuối này của nhà vua đã thừa nhận ông không thể nào cai trị mà thiếu đi sự giúp sức từ Nghị viện, điều đó cho thấy chế độ quân chủ mang tính thần thánh đã phá sản. Nghị viện dài (Long Parliament) (1640 - 1660), được gọi thế vì Nghị viện được triệu tập năm 1640 và tiếp tục trong 20 năm, nó trở nên biết đến như Nghị viện dài. Nhà vua muốn Nghị viện để cho ông ta thu tiền để chấm dứt cuộc nổi loạn ở Scotland. Thay thế, người theo thanh giáo sẽ điều khiển Hạ viện hay còn gọi là viện dân biểu
19 (House of Commons) chấm dứt quyền của nhà vua đối với việc giải tán Nghị viện. Ngoài ra, còn thông qua đạo luật mà Nghị viện phải họp ít nhất ba năm một lần. Nhà vua không tự thu thuế làm của riêng và cũng buộc hành hình hai cố vấn của mình vì tội phản quốc. Khi Nghị viện cũng cố gắng thay đổi trong giáo hội Anh giáo, tuy nhiên, công chúng bắt đầu thay đổi ủng hộ nhà vua. Trong khi diễn ra cuộc đấu tranh giữa Charles I với Nghị viện, một cuộc nổi loạn đã nổ ra ở Ái Nhĩ Lan (Ireland). Khi nước Anh chinh phục được một phần Ái Nhĩ Lan vào cuối những năm 1100, đất Ái Nhĩ Lan đã được trao cho những người di cư Anh. Dưới thời James I, phần lớn người định cư người Anh đã kiểm soát hầu hết sự giàu có của Ái Nhĩ Lan. Những người nông dân và thương nhân thuộc tín đồ giáo hội người Scotland sau đó đã định cư ở khu vực phía Bắc của Ulster. Người công giáo gốc Ái Nhĩ Lan đã làm việc như những người nông dân thuê nhà và người lao động. Người Anh đã đối đãi với họ tàn nhẫn, như một người bị chinh phục. Người Ái Nhĩ Lan có ít quyền hoặc sự tự do và họ sống trong sợ hãi bởi họ sẽ mất quyền sở hữu bởi những người địa chủ Anh của họ. Sự chống cự các chính sách của người Anh bắt đầu phát sinh, năm 1641, một cuộc nổi dậy đẫm máu chỉ huy bởi người công giáo Ái Nhĩ Lan bắt đầu chống lại luật lệ của Anh. Trước tình hình đó, Nghị viện cần một đội quân hùng hậu để dập tắt cuộc nổi loạn của người Ái Nhĩ Lan. Không tín nhiệm nhà vua, họ đề nghị Nghị viện được vào để chỉ huy quân đội, nhưng nhà vua đã bác bỏ lời yêu cầu đó. Nhà vua đã dẫn binh lính đến Hạ viện để bắt giữ một vài đối thủ của ông ta. Không đi đến được sự thoả hiệp, một cuộc nội chiến bắt đầu năm 1642. Các công dân của nước Anh bị chia rẽ mạnh mẽ. Những người ủng hộ nhà vua bao gồm người Anh giáo, công giáo La Mã, quý tộc, và các đối thủ của cải cách Nghị viện. Họ là những người ủng hộ chế độ quân chủ (royalists or Cavaliers). Những người ủng hộ Nghị viện bao gồm người theo đạo Tin Lành hoặc những người không phải theo Anh giáo. Họ được gọi là “Roundheads” (những người ủng hộ Nghị viện trong nội chiến Anh, người tóc ngắn). Oliver Cromwell, một lãnh đạo Thanh giáo đã đứng lên, đã tổ chức quân đội của mình thành một đội quân hùng mạnh. Quân đội mô hình mới (New Model Army) của Oliver Cromwell đã đánh bại Charles I vào năm 1645. Oxford, tổng hành dinh hoàng gia đã chịu thua vào năm sau. Nhà vua đã tẩu thoát sang Scotland, nhưng người Scots đã trao Charles I qua Nghị viện để lấy thưởng. Tháng 11 - 1647, Charles I đã trốn thoát và tập hợp những người ủng hộ để tiếp tục chiến đấu. Tuy nhiên, quân đội của Cromwell đã nghiền nát họ, và chuyển đến Nghị viện. Cromwell điều khiển Nghị viện, được biết như Nghị viện ngắn (Rump Parliament), thủ tiêu chế độ quân chủ và thượng viện Anh hay viện nguyên lão (House of Lords). Đồng thời, tuyên bố Anh là một cộng đồng - Chính phủ cộng hoà Anh thời kì Cromwell (Commonwealth), hoặc cộng hoà. Và nước Anh đã chuyển mình sang thời kỳ cộng hoà và số phận của nhà vua Charles I cũng có những thay đổi đó là nhà vua đã bị chém đầu ở Whitehall vào năm 1649. Con trai ông bỏ chạy đến Pháp, và Lịch sử nước Anh chuyển mình sang một thời kì mới - thời kì Oliver Cromwell nắm quyền kiểm soát nước Anh.
20
Oliver Cromwell (1599 - 1658), là một người thành thật và thành kính Thanh giáo. Là một diễn giả có sức hấp dẫn nhấp định, tràn đầy năng lượng và có kỹ năng lãnh đạo. Ông cũng kiên quyết với niềm tin của ông ta rằng sự quan tâm thần thánh đã mang đến quyền lực cho ông ta. Vì vậy, Cromwell thường có hành vi khắc nghiệt đối với những ai phản kháng luật lệ của ông ta. Mặc dù đối với việc lãnh đạo thì phương pháp của ông ta mang tính độc tài, tuy nhiên, Comwell khá dung thứ về quan điểm tôn giáo khác. Tuy nhiên, người theo Thanh giáo không linh động thỉnh thoảng ép buộc Cromwell phải đối phó lại sự bất đồng ý kiến cũng như không quy phục nhà thờ chính thống với hình thức vũ lực cực đoan. Oliver Cromwell thống trị Anh quốc như Bảo hộ công (Lord Protector) từ năm 1653 cho đến khi ông qua đời 1658. Giai đoạn 5 năm này của Lịch sử nước Anh thường được biết đến là thời gian nhiếp chính (Protectorate). Trong thời gian này, Cromwell gần như là một nhà độc tài quân sự, vì rằng ông ta dựa trên nguyên tắc của ông ta trên sự hỗ trợ của quân đội. Mặc dù sức mạnh to lớn của ông ta, tuy nhiên, Cromwell ý định mang về một nước cộng hoà nghị viên ở Anh. Ông muốn tạo ra một hình thức đại diện chính phủ, nhưng tiếp tục tình trạng náo động và rối loạn trong toàn thể nhân dân Anh đã ngăn cản điều đó. Tuy nhiên, Cromwell đã cố gắng hai lần để thiết lập hiến pháp (constitution) - một văn bản phác thảo luật cơ bản và những phép tắc để cai trị một quốc gia. Công cụ của Chính phủ năm 1653 là bản Hiến pháp đầu tiên của bất kỳ quốc gia châu Âu nào. Nó cung cấp cho những địa chủ có quyền bầu các thành viên của Nghị viện. Chính phủ của thời kì nhiếp chính (Protectorate) đã không được ưa chuộng ở nước Anh, và sự bất mãn ngày càng trổ nên phổ biến. Chính phủ của Cromwell có thể bị lật đổ loại ra ba nhân tố (1) Nó được nâng lên đủ số tiền từ thuế và bán đất hoàng gia để ủng hộ chính nó cũng như quân đội của nó. (2) Quân đội có kỷ luật và sức mạnh lớn. Nó làm thoái chí các nhóm khác hành động chống lại chính phủ. (3) Kẻ thù của nó không có quân đội hữu hiệu và không bao giờ có thể hành động có hiệu quả để kháng cự lại Bảo hộ công (Lord Protector). Sự kiểm soát của Cromwell qua Ái Nhĩ Lan (Irish), ví dụ, có hiệu quả tàn bạo, và những người bảo hoàng không bao giờ đề ra lời đe doạ đối với quy tắc của ông ta. Chính sách của Cromwell hướng về các nước khác ủng hộ mục đích của ông ta là khuyến khích mậu dịch và sản xuất tại nhà. Những người thương gia Hà Lan và chủ tàu lợi dụng sự rối loạn dân sự của nước Anh nhằm thiết lập nên một nghề tàu đi đại dương có lợi. Cromwell thách thức Hà Lan bằng cách thông qua Nghị viện “Đạo luật Hàng hải” năm 1651 (Navigation Act), quy định rằng Anh chỉ nhập khẩu những hàng do tàu Anh hoặc tàu của nước có hàng mang đến. Đạo luật trên đã châm ngòi cho chiến tranh giữa Anh với Hà Lan trong khoảng thời gian từ 1652 đến 1654. Mặc dù cuộc chiến kết thúc với chiến thắng không rõ ràng, hải quân Anh đã giành thêm được uy tín, và Cromwell cho rằng Anh có thể ủng hộ thương mại của nó với sức mạnh thuỷ quân. Cuộc thử nghiệm với chính phủ cộng hoà ở Anh suy cho cùng thất bại. Cromwell đã tranh chấp với Nghị viện, điều đó khiến ông không bằng lòng. Và cuối cùng là ông ta đã giải tán Nghị viện và thống trị một mình. Sau khi Cromwell qua đời
21 1658, con trai của ông ta Richard trở thành Bảo hộ công (Lord Protector). Tuy nhiên, Richard là một nhà lãnh đạo kém cỏi, và mất sự ủng hộ của quân đội. Đến năm 1660, người Anh bắt đầu có chiều hướng chống lại chính phủ cộng hoà của Cromwell. Nhiều người đã ủng hộ việc hành hình của Charles I 11 năm trước đó, nhưng họ nhận ra rằng chính phủ cộng hoà của Cromwell không có khả năng giải quyết vấn đề quốc gia hoặc vấn đề của chính nó. Vào năm 1660, sau nhiều cuộc tranh luận và với sự hỗ trợ của quân đội, Nghị viện đã mời Charles II, con trai của Charles I, trở về nước Anh. Quần chúng hoan hô chào đón Charles II khi ông ta đến London. Mọi người trong cả nước hy vọng sự khôi phục chế độ quân chủ sẽ mang hoà bình và tiến bộ đến nước Anh một lần nữa. Một số sử gia gọi giai đoạn từ 1642 đến 1660 là cách mạng Anh. Nó bao gồm các năm chiến tranh từ 1642 đến 1649, cũng như những thay đổi liên tục cho đến khi chế độ quân chủ được khôi phục lại vào năm 1660. Nền hoà bình đã trở lại nước Anh, nhưng 30 năm trôi qua trước khi vua và Nghị viện làm việc thân mật, gần gũi cùng với nhau. Chế độ quân chủ lập hiến ở Anh. Nghị viện dần dần thay thế chế độ quân chủ như là nguồn trọng đại của quyền lực chính trị ở Anh. Một chính phủ ổn định hơn xuất hiện ở nước Anh vào khoảng cuối những năm 1660. Nó được thúc đẩy bởi những ý tưởng mới về mối quan hệ giữa người cai trị và cai trị. Những ý tưởng này căn cứ vào, một phần, trên những ý tưởng của những nhà tư tưởng chính trị như John Locke, người đã viết rằng “…tất cả đều bình đẳng và độc lập, không ai nên gây hại cho người khác trong cuộc sống của anh ta, sức khoẻ, tự do, hoặc tài sản.” Triều đại của Charles II, khi chế độ quân chủ Anh được khôi phục, được gọi là quân chủ trung hưng (Restoration). Tên này không chỉ phản ánh sự trở lại của chế độ quân chủ, mà còn sự hiện thân mới của văn hoá nước Anh. Charles II yêu thích giải trí và điều thú vị. Loại bỏ những hạn chế của người Thanh giáo trong rạp hát, ông ta thực hiện giải trí và nghệ thuật vốn có nhiều hơn cho người dân Anh. Những chủ đề của ông ta gọi tên anh ta “Merry Monarchy”. Mặc dù ông ta có biệt danh, tuy nhiên, Charles II đã học từ cha của ông ta sự hành hình va từ những năm dài sống lưu vong của chính mình. Trong thực tế, bản thân Charles II đã hoài nghi và cẩn thận. Ông tránh đi những cuộc chiến với Nghị viện, khi chính sách của ông gặp đối lập, nhưng ông ta khá sẵn sàng sử dụng bí mật và phương pháp đường vòng để đạt được kết thúc của mình. Charles II tiếp tục chính sách thương mại táo bạo của Cromwell, cuối cùng nó dẫn đến một loạt xung đột khác với người Hà Lan. Trong những cuộc chiến, Anh giành quyền kiểm soát New Amsterdam của Hà Lan ở Bắc Mĩ, thay tên nó là New York. Charles II cố gắng hình thành một liên minh giữa Anh và Pháp. Sự kháng nghị lan rộng trong Nghị viện và khắp nước Anh, tuy nhiên, ép buộc ông ta phải kết thúc những nổ lực của mình. Kết quả là, Anh và Pháp bắt đầu 150 năm kình địch để giành quyền kiểm soát trên biển và lợi ích từ những thuộc địa nước ngoài và tài nguyên. Charles II, không có con. Và có vẻ em trai của Charles II là James, một người công giáo La Mã, sẽ kế tục Chales II. Hai đảng phái chính trị đang phát triển trong Nghị viện tại thời điểm này đã chống đói những ý tưởng sự kế vị hoàng gia này. Hai
22 đảng phái, Tories và Whigs, ngang nhau về sức mạnh. Tên của họ lần đầu được sử dụng như sự công kích. Trong công giáo Ireland từ Tory nghĩa là kẻ phạm tội. Ở Anh, tên này được trao cho người tin James có quyền thừa kế để cai trị. Thành viên của Đảng Bảo thủ thường ủng hộ giáo hội Anglican. Những tín đồ trong một chế độ quân chủ nối nghiệp, tuy nhiên, họ sẽ vui lòng chấp nhận một vị vua công giáo La Mã. Thuật ngữ Whig có nghĩa trước tiên là kẻ trộm ngựa. Sau đó áp dụng cho những vị trưởng lão Scottish, tên ám chỉ một nhóm nổi loạn. Đảng Whigs đòi quyền phủ nhận ngai vàng của James. Họ muốn một Nghị viện hùng mạnh và phản đối có một nhà cai trị công giáo. Khi Charles II chết vào năm 1685, em trai công giáo của ông ta lên ngôi là James II. Ông ta là một người không hài hước và kém linh hoạt hơn Charles II. Sự tin tưởng của James về quy tắc hoàng gia tuyệt đối khiến cả hai đảng Whigs và Tories phản kháng. Sự cố gắng của ông để giúp người công giáo lo sợ những người đạo Tin Lành và thúc đẩy họ chống lại quy định của ông. Sự nối ngôi lên ngai vàng vẫn là một vấn đề quan trọng trong suốt triều đại của James II. Những đứa con gái của ông, Mary và Anne, cả 2 đều được nuôi dạy như những người đạo Tin Lành và đã kết hôn với các hoàng tử đạo Tin Lành. Khi mẹ họ qua đời, James kết hôn với Mary của Modena, người công giáo. Năm 1688, bà có một người con trai, người theo luật sẽ kế vị cha của mình. Những người theo đạo Tin Lành khiếp sợ cậu con trai này sẽ bắt đầu một dòng toàn bộ các nhà lãnh đạo công giáo trên ngai vàng Anh. Cả hai đảng Whigs và Tories trong Nghị viện kêu gọi James II phải từ chức. Người lãnh đạo trong Nghị viện khi ấy đã mời con gái của James II, Mary, và chồng cô ấy người Hà Lan, William of Orange, thay thế James II trên ngai vàng. Trong lá thư gửi đến để mời William, người lãnh đạo nước Anh đã diễn tả lí do của sự chống lại của họ đó là do những quy định của James. William of Orange là một nhà quân sự có tài nổi tiếng người đã đánh bại đội quân Pháp hùng mạnh. Khi ông ta đến nước Anh lúc này đứng đầu quân đội Hà Lan vào năm 1688, James bỏ trốn sống lưu vong ở Pháp. Nghị viện đã trao vương miện của Anh cho William và Mary là những người cai trị chung, được biết đến từ thời điểm đó như Wiliam III và Mary II. Những người chống lại James II đã phối hợp mang về những gì được biết đến như là cách mạng vinh quang (Glorious Revolution) sự chuyển giao quyền lực không đổ máu của chế độ quân chủ của Anh. Cuộc nội chiến Anh và các sự kiện theo sau dẫn tới những thay đổi quan trọng trong chính phủ. Những sự kiện này cũng thay đổi những cách mà mọi người nghĩ về chính phủ. Nhà triết học Anh - Thomas Hobbes, người sống qua cuộc nội chiến, đã bị lúng túng bởi sự hỗn loạn mà nó tạo ra. Ông ta phác thảo triết lý chính trị của mình năm 1651 trong một cuốn sách gọi là Leviathan. Hobbes luận giải rằng những người đầu tiên sống trên trái đất trong tình trạng vô chính phủ, mà ông tin rằng đó là một trạng thái tự nhiên. Để tránh dẫn đến bạo lực và nguy hiểm, Hobbes nói, người ta chọn ra một người chỉ huy để thống trị họ. Họ đã làm ra một Khế ước xã hội truyền khẩu, cho người lãnh đạo quyền lực tuyệt đối. Người dân chỉ giữ lại quyền bảo vệ cuộc sống của chính họ.
23
Hobbes bị ảnh hưởng mạnh bởi sự hỗn loạn và sự phá hoại của cuộc nội chiến Anh. Những ý tưởng mà ông bày tỏ trong Leviathan phản ánh lòng tin của ông rằng mọi người hành động từ tính tư lợi và không có quan tâm đến quyền lợi hoặc phúc lợi của người khác. Theo quan điểm của Hobbes, thế giới tự nhiên là nơi mà chỉ có những người mạnh mới có thể sống sót trừ khi giai cấp phải chịu bởi quyền lớn hơn của người cai trị. Khế ước xã hội được mô tả bởi Hobbes căn cứ vào trao đổi của tự do cá nhân đối với an toàn nhóm và trật tự xã hội. John Locke, một triết gia người Anh khác, không đồng ý. Ông ta chấp nhận ý tưởng của Khế ước xã hội nhưng tin rằng người ta chỉ từ bỏ một số quyền cá nhân của họ. Họ giữ lại bao gồm quyền sống, được hưởng tự do, và sở hữu tài sản. Ông ta nói họ có thể mong chờ những người cai trị của họ để có thể bảo toàn những quyền này. Một nhà cai trị người vi phạm những quyền như thế vi phạm luật tự nhiên và đã phá vỡ Khế ước xã hội. Locke, trái với Hobbes, tin rằng Khế ước giữa người cai trị và cai trị không thể giới hạn quyền tự nhiên của cá nhân để hưởng thụ cuộc sống, sự bình đẳng chính trị, và quyền sở hữu tài sản. Trong “Two Treatises of Government”, Locke tranh luận rằng các quyền cá nhân là cao hơn các luật lệ và chính phủ. Các chính phủ tồn tại một và chỉ một mục đích đó là để bảo hộ những quyền đó. Như thế, sự cai trị tuyệt đối của nhà cầm quyền đã trái lại với trật tự tự nhiên bởi vì mọi người sẽ không và không thể tự nguyện từ bỏ những quyền tự nhiên cơ bản của họ. Một người cai trị đã phủ nhận những quyền cơ bản của mọi người đó là một bạo chúa và có thể bị lật đổ. Theo những ý tưởng của Locke, Nghị viện đã thông qua các luật cố gắng để bảo vệ chống lại sự cai trị chuyên quyền. Năm 1679 Nghị viện thông qua Đạo luật Habeas Corpus đã bảo vệ những người đã bị bắt. Họ có thể sử dụng được một lệnh, hoặc ra lệnh, yêu cầu được đưa ra trước một thẩm phán. Thẩm phán sẽ quyết định liệu tù nhân nên phóng thích hoặc buộc tội và cố gắng đối với một tội phạm. Đạo luật Habeas Corpus để bảo hộ các cá nhân phản đối việc bắt giữ và bỏ tù bất công. Một văn kiện gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền (Declaration of Rights) đã được đọc cho William và Mary trước khi ban cho họ ngôi vị vào năm 1689. Năm đó, Nghị viện chính thức hoá văn kiện, nó được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền Anh (English Bill of Rights). Nó công khai Nghị viện sẽ chọn người cai trị quốc gia. Người cai trị sẽ phải tuân theo luật của Nghị viện và không thể tuyên bố cấm hoặc đình chỉ bất kỳ quy luật nào. Người cai trị không thể áp đặt thuế hoặc duy trì một đội quân trong thời kì không có chiến tranh khi không có sự cho phép của Nghị viện. Nghị viện sẽ thường xuyên gặp gỡ và người cai trị không thể cản trở việc bầu cử các thành viên của nó. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) bảo đảm tự do ngôn luận cho các thành viên của Nghị viện. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) cũng bảo vệ những công dân tư nhân. Bất kỳ công dân nào cũng có thể kiến nghị chính phủ để giảm đi sự bất công. Không một công dân nào ép buộc phải trả tiền bão lãnh cao bất công hoặc phải đối mặt với hình phạt tàn nhẫn hoặc bất thường. Năm 1689 Nghị viện thông qua Đạo luật Khoan dung (Toleration Act). Nó thừa nhận một số tự do tôn giáo đối với những người biệt giáo (Dissenters), những người theo đạo Tin Lành người không phải là thành viên của giáo phái Anh giáo. Đạo
24 luật Khoan dung không che chở người theo công giáo La Mã hay người Do Thái, tuy nhiên. Nó cũng cấm những người biệt giáo nắm giữ các văn phòng công cộng. Vào năm 1701 Nghị viện thông qua Đạo luật Hoà giải (Act of Settlement) để giữ lại những người công giáo từ ngai vàng Anh. Đạo luật tuyên bố William III chết sẽ không có người thừa kế, chị gái của Mary là Anne sẽ kế thừa ngai vàng. Nếu Anne không có con, ngai vàng sẽ đi đến nơi khác cháu gái theo đạo Tin Lành của James I. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) và Đạo luật Hoà giải (Act of Settlement) đánh dấu một hồi chuyển trong Lịch sử nước Anh. Một cuộc chiến đấu dài giữa vua và Nghị viện về việc ai sẽ cai trị quốc gia cuối cùng đã chấm dứt. Nghị viện xuất hiện rõ ràng tối cao đến chế độ quân chủ. Các quyền của các cá nhân, ngoài ra, những giới hạn về quyền của chính phủ cũng được xác định rõ hơn. Quá trình dài của sự phát triển chính trị ở Anh, tuy nhiên, đã không hoàn thành. Quan điểm về tự do cá nhân và quyền của cá nhân tham gia vào chính phủ đó là đại diện điển hình tiếp tục phát triển và thay đổi. Đến năm 1700 nước Anh vẫn là một nước quân chủ, nhưng Nghị viện đã nắm phần lớn quyền lực. Nghị viện không đại diện cho phần lớn người dân Anh, tuy nhiên. Thượng viện Anh hay viện nguyên lão (House of Lords) chỉ gồm có những quý tộc và giáo sĩ cao cấp. Ngay cả Hạ viện (House of Commons), nó cũng từ từ trở thành mạnh hơn của hai viện, đại diện cho một thiểu số nhỏ trong dân số. Chỉ những hạng người đàn ông có ruộng đất và những nhà buôn giàu có và những chuyên gia mới có thể bỏ phiếu đối với đại diện cho dân chúng. Trong 50 năm sau Cách mạng vinh quang (Glorious Revolution), Nghị viện tiếp tục tăng tầm quan trọng như sức mạnh thực sự trong chính phủ của Anh. Trong thời gian này, tổ chức và thể chế đặc trưng chính phủ Anh của ngày nay dần dần xuất hiện. Hai trong số các tổ chức chính phủ quan trọng phát triển từ khoảng 1690 đến khoảng năm 1740 là nội các và văn phòng thủ tướng chính phủ.
Vương quốc Anh luôn gặp các cố vấn để thảo luận các vấn đề của chính phủ. Sau thời kì khôi phục chế độ quân chủ năm 1660 và cách mạng vinh quang, các nhà lãnh đạo Nghị viện có quyền lực để hoàn thành công việc cho các quốc vương. William II chọn sĩ quan của ông ta của nhà nước từ trong số lãnh đạo, người thường đứng đầu cơ quan chính phủ. Họ được biết đến như một nội các.
Nội các đầu tiên bao gồm cả Whigs và Tories. Điều này đã thay đổi trong suốt triều đại của William. Quyết định chính phủ có vận hành một cách êm ả hơn nếu các bộ trưởng nội các thuộc về đảng đa số trong Nghị viện. Đôi khi, để có thể làm việc được với Nghị viện, các vị vua cũng phải chấp nhận nội các mà họ không thích. Trong và sau triều đại của William, Nghị viện tiếp tục thu được nhiều quyền lực hơn, bao gồm quyền tuyên chiến. Nhà vua cũng không cố gắng để phủ quyết các hoạt động của Nghị viện.
Năm 1707, các Nghị viện của Anh và Scotland thông qua Đạo luật Liên minh (Act of Union). Luật này đã liên minh Anh và Scotland vào một vương quốc, được biết đến là Anh quốc. Nó là một dự định như một phương sách làm cho nước Anh thêm vững mạnh trong cuộc xung đột ngày càng trở nên mạnh với Pháp. Nhiều người ở Scotland phản đối liên minh. Phần nào bởi vì nó thủ tiêu Nghị viện của Scotland,
25 mặc dù bây giờ người Scots nắm một số ghế trong Thượng viện (House of Lords) và Hạ viện (House of Commons). Liên minh tỏ ra có ích, tuy nhiên. Bằng cách loại bỏ những hàng rào thương mại, nó khuyến khích thương mại và mang lại giàu có cho cả Anh và Scotland. Thị trấn Glasgow của Scotland đã phát triển từ một làng chài thành một thành phố cảng. Các trường đại học của Edinburgh và Glasgow trở thành những trung tâm chính của việc học trong suốt những năm 1700.
Nữ hoàng Anne, người cai trị từ 1702 đến 1714, có 17 đứa con. Chẳng một ai sống sót. Sophia của Hannover, cháu gái của James I, sẽ được kế tiếp trong dòng chảy để lên ngai vàng. Cô ấy cũng chết. Đó là cách con trai của Sopia là George, đầu tiên của triều đại Hanoverian, trở thành vua George I của Anh quốc.
Cả George I và con trai ông ta George II đều sinh ở Đức. Cũng không quen thuộc chính phủ Anh hoặc thuế nhập khẩu. George I, người cai trị cho đến năm 1727, thậm chí không nói được tiếng Anh. George II, người cai trị cho đến năm 1760, nói tiếng Anh một cách chính xác, nhưng phụ thuộc nặng vào các bộ trưởng nội các như Sir Robert Walpole để quản lý sự thi hành của chính phủ.
Từ 1721 đến 1742 đảng Whigs điều khiển Hạ viện (House of Commons), điều hành bởi Walpole, bộ trưởng ưu tú của chính phủ. Dưới sự cai trị của các vị vua thuộc triều đại Hanoverian, bộ trưởng ưu tú, người thường với tư cách nắm giữ kho bạc của vua trong suốt những năm này, là người đứng đầu thực sự của chính phủ. Đến thời điểm này trong Lịch sử, quốc gia đã trở thành chế độ quân chủ lập hiến có giới hạn. Vua vẫn còn vị trí đứng đầu của nước Anh. Các quyền hoàng gia, tuy nhiên, bị hạn chế rõ ràng bởi hiến pháp Anh, nó quy định vua hoặc hoàng hậu phải tham khảo với Nghị viện và chắc chắn dành riêng những quyền chỉ cho một mình Nghị viện.
Vương quốc Anh là một trong những chính phủ có bản hiến pháp lâu đời nhất. Nó là một hình mẫu để các quốc gia khác có ý muốn chấm dứt quân chủ chuyên chế. Hiến pháp Anh không phải chỉ có một văn kiện. Thay vì, nó chỉ bao gồm phần nào của những văn kiện tuyệt vời khác nhau. Trong số đó có Magna Carta, Petition of Rights, Habeas Corpus, Bill of Rights, Act of Settlement. Nó cũng bao gồm các hoạt động của Nghị viện, có thể thay đổi Nghị viện sau một thời kì. Một số nét đặc biệt của chính phủ Anh chưa bao giờ được ghi lại. Những quyền hành của thủ tướng và nội các căn cứ rộng rãi trên truyền thống. Thủ tướng hơn vua được tuyển các thủ tướng khác. Cùng thủ tướng và dự kiến nội các và thực hiện các chính sách của chính phủ. 2.1.3. Thảo luận
Trong thời kì cận đại của Lịch sử thế giới, cách mạng dường như không làm đời sống người dân tốt hơn, nói cách khác dù trước hay sau cách mạng thì đời sống người dân vẫn thế, thậm chí không tốt hơn so với trước khi tiến hành cuộc cách mạng. Cách mạng diễn ra như một cơn cuồng phong quét ngang dọc nước Anh khiến người dân lao đao trong những ngày nội chiến. Trước khi cách mạng diễn ra, kinh tế tư bản đã hiện tồn và cách mạng chẳng qua chỉ là cơn gió thổi qua giúp cánh cửa mở rộng thêm cho nó dễ dàng phát triển mà thôi.
Trong 10 năm từ 1640 đến 1649, chế độ quân chủ chuyên chế đã khiến nước Anh dường như quá mệt mỏi. Vì thế, cách mạng đã xoá bỏ nền quân chủ chuyên chế và tiến đến nền cộng hoà lý tưởng ngỡ rằng với sự lột xác này sẽ khiến nước Anh trở
26 lại những ngày bình yên. Nhưng mọi vấn đề đều có quy luật riêng của nó ví như đỉnh cao của một ngọn sóng cũng là lúc ngọn sóng đi xuống. Đúng thế! Nền cộng hoà được xem là đỉnh cao và nó tồn vong trong vòng 11 năm, theo quy luật nó cũng phải bắt đầu đi xuống. Sao vậy? Khó ai có thể hiểu nổi nước Anh đang làm gì, đổ biết bao sức lực để nắm bắt được hai từ “cộng hoà” để rồi sau đó 11 năm cái mà trước đó 11 năm người ta hằng mơ ước giờ đây (1660) họ lại muốn quay về cái thuở hàn vi ban đầu. Nền cộng hoà được dọn dẹp sạch không tì vết để rồi Charles II lên ngôi xác lập lại bước đi ban đầu.
Theo giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại, chính sự ủng hộ nhiệt tình cách mạng của quần chúng nhân dân mà Charles I vị vua chuyên chế phải lên đoạn đầu đài. Trong cổ kim Lịch sử, có lẽ chúng ta khó có thể bắt gặp một tình huống nào từ hấp dẫn đến ngạc nhiên như thế. Bởi quần chúng nhân dân đã ban cái chết cho Charles I - đức vua của họ. Và Nghị viện đã thông qua bản án Charles I, nhưng Nghị viện lúc này chỉ là con cờ cho một bàn tay lạnh từ phía sau điều khiển đó là Cromwell. Sau cái chết Charles I, nước Anh dường như bắt đầu rơi vào một khoảng không vô định, không ai cầm quyền. Có phải chăng, trong ngày đó - ngày mà vị vua chứng kiến thần dân của mình ra để chứng kiến cái chết của mình, để rồi ngày mai nước Anh bước vào cái mà sử sách gọi là đỉnh cao cách mạng. Nhưng quần chúng nhân dân ra chứng kiến cái chết có phải chăng là sự chào mừng cho ngày mai tươi sáng hay là hối hận bắt đầu hình thành “Trên đường vua bị dẫn qua… trong giữa đám đông có người cầu nguyện: “Xin Chúa hãy cứu lấy mạng nhà vua này”.” [21]
Nền cộng hoà, nếu theo đúng bản chất là một xã hội lý tưởng. Nhưng Lịch sử đã khác đi, nền cộng hoà ở Anh lúc này mang nặng màu sắc quân đội. Và sự hiện diện của Nghị viện lúc này cũng chỉ là “hữu danh vô thực”, nếu trước đây quân đội ủng hộ Nghị viện thì giờ đây quân đội lại quay sang ủng hộ Cromwell.
5 Nguyên văn: “He was also unbending in his belief that divine providence had brought him to power. Thus, Cromwell often acted harshly to suppress resistance to his rule.”
Cromwell, theo giáo trình Lịch sử thế giới cận đại là “…lãnh tụ xuất sắc…”, “…có nếp sống giản dị được nhân dân yêu mến…”, nhưng qua tiếp cận tác giả lại thấy Cromwell là một nhà độc tài, khát máu bởi tài liệu tiếp cận cho thấy “Ông cũng kiên quyết với niềm tin của ông ta rằng sự quan tâm thần thánh đã mang đến quyền lực cho ông ta. Vì vậy, Cromwell thường có hành vi khắc nghiệt đối với những ai phản kháng luật lệ của ông ta.”5 [13, tr.481]. Lẽ ra nền cộng hoà sẽ là một luồng gió mới thổi vào chính trường Anh nhưng với sự độc tài, nhằm nắm lấy quyền lực tuyệt đối Cromwell đã khiến quần chúng nhân dân hoảng sợ. Qua các tài liệu tiếng Anh, khiến chúng tôi nhận ra cần có cái nhìn tổng thể về một nhân vật Lịch sử và đánh giá đúng vai trò cũng như trách nhiệm của Cromwell “Cromwell bị coi là phải chịu trách nhiệm về cái chết của 22 ngàn người Thiên chúa giáo ở Ireland, 50.700 người theo chủ nghĩa bảo hoàng và 34.100 người theo phe Nghị viện ở Anh.” [23] Qua trích dẫn trên nhận thấy rằng, việc cập nhật cũng như đánh giá đúng vai trò, trách nhiệm của Cromwell là việc làm hết sức cần thiết đồng thời là tư liệu nền tảng để có thể hiểu rõ bản chất của thời kỳ từ cộng hoà đến độc tài và cuối cùng là khiếp sợ để rồi một sự chờ mong cũng như khao khát quay lại như thuở ban đầu.
27
Ngoài ra, khi bàn về căn nguyên của cách mạng tài liệu tiếp cận được đặt ngay vấn đề chính của cách mạng là do “Phản đối của Nghị viện đối với khái niệm uy quyền tối cao hoàng gia đã dẫn đến xung đột và nổi dậy ở Anh.”6 [13, tr.478] Đoạn văn vừa trích dẫn cho thấy chính mâu thuẫn chính trị cụ thể hơn là về vấn đề tài chính là nguyên nhân đưa đến cách mạng, và xuyên suốt quá trình tiếp cận chúng tôi không bắt gặp tài liệu đề cập đến mâu thuẫn kinh tế, tư tưởng,… Trái lại, nếu theo Giáo trình thì nguyên nhân đã được chúng tôi tóm tắt với những đại ý thì tác giả lại chú trọng vào sự bất ổn kinh tế, tư tưởng … và đây được xem là hàng loạt nguyên nhân sâu xa và có thể xem mâu thuẫn về chính trị là nguyên nhân trực tiếp châm ngòi cho cuộc cách mạng.
Qua quá trình mở rộng tiếp cận tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng khi bàn về kết quả của cách mạng Anh cả Giáo trình, Sách giáo khoa Lịch sử 10 hiện hành đều đề cập đến vấn đề không triệt để. Không triệt để, bởi lẽ ruộng đất vẫn chưa đến tay người nông dân, trái lại tiếp cận ở tài liệu nghiên cứu thì chúng tôi không hề thấy tác giả đề cập đến vấn đề ruộng đất ngay từ đầu cho đến khi cách mạng đến hồi kết thúc. Cần phải hiểu, tiến hành cách mạng không phải nhằm chia lại của cải, không phải do ai nắm quyền lực mà quan trọng ở đây là sau khi cách mạng dừng lại thì người nắm quyền có đưa đất nước phát triển hay không mà thôi. Khi người nắm quyền tốt thì mọi vấn đề kinh tế, chính trị … sẽ được giải quyết ổn thoả, đâu sẽ vào đó. Do giáo trình tiếp cận theo kiểu đặt vấn đề - giải quyết vấn đề nghĩa là vấn đề cách mạng đặt ra là giải quyết ruộng đất cho người nông dân nhưng cuối cùng người dân vẫn chưa có ruộng đất vì thế quy vào cách mạng không triệt để, tức không đáp ứng được nguyện vọng người dân. Trong khi đó, theo góc nhìn của tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được sẽ thấy cách mạng là sự đánh đổ cái không phù hợp và người ta tiến hành cách mạng cũng chỉ muốn tìm thế lực cai trị thích hợp với nó mà thôi. Ngược lại, nếu xem xét cách mạng Anh là triệt để nghĩa là vấn đề ruộng đất được giải quyết cho quần chúng nhân dân khi cách mạng kết thúc. Vậy, phải chăng sự manh mún ruộng đất trong tương lai sẽ là bước cản cho của sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như việc áp dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là vấn đề “không tưởng”. Ngoài ra, nếu cách mạng Anh là một cuộc cách mạng “triệt để” thì có lẽ cuộc cách mạng công nghiệp chỉ còn là ảo tưởng đối với nước Anh, và ánh sáng công nghiệp chỉ còn là hư ảo mãi bị che khuất bởi bóng đêm triệt để của cách mạng.
6 Nguyên văn: “Parliament’s opposition to the concept of royal supremacy led to conflict and rebellion in England.”
Qua quá trình tiếp cận tài liệu, chúng tôi nhận thấy cách mạng Anh có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới, đó là nó đã khai sinh ra chế độ dân chủ - Tam quyền phân lập, đây là gợi ý thực tế cho Montesquie nhà tư tưởng Pháp thế kỉ XVIII nêu ra học thuyết Tam quyền phân lập. Có thể xem thể chế nhà nước quân chủ lập hiến ở Anh là một thể chế chính trị phù hợp với tương quan lực lượng tham chiến và thực tiễn chính trị của nước Anh thời điểm thể chế này ra đời, và như Lịch sử sau này sẽ thấy, thể chế này đã lan toả và vững vàng tồn tại ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Thái Lan,... Ngoài ra, cách mạng Anh còn là một trong những tiền đề quan trọng của cuộc cách mạng
28 công nghiệp, mà cuộc cách mạng công nghiệp đã ảnh hưởng toàn thế giới, thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời ở các nước trên thế giới. 2.2. Cách mạng Hoa Kì (1775 - 1783)
Cách mạng Hoa Kì là cuộc cách mạng nhằm tìm kiếm sự tự do và kết quả khai sinh ra nước Mĩ - một đất nước lý tưởng bởi sự tự do lan tràn không gì có thể ngăn chặn. Với cuộc cách mạng Hoa Kì, chúng tôi cũng điểm lại sơ nét về nội dung tiến trình cách mạng Hoa Kì cũng như cố phục dựng lại góc tiếp cận vấn đề từ Giáo trình và tài liệu tiếp cận.
(1) Giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại của tác giả Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng, được sử dụng giảng dạy Học phần Lịch sử Thế giới Cận đại, được chúng tôi sự dụng nhằm điểm lại sơ nét về cách mạng Hoa Kì.
(2) Chúng tôi sử dụng tài liệu phục vụ cho công tác tiếp cận gồm: Holt, Rinehart and Winston. (2005). Holt World History: The Human Journey.
McKay, J.P., J.P., Hill, B.D., & Buckler, J. (1999). A History of Western
Giáo trình đã giành 20 trang nhằm phục dựng lại cách mạng Hoa Kì một cách
Texas: Holt, Rinehart and Winston. Society. Boston, MA: Houghton Mifflin. 2.2.1. Nội dung “Cách mạng Hoa Kì” trong giáo trình “Lịch sử Thế giới Cận đại” khá đầy đủ. (1) Tình hình 13 bang thuộc địa trước chiến tranh cách mạng: Trong phần này, tác giả khái quát lại quá trình xâm thực của các nước thực dân đối với vùng đất Bắc Mĩ. Trong số đó, công cuộc xâm thực của Anh là có hiệu quả và đến nửa đầu thế kỉ XVIII người Anh đã lập được 13 bang thuộc địa dọc bờ Đại Tây Dương ở Bắc Mĩ. Tiếp đến, tác giả trình bày mầm móng tư bản chủ nghĩa bắt đầu “thai nghén” tại Bắc Mĩ, đồng thời là chính sách cai trị của chính quốc Anh với với 13 bang, những chính sách đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế cũng như lợi ích của 13 bang. Sau năm 1763, với sự cai trị “không tự do” đã làm không khí ngột ngạt tại 13 bang ngày càng lên đến đỉnh cao và chỉ cần một giọt nước sẽ tràn ly, tức một cuộc cách mạng sẽ diễn ra nhằm xoá bỏ sự ngăn cản sức phát triển kinh tế ở Bắc Mĩ. (2) Quá trình chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ và sự ra đời của nước Mĩ: Trong tiến trình cách mạng Hoa Kì, tác giả chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 của cuộc cách mạng với hàng loạt sự kiện và vấn đề được tác giả trình bày như sau: mở đầu đó là sự kiện chè Boston, ngọn lửa châm ngòi thổi bùng chiến tranh. Với sự kiện này đã khiến chính phủ Anh tiến hành hàng loạt quyết sách nhằm trừng trị 13 bang thuộc địa. Tiếp theo là, Đại hội lục địa lần thứ nhất và thứ hai được tiến hành với những mục tiêu cụ thể. Và đã đến lúc nhân dân 13 bang cần thấy phải khẩn thiết khẳng định nền độc lập và họ đã tiến hành thông qua Tuyên ngôn độc lập. Trong giai đoạn ban đầu, quân thuộc địa đã lao đao bởi quân của chính quốc Anh nhưng sau đó với những chính sách khôn khéo của mình George Washington đã khiến tình thế thay đổi tạo nên bước ngoặt qua chiến thắng Saratoga. Giai đoạn 2 của cuộc chiến và cách mạng đi đến thắng lợi: với chiến thắng Yorktown khiến toàn lực lượng quân Anh phải đầu hàng và đi đến thắng lợi hoàn toàn
29 thông qua hoà ước được kí kết ở Versailles (Pháp). Theo hoà ước Anh công nhận chính thức độc lập của 13 bang thuộc địa, một quốc gia mới ở Bắc Mĩ ra đời, đó là Hợp chúng quốc Mĩ (United States America). (3) Nước Mĩ sau khi độc lập: Tác giả trình bày những khó khăn mà nước Mĩ gặp phải sau khi nền cộng hoà non trẻ ra đời như nạn lạm phát, các cuộc nổi dậy … Nhưng những chính sách tiến bộ kịp thời ban hành đã khắc phục những khó khăn đấy. Nhưng vì quyền lợi của giai cấp chủ nô nên chế độ nô lệ vẫn không được thủ tiêu. Ngoài ra, sự quản lý thống nhất chưa đảm bảo, để khắc phục Hội nghị liên bang khai mạc vào tháng 5 năm 1787, các đại biểu đã thoả thuận biến nước Mĩ từ một liên bang nhiều quốc gia thành một quốc gia liên bang. Và đề ra những nguyên tắc cũng như cách thức kiểm soát lẫn nhau để vững bền một nước Mĩ mang màu sắc của sự tự do. (4) Tính chất và ý nghĩa của cuộc chiến tranh cách mạng Bắc Mĩ: Trước hết tác giả khẳng định “Cách mạng tư sản Mĩ được tiến hành dưới hình thức một cuộc chiến tranh giành độc lập cho nhân dân Bắc Mĩ.” [8, tr.58] Lực lượng tham gia có vai trò quyết định là quần chúng nhân dân, nhưng cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo vì thế trước hết quyền lợi của họ phải được đảm bảo vì thế quần chúng nhân dân với lòng nhiệt tình cách mạng nhưng đến cùng họ vẫn không có lợi ích gì từ cuộc cách mạng. Ngoài ra, bản Tuyên ngôn độc lập đã trở thành ngọn cờ tự do với những nguyên tắc lý tưởng và sức ảnh hưởng đến các nước khác trên thế giới. 2.2.2. Nội dung “Cách mạng Hoa Kì” trong tài liệu “A History of Western Society” và “Holt World History: The Human Journey” Sau khi đánh bại hạm đội Tây Ban Nha, người Anh bắt đầu thiết lập một đế chế thuộc địa cơ bản dựa trên thương mại. Sự thất bại của hạm đội Tây Ban Nha năm 1588 đã khuyến khích người Anh đua tranh với những thế lực châu Âu trong việc kiểm soát các nguyên liệu và thị trường. Trong những năm 1600, các nhà thám hiểm Anh bắt đầu đòi hỏi và chinh phục những vùng đất ở nước ngoài. Các thương gia Anh, những người đã từng kinh doanh ở Nga và Baltic, bây giờ họ chuyển sang di chuyển đến châu Mỹ và châu Á. Đồng thời, hải quân Anh đã trở thành lực lượng chủ yếu. Thương thuyền Anh thay thế Hà Lan như một người lãnh đạo thương mại quốc tế. Vào những năm 1760 đế chế thuộc địa của Anh quốc là lớn nhất thế giới. Anh đã chậm trong việc thành lập các thuộc địa ở Bắc Mĩ. Đầu tiên, người Anh thăm dò trong lục địa hy vọng tìm thấy lối đi Tây Bắc. Sẽ có được lộ trình đường thuỷ phía Bắc đến thông qua châu Á hoặc gần Bắc Mĩ. Tây Ban Nha đã kiểm soát lộ trình phía Nam vòng quanh Cape Horn ở Nam Mĩ. Không may, không thể tìm thấy đường thông qua Tây Bắc. Henry Hudson là người đầu tiên tìm ra lộ trình thông qua Tây Bắc. Năm 1609 ông ta nhổ neo nhân danh Hà Lan. Ông ta đã vẻ nhiều hải đồ bờ biển của phía Đông Bắc Mĩ và khám phá dòng sông mà hiện nay mang tên của ông. Ông khám phá vịnh ở miền Bắc Canada cũng đặt theo tên ông. Khi họ tìm thấy con đường thông qua Tây Bắc, người Anh bắt đầu định cư dọc theo phía đông bờ biển của Bắc Mĩ. Đầu tiên những công ty cá nhân hoặc những cá nhân thành lập những khu định cư thuộc địa này. Năm 1607 họ thành lập Jamestown,
30 bây giờ đó là Virginia. Jamestown là khu đầu tiên mà Anh chiếm làm thuộc địa ở Bắc Mĩ. Năm 1620 những người khai hoang thành lập Plymouth, bây giờ là Massachusetts. Những người thành lập hy vọng những khu định cư này sẽ đem lại lợi nhuận cho quốc gia. Chỉ vài nhà người đầu tư, tuy nhiên, thực hiện kiếm được lợi nhuận từ các thuộc địa. Bản thân những người đi khai hoang đã định cư ở Bắc Mĩ vì nhiều lý do khác. Một số người tìm thấy sự tự do chính trị và tôn giáo lớn hơn. Những người khác đơn giản chỉ muốn cuộc sống của gia đình họ tốt hơn. Nhiều di dân đã không đến theo tinh thần tự nguyện. Cũng giống như những đế chế thuộc địa khác, Anh cũng mang những nô lệ đến những thuộc địa của họ. Phần lớn những thuộc ở châu Âu đều được cai trị từ chính quốc. Bản thân chính phủ có khuynh hướng tách rời đế chế của Anh. Phần lớn những thuộc địa của Anh có một vài hình thức đại diện kết cấu. Chính quyền kiểm soát, tuy nhiên, vẫn vững chắc với nước Anh. Vào cuối những năm 1700, Hoa Kì đã tách ra từ Anh để tạo nên một loại hình chính phủ mới. Trong những thuộc địa ở Mĩ, tư duy khai sáng đầy cảm hứng mới dựa trên những lý tưởng về chủ quyền phổ biến. Ngày càng có nhiều người dân ở thuộc địa Bắc Mĩ của Anh cho rằng họ nên được cai trị như tiêu chuẩn của luật và tự do như cai trị người dân ở Anh. Những ý tưởng về chính phủ không chỉ dừng lại ở châu Âu vào những năm 1770. Ở xa Bắc Mĩ, các thuộc địa Anh phát triển một cách mới của cuộc sống. Họ đã tạo ra những mối quan hệ với quốc gia. Quan tâm đầu tiên của họ là luật thương mại Anh, nhưng họ cũng không thích dọc theo những đường biên giới của họ. Các thuộc địa của Anh được họp lại dọc bờ Đại Tây Dương của Bắc Mĩ. Những thuộc địa của Pháp ở phía Bắc và phía Tây, được gọi là New France. Trong những năm 1700, những người di dân người Mĩ gốc Anh di chuyển về hướng Tây ngang qua dãy núi Appalachian. Sự va chạm với người Pháp dường như không thể tránh. Pháp và Anh đã chiến đấu ở châu Âu trong nhiều thập kỉ. Cuộc xung đột tràn sang Bắc Mĩ và kết quả năm 1754 là cuộc chiến tranh Pháp và Ấn. Ở châu Âu gọi là Chiến tranh 7 năm (Seven Year’s War) từ 1756 đến 1763. Chiến thắng của Anh trong cuộc xung đột đã được xác nhận qua Hiệp ước Pari năm 1763 (Treaty of Paris). Anh giành được quyền kiểm soát phần lớn Bắc Mĩ. Họ cai trị từ Đại Tây Dương đến sông Mississippi và từ vịnh Mexico đến Bắc Băng Dương. Quyền kiểm soát cũng như thế lực của Anh đã lên đến tầm cao mới. Chiến tranh với Pháp trái lại Anh phải nợ một món nợ khổng lồ. Những nhà chính trị Anh đã bảo vệ các thuộc địa. Bây giờ họ kỳ vọng các thuộc địa đáp lại sự cố gắng đó. Chính sách của Anh hướng về các thuộc địa vào những năm 1760 là không thuận lợi. Năm 1763 sau một cuộc nổi loạn của người Mĩ gốc Ấn, chính phủ Anh ngăn cấm các thuộc địa di dân đến phía Tây của Appalachians. Chính phủ cũng bắt đầu thi hành luật thương mại đối với người buôn bán của nó. Đạo luật Đường năm 1764 (Sugar Act), ví dụ, đánh thuế vào đường và những hàng nhập khác từ các thuộc địa không phải của Anh. Những người thực dân xem những điều đó như đe doạ đến quyền tự do của họ.
31
Năm 1765 Nghị viện thông qua Đạo luật Tem (Stamp Act). Đây là luật đánh một thuế, trong hình thức của một con tem đặc biệt, trên tất cả những loại tài liệu, bao gồm những di chúc, những hợp đồng, những văn tự cầm cố, những báo chí, và những tờ rơi. “Một con tem dán vào mỗi bài báo cho biết thuế đã được trả.”7 [15, tr.693]. Những người thực dân phản đối thuế. Khi họ tẩy chay hàng hoá Anh, Nghị viện chùn lại và bãi bỏ Đạo luật Tem. Với mỗi thuế mới được ban hành ra, sự kháng cự của các thuộc địa chống lại chính quốc ngày càng tăng. Trước tình hình đó, một số luật phải được bãi bỏ, nhưng vẫn giữ lại một số đạo luật. Không có người đại diện trong Nghị viện Anh, những người thực dân tranh luận phản đối “sự đánh thuế mà không có đại diện” (taxation without representation). Họ gọi là sự bạo ngược. Sự tồi tệ trong mối quan hệ giữa Anh và các thuộc địa ngày càng tăng. Triều đại từ năm 1760 đến 1820, vua George III ông thuộc dòng Hanoverian được sinh ra ở Anh. Ông ta cho rằng Nghị viện cũng có quá nhiều quyền lực. Ông muốn chọn các bộ trưởng của ông ta. Sáu bộ trưởng tiêu biểu chỉ nắm quyền trong 8 năm. Đó là khoảng thời gian làm đảo lộn sự phá vỡ cuối cùng với các thuộc địa Mĩ xuất hiện. Những người thực dân vô tình kháng cự chính sách Anh, George III kiên quyết bắt buộc họ tuân theo. Năm 1770, ông ta tìm được một bộ trưởng ưu tú, Lord North, người sẵn sàng tiến hành các chính sách của ông ta. Nhiều người thực dân Anh ở Bắc Mĩ tỉnh ngộ tách ra từ khỏi sự cai trị của chính quốc Anh là cần thiết để đàm bảo những quyền của họ. Những người thực dân Anh ở Bắc Mĩ vẫn chưa liên minh để giành độc lập, tuy nhiên. Khoảng một phần ba, gọi là những người yêu nước, muốn độc lập. Một phần ba khác, gọi là những người trung thành, hoặc Tories, phản đối độc lập. Những người thực dân còn lại không đứng về phía nào. Năm 1773, chính quyền của Lord North đã trao cho Công ty Đông Ấn Anh (British East India Company) một độc quyền là vận chuyển trà đến thẳng các thuộc địa. Những người thực dân tức giận ném lô hàng chè vào cảng Boston (Boston Harbor), một sự kiện trở nên được biết như Bữa tiệc chè Boston (Boston Tea Party). Nghị viện đối phó lại bằng cách cho đóng cửa cảng Boston. Những người thực dân xem hành động đó là chiến thắng và đạo luật khác được thông qua vào năm 1774 là những đạo luật không khoan nhượng (Intolerable Acts).
7 Nguyên văn: “A stamp glued to each article indicated the tax had been paid.”
Những người yêu nước muốn độc lập đã hành động. Vào mùa thu năm 1774, những người đại diện từ 12 của 13 bang đã họp ở Philadelphia tiến hành Đại hội lục đại lần thứ nhất (First Continental Congress). Họ yêu cầu những người thực dân cũng phải được công nhận đầy đủ các quyền như công dân ở chính quốc Anh. Đến tháng 4 năm 1775, quân đội Anh ở Boston bắt đầu cảm thấy bị đe doạ bởi sự kháng cự ngày càng quyết liệt của những người thực dân. Để đối phó người Anh cố gắng tịch thu những khẩu súng thuộc địa và thuốc súng được lưu trữ gần đó. “…tháng 4 – 1775 trận
32 chiến bắt đầu tại Lexington và Concord”8 [15, tr.694] và “Cách mạng Hoa Kì bắt đầu”9 [13, tr.498]. Cuộc chiến lan rộng ra, và những người thực dân chiến đấu một cách chậm chạp nhưng chắc hẳn hướng đến công khai cuộc nổi loạn và tuyên bố độc lập. Thái độ kiên quyết của chính phủ Anh và sử dụng lính đánh thuê Đức đi một chặng đường dài hướng đến giải thể lòng trung thành lâu đời đối với quê hương và sự cạnh tranh trong số các thuộc địa tách ra. Common Sense (1775), một cuộc tấn công nổi bật đến Anh gần đây quyết liệt Thomas Paine (1737 -1809), cũng động viên dư luận quần chúng ủng hộ độc lập. Một cái đĩa bán chạy nhất với số lượng 120,000 bản trong vài tháng, ý tưởng giễu cợt của Paine nếu một đảo nhỏ cai trị một đại lục lớn vĩ đại. Trong cuộc gọi tự do của ông và chính phủ cộng hoà, Paine đã thể hiện sự trưởng thành của Hoa Kì về sự tách biệt và ưu việt về đạo đức. Ngày 4 - 7 - 1776, Đại hội lục địa lần thứ hai (Second Continental Congress) thông qua Tuyên ngôn Độc lập (Declaration of Independence). Được thảo ra bởi Thomas Jefferson, Tuyên ngôn Độc lập táo bạo kê khai những hành động hung tàn tận tâm của George III và tự tin tuyên bố các quyền tự nhiên của nhân loại và chủ quyền của chính quyền Mĩ. Đôi khi gọi là bài xã luận chính trị lớn nhất của thế giới, ảnh hưởng Tuyên ngôn Độc lập nó phổ biến các quyền truyền thống của người Anh và làm cho các quyền của họ trở thành quyền của tất cả nhân loại. Nó bắt đầu rằng “mọi người đàn ông sinh ra đều bình đẳng… Họ được tạo hoá ban cho những quyền… Trong số đó là sống, tự do, và theo đuổi hạnh phúc” (“all the men10 are created equal…They are endowed by their Creator with certain unalienable rights….Among these are life, liberty, and the pursuit of happiness.”) Không một văn kiện chính trị nào khác ở Mĩ mà có động cơ kích động như vậy, trong nước hoặc ở cả bên ngoài. Nhiều những gia đình Mĩ vẫn giữ lòng trung thành với Anh, còn nhiều phân biệt khác còn chua chát. Sau Tuyên ngôn Độc lập, xung đột thường xuyên dưới hình thức một cuộc nội chiến do nhà ái quốc (patriot) gây ra để chống lại người trung thành với chính quốc (loyalist). Người trung thành với chính quốc (loyalist) có khuynh hướng giàu có và không quá khích về chính trị. Nhiều những nhà yêu nước (patrots) cũng giàu có - đặc biệt có John Hancock và George Washington - nhưng bản thân sẵn lòng liên minh với những người nông dân và thợ thủ công trong một liên minh rộng. Liên minh này (coalition) quấy rối những người trung thành với chính quốc (loyalist) và tịch thu tài sản của họ để giúp trả đối với sự cố gắng chiến tranh Mĩ. Nền tảng xã hội rộng của những nhà cách mạng hướng đến tiến hành tự do cách mạng dân chủ. Chính quyền quốc gia đã mở rộng quyền quyền bầu cử đến nhiều người11 hơn trong suốt tiến trình chiến tranh và thiết lập bản thân họ lại như những người cộng hoà. Trên trường quốc tế, Pháp đồng cảm với những người thực dân Anh ở Bắc Mĩ ngay từ khi cuộc chiến bắt đầu. Pháp muốn phục thù đối với những thất bại nhục nhã từ cuộc chiến tranh bảy năm (Seven Years’s War). Là nước trung lập chính thức cho đến
8 Nguyên văn: “...in April 1775 fighting began at Lexington and Concord.” 9 Nguyên văn: “The American Revolution had begun.” 10 Từ “…all the men…” chỉ thừa nhận quyền bình đẳng của những người đàn ông da trắng, đến năm 1870 đàn ông da đen mới có quyền bầu cử và đến năm 1920 phụ nữ Mĩ mới có quyền đi bầu cử. 11 “…(but not to any women)…” [15, tr.694]
33 năm 1778, Pháp tiếp tế một số lượng lớn súng và thuốc súng được sử dụng bởi những nhà cách mạng Mĩ, rất nhiều nguồn sức mạnh bên ngoài cung cấp vũ khí cho “cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc”12 trong thời đại của chúng ta. Đến năm 1777, những thanh niên tình nguyện Pháp đến Virginia, và một quý tộc trẻ rất nhanh, hầu tước de Lafayette (1757 - 1834), nhanh chóng trở thành một nhà chiến thuật xuất sắc giành được phần lớn lòng tín nhiệm của Washington. Năm 1778 chính phủ Pháp sẵn sàng giúp đỡ dưới hình thức một sự liên minh đến đại sứ Mĩ ở Pháp, Benjamin Franklin, và năm 1770 và 1780 Tây Ban Nha và Hà Lan công khai chiến tranh chống lại Anh. Catherine đại đế của Nga giúp tổ chức Liên minh vũ trang trung lập (League of Armed Neutrality) để mà bảo vệ các quyền vận chuyển trung lập, Anh từ chối thừa nhận. Vì thế vào năm 1780 Anh quốc tham gia vào chiến tranh đế quốc không những chống lại phần lớn châu Âu mà còn 13 thuộc địa. Trong những trường hợp này, và đối mặt với sự trái ngược dữ dội ở Ấn Độ, Tây Ấn và Yorktown ở Virginia, chính phủ Anh mới quyết định giảm đi những thất bại của nó. Những người đàm phán Mĩ ở Pháp đã tiếp nhận. Họ e dè rằng Pháp muốn có một hiệp ước mới sẽ kiềm chế Hoa Kì phía Đông dãy núi Allegheny và cung cấp cho Anh những ruộng đất phía Tây của Alleghenies đến bạn đồng minh của Pháp, Tây Ban Nha. Do đó những nhà thương thuyết Mĩ bị bỏ rơi các đồng minh Pháp của họ và chấp nhận những điều khoản cực kỳ thuận lợi mà Anh tạo cơ hội. Theo Hiệp ước Paris năm 1783 (Treaty of Paris), Anh công nhận nền độc lập của 13 bang thuộc địa và nhượng lại tất cả vùng của nó giữa dãy núi Allegheny và sông Mississppi. Ra khỏi cuộc đua quyết liệt của thế giới cũ (Old World), người Mĩ nắm quyền thống trị trên một lãnh thổ rộng lớn. Vấn đề tự do của cách mạng Mĩ được củng cố chắc chắn qua Hiến pháp liên bang, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền, và thành lập một nhà nước cộng hoà. Tập hợp lại ở Philadelphia vào mùa hè năm 1787, các đại biểu đến hội nghị lập hiến (Constitutional Convention) kiên quyết phải kết thúc thời kỳ suy yếu kinh tế, xã hội không ổn định, chính phủ trung ương đã suy yếu khi theo đuổi độc lập. Các đại biểu quyết định đồng ý cho phép liên bang, hoặc trung ương, những quyền quan trọng chính phủ: quy định thương mại trong và ngoài nước, quyền đánh thuế, và cách thức để làm cho những điều luật có hiệu quả. Quy tắc chắc chắn sẽ được thẳng thắn đặt ra trong bối cảnh chính quyền đại diện. Các thượng nghị sĩ và đại biểu quốc hội Hoa Kì là những người sẽ được uỷ nhiệm lập pháp của các cử tri, và tổng thống của nền cộng hoà sẽ là một viên chức đắc cử. Chính phủ trung ương sẽ hoạt động trong cơ cấu kiểm tra và cân đối của Montesquieu. Những chi nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp sẽ cân bằng nhau một cách có hệ thống. Quyền lực của chính quyền liên bang sẽ lần lượt được kiểm tra bởi quyền lực riêng lẻ của từng tiểu bang. Khi những kết quả của những cuộc tranh luận bí mật của Hội nghị lập hiến được trình ra để các bang phê chuẩn, một cuộc tranh luận công khai bắt đầu. Những người chống lại dự định hiến pháp - những nhóm phi liên bang (Antifederalists) - buộc tội các người soạn thảo văn kiện mới đã lấy quá nhiều quyền từ các bang và 12 “… “wars of national liberation”…” [15, tr.694]
34 khiến chính phủ liên bang trở nên quá mạnh. Hơn nữa, nhiều khiếp sợ những nhóm phi liên bang đối với những quyền cá nhân và những sự tự do cá nhân mà những quyền đó có được do họ mới chiến đấu mà có. Để khắc phục những phản đối, những người chủ trương lập chế độ liên bang long trọng tuyên bố báo hiệu những sự tự do cơ bản ngay khi hiến pháp mới được chấp nhận thông qua. Kết quả không lâu thì đại hội đầu tiên được thông qua sau khi gặp ở New York vào tháng 3 - 1789. Những đề nghị sửa đổi đã hình thành nên một Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) để bảo vệ quyền cá nhân. Phần lớn họ - xét xử bởi hội đồng xét xử, theo đúng thủ tục của luật pháp, quyền để tập hợp, tự do vô lý, tìm kiếm - nguồn gốc có từ luật người Anh và trong Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) Anh năm 1689. Khác - tự do ngôn luận, báo chí, và tôn giáo - phản ánh tự nhiên - lý thuyết luật và kinh nghiệm Mĩ. Hiến pháp Hoa Kì (American Constitution) và Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) đã chỉ ra điểm mạnh và giới hạn của cái gọi là “chủ nghĩa tự do cổ điển” (classical liberalism). Tự do cũng có nghĩa là đại diện chính phủ nhưng không cần thiết nghĩa là nền dân chủ, với nguyên tắc của nó một người, một phiếu bầu. Chế độ dân chủ của Mĩ năm 1789 hầu như không lý tưởng. Các bang bỏ phiếu bầu nam giới trưởng thành. Hầu hết cử tri được bầu phải có tài sản cá nhân. Phụ nữ không thể bỏ phiếu. Những người Mĩ gốc Phi bị ở trong chế độ nô lệ thì không có quyền chính trị nào. Rõ ràng nhiều quyền tự do phải là chiến thắng. Tuy nhiên, cách mạng Hoa Kì tạo ra một chính phủ mới, mối quan hệ dân chủ trong những công dân. Không phải tất cả những nhà cách mạng đồng ý hình thức cuối cùng của chính phủ tạo ra bởi hiến pháp. Tuy nhiên, lòng tin cộng đồng của họ về kinh tế và chính trị của quốc gia mới đã giữ họ cùng nhau. Họ đã tạo ra quốc gia lấy cảm hứng từ lòng trung thành. 2.2.3. Thảo luận “Kỉ nguyên của cách mạng tự do chính trị đã bắt đầu ở Tân Thế giới.”13 [15, tr.692] Qua trích dẫn cho ta một dự cảm một cuộc cách mạng mà bản thân nó đã chứa mầm mống của sự tự do và sự tự do sẽ khiến nhà nước này mang một màu sắc mới hoàn toàn. Thực vậy, theo chúng tôi cuộc cách mạng Hoa Kì không đem đến thêm nhiều nữa tự do và đã không thúc đẩy thêm tự do vì nó diễn ra trên một xứ sở vốn đã tự do. Nếu thế, cách mạng phải chăng không cần thiết với nó bởi người dân ở đây vẫn được đảm bảo những quyền mà đã là con người chắc phải có. Một xứ sở của sự tự do đã kết tinh thành những ý tưởng tự do đến không ngờ, theo Thomas Jefferson - người soạn thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập - long trọng tuyên bố “Mỗi người dân thường, và tất cả mọi người trên trái đất này, đều có quyền tự trị” [27]. Qua phân tích và ý tưởng của Thomas Jefferson cho thấy rằng, quyền tự do và tự trị là quyền tuyệt đối của mỗi con người ở Mĩ và không dừng lại ở đó, mà nó còn lan tràn giá trị đến toàn nhân loại, không giới hạn không gian và thời gian, kể cả sự khác biệt trong thể chế chính trị. Bản thân mỗi con người hãy tự là ngọn đuốc cũng như hãy tự soi đường trên bước chân của chính mình. Trong thời kỳ nước Pháp toả sáng với cái gọi là trào lưu Triết học Ánh sáng với những nhà khai sáng mang tư tưởng tiến bộ, vượt thời đại, họ là những vì sao lấp lánh trên bầu trời nước Pháp nhưng ánh sáng ấy đã vượt Đại Tây Dương rọi 13 Nguyên văn: “The era of liberal political revolution began in the New World.”
35 sang Tân Thế giới, truyền cho những người con của cách mạng nguồn cảm hứng thiết lập nên thể chế chính trị mang tính kiểu mẫu của nền tự do dân chủ.
Thông qua Giáo trình, chúng tôi nhận thấy tác giả trình bày nguyên nhân đưa đến cách mạng Hoa Kì quá tiểu tiết và mang tính dàn trải. Trong khi, theo tài liệu tiếp cận, khi mở đầu về nguồn gốc của cách mạng các tác giả nhận định rõ rằng “Cách mạng Hoa Kì đã có nguồn gốc trực tiếp bởi tranh luận về những thứ thuế.”14 [15, tr.693]. Theo chúng tôi, việc giảng dạy một vấn đề quá rộng trong hoạt động dạy học ở bậc Phổ thông khó có thể thực hiện cũng như trong buổi giao thời “cũ - mới”. Do đó, cần xác định rõ và cụ thể những nguyên nhân chính yếu nảy sinh cách mạng Hoa Kì (cũng như các cuộc cách mạng khác).
Thông qua giáo trình và tài liệu tiếp cận, chúng ta có thể thấy năm 1763 có thể xem là bước chuyển - một bước chuyển khiến tình thế thay đổi một cách ngột ngạt. Giáo trình đề cập “...,từ sau năm 1763, chính phủ Anh lại tăng thêm các yêu sách về tài chính, tập trung vào việc thu thuế.” [8, tr.46], trong khi đó, tài liệu tiếp cận cho thấy “Năm 1763 sau một cuộc nổi loạn của người Mĩ gốc Ấn, chính phủ Anh ngăn cấm các thuộc địa di dân đến phía Tây của Appalachians. Chính phủ cũng bắt đầu thi hành luật thương mại đối với người buôn bán của nó.”15 [13, tr.498] Như vậy, sự tương đồng giữa các tài liệu cho thấy, trước 1763 chính phủ Anh vẫn cai trị nhưng sự cai trị mang tính tự do đối với người dân thuộc địa và trước 1763 chính quốc Anh dường như không rảnh mắt nhìn ngó sang Bắc Mĩ bởi chiến tranh với các thế lực. Nhưng sự phát triển của Bắc Mĩ đã khiến chính phủ phải ngạc nhiên và đã đến lúc cần phải hãm lại sự phát triển này bằng cách ban hành hoàng loạt đạo luật đồng thời sự tự do của người dân ở các thuộc địa đã bắt đầu bị hạn chế, quyền tự do bị ảnh hưởng.
Những di dân ra đi, họ mang cho mình ước vọng tự do. Khi đặt chân xuống thuyền rời bỏ lục địa châu Âu, họ cũng muốn trút bỏ những thành kiến, những buộc ràng, những âu lo, những gánh nặng của quá khứ. Tuy nhiên, với họ sự tôn trọng uy quyền của hoàng gia Anh vẫn còn ở một mức độ nhất định, do đó, thông qua Hội nghị lục địa họ đã dâng lên lời thỉnh nguyện yêu cầu chính quốc hạn chế chính sách công thương mà không phải là lời hiệu triệu lật đổ quyền lực. Như vậy, đến thời điểm này, họ vẫn tôn trọng chính quốc nhưng đồng thời cũng mong muốn có được từ chính quốc sự tôn trọng quyền tự do của họ. 2.3. Cách mạng Pháp (1789 - 1799)
14 Nguyên văn: “The American Revolution had its immediate origins in a squabble over increased taxes.” 15 Nguyên văn: “In 1763 after an American Indian uprising, the British barred colonists from settling west of the Appalachians. The government also began enforcing its mercantilist trade laws.”
Cách mạng Pháp - một cuộc cách mạng đã làm châu Âu từ “hoảng hốt đến căm phẫn”, một cuộc cách mạng có sức hút kỳ lạ với châu Âu làm châu Âu luôn hướng mắt về. Và, vì sao cách mạng Pháp lại giành được sự ưu ái của châu Âu, luôn được châu Âu chú ý. Đấy là vấn đề mà chúng tôi đặt ra khi tìm hiểu về cách mạng Pháp. Cũng như cách mạng Anh và cách mạng Hoa Kì. Chúng tôi, cũng điểm lại sơ nét về nội dung tiến trình cách mạng Pháp cũng như cố phục dựng lại góc tiếp cận vấn đề từ Giáo trình và tài liệu tiếp cận.
36
(1) Giáo trình Lịch sử Thế giới Cận đại của tác giả Vũ Dương Ninh và Nguyễn Văn Hồng, được sử dụng giảng dạy Học phần Lịch sử Thế giới Cận đại, được chúng tôi sử dụng nhằm điểm lại sơ nét về cách mạng Pháp.
(2) Chúng tôi sử dụng tài liệu phục vụ cho công tác tiếp cận gồm: Bài giảng online của Giáo sư John Marriman tại Trường Đại học Yale. Holt, Rinehart and Winston. (2005). Holt World History: The Human Journey.
Texas: Holt, Rinehart and Winston.
Littlefield, H.W. (1965). History of Europe 1500 - 1848, New York: Barnes &
Noble Inc.
McKay, J.P., J.P., Hill, B.D., & Buckler, J. (1999). A History of Western
Society. Boston, MA: Houghton Mifflin. 2.3.1. Nội dung “Cách mạng Pháp” trong giáo trình “Lịch sử Thế giới Cận đại”
Tác giả đã biên soạn cách mạng Pháp với dung lượng 42 trang. Bao gồm các
nội dung:
(1) Tình hình nước Pháp trước cách mạng: trong phần này tác giả trình bày về chế độ quân chủ chuyên chế thời kì vua Louis XVI, đồng thời cho thấy tình trạng lạc hậu về nông nghiệp. Đến thế kỉ XVIII, nền công thương nghiệp của Pháp đang trên đà phát triển nhưng bị sự cản trở bởi chế độ phong kiến. Tiếp đến, là tình trạng đẳng cấp ở Pháp đã chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt. Trong lúc nước Pháp đang trong bóng tối bỗng ánh sáng đâu đó thắp lên với cái gọi là trào lưu tư tưởng “Ánh sáng”. Cuối cùng trong phần này, tác giả đề cập đến vấn đề khủng hoảng của chế độ phong kiến ngày càng trầm trọng và đó cũng là nguyên nhân đưa đến cách mạng Pháp thông qua giải tán Hội nghị Thân Hào nhà vua cho triệu tập Hội nghị Ba cấp và tiếp theo sau là một loạt những vấn đề xuất hiện sẽ được tác giả trình bày trong tiến trình cách mạng Pháp.
(2) Quá trình diễn biến của cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794): với
tiến trình cách mạng Pháp tác giả trình bày theo từng giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất - cách mạng bùng nổ và nền thống trị của đại tư sản lập hiến (từ 14 - 7 - 1789 đến 10 - 8 - 1792): trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng Pháp tác giả đề cập đến cao trào cách mạng cũng như sự cáo chung của nền quân chủ phong kiến. Từ sau Hội nghị ba đẳng cấp, nước Pháp bắt đầu rung chuyển. Sự kiện quần chúng tấn công Bastille được xem là thắng lợi cách mạng. Chiến thắng Bastille kéo theo sự rung chuyển tại các chính quyền địa phương. Sau khi lật đổ nền quân chủ chuyên chế, chính quyền chuyển vào tay đại tư sản tài chính, được gọi là phái Lập hiến. Ngôi vua vẫn duy trì. Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, đồng thời ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển công thương nghiệp. Năm 1792, ban hành Hiến pháp mới, tuy nhiên Hiến pháp cũng có một số hạn chế nhất là việc chia công dân thành hai loại đó là công dân tích cực và công dân tiêu cực. Như vậy, Hiến pháp đã vi phạm nguyên tắc “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” nêu ra trong “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền”. Các chính sách của Quốc hội Lập hiến ngày càng tỏ ra không muốn giải quyết yêu cầu của quần chúng. Như vậy, cách mạng lại tiếp tục và trong cách mạng các câu lạc bộ chính trị đóng vai trò quan trọng. Sau khi Bastille thất thủ, một số quý tộc trốn sang nước ngoài đặt
37 trung tâm nhằm trông chờ sự giúp đỡ từ các nước châu Âu. Louis XVI, luôn ra sức chống đối, nhà vua tiến hành trốn thoát khỏi Pari nhưng trên đường đi không may bị bắt lại. Tin tức phản động đã gây nên làn sóng căm phẫn trong người dân, nhân dân ùa vào cung điện, tự vũ trang đòi xử tử nhà vua và thiết lập nền cộng hoà. Nhưng nhờ sự giúp đỡ của thế lực phản động nên nhà vua vẫn giữ ngôi cho đến 8 - 1792. Lúc này, nước Pháp đứng trước nguy cơ chiến tranh, những người thuộc phái Girondins là bộ phận tích cực tuyên truyền chiến tranh. Và Pháp tuyên chiến với Áo ngày 20 - 4 - 1792 không hề làm thay đổi tình chất của cuộc chiến. Các cuộc hành quân của những đội quân tình nguyện tiến về Pari đầy khói lửa.
Giai đoạn thứ hai - nền thống trị của tư sản cộng hoà Girondins: các công xã cách mạng được thành lập, nắm toàn bộ chính quyền trong thành phố. Sau cuộc tấn công, nhân dân chiếm cung điện, và bắt giam nhà vua. Một sắc lệnh thành lập “Hiệp hội dân tộc” thay thế cho Quốc hội lập pháp được ban hành với chế độ bầu cử cho tất cả nam giới từ 21 tuổi trở lên. Chế độ quân chủ lập hiến sụp đổ, chính phủ mới thành lập gồm phần lớp các bộ trưởng phái Girondins. Một trận chiến ác liệt tại một ngọn đồi ở làng Valmy ngày 20 - 9, giữa quân Pháp và Phổ. Quân Phổ thất bại, nước Pháp được cứu thoát nhờ tinh thần cách mạng và lãnh đạo kiên quyết của công xã cũng như nhóm Jacobin. Sau đó, Hiệp hội dân tộc khai mạc, tuyên bố bãi bỏ chính quyền nhà vua và thiết lập nền cộng hoà. Trong lúc này, mâu thuẫn giữa Jacobin và Girondins ngày càng lên đến đỉnh cao. Và cuối năm 1792, vấn đề xử lý nhà vua đặt lên hàng đầu vì người ta phát hiện ông bí mật liên hệ với các nước phong kiến bên ngoài nhằm chống lại nền cộng hoà. Nhưng, cuối cùng nhà vua bước lên ngọn đầu đài, dưới áp lực quần chúng. Đến đây, chính phủ Girondins vẫn chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho quần chúng nhân dân vì thế làn sóng bất mãn lại dâng cao. Song, năm 1793, nền cộng hoà non trẻ phải đối phó với thù trong, giặc ngoài. Tuy nhiên, các sĩ quan Girondins đã đầu hàng địch ở nhiều nơi. Và, đến khi những chính sách của phái Girondins ngày càng lộ rõ, nhân dân vũ trang yêu cầu đại biểu Girondins ra khỏi Hiệp hội. Chính quyền chuyển sang tay phái Jaconbin. Chính quyền Jacobin được thiết lập trong điều kiện nước Pháp đang bên bờ vực, nhưng nắm bắt nguyện vọng cũng như ý nguyện của mọi người, chính quyền Jaconbin đứng đầu là Robespierre đã cho thực hiện những chính sách tiến bộ trong đó chú trọng vấn đề giải quyết ruộng đất cho người nông dân, đã tạo nên tinh thần cách mạng cho họ và nước Pháp thoát khỏi thù trong cũng như giặc ngoài. Sau đó, chính quyền đã thông qua Hiến pháp mới vào năm 1793 và được đón nhận như một thắng lợi của cách mạng. Nhằm chống lại phản cách mạng, Hiệp hội tăng cường đàn áp, bọn đầu cơ cũng cũng được đưa ra xét xử. Với sắc lệnh tổng động viên toàn quốc và với tinh thần ái quốc, nước Pháp đã quét sạch quân thù ra khỏi lãnh thổ. Song, trong lúc tình hình rối ren, bọn con buôn ra sức đầu cơ và mâu thuẫn nội bộ đã dẫn đến sự tan rã của phái Jaconbin.
(3) Tính chất và ý nghĩa Lịch sử của cuộc cách mạng tư sản Pháp: là cuộc cách mạng có sức ảnh hưởng lớn trong phạm vi châu Âu. Ba giai đoạn của cách mạng là là ba bậc thang thể hiện cách mạng phát triển và đến thời kỳ Jacobin là đỉnh cao. Ngoài ra, cách mạng Pháp cũng gặp phải một số hạn chế.
(4) Nền thống trị của giai cấp tư sản phản cách mạng (1794 - 1815): Hiến
38 pháp 1795 đã thiết lập nên “Uỷ ban Đốc chính” tập trung chính quyền vào tay 5 người. Dưới chế độ Đốc chính, đời sống người dân sa sút. Do đó, phong trào quần chúng nhân dân tiếp tục diễn ra và lo lắng trước tình thế giai cấp tư sản mong có một chính quyền độc tài như Cromwell. Và Napoléon đã được giai cấp tư sản chú ý đến, và với cuộc chính biến đã chấm dứt thời kỳ Đốc chính. Napoléon tiến hành chinh phạt hầu hết các nước châu Âu và 1815 đã bị đánh bại bởi sự hợp lực của các nước đồng minh. Và hồi kết của Napoléon chẳng huy hoàng như thời kì ban đầu, bởi ông sống cuộc sống còn lại trên hòn đảo thuộc Đại Tây Dương. Đồng thời, một lần nữa chế độ quân chủ lại được phục hồi sau bao ngày biến động. 2.3.2. Nội dung “Cách mạng Pháp” trong tài liệu “A History of Western Society”, Bài giảng online của Giáo sư John Merriman “Lecture 6 - Maximilien Robespierre and the French Revolution” và “Holt World History: The Human Journey”
Không một nước nào chịu ảnh hưởng từ kết quả của cách mạng Hoa Kì trực tiếp hơn Pháp. Hàng trăm sĩ quan, giới chức Pháp đã phụng sự ở Mĩ và đã có cảm hứng từ kinh nghiệm.
Giống như cách mạng Hoa Kì, cách mạng Pháp có nguồn gốc trước mắt là từ những khó khăn về tài chính của chính phủ. Cách mạng Pháp là quá trình mà nhờ đó mà chế độ chuyên chế ở Pháp nhường lại cho nền dân chủ, và sự phân biệt giai cấp nhường lại cho bình đẳng xã hội. Cách mạng Pháp trong nghĩa rộng hơn là toàn bộ châu Âu phải vận động bắt đầu ở Pháp và phổ biến qua châu Âu trong suốt giai đoạn Napoleonic và nó đập tan chế độ cũ. Suốt thế kỉ XIX những tư tưởng và nguồn cảm hứng của cách mạng Pháp vẫn tiếp tục chi phối chính trị. Tầm quan trọng vĩ đại của Lịch sử cách mạng Pháp nằm trong nét đặc sắc của nó như là người tạo ra cách mạng thế giới, và với sức mạnh và sự kiên trì với những ý tưởng cơ bản của nó.
Những cố gắng của các bộ trưởng dưới thời trị vì Louis XV để tăng thuế bị cản trở bởi những toà án tối cao mà dẫn đầu là Nghị viện Pháp, sức mạnh được tăng cường bởi sự chống đối phổ biến. Cảm giác của sự bất ổn trong những người nông dân, giai cấp tư sản, giai cấp có đặc quyền, và hoàng gia, nó là nguyên nhân của sự kiệt quệ nền kinh tế ngày càng lan rộng và rõ ràng ở mọi nơi hệ thống chế độ cũ đã bị sụp đổ không giảm bớt đó gọi là Hội nghị các đẳng cấp (Estates General). Hội nghị 3 đẳng cấp bao gồm những người đại diện của tăng lữ, những quý tộc, và những thường dân - 3 đẳng cấp mỗi đẳng cấp bầu đại diện riêng của mình bằng phương pháp gián tiếp. Như một sự nhượng bộ nhu cầu phổ biến Louis XVI cho phép đẳng cấp thứ 3 bầu hai lần đại diện của họ - có nhiều đại biểu đẳng cấp ba cũng như đẳng cấp 1 và 2 kết hợp lại. Thành phần tinh hoa của đẳng cấp thứ ba - những luật sư, thẩm phán, và học giả. Họ có ý định thực hiện cải tổ được gợi ý bởi “bản điều trần”. Với Mirabeau (1749 - 1791), nhà hùng biện quý tộc trẻ và cấp tiến, và với Sieyès (1748 - 1836), một linh mục khôn khéo, người quan tâm đến chính trị hơn tôn giáo, uy thế của đẳng cấp thứ 3 tăng lên rất nhiều. Khi triệu tập hội nghị 3 đẳng cấp vào tháng 5, nhà vua dự định nên giải quyết các vấn đề tài chính. Những cải cách của hệ thống chính phủ chung là xa với suy nghĩ của ông ta. Nhưng những nhà lãnh đạo của đẳng cấp thứ ba kiên quyết trên những thay đổi cơ bản. Để đạt được người ta yêu cầu bỏ
39 phiếu bởi đầu người và đẳng cấp thứ ba vào trong cơ thể. Tổ chức vào trong cơ thể nghĩa là đẳng cấp thứ ba sẽ có thể kiểm soát. Khi vua Louis XVI thất bại quyết định về cách tổ chức Hội nghị 3 đẳng cấp, đẳng cấp thứ 3 tuyên bố bản thân nó là một quốc hội (National Assembly) vào ngày 17 - 6. Vào ngày 20 - 6 các thành viên họp vì mục đích rõ ràng đó là soạn hiến pháp cho nước Pháp và thề sẽ không phân tán khi chưa soạn xong. Louis XVI cố gắng làm cho các đẳng cấp ngồi tách rời, nhưng Mirabeau và các thành viên của đẳng cấp thứ 3 cự tuyệt, thách thức nhà vua sử dụng sức mạnh quân đội. Cuối cùng nhà vua đảo ngược quy định của mình và đưa ra quy định khác, Hội nghị 3 đẳng cấp thực hiện bỏ phiếu chung “bởi đầu người”. Bây giờ hội nghị 3 đẳng cấp trở thành Quốc hội lập hiến (National Constituent Assembly). Louis XVI, bây giờ hoàn toàn dưới sự chi phối của nhóm toà án phản động, sợ sự cố gắng của quốc hội lần lượt bố trí quân đội xung quanh Paris và cung điện Versailles. Việc sa thải Necker lần thứ hai, một bộ trưởng tài chính, cũng khuấy động quốc hội và nhân dân. Ngày 14 - 7 - 1789, một phần vì bởi sự diễn thuyết rất giỏi của nhà báo Camille Desmoulins, quần chúng nhân dân Pari mới giành được Bastille. Hoàng gia kiểm soát Pháp bắt đầu lung lay và một chính quyền địa phương mới - công xã - được thiết lập với những người đại diện được bầu cử. Louis XVI vội vàng triệu hồi Necker, bổ nhiệm Lafeyette chỉ huy vệ binh mới thành lập gần đây, và công nhận chính phủ Paris mới, và chấp nhận cờ tam tài ba màu - đỏ, trắng, xanh. Ông hứa cắt bớt những hoạt động của những đội quân hoàng gia. Louis XVI có những ý định tốt nhưng ông ta bị chi phối bởi nữ hoàng, Mari Antoinette, và toà án. Những đội quân hoàng gia tăng thêm là cơ hội cho buổi tiệc phung phí tại cung điện Versailles. Tin rằng toàn án lần nữa lật đổ quốc hội bằng vũ lực, và những bản báo cáo cường điệu của đảng đã gợi lên sự đói khổ của người dân Paris. Ngày 5 tháng 11 một nhóm phụ nữ bần cùng của Paris đi bộ 12 dặm đến Versailles và họ đòi hỏi bánh mì. Đó là cặp hoàng gia không còn kế hoạch nữa và kế hoạch chưa từng có, vua, hoàng hậu, và người thừa kế ngai vàng buộc phải rời khỏi cung điện Versailles và đi cùng người hộ tống về Paris. Quốc hội lập hiến, được Paris cứu vãn một lần, cũng xa cách thành phố. Sau khi Quốc hội lập hiến di chuyển cảm thấy an toàn và tự tin thành phố như điểm cách mạng công khai. Trong khi các sự kiện đang diễn ra, chế độ cũ đã sụp đổ. Những cuộc nổi dậy trong nhiều quận là nguyên nhân khiến số lượng lớn quý tộc chạy trốn khỏi đất nước, và lâu đài của họ bị đốt cháy. Những quản đốc và thống đốc phái tả, và những công xã, với những viên chức đắc cử, được thành lập. Bộ sưu tập thuế tăng lên rộng rãi. Quốc hội lập hiến không chỉ hạ bệ chế độ cũ mà còn thiết lập nên một chế độ quân chủ giới hạn với quyền lực tối cao trong tay của những người đại diện đắc cử của quốc gia. Công việc của quốc hội phần lớn là xây dựng và cần cho sự bình an của thời đại. Sự huỷ bỏ chế độ phong kiến và kết thúc chế độ nô lệ miễn thuế, đặc quyền đặc lợi của những quý tộc, những quyền của nhà thờ thu thuế thập phân, và quyền độc quyền của giới quý tộc nắm giữ chức vụ. Đã hoàn thành trong những ngày tháng 8,
40 những thay đổi này có ý nghĩa tối cao trong số những thành tựu của Quốc hội lập hiến. Tuyên ngôn Nhân quyền (1789) (The Declaration of the Man), những ý tưởng đưa ra từ Magna Carta (1215) của Anh và Bill of Rights (1688) và từ Tuyên ngôn độc lập Hoa Kì (1776), thậm chí nó còn phản chiếu lại tâm hồn mới của Pháp về “khai sáng” như minh hoạ bởi những nhà bách khoa và Rousseau. Tương lai, nó là một bản tuyên bố những nguyên tắc tự do cơ bản, nó xác định một số quyền dân sự và chính trị nhất định, và nó trở thành ý nghĩa của chiến đấu của cách mạng Pháp. Hệ thống hành chính tổ chức lại hoàn toàn, và đất nước phân chia thành những quận, bang, và công xã. Chính quyền địa phương cũng được thiết lập. Bộ máy tư pháp cũng tổ chức lại và luật cũng bắt đầu sửa đổi lại. Tài chính trong tình trạng căng thẳng những người lãnh đạo cách mạng tạm thời sẽ giải quyết bằng cách dựa vào giáo sĩ. Những vùng đất phong phú, giàu có của Giáo hội công giáo bị tịch thu để bảo đảm đối với tài chính, những người lãnh đạo cách mạng nhận ra Giáo hội công giáo cũng là một phần của chế độ cũ. Năm 1790 Quốc hội ban hành Hiến pháp dân sự của giáo sĩ (Civil Constitution of the Clergy). Luật này bắt đầu rằng người dân trong các giáo xứ và giáo khu sẽ bầu cử giáo sĩ riêng của họ. Chính phủ sẽ trả lương cho những linh mục và giám mục. Tuy nhiên, đức giáo hoàng ngăn cấm tăng lữ chấp nhận sự dàn xếp đó, và phần lớn tuân theo đức giáo hoàng. Bởi vì Hiến pháp dân sự của giáo sĩ đặt nhà thờ dưới sự điều khiển của chính phủ Pháp, nên nhiều tín đồ công giáo đã phản đối cách mạng. Vào năm 1791, Quốc hội đã hoàn thành việc soạn thảo Hiến pháp. Hiến pháp giới hạn uy quyền của nhà vua và phân chia chính phủ làm 3 nhánh - hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Hiến pháp giới hạn những quyền lực của nhà vua rất lớn. Nhà vua không thể làm hoặc phản đối luật theo quan điểm của mình. Những người nam có quyền bầu cử phải trả tiền thuế mới đắc cử những thành viên cho cơ quan lập pháp gọi là Hội đồng lập pháp (Legislative Assembly). Tuy nhiên, mặc dù cải cách, đàn ông giàu có vẫn nắm phần lớn quyền lực chính trị dưới hệ thống mới của Pháp. Louis XVI bất đắc dĩ đồng ý những quyền hạn bị giới hạn của mình. Đồng thời, nhà vua bí mật mưu tính với những kẻ lưu vong (émigrés) nhằm lật đổ chính quyền mới và hồi sinh chế độ cũ. Một cố vấn của nhà vua đã đề xuất nhà vua đi trốn và cố tìm cho được sự giúp đỡ từ các chính quyền bên ngoài thân thiện với chế độ quân chủ. Vào năm 1791, Louis và gia đình ông cố gắng trốn thoát. Mặc dù nhà vua mặc quần áo cải trang, nhà vua thừa nhận hành động của mình. Nhà vua và gia đình của mình bị bắt giữ và đưa trở lại Paris. Mọi người hy vọng dưới chế độ mới - quân chủ lập hiến, nước Pháp có thể phục hồi sẽ không có sự xáo trộn nữa. Tuy nhiên, sự cố gắng trốn thoát của nhà vua, đánh dấu một bước ngoặt. Mọi người không còn lòng tin nữa đối với nhà vua, và họ công khai thảo luận để tạo nên một nhà nước cộng hoà. Chính phủ mới phác thảo trong Hiến pháp 1791 có hiệu lực vào tháng 10, nhưng kéo dài chưa được một năm. Những nhà cách mạng đã không tạo ra một chính phủ vững vàng. Họ thành lập nên một nhánh hành pháp không chắc chắn và quyền lực
41 nhưng cơ quan lập pháp thiếu kinh nghiệm đắc cử bởi chỉ một phần ít trong dân số. Hơn nữa, không phải tất cả người Pháp đều ủng hộ cách mạng16. Những linh mục công giáo và quý tộc phản đối mệnh lệnh mới. Cũng có sự bất mãn trong số những thành viên nghèo trong xã hội Pháp, người bị nghèo túng lại càng nghèo bởi sự gia tăng chi phí sinh hoạt. Các nhóm này, cùng với những hoạt động liên tục của những kẻ lưu vong, khiến cho chính phủ mới phải lo lắng. Hội đồng lập pháp phân chia thành 3 nhóm với những thái độ khác nhau. Một trong 3 nhóm, những người bảo thủ, cảm thấy cách mạng đi đủ xa. Ý tưởng chính phủ của họ là nhà vua có quyền hạn chế. Một nhóm quyết liệt muốn thay đổi mạnh mẽ hơn đề xuất bởi Hội đồng lập pháp. Họ muốn tống khứ nhà vua, thiết lập nên nền cộng hoà, và thực hiện cải cách rộng rãi. Nhóm thứ ba, những người ôn hoà, không có tầm nhìn quá khích. Họ đứng về phía những người cấp tiến hay bảo thủ còn phụ thuộc vào vấn đề hiện tại. Trong hội trường nơi mà ở đó Hội đồng lập pháp họp, mỗi nhóm ngồi vào một khu vực của mình. Những người bảo thủ ngồi bên phải, người ôn hoà ở giữa và những người cấp tiến ngồi bên trái. Ngày nay chúng ta vẫn sử dụng các thuật ngữ right để mô tả một quan điểm bảo thủ, center đối với ý kiến ôn hoà, và left đối với quan điểm tự do. Ba nhóm trong Hội đồng lập pháp thường xuyên bế tắc về các vấn đề trong nước. Tuy nhiên, họ đã thống nhất khi họ đối mặt với nguy cơ tấn công từ các cường quốc châu Âu khác nhằm không phục chế độ quân chủ Pháp. Anh trai của hoàng hậu Marie Antoinette là Emperor Leopold II của Áo, và cùng với vua Frederick William II của Phổ, ông đã ban hành bản Tuyên ngôn Pillnitz (Declaration of Pillnitz). Bản tuyên ngôn đã mời các nhà cai trị châu Âu ủng hộ việc lập lại việc hoàng gia cai trị ở Pháp. Sự đe doạ bởi cuộc tấn công từ bên ngoài dẫn đến Hội đồng lập pháp phải chú ý. Nhiều nhóm trong nước Pháp ủng hộ chiến tranh. Mỗi nhóm trong hội đồng hy vọng thành công trong cuộc chiến sẽ tăng ảnh hưởng của chính nó. Louis XVI ủng hộ chiến tranh bởi vì nhà vua hy vọng quân đội nước ngoài sẽ làm thất bại quân đội Pháp và quyền lực của nhà vua sẽ được phục hồi. Một số người lo lắng chiến tranh sẽ dẫn dắt đến chế độ độc tài. Vào tháng 4 năm 1792, chỉ một vài thành viên phản đối, Hội đồng lập pháp đề nghị tuyên bố chiến tranh với Áo. Hội đồng hy vọng giữ Phổ và những bang của Đức ra khỏi chiến tranh, nhưng nó đã thất bại với mục đích đó. Các chế độ quân chủ châu Âu, bao gồm Phổ và Sardinia, đã đến Áo ủng hộ. Chẳng bao lâu sau đó quân đội của Áo và Phổ xâm chiếm nước Pháp. Lúc đầu Pháp đã không chiến đấu tốt với quân đội Áo và Phổ. Sự lo lắng trong những người công dân Pháp ngày càng tăng và tìm kiếm ai đó để khiển trách bởi những thất bại. Ghi nhận lại của một quan sát viên: “Ở mọi nơi bạn nghe tiếng khóc rằng nhà vua là kẻ phản bội chúng ta, những người tướng phản bội chúng ta, không ai đáng tin,…nước Pháp sẽ bị chiếm trong 6 tuần nữa bởi Áo…chúng ta đang ở trên ngọn núi lửa sẵn sàng phun lửa.”17 [13, tr.516]
16 “…Moreover, not all the French people supported the Revolution…” [13, tr.515] 17 Nguyên văn: “Everywhere you hear the cry that the king is betraying us, the generals are betraying us, that nobody is to be trusted; . . . that Paris will be taken in six weeks by the Austrians . . . we are on a volcano ready to spout flames.”
42
18 Nguyên văn: “During the greater part of the day, the guillotine had been kept busy at its ghastly work; all that France had boasted of in the past centuries of ancient names and blue blood had paid toll to her desire for liberty and fraternity.” These lines from the novel The Scarlet Pimpernel capture the terror of those days when the French Revolution turned bloody.” 19 Nguyên văn: “The Girondins, G-I-R-O-N-D-I-N-S — which is also the name of the Bordeaux soccer team — were from Bordeaux and the department of the Girondin, many of them were. They are merchants. They are free trade people and they also were extremely interested in launching foreign wars to carry liberty, fraternity, and equality abroad”
Thất bại trong chiến tranh, cùng với tình trạng thiếu hụt kinh tế dẫn đến hàng loạt cuộc nổi dậy ở Paris. Một nhóm cấp tiến nắm điều khiển công xã, chính quyền thành phố của Paris. Nước Phổ thề rằng sẽ tiêu diệt Paris và trừng trị các nhà cách mạng nếu có bất cứ thiệt hại nào đến gia đình hoàng gia. Lúc nghe những điều này công xã yêu cầu Hội đồng lập pháp bải bỏ chế độ quân chủ. Công xã đã cáo buộc đúng nhà vua Louis XVI mưu đồ với các cường quốc bên ngoài để lật đổ Hiến pháp năm 1791. Những đội quân cách mạng đến từ thành phố Marseilles để bảo vệ Paris chống lại những đội quân xâm lược, bài hát diễu hành của họ “La Marseillaise”, đã trở thành quốc ca nước Pháp. Cuối cùng vào ngày 10 tháng 8 năm 1792, Hội đồng lập pháp đình chỉ chức vụ của nhà vua. Cuộc diễu hành quân đội Pháp trong cung điện Tuileries (Tuileries Palace), ngôi nhà của gia đình hoàng gia Pháp. Họ giết nhiều lính bảo vệ của nhà vua giam cầm Louis và gia đình ông trong thánh đường. Công xã bây giờ cai trị Paris, và Hội đồng lập pháp cố gắn cầm quyền nước Pháp. Việc đình chỉ chế độ quân chủ, nước Pháp cần một hiến pháp mới. Hội đồng lập pháp đã bỏ phiếu bầu ra của chính mình và lấy một ngày bầu cử những đại diện tham gia Hội nghị quốc gia (National Convention). Các đại biểu sẽ soạn thảo một hiến pháp. Như vậy, giữa một cuộc chiến tranh với nước ngoại quốc và sự rối loạn chính trị, nước Pháp đã phải đối mặt với sự thay đổi của chính phủ. Trong suốt phần thời gian của thời kì, chiếc máy chém đã từng rất bận rộn với công việc rùng rợn của nó, tất cả những gì mà nước Pháp kiêu hãnh trong những thế kỷ qua với những cái tên cổ đại và máu màu xanh da trời trả giá cho ước muốn của cô đối với tự do và tình anh em. Những dòng này trong cuốn tiểu thuyết The Scarlet Pimpernel bắt gặp sự kinh hoàng của những ngày đó khi cách mạng Pháp đẫm máu18 [13, tr.517] Hội nghị quốc gia tổ chức cuộc họp đầu tiên vào tháng 9 năm 1792. Các đại biểu đắc cử vào hội nghị bởi bầu cử của người trưởng thành. Điều đó có nghĩa mỗi người đàn ông trưởng thành đều có thể bầu cử, dù anh ta có tài sản cá nhân hay không. Như trong Hội đồng lập pháp, các đại biểu trong Hội nghị quốc gia được phân chia thành 3 nhóm chính. Tuy nhiên, lần này không nhiều người ủng hộ nhà vua. Phái Girodins “Girondins, G - I - R - O - N - D - I - N - S - đó cũng là tên của đội bóng Bordeaux - là từ Bordeaux và bộ phận Girondin, nhiều người trong số họ. Họ là thương gia. Họ là những người buôn bán tự do và họ cũng vô cùng quan tâm các cuộc chiến tranh nước ngoài để mang tự do, tình hữu nghị, và bình đẳng hải ngoại.”19 [25], tên những người cộng hoà đối với bộ phận Gironde ở Tây Nam nước Pháp, lo sợ sự thống trị nước Pháp của Paris. Nhóm thứ hai là Jacobins, những người cộng hoà ủng hộ sự thống trị của Paris. George Jacques Danton và Maximilien Robespierre “Maximilien Robespierre sinh ngày 6 tháng 5, 1758 ở Arras, nó là một thị trấn đẹp bị
43 phá huỷ trong Thế chiến I nó ở phía Bắc nước Pháp. Cha của ông ta là luật sư. Ông ta là cậu trai và cháu nội của người luật sư. Cha của ông ta cưới con gái của người làm rượu ngon và họ cưới nhau vài tháng trước ngày sinh của Maximilien”20 [25], là hai trong số những người quyền lực trong phái Jacobins. Một số người phái Jacobins cực kỳ cấp tiến và muốn có những cải cách sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi tầng lớp xã hội. Jean Paul Marat, một bác sĩ từ Pháp, chỉ huy những đảng cấp tiến. Nhóm thứ ba trong Hội nghị quốc gia bao gồm các đại biểu không có quan điểm rõ ràng. Sau đó, phần lớn các đại biểu đã ủng hộ phái Jacobins. Hội nghị Quốc gia đã cầm quyền nước Pháp 3 năm. Hành động đầu tiên của nó là tuyên bố kết thúc chế độ quân chủ và bắt đầu nền cộng hoà. Các đại biểu cũng soạn thảo hiến pháp mới trong khi cố gắng giữ trật tự quốc gia và chống những kẻ thù bên ngoài. Hội nghị Quốc gia đưa Louis XVI ra xét xử, buộc tội nhà vua với âm mưu chống lại an ninh quốc gia. Dựa trên những việc làm sai trái của nhà vua và tuyên án nhà vua cái chết. Ngày 21 tháng 1 năm 1793, Louis XVI bị chém đầu bởi máy chém. Chế độ quân chủ ở các nước châu Âu căm phẫn với việc xử tử nhà vua. Trước khi xử tử Louis XVI, Hội nghị quốc gia đã có một vài tin tốt. Quân đội Pháp đánh bại Áo và Phổ, ngăn chặn cuộc xâm lược nước ngoài. Dựa trên những chiến thắng Pháp xâm chiếm Áo, Hà Lan. Bâu giờ chế độ quân chủ của châu Âu sợ Pháp sẽ cố gắng đánh bại hoàng gia bên ngoài nước Pháp. Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha và vương quốc Sardinia liên hiệp Áo và Phổ trong một khối liên minh chống Pháp. Họ quyết liệt tấn công để Pháp ra khỏi Áo và Hà Lan và một lần nữa xâm chiếm nước Pháp. Năm 1793 Hội nghị quốc gia tiến hành những biện pháp để đối phó với kẻ xâm lược. Thành lập Uỷ ban An toàn Công cộng (Committee of Public Safety) để chỉ đạo quân đội đánh phá những bọn xâm lược nước ngoài. Hội nghị quốc gia cũng thành lập một toàn án đặc biệt, Toà án Cách mạng (Revolutionary Tribunal), xét xử “những kẻ thù của cách mạng”. Để chuẩn bị chống lại xâm lược nước ngoài, Uỷ ban An toàn Công cộng thông qua chế độ cưỡng bách tòng quân - bản dự thảo. Tất cả đàn ông chưa lập gia đình, khoẻ mạnh từ 18 đến 25 đều phải phục vụ quân đội. Là một lực lượng những người yêu nước trẻ, quân đội Pháp đã gánh vác một tinh thần dân tộc mới. Trong đội ngũ quân đội mới này, bất kỳ ai chứng tỏ được năng lực của mình đều có thể trở thành những sĩ quan. Trong những năm 1800 việc nhập ngũ trở nên phổ biến ở châu Âu. Một số người Pháp nổi lên chống lại chính quyền cách mạng. Ở phía Tây nước Pháp quân đội “Hoàng gia và Công giáo” đã chiến đấu chống lại quân đội cách mạng. Chúng ta gọi hoạt động của họ là phản cách mạng, nghĩa là mục tiêu của họ là chống lại, hoặc phản đối lại cuộc cách mạng. Các nhóm phản cách mạng ủng hộ chế độ cũ. Phái Jacobins, bao gồm Danton và Robespierre, đã kiểm soát Hội nghị quốc gia. Họ bắt giữ nhiều đại biểu của phái Girondin những người phản đối những chính sách của họ. Trong lúc đó, Charlotte Corday, một phụ nữ trẻ bị ảnh hưởng bởi những 20 Nguyên văn: “Maximilien Robespierre was born on May 6, 1758 in Arras, a beautiful town destroyed in World War I in the north of France. His father was a lawyer. He was the son and grandson of lawyers. His father married the daughter of a well-to-do brewer and they were married a few months before the birth of Maximilien.
44 ý tưởng của của phái Girondins, ám sát Marat. Cô ta đâm Marat chết khi đang tắm. Toà án Cách mạng đưa cô lên máy chém bởi tội ác của cô. Hội nghị quốc gia tiến hành đàn áp tất cả những cuộc nổi dậy và phản đối ở Pháp. Thời kì khiếp sợ, nó được biết kéo dài từ tháng 9 năm 1793 đến tháng 7 năm 1794. Như Robespierre đã viết, “cần phải tiêu diệt [tiêu diệt toàn bộ] cả những kẻ thù bên trong và bên ngoài của nền cộng hoà hoặc diệt vong vào mùa thu”21 [13, tr.519]. Luật hoài nghi (Law of Suspects) ban hành vào 1793 xác định những kẻ tình nghi là “Những người thể hiện bản thân là kẻ thù của tự do, những người không thể thanh minh bởi sự tồn tại của cải của họ và thi hành nhiệm vụ công dân của họ,… những người trong số các quý tộc trước đây đã không thường xuyên tham gia cách mạng, và những người đã di dân trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 7 năm 1789 đến ngày 8 tháng 4 năm 1792”22 [13, tr.519].
Toà án Cách mạng đã trừng phạt những kẻ thù của nền cộng hoà và thỉnh thoảng xử tử những người chỉ đơn giản là nghi ngờ phản cách mạng. Marie Antoinette trở thành nạn nhân đầu tiên của thời kỳ khiếp sợ. Tuy nhiên, phái Jacobins định hướng thời kỳ khiếp sợ không những chống quý tộc, mà còn chống bất kỳ ai nghi ngờ không trung thành. Robespierre và Danton bắt đầu đưa những đối thủ Girondin lên máy chém, cùng với Olympe de Gouges.
21 Nguyên văn: “It is necessary to annihilate [completely destroy] both the internal and external enemies of the republic or perish with its fall.” 22 Nguyên văn: “Those who have shown themselves the enemies of liberty, those who cannot justify their means of existence and the performance of their civic duties, . . . those of the former nobles who have not constantly manifested their attachment to the revolution, and those who have emigrated during the interval between July 1, 1789, to April 8, 1792.”
Vào mùa xuân năm 1794, quân đội Pháp có thêm lợi ích trong cuộc chiến chống lại các cường quốc bên ngoài. Với nền cộng hoà do đó thoát khỏi nguy hiểm, Danton tuyên bố rằng ông nghĩ thời kì khiếp sợ thoả mãn mục tiêu của nó và nên là nới ra. Trái lại Robespierre trở nên cuồng tín hơn và buộc tội Danton vì không trung thành với cách mạng. Danton và những người theo ông bị tử hình. Đó là nguyên nhân khiến những đồng nghiệp của Robespierre sợ hãi đối với sự an toàn của họ. Vài tháng, Robespierre tiếp tục đàn áp tàn bạo. Ông tin rằng chỉ có ông mới có thể bảo vệ cuộc cách mạng từ những kẻ thù của nó. Cuối cùng, một vài thành viên của Hội nghị quốc gia gọi là tạm dừng. Tháng 7 năm 1794, Robespierre bị bắt giữ và ông ta bị chém đầu. Thời kì khiếp sợ đã chấm dứt với cái chết của Robespierre. Mọi người ở khắp Paris cảm thấy nhẹ nhõm. Phái Jacobins không còn quyền lực, và sự thật một sự phản ứng bắt đầu chống lại những ý tưởng của họ. Tầng lớp trung lưu giàu có đã điều khiển Hội nghị Quốc gia. Thời trang thay đổi khi mọi người nổi dậy chống lại những giá trị nghiêm ngặt của phái Jacobin. Mọi người quay lại mặc những bộ váy sang trọng và mũ. Tuy nhiên, giá cả lại một lần nữa tăng nhanh, gây ra sự khó khăn cho người nghèo. Những cuộc nổi loạn được chấm dứt bởi quân đội nhưng cảm thấy tình trạng bất ổn vẫn tồn tại. Đến 1794 nhiều người Pháp thậm chí ủng hộ việc phục hồi chế độ quân chủ. Mặc dù có những khó khăn và nguy hiểm, Hội nghị quốc gia vẫn họp từ 1792 đến 1795 và thực hiện nhiều cải cách dân chủ. Những thay đổi ảnh hưởng đến mọi tầng lớp của xã hội Pháp. Hội nghị đã tạo ra một cơ quan gọi là Uỷ ban An toàn
45 Cộng đồng (Committee of Public Safety). Dưới sự kiểm soát của phái Jacobins, uỷ ban cố gắng thiết lập cái cái gọi là “Cộng hoà Nhân đức” (Republic of Virtue).
Trong lúc này quân đội Pháp có những chiến thắng. Vào 1795, quần chúng tấn công quyết liệt những kẻ thù và chinh phục lãnh thổ đến sông Rhine ở Đức. Quan trọng hơn đó là liên minh phong kiến châu Âu chống Pháp bắt đầu tan rã. Một tinh thần quân sự mới lan tràn khắp nước Pháp. Hội nghị quốc gia sử dụng quân đội để dập tắt bọn phản động. Một cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan ở Paris vào tháng 10 năm 1795. Điều này cho thấy chính phủ mới sẽ không chấp nhận bất kỳ sự phản đối nào.
Vào 1795 Hội nghị quốc gia đã hoàn thành hiến pháp khác. Chính phủ được thành lập bởi hiến pháp mới vào tháng 11 cùng năm. Nó bao gồm một cơ quan lập pháp 2 viện. 500 thành viên Hạ viện đặt ra những đạo luật, trong khi 250 thành viên Thượng viện ít hơn nhưng có uy thế lớn chấp nhận hoặc bác bỏ những đạo luật đặt ra. Thượng viện cũng có khả năng chọn ngành hành pháp của chính phủ mới, nó bao gồm 5 người những người được biết đến như những đốc chính. Điều này làm cho chính phủ mới có tên là - hội đồng đốc chính (The Directory). Hiến pháp mới của quốc gia cũng loại bỏ quyền bầu cử phổ thông của mọi người. Chỉ có nam giới có tài sản mới có thể bỏ phiếu. Do đó, những người giàu có một lần nữa kiểm soát chính phủ của Pháp.
Hội đồng đốc chính quản lý nước Pháp trong vòng 4 năm. Tuy nhiên, những người không cấp tiến cũng không bảo thủ đã hài lòng với nó. Nền kinh tế có phần cải thiện nhưng những người nông dân, công nhân, và người nghèo vẫn phải chịu tổn thất. Năm vị đốc chính giữa họ có tranh chấp và những người cai trị không thuyết phục, tham nhũng. Khi những đám đông phản đối, các vị đốc chính chính sử dụng quân đội để ngăn chặn tình trạng bất ổn. Hội đồng đốc chính đã sớm không hợp với nhân dân cũng như chế độ cũ. Cũng như chế độ cũ, nó cũng có những khó khăn về tài chính. Sự thất bại của nó mở đường chuẩn bị cho nền độc tài quân sự ở nước Pháp.
Dưới chế độ đốc chính, những cuộc chiến liên tục với Anh, Áo, và Sardinia tạo ra những cơ hội cho những nhà lãnh đạo quân đội. Từ 1795 đến 1799 một vị tướng trẻ tên là Napoléon Bonaparte được sự chú ý của mọi người. Sinh năm 1769 trên đảo Corsia ở Pháp, Napoléon theo học trường quân sự ở Pháp. Ngay từ lúc 26 tuổi, Napoléon đã ngăn chặn cuộc nổi dậy ở Pháp điều đó là ngăn chặn việc tạo ra hội đồng đốc chính. Napoléon cao chỉ có 1,69m nhưng có một tính cách vô cùng mạnh mẽ. Ông đầy tham vọng và nghị lực. Ông có những kĩ năng tổ chức tuyệt vời và là người quản lý tốt cả về chính trị và quân sự. Một trong những biện pháp khéo léo của ông là kết hôn với Joséphine de Beauharnais, một nhà lãnh đạo xã hội Pháp, năm 1796. Sau kết hôn 2 ngày, Napoléon nhận được quyền chỉ huy quân đội Pháp chiến đấu với những người Áo ở Ý. Napoléon được xem là một trong những vị trướng vĩ đại nhất mọi thời đại. Bởi vì vai trò chi phối của ông bắt đầu từ 1796, những cuộc chiến mà nước Pháp chiến đấu từ đó đến 1815 được gọi là Chiến tranh Napoléon. Tài năng của Napoléon là khả năng di chuyển những đội quân nhanh chóng đến những điểm quan trọng nhất trên chiến trường. Chiến thuật của những đối thủ Napoléon đã cũ và chậm. Napoléon chứng tỏ tài năng của ông ta ở Ý. Quân đội Pháp trang bị thiếu sức mạnh và kém cõi. Napoléon đã cải thiện những điều kiện cho những đội quân, giành được sự ủng hộ và
46 nâng cao tinh thần. Những người lính được truyền khí chất gần đây, Napoléon buộc Sardinians thực thi hoà bình. Sau đó ông tiếp tục bốn lần đánh bại Áo. Năm 1797 Napoléon buộc Áo ký hiệp ước và Áo sẽ chuyển cho nước Pháp quyền kiểm soát tất cả miền Bắc nước Ý.
Hội đồng đốc chính lo lắng Napoléon được nhiều người ngưỡng mộ có thể cố gắng thâu tóm quyền lực. Trong lúc đó, Napoléon tiếp tục các cuộc chinh phạt mới để giữ được tên của ông trước người Pháp. Ông đề xuất tấn công Anh ở Ai Cập để cắt thương mại Anh với Ấn Độ. Hội đồng đốc chính nhanh chóng đồng ý, với việc này Napoléon sẽ ra ngoài nước Pháp.
Lần đầu tiên Napoléon giành chiến thắng trên đất chống lại những lực lượng Ai Cập. Tuy nhiên, chiến dịch quân sự ở Ai Cập kết thúc thảm hoạ. Anh tiêu diệt hạm đội Pháp gần Alexandria, cô lập quân Pháp ở Ai Cập. Napoléon rời quân đội của mình để chăm sóc bản thân và quay lại Pháp. Ông ta giữ kín sự thật và cường điệu chiến thắng của mình ở Ai Cập.
Mặc dù Napoléon trở thành một anh hùng, nước Pháp đang trong tình huống nguy hiểm. Anh đã tổ chức một liên minh các quốc gia để chống đối Pháp, bao gồm Áo và Nga. Liên minh đã dồn quân Pháp ra khỏi Ý, và sự kiểm soát của Pháp trên những vùng lãnh thổ khác đã bị chinh phục.
Những người ủng hộ Napoléon tin tưởng rằng chỉ có ông mới có thể chiến thắng bên ngoài và khôi phục trật tự quốc gia. Lo sợ những người ủng hộ chế độ quân chủ có thể nắm quyền và kiểm soát, họ đã tiến hành kế hoạch lật đổ chính phủ và đưa Napoléon lên nắm quyền. Những người ủng hộ muốn nước Pháp ổn định bởi vì họ sợ mất tài sản và quyền lực họ có trong cuộc cách mạng Pháp. Năm 1799 cơ quan lập pháp loại ra 4 trong 5 vị đốc chính. Những đội quân vũ trang bao vây cơ quan lập pháp và buộc phần lớn thành viên của nó rời khỏi. Những người ở lại đã chuyển chính phủ sang Napoléon và những thành viên của ông. Nắm lấy quyền lực bằng vũ lực như vậy gọi là một cuộc đảo chính. Như Napoléon nói sau đó “Tôi tìm thấy ngôi vua của Pháp nằm trên mặt đất, và tôi vớ được nó với thanh kiếm của tôi.”23 [13, tr.522] Là hoàng đế, Napoleón thống trị châu Âu đến khi các cường quốc cùng tham gia liên minh đánh bại ông. Mặc dù chính phủ của Napoléon vẫn giữ hình thức cộng hoà, cuộc đảo chính 1799 làm cho ông độc tài của nước Pháp. Giai đoạn 1799 đến 1814 được biết đến là thời đại Napoléonic vì ảnh hưởng của ông ở Pháp và phần lớn phần còn lại của châu Âu trong suốt thời gian này. Người Pháp chấp nhận chế độ độc tài của Napoléon. Nhiều người muốn ổn định sau thời kỳ hỗn loạn. Những người khác đơn giản là sợ phản đối. Napoléon ủng hộ nhiều thay đổi mang lại bởi cách mạng. Ông tôn trọng những ý tưởng của Tuyên ngôn những quyền của nhân loại và không khôi phục bất kỳ những thói quen phong kiến. Tuy nhiên, trong khi Napoléon cho phép cơ hội tự do, ông kiên quyết tin rằng mọi người nên tuân lệnh lãnh đạo của họ. Napoléon tổ chức lại và tập trung chính phủ cũng như quyền hành vào tay mình không giới hạn. Ông chỉ huy quân đội và hải quân. Ông có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các quan chức và đề xuất luật mới. Napoléon đặt hiến pháp cho chính phủ mới của mình trước khi mọi người bỏ phiếu. Theo thủ tục này, gọi là cuộc trưng cầu dân ý, mọi người có 23 “I found the crown of France lying on the ground, and I picked it up with my sword.”
47 thể bỏ phiếu chỉ đồng ý hoặc không và không thể đề nghị thay đổi. Dù vậy, phần lớn cử tri Pháp đã thông qua hiến pháp mới. Napoléon được ghi nhớ nhiều bởi qua các chiến thắng và tài lãnh đạo quân sự của ông, công việc của ông trong chính phủ phải có hiệu quả. Dưới sự chỉ đạo của Napoléon các học giả tổ chức tất cả luật của ông vào một hệ thống được gọi là Bộ luật Napoléonic (Napoléonic Code). Ông cho thành lập Ngân hàng của Pháp và hoạt động như một tổ chức tài chính trung tâm. Ông cũng thực hiện hệ thống giáo dục công lập theo kế hoạch của Hội nghị quốc gia. Hệ thống bao gồm các trường trung học, đại học và những trường kỹ thuật. Giáo dục sơ cấp bị kiểm soát bởi các nhà thờ và chính quyền địa phương.
Hiến pháp dân sự của giáo sĩ năm 1790 làm căng thẳng quan hệ giữa chính phủ Pháp và Giáo hội công giáo La Mã. Năm 1801, Napoléon mâu thuẫn chấm dứt thông qua thoả thuận với Đức giáo hoàng gọi là giáo ước24. Giáo ước công nhận phần lớn công dân Pháp là người Công giáo, nhưng vẫn cho phép tự do tôn giáo. Sử dụng kĩ năng ngoại giao khéo léo Napoléon đã phá vỡ khối liên minh. Đến 1802, Nga, Áo và Anh bỏ liên minh hoặc làm hoà với Pháp. Có vẻ như Napoléon đưa hoà bình đến Pháp, một chính phủ ổn định, và kinh tế thịnh vượng. Những người ủng hộ Napoléon muốn quyền lực của mình mang tính vĩnh viễn và kế thừa. Trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1804, người Pháp đưa ra biểu quyết tuyên bố Pháp là một đế chế. Napoléon trở thành Hoàng đế Napoléon I và vợ ông trở thành Hoàng hậu Joséphine. Đánh dấu sự bắt đầu của đế chế Đức giáo hoàng đến Paris để trao vương miện cho vợ chồng. Tuy nhiên, khi ông sắp đặt vương miện lên đầu Napoléon, Napoléon lấy vương miện và đặt nó lên đầu của mình. Theo đó Napoléon cho thấy quyền lực và uy quyền mà ông có không phải do bất kì ai ngoại trừ ông. Đế chế mở rộng ra ngoài vượt biên giới Pháp. Anh lo Pháp đe doạ đế chế của họ và việc kiểm soát biển. Năm 1803 Anh tiếp tục chiến tranh với Pháp sau thời gian gián đoạn. Áo, Nga, và Thuỵ Điển liên minh với Anh. Tây Ban Nha đứng về phía Pháp. Ý định của Napoléon đánh bại hải quân Anh và chiếm nước Anh. Tuy nhiên, vào năm 1805 một hạm đội Anh do Phó đô đốc Horatio Nelson đánh bại một hạm đội kết hợp giữa Pháp và Tây Ban Nha ở bờ biển Tây Ban Nha. Phó đô đốc Nelson bị giết trong trận chiến, nhưng ông đã cứu nguy nước Anh khỏi sự xâm lược. Napoléon đã giành được những chiến thắng vĩ đại trong những trận chiến trên đất liền chống lại Áo và Nga. Napoléon ra lệnh phong toả quần đảo Anh và cấm đế chế Pháp và những nước đồng minh của nó không được buôn bán với Anh. Cuộc phong toả này được biết như là Hệ thống lục địa (Continental System), bởi vì Napoléon kiểm soát rất nhiều lục địa châu Âu. Người Anh phản ứng lại bằng một cuộc phong toả chống Pháp. Cuộc phong toả làm tổn hại đến nước Pháp, nhưng Napoléon tiếp tục những trận đánh chiến thắng trên đất liền. Vào tháng 12 năm 1805 Napoléon đã tiêu diệt những lực lượng Nga và Áo, dẫn đến sự sụp đổ của liên minh chống Pháp. Đến 1809 Napoléon thống trị châu Âu. Ông bắt Áo và Phổ kí các hiệp ước hoà bình. Napoléon trực tiếp cai trị Hà Lan và Tây Ban Nha, và ông bắt Đan Mạch và các bang Papal vào trong khối đồng minh. Ông thủ tiêu Đế quốc La Mã Thần Thánh và 24 Điều ước kí giữa giáo hoàng và chính phủ một nước.
48 hợp nhất các bang miền Bắc nước Ý vào vương quốc Ý, dưới sự kiểm soát của ông. Để đảm bảo quyền lực của mình bằng cách Napoléon đưa các thành viên trong gia đình của mình trở thành những ông vua ở những quốc gia mà mình chinh phục. Tuy nhiên, ông cảm thấy cách tốt nhất để bảo vệ đế chế là tạo ra người thừa kế. Khi ông và Joséphine không có con vì thế cuộc hôn nhân huỷ bỏ. Ông nhanh chóng cưới công chúa nước Áo là Maria Louise người đã sinh ra một đứa con trai, Napoléon II. Năm 1807 Bồ Đào Nha từ chối theo Hệ thống lục địa bởi vì kinh tế của Bồ Đào Nha phụ thuộc vào nền thương mại với Anh. Napoléon đáp lại bằng cách đưa quân của mình đến Bồ Đào Nha và phế truất vua Bồ Đào Nha. Ông ta cũng chinh phục Tây Ban Nha và buộc vua Tây Ban Nha từ chức. Napoléon sau đó đưa anh trai của mình là Joseph làm vua Tây Ban Nha. Năm 1808 người Tây Ban Nha nổi dậy chống lại sự cai trị đến từ bên ngoài. Anh cũng đưa quân đội do Duke of Wellington dẫn đầu đến giúp Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nổi dậy chống Pháp. Đây là cuộc chiến được gọi là Chiến tranh bán đảo (Peninsular War), kéo dài từ 1808 đến 1814. Trong khoảng thời gian này Napoléon vẫn kiểm soát chính quyền của Tây Ban Nha, nhưng chiến tranh làm kiệt quệ tài nguyên quân sự của Pháp. Năm 1813, Tây Ban Nha với sự giúp đỡ của Anh cuối cùng đã đuổi Joseph Bonaparte. Sau đó họ soạn thảo hiến pháp mới thành lập chế độ quân chủ lập hiến. Cuộc nổi dậy ở Tây Ban Nha, và hiến pháp mới, thể hiện ảnh hưởng bởi những ý tưởng từ cuộc cách mạng Pháp. Nga hoàng Alexander I của Nga lo lắng bởi sự thống trị của Napoléon ở châu Âu. Hơn nữa, Nga phụ thuộc vào thương mại với Anh. Năm 1812, Nga hoàng bắt đầu giao dịch với Anh. Napoléon quyết định xâm chiếm Nga, và ông kêu gọi tất cả đế chế của mình cung cấp binh lính. Năm 1812, 600,000 binh sĩ hành binh đến phía Đông nước Nga. Quân Nga rút dần, để quân Pháp vào sâu bên trong. Khi quân Nga rút lui, họ đã thực hiện phá huỷ mọi thứ mà quân Pháp cần. Cuối cùng Pháp chiếm được Moscow, nhưng nó là chiến thắng không thật sự. Khi Pháp vào thành phố, Nga đã đốt cháy nó. Ngọn lửa thiêu cháy nhiều toà nhà vì thế quân Pháp không có nơi trú ngụ, và mùa Đông khắc nghiệt ở Nga đã đến. Napoléon mất nhiều lính bởi họ bệnh, lạnh, và đói cũng như tử trận. Cuối cùng Napoléon ra lệnh rút quân vào ngày 19 tháng 10 năm 1812. Napoléon rút khỏi Moscow là một trong những thảm hoạ quân sự mọi thời đại. Quân của Napoléon cố gắng tìm cách trở lại Pháp trong mùa Đông của Nga mà không có quần áo và tiếp tế. Nhiều người chết vì lạnh và đói. Hơn nữa, Pháp liên tục bị tấn công bởi lính Nga khi họ đi qua những vùng nông thôn bị phá huỷ. Khi quân Pháp đến Prussia, đã hao tổn 2/3 lực lượng. Quân Nga theo sau và xâm chiếm đế chế Pháp. Các vị vua ở Tây châu Âu nắm lấy lợi ích từ thất bại của Pháp ở Nga. Họ nhanh chóng phá vỡ liên minh với Pháp. Phổ, Áo, và Anh tham gia liên minh Nga chống Pháp. Tháng 10 năm 1813, quân Pháp gặp những lực lượng đồng minh ở Leipzig ở Saxony. Các đồng minh chiến thắng, và Napoléon rút quân về Pháp. Các đồng minh đã chiếm Paris vào tháng 3 năm 1814. Napoléon từ bỏ tất cả mọi đòi hỏi ngai vàng đối với bản thân và gia đình của mình. Các đồng minh cho ông khoản tiền và cho phép ông nghỉ hưu ở hòn đảo nhỏ Elba ngoài khơi biển phía Tây nước Ý. Các nước đồng minh muốn bảo đảm Pháp sẽ không làm phá vỡ công việc của châu Âu. Họ đồng ý rằng Pháp có thể giữ đường biên giới của 1790. Họ cũng phục
49 hồi chế độ quân chủ Bourbon. Louis XVIII, em Louis XVI, trở lại ngai vàng. Nước Pháp lại lần nữa có 1 vị vua. Trong năm 1814 và đầu năm 1815, ngôi vua phục hồi và gia đình ông là kẻ thù của những người Pháp. Biết được tình hình bất mãn đó, Napoléon trốn từ Elba và đến Pháp ngày 1 tháng 3 năm 1815. Louis XVIII đưa binh lính để bắt Napoléon, Napoléon gặp họ nói “Nếu một trong số những người muốn giết hoàng đế của mình, có thể giết. Tôi đến để cống hiến bản thân mình cho những cuộc tấn công của bạn.”25 [13, tr.527] Những người lính chống lại biến mất, và Napoléon dẫn quân đến Paris vào ngày 20 tháng 3, bắt đầu thời kỳ Vương triều Trăm ngày (Hundres Days). Louis XVIII hoảng sợ trốn sang lưu vong. Napoléon một lần nữa cai trị Pháp. Napoléon hy vọng những cuộc tranh luận giữa các đối thủ của ông sẽ ngăn họ phản đối sự trở lại của ông, nhưng ông đã sai. Phổ, Anh, và Hà Lan đưa quân đến Pháp. Napoléon tập hợp một đội quân ngăn họ. Vào 18 tháng 6 năm 1815 quân đồng minh và quân Pháp gặp nhau tại Waterloo. Người Anh dưới sự chỉ huy của công tước Wellington và đồng minh Phổ của họ cho Napoléon những thất bại cuối cùng. Napoléon từ bỏ ngôi, và dòng Bourbon một lần nữa nắm quyền. Napoléon yêu cầu được pháp đến Hoa Kì. Tuy nhiên, Anh đưa ông đến St. Helena, một hòn đảo nhỏ, hiu quạnh ở Nam Đại Tây Dương, nơi ông sống dưới sự canh phòng cẩn thận. Vào năm 1821, Napoléon chết ở đó. 2.3.3. Thảo luận. Trước hết, chúng tôi sẽ bàn về bản án tử hình đức vua Louis XVI - cái chết mà khiến cả châu Âu rung chuyển và phải thay đổi cảm xúc từ hoảng hốt đến căm phẫn. Viết về cái chết của nhà vua và ảnh hưởng sau đó, theo tài liệu tiếp cận: “Ngày 21 tháng 1 năm 1793, Louis XVI bị chém đầu bởi máy chém. Chế độ quân chủ ở các nước châu Âu căm phẫn với việc xử tử nhà vua.”26 [13, tr.517] và theo giáo trình “Dưới áp lực của quần chúng, tháng 12 - 1792, toà án cuả Hiệp hội dân tộc quyết định xử tử vua. Ngày 21 - 1 - 1793, Lui XVI lên đoạn đầu đài.” [8, tr.87]. Qua 2 trích dẫn, nếu theo tài liệu tiếp cận thì việc xử tử nhà vua đã khiến các nước phong kiến châu Âu rơi vào chao đảo và nếu như ban đầu khi cách mạng bùng nổ nó như những tia pháo hoa lấp lánh trên bầu trời Âu châu thu hút mọi ánh nhìn từ châu Âu bởi lẽ “…ảnh hưởng rất lớn đến nhân loại, một phần vì tính cách của nó, một phần vì địa thế của Pháp ở châu Âu, nơi mà văn minh đổi hướng và mạnh tiến nhất.” [3, tr. 584]. Thực vậy, Paris - kinh đô hoa lệ của nước Pháp, là nơi ánh sáng văn minh rực rỡ nhất châu Âu, cũng là hình mẫu văn minh mà các nước châu Âu muốn hướng đến. Bởi thế, mọi sự thay đổi nào ở Pháp cũng khiến châu Âu phải dõi mắt hướng theo.
25 Nguyên văn: “If there be one among you who wishes to kill his Emperor, he can. I come to offer myself to your assaults.” 26 Nguyên văn: “On January 21, 1793, Louis XVI was beheaded by the guillotine. The rest of Europe found this execution of a monarch shocking.”
Bản án tử hình của đức vua là cái chết được ban bởi thần dân của chính ông. Châu Âu đã căm phẫn và hoảng hốt trước sự kiện này. Chúng tôi nghĩ, cần nên tiếp cận vấn đề này theo góc nhìn của lý thuyết Tâm lý học đám đông do Gustave Le Bon
50 đề xuất: quần chúng nhân dân Pháp dường như trong cơn cuồng loạn lý trí, tâm lý cá nhân đã bị giết chết bởi tâm lý đám đông.27 Ngoài ra, vì sao Louis XVI lại được ban cái chết bởi máy chém trong khi trước đó vua Anh Charles I lại đón nhận cái chết từ đao phủ? Thử tìm lời giải thích, chúng tôi đã bắt gặp từ tài liệu tiếp cận “Tại thời điểm của cách mạng Pháp, máy chém được xem là thiết bị mới của nền cộng hoà mà họ tin rằng cái chết sẽ diễn ra nhanh và nhân đạo.”28 [13, tr.517] Dưới thời kì cộng hoà máy chém là thiết bị mới, theo chúng tôi là phải mới và nhất định phải thế vì đao phủ nào có thể hoạt động suyên xuốt và chỉ có máy chém, máy chém mới có thể giúp cho nền cộng hoà của Robespierre vững chắc. Mỗi ngày có từ 70 người đến 80 người bị giết và ngay cả những người cận kể Robespierre cũng lo lắng cho sinh mạng mong manh của mình. Có phải chăng khi máu càng tuôn, người ta lại càng cuồng máu và máu là “thức uống” làm dịu đi những cơn u mê cuồng loạn. Và đến khi, cơn cuồng loạn chấm dứt thì đó cũng là lúc đánh dấu sự phục hồi lý trí, và ý thức cá nhân cũng đã tỉnh giấc sau bao ngày hoà cùng nhịp thở, Paris tráng lệ đã kịp thời tỉnh giấc sau những cơ mê dài năm tháng - Robespierre lên máy chém. Ngoài ra, kinh đô ánh sáng với cung điện Versailles, ngỡ là nơi tôn trọng sự tự do của mọi con người, nhưng dường như không phải thế, bởi nhà ngục Bastille nơi “Ông [Voltaire]là kẻ thù không đội trời chung với chế độ độc tài phong kiến, với nhà thờ Thiên chúa. Chính vì thế ông đã nhiều lần bị giam vào ngục Baxti [Bastille].” [8, tr.70] Hình ảnh nhà ngục Bastille, theo chúng tôi nơi đây dường như là công cụ của chế độ phong kiến dùng để trừng trị những kẻ chống đối, cản trở tiếng nói tự do nơi được mang danh là văn minh. Và định mệnh Bastille phải chăng là một cơn cuồng loạn của quần chúng nhân dân, mà xuất phát điểm từ những lời “nghe đồn”. Nếu như chính trị là mấu chốt của nguyên nhân đưa đến cách mạng Anh, thì nguyên nhân cốt yếu của cách mạng Pháp đó là sự bất mãn với trật tự xã hội cũ. Chính sự phân chia đẳng cấp, đã khiến quyền lợi không ở trạng thái cân bằng. Ngoài ra, chính phủ Pháp còn giúp lại nhân dân 13 thuộc địa nhằm chống lại Anh, và cũng chính sự hỗ trợ này khiến cách mạng diễn ra nhanh chóng, bởi suy cho cùng mọi quyết sách của chính phủ đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người dân.
“Trên thực tế, Cách mạng Mỹ là phát súng báo hiệu cuộc Cách mạng Pháp, nhưng lại không có tính chất bạo lực và bạo loạn như cuộc Cách mạng Pháp bởi lẽ nó diễn ra ở một xã hội vốn đã rất tự do.”29. Qua trích dẫn, phần nào có sự trùng hợp với tài liệu tiếp cận và chúng tôi nghĩ rằng nên cập nhật cũng như bổ sung để việc tiếp cận về cách mạng Pháp ngày càng hoàn thiện. Trích dẫn đã cho chúng ta những dự cảm ban đầu về cách mạng Pháp, cuộc cách mạng sẽ là cơn cuồng phong quét ngang dọc nước Pháp. Đồng thời, cách mạng Pháp sẽ diễn ra trong bầu không khí vô cùng bạo loạn và bạo lực.
27 Xem thêm: Gustave le Bon. (2008). Tâm lí học đám đông. Hà Nội: Tri Thức. 28 Nguyên văn: “At the time of the French Revolution, the guillotine was a new device that repub- licans believed would allow a quick and humane execution.” 29 Ghi chép cá nhân, bài giảng học phần Lịch sử Thế giới Cận đại do Ths. Hồ Thanh Tâm phụ trách.
51 Chương 3. GIÁ TRỊ CỦA VIỆC TIẾP CẬN NỘI DUNG “CÁCH MẠNG TƯ SẢN” TỪ TÀI LIỆU TIẾNG ANH (XÉT Ở GÓC NHÌN CỦA VIỆC DẠY HỌC)
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày tính ứng dụng của Khoá luận trong việc dạy học, thể hiện qua các để mục: (1) Mở rộng nguồn dữ liệu nhận thức về nội dung “Cách mạng tư sản”, (2) Đề xuất cập nhật vào đề cương học phần “Lịch sử Thế giới Cận đại”, (3) Vận dụng những kiến thức mới vào dạy học Lịch sử tại trường Phổ thông.
Qua quá trình tiếp cận, các tài liệu tiếng Anh chúng tôi phát hiện thêm một số
3.1. Mở rộng nguồn dữ liệu nhận thức về nội dung “Cách mạng tư sản” thông tin thú vị về các cuộc cách mạng.
Cách mạng Anh (1640 - 1689) Thứ nhất, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nội chiến ở Anh là sự mâu thuẫn giữa mong muốn của vua Anh là cai trị chuyên chế và mong muốn của Nghị viện là nhà vua phải tôn trọng Nghị viện, tức tôn trọng nếp sinh hoạt chính trị của Anh đã có từ 1200s. Chúng tôi nhận thấy trong vòng 37 năm (1603 - 1640), nước Anh đã trải qua 2 đời vua và dường như Nghị viện Anh đã rơi vào tình trạng ngơ ngác đến uất hận bởi quyền của Nghị viện sẽ bị đe doạ bởi một vị vua trong tương lai. Trước đó trong vòng 45 năm (1558 - 1603), giữa Elizabeth I và Nghị viện Anh đã có quãng thời gian êm đẹp và bình lặng. Mặc dù Elizabeth I đã tập trung rất nhiều quyền lực nhưng bà vẫn giành cho Nghị viện sự tôn trọng nhất định. Nhưng sau cái chết của bà, một cơn gió mới khiến quan hệ giữa đức vua và Nghị viện bắt đầu rung chuyển. Nhận thức vấn đề này, chúng tôi đã xem xét và rút ra kết luận khá lý thú bởi lẽ James I là người xuất thân từ vua Scotland và tâm trí ông dường như bàng hoàng, khó hiểu về sự tồn tại, quyền lực của Nghị viện. Đầu tiên, đó là sự khác biệt về nề nếp trong lối sinh hoạt chính trị giữa Scotland và England - Wales cũng như tâm trí đức vua không hề có khái niệm Nghị viện và Nghị viện dùng để làm gì, dường như xa lạ với ngài trong khi tại England - Wales, vị trí của Nghị viện đã đi vào ổn định. Đến khi nhận thấy, quyền lực của quân vương sẽ bị hạn chế bởi Nghị viện thì lẽ đương nhiên đức vua, theo cách thức sinh hoạt chính trị tại Scotland, sẽ khó lòng chấp nhận và mâu thuẫn quyền lực sẽ nảy sinh.
Thứ hai là bản án Charles I. Theo Giáo trình và tài liệu nghiên cứu chúng tôi nhận thấy bản án Chaeles I được ban hành bởi Nghị viện. Nhưng Nghị viện Anh có thật sự muốn đưa đức vua mình đến cái chết hay không? Chúng tôi nhận thấy, cuộc họp năm 1648 đi đến đưa ra bản án cho nhà vua là một cuộc họp bất thường, nó được tiến hành bởi sự bao vây của nòng súng, của sự ép buộc. Và, nếu vậy thì bản án có còn hợp lệ? Chúng tôi nhận thấy rằng với biện luận khá mĩ miều và tiến bộ, tức nhà vua phải chết để nền cộng hoà quay về đúng bản chất của nó, nhưng nước Anh sẽ đi về đâu khi nhà vua đã chết, một khoảng không vô định với nước Anh đã bắt đầu và thời kì nền cộng hoà mang màu sắc quân đội bắt đầu định hình.
52
Cách mạng Hoa Kì (1775 - 1783) - cuộc cách mạng để khẳng định các giá
Thứ ba là cần nhận thấy lại tính “không triệt để” của cách mạng khi đề cập đến vấn đề chia ruộng đất cho nhân dân. Vì nếu như, ruộng đất ban phát đến người dân thì liệu nước Anh còn là nước tiên phong trong cuộc cách mạng công nghiệp mà chúng ta đã được biết đến; và nếu như ruộng đất ban phát một cách rộng rãi thì liệu, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có còn được nảy sinh ở nước Anh một cách thuận tiện và phương thức sản xuất theo lối tư bản chủ nghĩa ở Anh chỉ còn là một giấc mơ mà còn lâu nữa mới trở thành hiện thực. Trong quá trình xem xét và tìm hiểu thấu đáo tài liệu nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng lối học thuật phương Tây mang tính chất cô đọng, đúng trọng tâm, trọng điểm, bởi họ đưa ra nguyên nhân cách mạng Anh là sự mâu thuẫn chính trị và xuyên suốt cách mạng cũng chỉ nhằm giải quyết cho được mâu thuẫn đó mà thôi. Trong quá trình tiếp cận tài liệu nghiên cứu, chúng tôi dường như không thấy đề cập về vấn đề ruộng đất. trị của Tự do ở xứ sở vốn đã tự do
Chúng tôi nhận thấy cách mạng Hoa Kì là một cuộc cách mạng thấm đượm tinh thần tự do, đó cũng là nguồn gốc và là quyền bao trùm cả đất nước này từ những ngày đầu lập quốc. Chúng tôi cho rằng, tự do sẽ là niềm khát khao không những đối với nước Mĩ mà cũng sẽ vượt các đại dương để đến các miền đất chưa có tự do hay có chăng là sự tự do giả tạo. Chúng ta nhận thấy rằng, những nhà Khai sáng ở châu Âu của thế kỉ XVII - XVIII đã soi rọi những tư tưởng của họ đến bầu trời Bắc Mĩ với muôn sắc để nước Mĩ sinh ra là một miền đất của tự do rồi ánh sáng ấy chiếu rọi đến mọi miền đất xa xôi tận châu Âu và phương Đông cổ kính.
Cách mạng Pháp (1789 - 1799) Trước hết, các tài liệu tiếng Anh cho thấy nguyên nhân của cách mạng là do sự bất mãn với trật tự xã hội đương thời trong khi đó Giáo trình nhận định là một loạt các chuỗi sự kiện cũng như mâu thuẫn về kinh tế, chính trị … Nếu như cách mạng Pháp được xem là “triệt để” nhất trong 3 cuộc cách mạng thì nó lại là nguyên nhân để cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX Pháp khó lòng áp dụng những thành tựu như máy móc cũng như những kĩ thuật canh tác mới vì sự phân chia ruộng đất trong thời kì Jacobins (1793 - 1794).
Thứ hai, chúng tôi nhận thấy rằng nếu so giữa Charles I và Louis XVI, dù cả 2 đều đi đến cái chết nhưng dường như cái chết của Charles I khiến chúng tôi vẫn giữ được tư thế dễ chịu nhưng khi tiếp cận cái chết của vua Louis XVI chúng tôi đã thực sự bất ngờ trong khiếp sợ bởi cái chết của ông được ban bởi thần dân của ông và được hành quyết bởi máy chém - thiết bị mà nền cộng hoà non trẻ dùng để kết liễu chế độ quân chủ mà họ xem là phản động. Ngoài ra, dưới thời kì Robespierre được xem là đỉnh cao cách mạng nhưng qua tư liệu tiếp cận và những nhận định được chúng tôi rút ra sau khi so sánh thì có lẽ thời kì Jacobin đã được đánh giá vội vàng để rồi nó được xem là đỉnh cao của cách mạng. Qua tài liệu tiếp cận, chúng tôi thấy rằng lịch sử là một dòng chảy bình yên có chăng là sự quanh co để rồi tiếp tục dòng chảy của nó, và nó đã được các bình phẩm viên gán cho những cái tiêu đề như đỉnh cao, thoái trào… Qua tiếp cận chúng tôi nhận ra rằng trong cuộc tranh đấu quyết liệt giữa hai thế lực nếu như máu đã đổ và một thế lực nằm xuống hoặc rút lui, thì thế lực còn lại tha hồ
53 mà phô trương (xét trong trường hợp Robespierre) và thế lực kia đã đi vào bóng chiều tà của lịch sử và bao nhiêu công trạng làm được phút chốc hoá thành mây khói.
Tựu trung lại, theo chúng tôi, cách mạng chỉ là kết quả chính quyền vào tay ai hay một tập thể và cá nhân hay tập thế đó có đáp ứng được nhu cầu mọi người dân cũng như thu phục nhân tâm. Chỉ vậy thôi thì chúng tôi xem cách mạng là sự thành công. Vì qua 3 cuộc cách mạng, ta thấy tiến trình ở mỗi cuộc cách mạng chẳng qua là tìm kiếm một thế lực nhằm đảm bảo những đặc quyền mà tất yếu họ phải có và không ai có thể vi phạm. 3.2. Đề xuất cập nhật vào đề cương học phần “Lịch sử Thế giới Cận đại” Đề cương chi tiết học phần Lịch sử Thế giới Cận đại được chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này do Cao Thị Lan Chi và Hồ Thanh Tâm xây dựng dùng để giảng dạy cho sinh viên năm thứ 2 ngành Sư phạm Lịch sử, Khoa Lịch sử Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
1. Thông tin chung về học phần
1.1. Tên học phần : Lịch sử Thế giới Cận đại 1.2. Tên học phần bằng tiếng Anh: Modern History of the Word 1.3. Mã học phần: (3) 1.4. Điều kiện tiên quyết:
- Học phần tiên quyết : Không - Học phần học trước: Lịch sử Thế giới Cổ trung đại 1, Lịch sử Thế giới Cổ trung đại 2
Số tiết (Lý thuyết): 60 + 120 TH
1.5. Chương trình đào tạo: Giáo dục đại học 1.6. Ngành đào tạo: Sư phạm Lịch sử 1.7. Số tín chỉ: 4 ; 1.8. Yêu cầu phục vụ cho học phần: Máy tính, máy chiếu, màn ảnh, micro
2. Tóm tắt nội dung học phần
Học phần cung cấp kiến thức cơ bản và hệ thống về tiến trình lịch sử thế giới từ giữa thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX, gồm các nội dung chính: (1) Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ diễn ra ở Tây Âu - Bắc Mỹ (cách mạng Netherland, cách mạng Anh, chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, cách mạng Pháp, quá trình thống nhất nước Đức, quá trình thống nhất nước Italia, cải cách nông nô ở Nga); (2) Cách mạng Công nghiệp và Phong trào Công nhân (từ tự phát đến tự giác và sự ra đời của Chủ nghĩa Xã hội Khoa học, Quốc tế I, Quốc II); (3) Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; biểu hiện qua trường hợp: Anh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ) và những hệ quả về kinh tế, chính trị, quan hệ quốc tế; (4) Phong trào đấu tranh của một số quốc gia Á - Phi - Mỹ Latin chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Thực dân phương Tây; (5) Quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thế chiến I (1914 - 1918). 3. Mục tiêu học phần Sau khi học xong học phần này, sinh viên sẽ:
3.1. Về phẩm chất
54
Yêu nước; yêu chủ nghĩa xã hội, yêu đồng bào; có lòng tự hào dân tộc; thấm
nhuần thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật. Yêu nghề, có đạo đức nghề nghiệp. 3.2. Về năng lực Tìm kiếm thông tin từ tài liệu và mạng internet để lĩnh hội kiến thức cơ bản,
cập nhật của Lịch sử Thế giới Cận đại.
Vận dụng kiến thức vào việc xây dựng các bài giảng có liên quan về nội dung
để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy sau này.
Phát triển kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng học nhóm, kỹ năng thuyết trình và trả lời các câu hỏi; sử dụng phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động học tập và nghiên cứu. 4. Nội dung chi tiết học phần Mở đầu: Giới thiệu nội dung học phần, mục đích, yêu cầu Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.1. Cách mạng Netherland (1566-1648)
1.1.1. Tình hình Netherland giữa thế kỷ XVI 1.1.2. Diễn biến cách mạng Netherland 1.1.3. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
1.2. Cách mạng Anh (1640-1689)
1.2.1. Những nguyên nhân dẫn đến cách mạng 1.2.2. Những chặng đường tiến triển của cách mạng Anh 1.2.3. Một số quan điểm về các vấn đề: ruộng đất, chính quyền
1.3. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775 - 1783) và Nội chiến Hoa Kỳ (1861 - 1865)
1.3.1. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775 - 1783) 1.3.2. Nội chiến Hoa Kỳ (1861 - 1865)
1.4. Đại cách mạng Pháp (1789 - 1799)
1.4.1. Tiền đề cách mạng 1.4.2. Tiến trình cách mạng 1.4.3. Ý nghĩa lịch sử
1.5. Một số sự kiện chính trị ở Pháp trong những năm 1799-1852
1.5.1. Thời đại Napoléon (1799-1815) 1.5.2. Nước Pháp: từ Quân chủ Trung hưng Bourbon đến sự thành lập Đệ nhị Đế chế (1815-1852)
1.6. Quá trình thống nhất nước Đức (1864-1871)
1.6.1. Sự phát triển của nền kinh tế TBCN và các khả năng thống nhất nước Đức 1.6.2. Diễn biến của quá trình thống nhất nước Đức 1.6.3. Ý nghĩa lịch sử
1.7. Quá trình thống nhất nước Italia (1859-1870) 1.7.1. Tình hình bán đảo Italia trước 1859 1.7.2. Diễn biến của quá trình thống nhất Italia 1.7.3. Ý nghĩa lịch sử
55
1.8. Cải cách nông nô ở Nga (1861)
1.8.1. Những tiền đề của cải cách 1.8.2. Những nguyên tắc cơ bản và tính chất của cải cách năm 1861
Chương 2. Cách mạng Công nghiệp và Phong trào Công nhân 2.1. Cách mạng Công nghiệp ở các nước châu Âu và Hoa Kỳ (thế kỷ XVIII-XIX)
2.1.1. Cách mạng công nghiệp ở Anh 2.1.2. Cách mạng Công nghiệp lan ra các nước châu Âu và Hoa Kỳ 2.1.3. Những hệ quả kinh tế - xã hội của cách mạng công nghiệp
2.2. Phong trào Công nhân từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX 2.2.1. Phong trào Công nhân thế giới nửa đầu thế kỷ XIX 2.2.2. Chủ nghĩa Xã hội Không tưởng và Chủ nghĩa Xã hội Khoa học 2.2.3. Phong trào Công nhân thế giới từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (Quốc tế I (1864 - 1876), Công xã Paris (1871), Phong trào Công nhân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và Quốc tế II)
Chương 3. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền 3.1. Các nước tư bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
3.1.1. Nước Anh 3.1.2. Nước Pháp 3.1.3. Nước Đức 3.1.4. Nước Mĩ
3.2. Một số vấn đề về lí luận
3.2.1. Sự phát triển không đều 3.2.2. Những đặc trưng và vai trò Lịch sửcủa Chủ nghĩa Đế quốc
Chương 4. Phong trào đấu tranh của một số quốc gia Á - Phi - Mỹ Latin chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Thực dân phương Tây 4.1. Trung Quốc
4.1.1. Trung Quốc trước khi Chủ nghĩa Thực dân phương Tây xâm nhập 4.1.2. Trung Quốc trước sự xâu xé của các nước đế quốc.
4.2. Nhật Bản
4.2.1. Duy tân Minh Trị 4.2.2. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
4.3. Ấn Độ
4.3.1. Ấn Độ trước khi Chủ nghĩa Thực dân phương Tây xâm nhập 4.3.2. Quá trình Ấn Độ các nước phương Tây xâm nhập Ấn Độ 4.3.3. Ấn Độ dưới sự thống trị của thực dân Anh
4.4. Châu Phi và Mỹ Latin 4.4.1. Châu Phi 4.4.2. Mỹ Latin
Chương 5. Quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thế chiến I (1914- 1918) 5.1. Quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
5.1.1. Các cường quốc hoàn thành phân chia lãnh thổ thế giới
56
5.1.2. Hệ thống các hiệp ước giữa các cường quốc 5.1.3. Các cuộc chiến tranh và xung đột khu vực
5.2. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
5.2.1. Nguyên nhân, quy mô, tính chất của chiến tranh 5.2.2. Diễn biến và hậu quả chiến tranh
5. Kế hoạch dạy học
Tuần Nội dung Số tiết
Phương pháp/ hình dạy thức học
3 LT Mở đầu: Giới thiệu nội dung học phần, mục đích, yêu cầu Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.1. Cách mạng Netherland (1566- 1648) Tuần 1 Nghe giảng & tự đọc.
1.1.1. Tình hình Netherland giữa thế kỷ XVI 1.1.2. Diễn biến cách mạng Netherland 1.1.3. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.2. Cách mạng Anh (1640-1689)
3 LT Tuần 2 Nghe giảng & tự đọc.
1.2.1. Những nguyên nhân dẫn đến cách mạng 1.2.2. Những chặng đường tiến triển của cách mạng Anh 1.2.3. Một số quan điểm về các vấn đề: ruộng đất, chính quyền
3 LT Tuần 3 Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.3. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775- 1783) và Nội chiến Hoa Kỳ (1861- 1865) Nghe giảng & tự đọc.
1.3.1. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775-1783)
57
3 LT Tuần 4 Nghe giảng & tự đọc.
Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.3. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775- 1783) và Nội chiến Hoa Kỳ (1861- 1865)
1.3.2. Nội chiến Hoa Kỳ (1861- 1865)
Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.4. Đại cách mạng Pháp (1789- 1799) 3 LT Tuần 5 Nghe giảng & tự đọc.
1.4.1. Tiền đề cách mạng 1.4.2. Tiến trình cách mạng 1.4.3. Ý nghĩa lịch sử
Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.5. Một số sự kiện chính trị ở Pháp trong những năm 1799-1852
3 LT Tuần 6 Nghe giảng & tự đọc.
1.5.1. Thời đại Napoléon (1799- 1815) 1.5.2. Nước Pháp: từ Quân chủ Trung hưng Bourbon đến sự thành lập Đệ nhị Đế chế (1815- 1852)
Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.6. Quá trình thống nhất nước Đức (1864-1871)
3 LT Tuần 7 Nghe giảng & tự đọc.
1.6.1. Sự phát triển của nền kinh tế TBCN và các khả năng thống nhất nước Đức 1.6.2. Diễn biến của quá trình thống nhất nước Đức 1.6.3. Ý nghĩa lịch sử
Chương 1. Một số cuộc cách mạng Tư sản/Dân chủ (ở Tây Âu-Bắc Mỹ) 1.7. Quá trình thống nhất nước Italia (1859-1870) 3 LT Tuần 8 Nghe giảng & tự đọc.
1.7.1. Tình hình bán đảo Italia trước 1859 1.7.2. Diễn biến của quá trình
58
thống nhất Italia 1.7.3. Ý nghĩa lịch sử
1.8. Cải cách nông nô ở Nga (1861)
1.8.1. Những tiền đề của cải cách 1.8.2. Những nguyên tắc cơ bản và tính chất của cải cách năm 1861
Chương 2. Cách mạng Công nghiệp và Phong trào Công nhân 2.1. Cách mạng Công nghiệp ở các nước châu Âu và Hoa Kỳ (thế kỷ XVIII-XIX)
Tuần 9 3 LT Nghe giảng & tự đọc.
2.1.1. Cách mạng công nghiệp ở Anh 2.1.2. Cách mạng Công nghiệp lan ra các nước châu Âu và Hoa Kỳ 2.1.3. Những hệ quả kinh tế - xã hội của cách mạng công nghiệp
2.2. Phong trào Công nhân từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
2.2.1. Phong trào Công nhân thế giới nửa đầu thế kỷ XIX
Chương 2. Cách mạng Công nghiệp và Phong trào Công nhân 2.2. Phong trào Công nhân từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Tuần 10 3 LT Nghe giảng & tự đọc.
2.2.2. Chủ nghĩa Xã hội Không tưởng và Chủ nghĩa Xã hội Khoa học 2.2.3. Phong trào Công nhân thế giới từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (Quốc tế I (1864- 1876), Công xã Paris (1871), Phong trào Công nhân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và Quốc tế II)
Tuần 11 3 LT Nghe giảng & tự đọc.
Chương 3. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền 3.1. Các nước tư bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
3.1.1. Nước Anh
59
3.1.2. Nước Pháp
3 LT Tuần 12 Nghe giảng & tự đọc.
Chương 3. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền 3.1. Các nước tư bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
3.1.3. Nước Đức
3 LT Tuần 13 Nghe giảng & tự đọc.
Chương 3. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền 3.1. Các nước tư bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
3.1.4. Nước Mĩ
Chương 3. Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh sang độc quyền 3.2. Một số vấn đề về lí luận 3 LT Nghe giảng & tự đọc. Tuần 14
3.2.1. Sự phát triển không đều 3.2.2. Những đặc trưng và vai trò Lịch sửcủa Chủ nghĩa Đế quốc
Thi giữa học phần Chương 4. Phong trào đấu tranh của một số quốc gia Á - Phi – Mỹ Latin chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Thực dân phương Tây 4.1. Trung Quốc 3 LT Tuần 15 Nghe giảng & tự đọc.
4.1.1. Trung Quốc trước khi Chủ nghĩa Thực dân phương Tây xâm nhập 4.1.2. Trung Quốc trước sự xâu xé của các nước đế quốc.
3 LT Tuần 16 Chương 4. Phong trào đấu tranh của một số quốc gia Á - Phi – Mỹ Latin chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Thực dân phương Tây 4.2. Nhật Bản Nghe giảng & tự đọc.
3 LT Tuần 17 Nghe giảng & tự đọc.
4.2.1. Duy tân Minh Trị 4.2.2. Sự phát triển của CNTB vào cuối TK XIX đầu TK XX Chương 4. Phong trào đấu tranh của một số quốc gia Á - Phi – Mỹ Latin chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Thực dân phương Tây
60
4.3. Ấn Độ
4.3.1. Ấn Độ trước khi CNTD phương Tây xâm nhập 4.3.2. Quá trình Ấn Độ các nước phương Tây xâm nhập Ấn Độ 4.3.3. Ấn Độ dưới sự thống trị của thực dân Anh
Tuần 18 3 LT Nghe giảng & tự đọc.
Chương 4. Phong trào đấu tranh của một số quốc gia Á - Phi – Mỹ Latin chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Thực dân phương Tây 4.4. Châu Phi và Mỹ Latin 4.4.1. Châu Phi 4.4.2. Mỹ Latin
Chương 5. Quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thế chiến I (1914-1918) 5.1. Quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Tuần 19 3 LT Nghe giảng & tự đọc.
5.1.1. Các cường quốc hoàn thành phân chia lãnh thổ thế giới 5.1.2. Hệ thống các hiệp ước giữa các cường quốc 5.1.3. Các cuộc chiến tranh và xung đột khu vực
Chương 5. Quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thế chiến I (1914-1918) 5.2. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) Tuần 20 3 LT Nghe giảng & tự đọc.
5.2.1. Nguyên nhân, quy mô, tính chất của chiến tranh 5.2.2. Diễn biến và hậu quả chiến tranh
6. Học liệu
6.1. Giáo trình môn học.
[1]. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2008), Lịch sử Thế giới Cận đại,
NXB Giáo dục
[2]. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Đào Tuấn Thành, Nguyễn Thị Huyền Sâm, Mai Phú Phương (2008), Lịch sử Thế giới Cận đại, Tập I, NXB Đại học Sư phạm
61
[3]. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Đào Tuấn Thành, Nguyễn Thị Huyền Sâm, Mai Phú Phương (2011), Lịch sử Thế giới Cận đại, Tập II, NXB Đại học Sư phạm
6.2. Danh mục tài liệu tham khảo.
[4]. A.Manfret (1965), Đại cách mạng Pháp 1789, Nxb Khoa học, Hà Nội [5]. B.N. Pônômariốp [và nh.ng. khác] (1986), Phong trào công nhân quốc tế : những vấn đề Lịch sử và lý luận, Tập II, NxbTiến bộ và Nxb Sự thật, Hà Nội
[6]. Charles P.Roland (2007), Nội chiến Hoa Kỳ, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội
[7]. Ellis, Geoffrey (2008), Napoleon, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội [8]. Eric Foner (2008), Lược sử nước Mỹ thời kỳ tái thiết 1863-1877, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội
[9]. F.Engghen (1963), Cách mạng dân chủ tư sản ở Đức, chiến tranh nông dân ở Đức, cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Nxb Khoa học, Hà Nội
[10]. F.Engghen (1963), Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Nxb Sử
học, Hà Nội
[11]. Ghemcốp (1983), Cuộc đời chúng tôi : tiểu sử Các Mác và Phri-
đrích Ăng-ghen, Nxb Sự thật, Hà Nội
[12]. Lê Phụng Hoàng (Chủ biên) (2000), Lịch sử Văn minh Thế giới,
Nxb Giáo dục
[13].
Lê Phụng Hoàng (2005), Các bài giảng chuyên đề Lịch sử Tây Âu và Hoa Kỳ, Tập I, Tập II, Tủ sách Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
[14]. [15]. K.Marx (1961), Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội K.Marx (1961), Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapaotơ,
Nxb Sự thật, Hà Nội
[16]. K.Marx - F. Engghen(1975), Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Nxb
Sự thật, Hà Nội
[17]. Lênin (1976), Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga, Nxb
Tiến bộ, Hà Nội
[18]. Nguyễn Thành Lê (1984), Quốc tế thứ nhất (1864-1876), Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội
[19]. Bùi Đức Mãn (2008), Lược sử nước Anh, Nxb Tổng hợp TP. Hồ
Chí Minh
[20]. Norman Hampson(2004), Đại cách mạng Pháp, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội
[21]. Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức (1994), Lịch sử nước Mỹ : từ thời
lập quốc đến thời hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
[22]. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (1996), Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo
dục
62
[23]. Ozaki Mugen (2014), Cải cách Giáo dục Nhật Bản, Nxb Từ điển
Bách khoa
[24]. Pôlianxki (1978), Lịch sử kinh tế các nước (ngoài Liên Xô), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội
[25]. Lê Vinh Quốc (Chủ biên), Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư
(2001), Các nhân vật Lịch sử Cận đại, Tập II: Nga, Nxb Giáo dục
[26].
Lê Vinh Quốc (Chủ biên), Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Thị Kim Dung, Cao Thị Lan Chi (1996), Các nhân vật Lịch sử Cận đại, Tập I: Mĩ, Nxb Giáo dục
[27]. [28]. [29]. Vĩnh Sính (1991), Nhật Bản cận đại, Nxb TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Anh Thái (1991), Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo dục Nguyễn Thị Thư (1995), Lược sử Nga, Tủ sách Đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh
[30]. Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Tam dân (1995), Viện Thông tin
KHXH, Hà Nội
Sau khi tiếp cận và thảo luận, chúng tôi có những đề xuất cập nhật vào đề cương
những chi tiết vào từng nội dung cụ thể của: 1.2. Cách mạng Anh (1640 - 1689). 1.3. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775 - 1783) và
Nội chiến Hoa Kỳ (1861 - 1865).
1.4. Đại cách mạng Pháp (1789 - 1799). Cách mạng Anh (1640 - 1689) Đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc cách mạng sắp diễn ra đó là cả quá trình tích luỹ những nguyên nhân, hai từ “chính trị” là nguyên nhân của cuộc cách mạng sắp và ắt sẽ diễn ra ở Anh.
Diễn trình cách mạng Anh qua tài liệu tiếp cận như một dòng chảy không điểm dừng. Việc tiếp cận cách mạng Anh qua tài liệu có thể giúp chúng dễ dàng khái quát tiến trình cách mạng như sau: từ năm 1640 đến 1649 nước Anh trong thời kì quân chủ chuyên chế, từ 1649 đến 1660 nước Anh dưới thời kì cộng hoà, từ 1660 đến 1689 nước Anh trong thời kì trung hưng chế độ quân chủ và từ 1689 đến nay nước Anh dưới thời kì quân chủ lập hiến.
Cách mạng Anh được biết đến là cuộc cách mạng không triệt để bởi sau cách mạng người dân vẫn chưa được có ruộng đất. Nếu như vấn đề ruộng đất được giải quyết thì có lẽ nước Anh sẽ không tiến hành cách mạng công nghiệp trong tiến trình lịch sử. Vì thế theo chúng tôi không thể đánh giá cách mạng triệt để hay không triệt để qua việc xem xét ruộng đất mà cách mạng là sự thay đổi chế độ cũng như lãnh đạo nắm quyền hành có duy trì cũng như đáp ứng nguyện vọng của người dân.
Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775 - 1783) Qua tiếp cận chúng tôi nhận thấy rằng, cách mạng Hoa Kì là một định mệnh của khao khát tự do không giới hạn. Khi con người ta ý niệm được sự tự do là quyền tối cao và không kẻ nào có quyền xâm phạm, thì họ sẵn sàng nguyện hy sinh tất cả để giành lấy và giữ gìn. Họ chiến đấu để máu của những người con Tân Thế giới hoà vào
63 lòng đất cùng những hơi thở cuối cùng kết thành cả khoảng trời tự do và để nơi đó trở thành điểm tựa tinh thần cho niềm tranh đấu không mỏi mệt của nhân loại, để những bạo quyền chuyên chế phải khiếp sợ trước ánh sáng của tương lai. Đề rồi nước Mĩ, một đất nước xem tự do là một quyền thiêng liêng, quyền mà tất cả con người phải có. Chúng tôi nghĩ khi giảng dạy cũng như hướng dẫn sinh viên tiếp cận, cần chú ý khắc sâu ý tưởng “tự do” thông qua cách mạng Hoa Kì. Vì qua cách mạng Hoa Kì, cho thấy tự do là mục tiêu đề ra từ ban đầu của cách mạng.
Chúng tôi, xin điểm lại một số sự kiện chính trong tiến trình lịch sử cách mạng Hoa Kì như sau: Cuối 1773, với sự kiện chè Boston, chính phủ Anh đã ra lệnh phong toả cảng Boston. Đến tháng 9 - 1774, Đại hội lục địa lần thứ nhất được tiến hành, đưa lên vua Anh bản thỉnh nguyện nhằm hạn chế chính sách công thương nghiệp nhưng đáp lại chính phủ tuyên bố sẽ trừng trị nếu các thuộc địa tiếp tục nổi loạn. Thực sự, theo chúng tôi đến thời điểm này các thuộc địa vẫn còn lý trí bởi họ vẫn còn tôn trọng chính quốc gửi đến chính quốc lời thỉnh nguyện tha thiết nhưng trước những hành động từ khước của chính quốc, nhân dân thuộc địa đã đi đến thái độ dứt khoát đoạn tuyệt. Tháng 4 - 1775, chiến tranh bùng nổ giữa chính quốc và các thuộc địa, và kết quả với ưu thế của mình chính quốc Anh đã giành được thắng lợi. Tháng 5 - 1775, Đại hội lục địa lần thứ hai, thông qua các vấn đề giải quyết chiến tranh và cử Washington làm tổng chỉ huy và với những chính sách thích hợp đã làm thay đổi cục diện. Ngày 4 - 7 - 1776, thông qua Tuyên ngôn độc lập đồng thời thành lập Hợp chúng quốc Mĩ. Tháng 10 - 1777, với chiến thắng Saratoga đã tạo nên bước ngoặt của cách mạng và đến năm 1781 với chiến thắng Yorktown quân Anh đã đầu hàng và đi đến kết thúc chiến tranh.
Mặc dù chế độ bầu cử vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng lòng tin về một đất nước lý tưởng đã đưa họ gắn kết lại với nhau. Họ đã dùng lòng trung thành của mình để làm nên cảm hứng thiết lập nên bầu trời tự do và mỗi người ý thức rằng phải bảo vệ nó bằng tất cả.
Đại cách mạng Pháp (1789 - 1799) Về nguyên nhân dẫn đến cách mạng, chúng tôi xin đề cập đến sự bất mãn trật tự xã hội. Chính sự bất mãn trong trật tự xã hội đã đưa đến mâu thuẫn giữa các đẳng cấp với nhau về lợi ích, quyền lợi chính trị cũng như kinh tế. Mâu thuẫn khó giải quyết bằng biện pháp ôn hoà vì thế một cuộc cách mạng diễn ra ở Pháp cuối thế kỉ XVIII là một điều tất yếu.
Qua tiếp cận tài liệu, chúng tôi nhận thấy, thời kì Jacobin quả thật là thời kì rùng rợn của lịch sử Pháp với hình ảnh máy chém và mỗi ngày hình ảnh “đầu lìa khỏi cổ” đều diễn ra trên đất nước gọi là văn minh của thời kì này. Thời kì mà cái chết đe doạ từng nhịp thở đối với mọi người. Vậy nên gọi khoảng thời gian này là thời kì khiếp sợ với nước Pháp trong tiến trình lịch sử cách mạng. Dường như, nhà vua là một biểu tượng của sự uy quyền, ấy vậy mà trong phúc chốc cuồng nhiệt và đánh mất lý trí quần chúng nhân dân - biểu hiện qua hình ảnh của Robespierre - đã đưa Louis XVI đến cái chết. Để rồi khi họ thức tỉnh thì cũng là lúc nước Pháp hồi sinh sau những năm tháng dài mệt mỏi bởi cách mạng.
64
Căn cứ vào học liệu được thể hiện qua đề cương chi tiết, chúng tôi thiết nghĩ cần
Holt, Rinehart and Winston. (2005). Holt World History: The Human Journey.
cập nhật cũng như bổ sung thêm những tài liệu sau: Texas: Holt, Rinehart and Winston.
Littlefield, H.W. (1965). History of Europe 1500 - 1848, New York: Barnes &
McKay, J.P., J.P., Hill, B.D., & Buckler, J. (1999). A History of Western
Prentice, H. (2005). World Studies: Medieval Times to Today. Massachsetts:
Những tài liệu được chúng tôi đề xuất cập nhật là những tài liệu mà chúng tôi
Noble Inc. Society. Boston, MA: Houghton Mifflin. Pearson Prentice Hall. Roger, B., Beck, R. B., Black, L., & Krieger, L. S., Naylor, P. C., Shabaka, D. I. (2009). World history: Patterns of interaction. Evanston. IL: McDougal Littell. Smelser, M. (1966). American Colonial and Revolutionary Histor. New York: Barnes & Noble Inc. cho rằng rất cần thiết để có những thông tin và quan điểm rộng mở. 3.3. Vận dụng những kiến thức mới vào dạy học Lịch sử tại trường Phổ thông Việc nghiên cứu sẽ thêm giá trị khi những kết quả được áp dụng vào việc giảng dạy tại trường Phổ thông. Sau đây, chúng tôi sẽ tiến hành cập nhật những vấn đề mà chúng tôi thiết nghĩ cần phải thay đổi hoặc góp phần tạo thêm sự đa dạng trong thông tin và quan điểm về sự kiện, đối với:
Bài 29. Cách mạng Hà Lan và Cách mạng tư sản Anh [5, tr. 142 - 145] Bài 30. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ [5, tr. 146 - 150] Bài 31. Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII [5, tr. 151 - 158]
Bài 29. Cách mạng Hà Lan và Cách mạng tư sản Anh Ở nội dung bài này, chúng tôi xin đề cập đến phần 2. Cách mạng Anh. Nếu theo như Sách giáo khoa thì nguyên nhân cách mạng Anh chiếm gần ½ dung lượng của vấn đề, theo chúng tôi thực sự không hợp lý. Qua xem xét, chúng tôi nhận thấy tác giả trình bày nguyên nhân dẫn đến Cách mạng Anh quá chi tiết với những nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp. Trong khi qua tiếp cận, chúng tôi nhận thấy các tài liệu nghiên cứu cho rằng nguyên nhân dẫn đến cách mạng Anh là sự mâu thuẫn về chính trị giữa vua và nghị viện. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy từ Sách giáo khoa một nhận định mà có lẽ chưa xác đáng “Do áp lực của quần chúng, đầu năm 1649, Sác - lơ I bị xử tử, Anh trở thành nước cộng hoà do Ô - li - vơ Crôm - oen (1599 - 1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới đỉnh cao.” [5, tr.145] Nếu theo như tài liệu tiếp cận thì bản án đức vua được Nghị viện trực tiếp thông qua và lúc này chúng tôi thiết nghĩ dù muốn, dù không thì Nghị viện cũng phải tiến hành thông qua bản án bởi sự an toàn Nghị viện lúc này đổi lại là cái chết của Charles I. Và Nghị viện lúc này chỉ còn là con rối của Cromwell, nếu theo nhận định từ Sách giáo khoa thì quả thật quần chúng đã rơi vào cơn cuồng loạn. Và khi đạt đến nền cộng hoà thì được xem là đỉnh cao của cách mạng, nhưng chúng tôi nhận thấy đây thực sự là thời kì máu đổ, xáo trộn, khắc
65 nghiệt của nước Anh, tệ hơn, Nghị viện đã mất hẳn vai trò và sự tồn tại. Cách mạng Anh kết thúc thì được gán cho một nhận định là cuộc cách mạng không triệt để, bởi nó chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất cũng như đã không xoá bỏ chế độ phong kiến nhưng thông qua tài liệu tiếng Anh, chúng tôi dường như không nhận thấy đề cập đến vấn đề ruộng đất mà ngược lại chúng tôi nhận thấy cách mạng chủ yếu xoay quanh vấn đề chính trị là chính, và do vậy, đó là kết luận không thoả đáng.
Bài 30. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ Ở phần 1. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Bắc Mĩ. Nguyên nhân bùng nổ chiến tranh, chúng tôi nhận thấy tác giả trình bày khá chi tiết, tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy sự cai trị các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ không diễn ra theo chiều hướng áp chế. Bởi trước 1763, sự cai trị của chính quốc mang hơi hướng của sự tự do nhưng sau đó một sự cai trị khiến các quyền tự do bị ảnh hưởng vì thế theo chúng tôi đó là một trong những nguyên nhân khiến các thuộc địa nổi dậy. “…, đầu tháng 9 - 1774, đại hội đại biểu các thuộc địa được tiến hành ở Phi - la - đen - phi - a - Đại hội lục địa lần thứ nhất nhất. Các đại biểu yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp ở Bắc Mĩ. Không chấp nhận yêu cầu đó, vua Anh tuyên bố sẽ ra lệnh trừng trị, nếu các thuộc địa “nổi loạn”.” [5, tr.148] Theo tác giả, hành động của các thuộc địa mang tính chất nổi loạn và chính quốc Anh sẽ trừng trị nếu cứ tiếp diễn. Nhưng qua quá trình so sánh, nghiên cứu và xem xét thì chúng tôi cho rằng chính hành động yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp nó đã thể hiện người dân thuộc địa vẫn còn ý niệm về chính quốc, vẫn còn sự tôn trọng đức vua của mình ở một nơi xa xôi. Ngoài ra, hành động của các thuộc địa thể hiện họ là những người với tư tưởng tự do hành động đi cùng với suy nghĩ, vì thế chúng tôi thiết nghĩ có nên xem đó là hành động mang tính nổi loạn của các thuộc địa. Chúng tôi nhận thấy, cách mạng Hoa Kì là một cuộc cách mạng hướng đến tự do, họ sẵn sàng đứng lên để giành lấy tự do và cũng sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nó. Ngoài ra, tác giả nhận định cách mạng Hoa Kì mang tính chất là một cuộc cách mạng tư sản, nhưng theo chúng tôi thuật ngữ cách mạng tư sản có thực sự phù hợp khi dùng trong hoàn cảnh này. Chúng tôi cho rằng, cách mạng Hoa Kì là khoảnh khắc những người con của Tân Thế giới long trọng khẳng định nền tự do mà họ đã dựng xây, thụ hưởng và bảo vệ.
Bài 31. Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII Qua quá trình tiếp cận tài liệu tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy nên cập nhật cũng như bổ sung một số góc nhìn sau: Sự kiện nhân dân tấn công ngục Bastille, theo chúng tôi là một cơn cuồng loạn, là lúc quần chúng nhân dân đánh mất lý trí của chính mình, cơn bão Bastille bắt đầu cho những sự kiện tiếp sau đó tạo thành cơn bão quát ngang dọc nước Pháp cuối thế kỉ XVIII. Chúng tôi nhận thấy tác giả cho rằng thời kì Jacobin được xem là đỉnh cao của cách mạng vì đơn giản dưới thời kỳ Jacobin mọi khó khăn như thù trong, giặc ngoài đã được giải quyết và vấn đề ruộng đất cũng đã được giải quyết cho người dân. Tuy nhiên, theo chúng tôi đó chỉ là một góc nhìn chưa toàn diện, xác đáng. Chúng tôi nhận thấy thời kì Jacobin (1793 - 1794) là khoảng thời gian nước Pháp sống trong lo âu bởi hơi thở luôn bị đe doạ bởi máy chém, thời kỳ máu nhuộm cả Paris; thời kì Jacobin chính là cái giá phải trả của người dân bởi những
66 hành động vội vàng đánh mất lý trí; và lúc người dân phục hồi lý trí cũng là lúc Paris được cứu sống sau những tháng ngày khiếp sợ - Robespierre bước lên đoạn đầu đài. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy việc phân chia ruộng đất cho người dân là một trong những động cơ để có thể xem cách mạng Pháp mang tính chất triệt để hơn so với các cuộc cách mạng khác. Nhưng đó lại là một trong những nguyên nhân trọng đại để cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những kĩ thuật tiên tiến khó có thể áp dụng vào canh tác bởi lúc này chủ yếu là nền kinh tế tiểu nông, đất đai manh mún. Cuối cùng, chúng ta nghĩ gì khi cách mạng Pháp khởi đầu là cơn cuồng loạn lật đổ nền quân chủ, cuồng nhiệt xử tử đức vua, quý tộc và những người bị quy tội phản quốc (theo Luật Tình Nghi và chính sách khủng bố) nhưng lại kết thúc bằng việc trao ngai vàng cho một tướng lĩnh quân đội, và như diễn trình tiếp tục sẽ cho thấy Napoléon Bonaparte trở thành Hoàng đế của nhân dân Pháp - Đệ nhất Cộng hoà sụp đổ - Đế chế Pháp ra đời.
67 KẾT LUẬN
Qua việc Tiếp cận nội dung “Cách mạng tư sản” từ một số tài liệu
tiếng Anh, chúng tôi xin nêu một số nhận thức sau: 1. Qua quá trình tiếp cận những tài liệu tiếng Anh đề cập đến nội dung “Cách mạng tư sản” chúng tôi nhận thấy rằng mỗi tài liệu đều có những giá trị nhất định về nội dung cũng như cách trình bày và nhận định. Với việc tiếp cận những góc nhìn mới sẽ là một đóng góp không nhỏ đối với không gian học thuật. Ngoài ra, qua quá trình nghiên cứu đề tài đã giúp chúng tôi có thêm điều kiện rèn luyện những phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết vào thực tiễn. Chúng tôi nhận thấy những thông tin cũng như những nhận định khác nhau, đa chiều sẽ là những đề tài tranh luận khá thú vị trong những giờ seminar của học phần với những chủ chủ đề lí thú như “Cách mạng Pháp ở châu Âu: từ hoảng hốt đến căm phẫn”. Đồng thời, những nội dung được thể hiện trong Giáo trình sẽ có cơ sở đối chiếu, kiểm chứng để đi đến những kết luận riêng sau quá trình xem xét cẩn trọng. Ngoài ra, việc tiếp cận là một việc làm hết sức khẩn thiết đối với sự phát triển của khoa học Lịch sử trong thời đại số hoá hiện nay. Ngược lại, nếu cứ theo quan điểm “thủ cựu bài tân” thì có lẽ khoa học Lịch sử sẽ ngày càng lạc hậu và không bắt kịp nhịp bước chung của khoa học Lịch sử hiện đại. 2. Chúng tôi nhận thấy việc tiếp cận tài liệu, giáo trình, bài giảng online … và các nguồn tài liệu đa dạng trong hoạt động nghiên cứu khoa học Lịch sử là một hoạt động rất cần thiết. Quá trình tiếp cận đa dạng các nguồn tài liệu nghiên cứu cũng là lúc chúng ta tiếp thu kiến thức, quan điểm dưới nhiều góc nhìn; đến lượt mình, những góc nhìn khác nhau sẽ đi đến những kết luận cũng như nhận định khác nhau. Qua việc tiếp nhận các góc nhìn từ các tài liệu tiếp cận chúng ta sẽ có thêm căn cứ, nền tảng lý luận để đi đến những kết luận mới, thoả đáng hơn. Những góc nhìn mới, thành tựu nghiên cứu sẽ được cập nhật, áp dụng vào công tác nghiên cứu và dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo hướng cập nhật kiến thức, quan điểm đa chiều, cùng với việc áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại, tạo nên một không gian học thuật sinh động. 3. Chúng tôi nhận thấy rằng phương thức trình bày vấn đề là một trong những yếu tố tác động mạnh vào việc nhận thức khoa học Lịch sử. Thực vậy, Lịch sử là một dòng chảy liên tục cần được thể hiện mạch lạc và theo dòng thời gian, nhưng nếu tiếp cận Giáo trình chúng tôi nhận thấy với số lượng đề mục nếu không nói là quá chi tiết tạo nên những vết cắt khiến việc tiếp cận trở nên rối rắm. Nhận thấy vấn đề trình bày đóng một vai trò nhất định trong quá trình nhận thức khoa học Lịch sử chúng tôi thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề mà các nhà biên soạn Sách giáo khoa nên chú trọng, tránh đi sự rườm rà trong cách thức trình bày vấn đề. Ngoài ra, chúng tôi đã bị thu hút bởi cách trình bày từ các tài liệu tiếng Anh vì nội dung kiến thức còn được minh hoạ bằng các hình ảnh
68 đa dạng khiến Lịch sử là những câu chuyện quá khứ sinh động, khơi gợi tò mò khám phá. Chúng tôi nghĩ một cuốn Sách giáo khoa thành công khi nó thu hút được người đọc cũng như khiến người ta phải tò mò mà trước hết đó là phải cô đọng về cách trình bày cũng như có sự kết hợp hình ảnh ở một mức độ phù hợp. 4. Chúng tôi cho rằng, cần thiết lập một website về nghiên cứu cũng như giảng dạy Lịch sử Thế giới Cận đại cho Trường Đại học Sư phạm. Mục tiêu của trang web nhằm góp phần bổ trợ những kiến thức cập nhật, các góc nhìn đa chiều về vấn đề, cập nhật nhanh chóng những kết quả nghiên cứu về “Cách mạng tư sản”. Thực tế chứng minh, để trợ giúp cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử trong trường học từ cấp phổ thông đến đại học phần lớn các nước trong khu vực và trên thế giới, hàng loạt các trang web được thiết lập, mở rộng và phát huy hiệu quả tích cực. Các trang web này lại được kết nối với hàng ngàn các trang web khác giúp cho hàng triệu người có thể truy cập bất cứ lúc nào, ở bất kì nơi đâu về những vấn đề Lịch sử mà mình quan tâm nói chung và vấn đề “Cách mạng tư sản” nói riêng. Tóm lại, sự khác biệt giữa Giáo trình và các tài liệu tiếng Anh trong cách trình bày về nội dung các cuộc “Cách mạng tư sản” phát xuất từ những cách tiếp cận khác nhau, và do vậy, đã có những nhận thức không tương đồng về sự kiện hay các vấn đề nổi bật của các cuộc cách mạng. Trong một thế giới hội nhập, người nghiên cứu, trong khi giới thiệu quan điểm của cá nhân cũng sẽ đồng thời tiếp nhận những suy nghĩ của người khác, về các vấn đề cùng quan tâm. Phát xuất từ sự nghiên cứu nghiêm túc, những quan điểm và sự trao đổi trong học thuật sẽ góp phần nâng giấc tư duy, đưa nền khoa học Lịch sử Việt Nam tiến bước cùng thời đại. Lựa chọn tìm hiểu về nội dung “Cách mạng tư sản”, chúng tôi xem đây là một trường hợp để khơi gợi một hành trình dài rộng mở đón nhận các thông tin, quan điểm của cộng đồng học thuật phương Tây. Người nghiên cứu khoa học cần phải có những tư duy: tự do - rộng mở - phê phán - sáng tạo.
69 TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT 1. Lê Phụng Hoàng. (2005). Các bài giảng chuyên đề về Lịch sửcác nước Tây Âu và Hoa Kì (Tập II). TP. Hồ Chí Minh: Tủ sách Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Thuỵ Khuê. (2017). Vua Gia Long và người Pháp - Khảo sát về ảnh hưởng của người Pháp trong giai đoạn triều Nguyễn (Sách tham khảo). TP. Hồ Chí Minh: Hồng Đức. 3. Nguyễn Hiến Lê, Thiên Giang. (2000). Lịch sử thế giới. TP. Hồ Chí Minh: Văn Hoá 4. Phan Ngọc Liên. (2013). Lịch sử Thế giới Cận đại (Tập I). Hà Nội: Đại học Sư phạm. 5. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Lương Ninh, Trương Hữu Quýnh, Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Hồng Liên, Nguyễn Cảnh Minh & Nghiêm Đình Vỳ. (2015). Lịch Sử 10. TP. Hồ Chí Minh: Giáo dục Việt Nam. 6. Đoàn Thị Xuân Mai. (2015). Chuyện nhỏ trong thế giới lớn. Hà Nội: Tri Thức. 7. Bùi Đức Mãn. (2008). Lược sử nước Anh. TP. Hồ Chí Minh: Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 8. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng. (2014). Lịch sử thế giới cận đại. Hà Nội: Giáo dục Việt Nam. 9. Lê Vinh Quốc. (2011). Đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại (Lý thuyết và ứng dụng) chuyên đề đổi mới dạy học. TP. Hồ Chí Minh: Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 10. Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn. (2008). Đổi mới ở Việt Nam: nhớ lại và suy ngẫm. TP. Hồ Chí Minh: Tri Thức. 11. Trần Giang Sơn. (2013). Bách khoa toàn thư Lịch sử thế giới. TP. Hồ Chí Minh: Thời Đại. 12. Đặng Thanh Tịnh. (2008). Lịch sử nước Pháp. Hà Nội: Văn hoá Thông tin. TIẾNG ANH 13. Holt, Rinehart and Winston. (2005). Holt World History: The Human Journey. Texas: Holt, Rinehart and Winston. 14. Littlefield, H.W. (1965). History of Europe 1500 - 1848, New York: Barnes & Noble Inc. 15. McKay, J.P., J.P., Hill, B.D., & Buckler, J. (1999). A History of Western Society. Boston, MA: Houghton Mifflin. 16. Prentice, H. (2005). World Studies: Medieval Times to Today. Massachsetts: Pearson Prentice Hall.
70 17. Roger, B., Beck, R. B., Black, L., & Krieger, L. S., Naylor, P. C., Shabaka, D. I. (2009). World history: Patterns of interaction. Evanston. IL: McDougal Littell. 18. Smelser, M. (1966). American Colonial and Revolutionary Histor. New York: Barnes & Noble Inc. INTERNET 19. Freeman, J. (Spring 2010). Lecture 2 - Being a British Colonist. 18 - 1 - 2018. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-116/lecture-2 20. Freeman, J. (Spring 2010). Lecture 12 - Civil War. 25 - 3 - 2018. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-116/lecture-12 21. Kho Lịch sử cận đại. (4 – 7 - 2015). Giới thiệu về Olivo Cromoen và việc xử từ Vua Saclo I. 2-3-2018. truy xuất từ: http://kholichsucandai.blogspot.com/2015/07/gioi-thieu-ve-olivo-cromoen-va- viec-xu.html 22. Nguyễn Văn Kim, Phạm Hồng Tung. (26 - 10 - 2017). Lịch sử và văn hoá - Tiếp cận đa chiều, liên ngành. truy xuất từ: http://ussh.vnu.edu.vn/d6/en-US/news/Sach-Lich-su-va-van-hoa-Tiep-can-da- chieu-lien-nganh-1-490-16237 23. Trần Lê. (3 - 1 - 2014). Vladimir Putin: Stalin không tệ hơn Cromwell. 17- 4-2018, truy xuất từ: http://nhipcauthegioi.hu/lich-su/Vladimir-Putin-STALIN-KHONG-TE-HON- CROMWELL-4005.html 24. Merriman, J. (Fall 2008). Lecture 5 - European Civilization, 1648 - 1945. 25 - 12 - 2017. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-202/lecture-5 25. Merriman, J. (Fall 2008). Lecture 6 - Maximilien Robespierre and the French Revolution. 25 - 12 - 2017. retrieved from: https://oyc.yale.edu/history/hist-202/lecture-6 26. The Observer. (1-1-2014). Khái quát Lịch sử Mĩ (Ch.3): Chặng đường giành độc lập. 15-1-2018. truy xuất từ: http://nghiencuuquocte.org/2014/01/01/khai-quat-lich-su-ch-3-chang-duong- gianh-doc-lap/ 27. USIS. (-). Chương 4: Xây dựng một chính phủ quốc gia. (15-3-2018). truy xuất từ: http://www.usis.us/cuoc-song-tai-my/chng-4-xy-dung-mot-chnh-phu-quoc- gia.html
71 PHỤ LỤC Lecture 6 - Maximilien Robespierre and the French Revolution [September 22, 2008] Chapter 1. The Trial of King Louis XVI and the Death of Marat: A Rock Opera [00:00:00] Professor John Merriman: I'm going to talk about the French Revolution. It's hard to do. I'll leave myself about forty-five minutes after I screw around at the beginning. I want to do two things. I want to see the Revolution through the eyes of Maximilien de Robespierre, a member of the Committee of Public Safety — arguably, with Saint-Just, its most important member. In a way, Jacobin — he incarnated the French Revolution. In doing so I want to talk about the terror and, above all, why it was that people supported or opposed the Revolution. It comes down a great deal to religion, as we'll see. But first, because I promised that we had the only live, bootlegged album of the trial of the king, and of his execution, I thought I'd play those and also the death of Citizen Marat in his bathtub. To do that, I decided to bring a prop. I'm not making light of instant death. I just finished a book about a guy who ends up putting his head in a little window. You knew people were smaller back in those days, but you really didn't imagine that they were this small. Do you know what this is, what this comes from, this guillotine? Do you know what this is for? What? No. This is real. That hurt, actually, when I did that. Don't write your parents, especially you freshman, and say, "he was running here waving a guillotine, running around the place. There he goes again." No, it's for cigars. Student: That was my idea. Professor John Merriman: That was your idea? Student: Cigars, awesome! Professor John Merriman: No, don't smoke. Anyway, can you put on the first one? This is the trial of the king. This is the king. I'll just translate part of it. I'm not going to translate the whole thing. It doesn't matter if you don't know French. This is just for ambience. This is ambience. They're putting him on trial. He did bad things. I'll translate part in a minute. This takes probably too much time, but it's cool. This is from a rock opera about the French Revolution. Keith Richards live here. Keith Richards? This is too long to get to it. I apologize. Louis XVI, this was his finest moment. This is not Louis XVI. They're going to ask him to respond to the charges, and the old boy will. "Answer the accusation, the indictment, what you've done against the nation." It's nice. Listen. "Among you, I'm looking for judges and all I see is accusers." (I won't do the whole thing.) "I never did this horrible thing. I never betrayed my country" (which is patently false). "Life has given me some misfortunes and death doesn't frighten me at all. Maybe you can do France better than me, take care of France better than I could. Keep it from its own excesses. Take care of my family." (They didn't come out very well either.) "Take care of my children. It's only favor I'll ask you to carry out. Je n'ai plus rien à vous dire. I have nothing more to say to you." (They're going to vote now. Got live, got dead.) La mort, death. Saint-Just, "death." Marat — he'll get his in a few minutes. He will get his, too. Now, they execute the old guy. This is the death of Citizen Marat. He meets Charlotte Corday, who is from Normandy and a royalist. He's in his bathtub. I won't translate everything. "Citizen, you're coming without knocking. You're seeing
72 Citizen Marat nude in his bath. What's your name? Charlotte. You have very nice eyes. Come here a little closer. What can I do for you?" (I won't translate that.) "Do you like them, Citizen? Why are you looking so mean all of a sudden? To make you afraid, you bastard. What's the knife for? Argh!" You heard it live. That's it. Okay. Can we get the lights, please? Chapter 2. The Life of Maximilien Robespierre [00:08:41] Maximilien Robespierre was born on May 6, 1758 in Arras, a beautiful town destroyed in World War I in the north of France. His father was a lawyer. He was the son and grandson of lawyers. His father married the daughter of a well-to-do brewer and they were married a few months before the birth of Maximilien. Two daughters, one who died, this is fairly normal, and Augustin, his brother, followed. His mother died giving birth to a fifth child who barely survived her. The father was unstable, always leaving home at the time of the birth of all of his children. He finally died in Germany. So, Robespierre never had a family. Psychohistorians have done a lot with this. The family of four was left in the care of a maternal grandmother and aunts. Essentially, he was an orphan at the age of eight. He felt his father's guilt about causing the death of his wife. His sister remembered after his father left, disappeared, "A total change came about in him, forming like all other children of his age, he was thoughtless and turbulent and flighty. But since he became the family head, so to speak, by virtue of being the eldest, he's become settled, responsible and laborious. He spoke to us with the kind of gravity which impressed us. If he was to take part in our games, it was in order to direct them. He loved us tenderly and there were no attentions and caresses that he did not lavish upon us." Henceforth, if you buy a psychohistorian's interpretation, "He could only be a man of order. He desperately tried to assimilate himself to the social order. He both loved and hated his father as he adored his dead mother. His whole life was marked by feeling of his father's guilt, which also represented the death in a real way of his own childhood." In his last hours, his death wish, his inability to act when he might have saved himself can be seen, if you will, in that context. He was forced into a seriousness and responsibility. He always had a passion for solitude, isolation. He knew what it was to be poor. He was an example of sort of downward mobility. He went to school and he was really smart, supported by charitable foundations, first in Arras and then in Paris. At age eleven to the college or middle school of Louis le Grand, where he became a star classics scholar. He was selected among all the other pupils to read a poem that he had composed to none less than the king and the queen as they passed by Reims, also in the north of France, in champagne country. As it was raining, the king and the queen ordered the driver to go on, not stopping to listen to Robespierre's little poem and, indeed, splashing his only good suit of clothes with mud as they drove off. He became a lawyer, getting his degree in 1780 in Paris, a lawyer at the Parlement of Paris. His scholarship passed, as things did in the old regime, to his younger brother. He entered literary contests that were run by the Académie. It was once said that he even caught sight of the great Rousseau, but that seems a little unlikely. But in Metz, the Académie awarded him 400 pounds, which was a lot of money. He was elected to the Académie of Arras. In law cases he championed the poor, the humble. He took the side of a man in an abbey who had been accused by the monks of a theft, when in fact one of the monks had done the ripping off. He once said when somebody was condemned to death, "I know very well that he is
73
guilty, but I can't imagine to send someone to his own death." At the beginning, but only in the beginning, he did not believe in capital punishment; although, arguably those who agree with him would say that he saved the Revolution by meting out capital punishment. Because of his reputation — this was a classic case of a young lawyer on the make — he's elected to the Estates General from Artois. He's unknown. When he goes to Paris he's called in the minutes sometimes "Robes-Pierre," sometimes Robespierre. Sometimes Robert, like the name Robert, or sometimes simply Robert, as if that was his first name, and Pierre, his second name. But he began to make a mark, speaking always very softly. Sixty-eight times he spoke in 1789 and he gradually gets his reputation there. He opposes all restrictions on the freedom of the press, and of course that would change later as well. He invokes Rousseau's concept of the general will to support the view that the king should have no right to oppose or delay legislative measures proposed by the assembly. You know this from your reading. He sided on the left of the assembly with those who went to Varennes to bring back Louis XVI when he and Marie Antoinette tried to hightail it to the southern Netherlands or, that is, to Belgium. That was the king, by the way. He should have been there first. That's the king. There's Marat fully clothed. There is Maximilien Robespierre. Although he spoke often, he lacked presence and color. This would be the case until the very end. The English writer, Carlyle, saw him as "anxious, slight, an ineffectual looking man in spectacles, his eyes troubled, careful, with an upturned face. Dimly trying to understand the uncertain future times, but he spoke with an intense passion and conviction, a belief in all that he said." Mirabeau, who died of syphilis, one of the king's main advisors, said of him, "That man will go far, because he believes every single thing that he says." He seemed rigid in his principles, plain, unaffected in his manners. "Nothing," said an Englishman, "of the volatility of a Frenchman in his character." He supported the idea that all male citizens should have the right to vote and thus, he opposed the idea of having active citizens, who pay taxes, and passive citizens, who did not have enough money to pay taxes and thus could not vote. He calls for, among others, the deposition of — the king's being deposed, both in the legal sense and being deposed from the monarchy. He was already known as "the incorruptible." He received letters of admiration. Once leaving the assembly a crowd put oak leaves around him and carried him around the city in triumph. He always wore impeccably white clothes. He wore a powdered wig, which is very much an old regime thing and not a revolutionary thing. He was not somebody who was going to go out and tutoie easily. The revolutionaries tutoient — tutoie is in the familiar form, like du in German, as opposed to Sie. Du is the familiar form. All were equal, therefore, he didn't say vous to people who were above you in the social ladder. He didn't like people touching him. Indeed, probably he was chaste. He had only a few flimsy and only by mail flirtations with women. When they picked him up, you have to imagine a sort of crassly American analogy, where a football coach who's sort of swept off his feet after a big upset or something. He doesn't like people touching him. He doesn't like being carried away by them. He was ascetic, always preferred being alone. He ate very modestly. One letter to him said, "As incorruptible as you are courageous," and he was that, "you have always openly displayed your feelings. It has never been self interest that has made you act or speak, only the general interest." He identified with ordinary
74 people and he ends up living in western Paris, a more prosperous part of Paris, but in the home of a carpenter on a street called the Faubourg Saint-Honoré. Those were really his happiest moments. It provided him with a family. It had young children in it that he really hadn't had — a very normal circumstance. People who came to see him saw him sort of stretched out on the couch with his family trying to guess from the way he looked what he might want. Would he want more grapes? Would he want more milk, et cetera? He read a lot. He wrote his speeches, which were written out by hand. He was always well combed and powdered, the cleanest of dressing gowns, et cetera.
Bản tiếng Anh Bài giảng Oline của Giáo sư John Merrman tại Đại học Yale Nguồn: [25] BÀI 6: MAXIMILIEN ROBESPIERRE VÀ CÁCH MẠNG PHÁP Chương 1: Xét xử vua Louis XVI và cái chết của Marat: Một vở kịch rung chuyển. Giáo sư John Merriman: Tôi sẽ nói về cách mạng Pháp. Nó là khó làm. Tôi sẻ rời khỏi bản thân mình khoảng 45 phút sau đó tôi sẽ xoáy xung quanh lúc bắt đầu. Tôi muốn làm 2 vấn đề. Tôi muốn thấy cách mạng Pháp thông qua mắt của Maximilien de Robespierre, một thành viên của uỷ ban được cho là của cộng đồng an toàn, với Saint-Just, phần lớn thành viên của nó quan trọng. Theo một cách, Jacobin-ông ta hoá thân cách mạng Pháp. Đang làm vì thế tôi muốn nói về khủng bố, trên hết, tại sao người ta hỗ trợ nó hoặc phản đối cách mạng. Nó đi đến thoả thuận tôn giáo, như chúng ta thấy. Nhưng đầu tiên, bởi vì tôi hứa chúng tôi đã chỉ sống, buôn lậu album của phiên toà xử nhà vua, và sự chấp hành của ông ta, tôi nghĩ tôi sẽ chơi những thứ đó và cái chết của công dân Marat trong bồn tấm của anh ta. Để làm điều đó, tôi quyết định mang một vật để chống. Tôi không làm ánh sáng chết đi tức thời. Tôi vừa hoàn thành một cuốn sách về chàng trai người người kết thúc bằng việc đặt đầu anh ta vào khung cửa sổ nhỏ. Bạn biết người là nhỏ lại trong những ngày đó, nhưng bạn thật sự không tưởng tượng họ nhỏ. Bạn biết cái này là gì? Những cái đó đến từ, máy chém? Bạn biết cái đó đối với? Cái gì? Không. Đây là có thực. Điều đó làm tổn thương, thực sự, bạn sinh viên năm nhất, và nói, “anh ta chạy vẫy tay nơi máy chém, chạy xung qunh địa điểm. Ở đó anh ta lại đi”. Không, nó là đối với xì gà. Học sinh: Đó là ý tưởng của tôi. Giáo sư John Merriman: Đó là ý tưởng của bạn? Học sinh: Xì gà, đáng sợ! Giáo sư John Merriman: Không, không hút thuốc lá. Dù sao, bạn có thể đặt vào đầu tiên? Đây là thử nghiệm của vua. Đây là vua. Tôi sẽ chỉ dịch phần của nó. Tôi không dịch toàn bộ vấn đề. Nó không có vấn đề nếu bạn không biết tiếng Pháp. Đây chỉ hoàn cảnh. Đây là hoàn cảnh. Họ đặt ông ta vào thử nghiệm. Ông ta đã làm vấn đề tệ hại. Tôi sẻ dịch phần trong một phút. Đây có lẻ mất nhiều thời gian, nhưng nó mát. Đây là từ nhạc kịch rock về cách mạng Pháp. Keith Richards sống ở đó. Keith Richards? Đây là quá dài đi đến nó. Tôi xin lỗi. Louis XVI, đây là ông tốt nhất tại thời điểm. Đây không là Louis XVI.
75 Họ sẽ hỏi ông ta trả lời những cáo buộc, và cậu bé sẽ. “Trả lời tố cáo, bản cáo trạng, cái gì bạn đã làm chống lại quốc gia”. Nó là đẹp. Nghe. “Trong số các bạn, tôi đang tìm kiếm giám khảo và tất cả tôi thấy là kẻ cáo buộc. (Tôi không làm toàn thể vấn đề). “Tôi không bao giờ làm vấn đề kinh khủng. Tôi không bao giờ bản bội quê hương của tôi” (nó là hiển nhiên sai). “Cuộc sống đã cho tôi một vài bất hạnh cái chết không tôi không sợ. Có thể bạn có thể làm Pháp tốt hơn tôi, chăm sóc Pháp tốt hơn tôi có thể. Giữ nó khỏi sự thái quá của chính nó. Chăm sóc gia đình của tôi.” (Họ không tốt khi ra ngoài.) “Chăm sóc bọn trẻ của tôi. Nó chỉ là ơn tôi sẽ yêu cầu bạn thực hiện. Je n’ai plus rien à vous dire. Tôi không có gì nói với bạn.” (Họ đi bỏ phiêy1 ngay bây giờ, sống, chết). La mort, chết. Saint-Just, “chết”. Marat – anh ta sẽ nhận trong vài phút. Anh ta cũng sẽ nhận được nó. Bây giờ, họ thi hành người già. Đây là cái chết của công dân Marat. Ông ta gặp Charlotte Corday, người đến từ Normandy và một người theo phái bảo hoàng. Ông ta đang ở trong bồn tắm của ông ta. Tôi sẽ không dịch mọi thứ. “Công dân, bạn có đến mà không có gõ. Bạn nhìn thấy công dân Marat khoả thân trong bồn tắm của ông ta. Tên bạn là gì? Charlotte. Bạn có cặp mắt rất tuyệt. Đến đây gần hơn một chút. Tôi có thể làm gì cho bạn?” (Tôi sẽ không dịch phần đó.) “Bạn có thích chúng, công dân? Tại sao bạn nhìn vì thế có nghĩa tất cả là đột nhiên bất ngờ? Làm bạn hoảng sợ, bạn giã tạo. Con dao làm gì? Argh!” Bạn nghe nó sống. Đó là nó. Được rồi. Chúng ta có thể thắp đèn, vui lòng? Chương 2: Cuộc sống của Maximilien Robespierre. Maximilien Robespierre sinh ngày 6 tháng 5, 1758 ở Arras, nó là một thị trấn đẹp bị phá huỷ trong Thế chiến I nó ở phía Bắc nước Pháp. Cha của ông ta là luật sư. Ông ta là cậu trai và cháu nội của người luật sư. Cha của ông ta cưới con gái của người làm rượu ngon và họ cưới nhau vài tháng trước ngày sinh của Maximilien. Hai con gái, một người chết, đây là khá bình thường, và Augustin, anh trai của ông ta, theo sau. Mẹ ông ta mất sinh đến người con thứ năm người sống sót thoi thóp cô ấy. Cha không ổn định, luôn rời khỏi nhà tại thời điểm con ông ta sinh ra đời. Ông ta cuối cùng đã chết ở nước Đức. Vì thế, Robespierre không bao giờ có gia đình. Psychohistorians đã làm nhiều với điều này. Gia đình bỏ lại 4 được chăm sóc bởi bà ngoại và dì. Về cơ bản, anh ta mồ côi lúc 8 tuổi. Anh ta cảm thấy cha của anh ta có tội về việc gây ra cái chết cho vợ của ông ấy. Chị của anh nhớ lại sau khi cha anh ta bỏ đi, biết mất, “toàn bộ thay đổi đã đến anh ta, hình thành giống những đứa trẻ khác trong lứa tuổi của anh, anh ta vô tư và khó dạy và lơ đảng. Nhưng kể từ khi anh ta trở thành người đứng đầu gia đình, nói như vậy, bởi đức hạnh là của người lớn tuổi nhất, ông ta trở thành điềm tĩnh, đánh tin cậy và chăm chỉ. Ông ta nói với chúng tôi với loại nghiêm trọng đã ấn tượng với chúng tôi. Nếu anh ta tham gia trò chơi của chúng tôi, nó là để định hướng họ. Ông ta yêu chúng tôi dịu dàng và không có sự chú ý và nựng nịu mà ông ta không hăng hái cho chúng tôi. Từ hôm nay, nếu bạn mua một thuyết minh psychohistorian, “Ông ta chỉ có thể là một người đàn ông trật tự. Ông ta cố gắng hết sức làm cho bản thân ông ta giống với trật tự xã hội. Ông ta cả hai yêu và ghét cha của ông ta như ông ta như ông ta
76 ngưỡng mộ người mẹ của ông ta đã chết. Toàn bộ cuộc sống của ông ta đánh dấu bởi cãm giác tội lỗi của cha ông ta, nó cũng đại diện tử vong trong cách thực của thời thơ ấu của ông ta.” Trong những giờ cuối cùng, ông ta tử vong ước muốn, ông ta không có khả năng hành động khi ông ta có thể tự cứu mình có thể nhìn thấy, nếu bạn sẽ, trong bối cảnh đó. Ông ta buộc phải nghiêm chỉnh và trách nhiệm. Ông ta luôn có niềm đam mê với cô đơn, cô lập. Ông ta biết cái gì là nghèo nàn. Ông ta là một ví dụ cho loại tính hay di động xuống. Ông ta đã đi học và ông ta thực sự thông minh, được ủng hộ bởi cơ sở từ thiện, lần đầu tiên ở Arras và sau đó ở Paris. Ở tuổi 11 đến trường đại học hoặc trường trung học của Louis le Grand, ở đó ông ta trở thành học giả kinh điển. Ông ta đã chọn trong số tất cả học sinh để đọc bài thơ đó ông ta sáng tác không ít hơn vua và hoàng hậu như họ đi ngang qua Reims, ở miền Bắc nước Pháp, ở miền quê Champagne. Khi trời mưa, vua và hoàng hậu ra lệnh cho người lái xe đi tiếp tục, không dừng lại để nghe bài thơ nhỏ của Robespierre và, thật sự, làm văng bùn lên bộ đồ của ông ta trang phục với bùn như họ lái xe đi. Ông ta trở thành một luật sư, nhận văn bằng năm 1780 ở Pháp, một luật sư tại Parlement của Pháp. Học bổng của ông ta được thông qua, như mọi thứ làm trong chế độ cũ, cho em trai của ông ta. Ông ta tham gia cuộc thi văn học được điều hành bởi Acedémie. Có 1 lần cũng nói ông ta bắt gặp Rousseau tuyệt vời, nhưng dường như ít có khả năng.Nhưng ở Metz, Académie cấp cho ông ta 400 đồng bảng Anh, đó là một số tiền rất nhiều. Ông được tuyển cử đến Acedémie của Arras. Trong các trường hợp pháp luật ông ta bảo vệ người nghèo, người nghiêm tốn. Ông ta bên cạnh người đàn ông trong tu viện người đã từng bị buộc tội bởi tu sĩ trộm cắp, trên thực tế một trong những tu sĩ đã làm việc này. Có lần ông ta nói khi có người lên án tử hình, “tôi biết rất rõ anh ta pham tội, nhưng tôi không thể tưởng tượng người nào ban cho cái chết của ông ta”. Ngay từ đầu, nhưng từ đầu, ông ta không tin tưởng vào hình phạt tử hình, mặc dù, đượ cho là ngường đồng ý với ông ta sẽ nói ông ta cứu cuộc cách mạng bởi giải quyết hình phạt tử hình. Bởi vì uy tín của ông ta-đây là trường hợp cổ điển của một luật sư trẻ làm ra-ông được tuyển cử vào Estates General từ Artois. Ông ta không biết. Khi ông ta đến Pháp ông ta gọi trong vài phút “Robes-Prerre,” đôi khi Robespierre. Đôi khi Robespierre, giống như tên Robert, hoặc đôi khi đơn giản Robert, như thể đó là tên đầu tiên của ông ta, và Pierre, tên thứ hai của ông ta. Nhưng ông ta bắt đầu đánh dấu, luôn luôn nói rất nhẹ nhàng. 68 lần ông ta nói vài năm 1789 và ông ta dần dần nhận được uy tín của ông ta ở đó. Ông ta phản đối tất cả hạn chế về tự do báo chí, và đương nhiên sẽ thay đổi sau này. Ông ta khấn nguyện khái niệm Rousseau về ý chung nhằm ủng hộ quan điểm cho rằng nhà vua không có quyền phản đối hoặc trì hoãn các biện pháp lập pháp đề xuất bởi hội đồng. Bạn biết điều này từ việc đọc của bạn. Ông ta đứng bên trái của hội đồng với những người đến từ Varennes mang trở lại Louis XVI khi ông ta và Marie Antoinette cố gắng đưa đến miền Nam Hà Lan, hoặc, đó là, đến Bỉ. Đó là vua. Có Marat mặc trang phục đầy đủ. Có Maximilien Robespierre. Mặc dù ông ta nói thường, ông ta thiếu sự lanh trí và màu sắc. Đây sẽ là trường hợp
77 cho đến cuối cùng. Nhà văn Anh, Carlyle, nhìn ông như “lo lắng, nhẹ nhàng, vô hiệu nhìn người đàn ông trong mắt kính, đôi mắt của ông ta trở ngại, cẩn thận, với khuôn mặt đảo ngược. Cố gắng tìm hiểu không chắc chắn trong tương lai, nhưng ông ta nói với niềm đam mê mãnh liệt và lòng tin chắc, tin vào những gì ông ta nói.” Mirabeau, người chết vì bệnh giang mai, một trong những cố vấn chính của nhà vua, đã nói về ông ta, “Người đàn ông sẽ đi xa, bởi vì ông ta tin mọi điều mà ông ấy nói.” Ông ta dường như cứng rắn trong nguyên lý của ông ta, rỏ ràng, không bị ảnh hưởng trong tác phong của ông ta. “Không có gì,” nói một người Anh, “của sự biến động của người Pháp trong tính cách của ông ta”. Ông ta ủng hộ ý tưởng tất cả công dân nam giới nên có quyền bỏ phiến và do đó, ông ta phản đối ý tưởng có công dân hoạt động tích cực, người trả thuế, và công dân thụ động, người không đủ tiền để trả thuế và do đó không thể bỏ phiếu. Ông ta kêu gọi, trong số khác, việc lắng đọng-nhà vua bắt đầu giải tán, cả hai ý thức pháp lý và đang giải tán từ chế độ quân chủ. Ông ta đã được biết như “không phá hư được”. Ông ta nhận được những lá thư từ sự khâm phục. Một khi rời khỏi hội đồng một đám đông đặt lá xoài xung quanh ông ta và mang ông ta xung quanh thành phố triumph. Ông ta luôn luôn mặc trang phục màu trắng hoàn hảo. Ông ta đội một bộ tóc giả dạng bột, nó là một thứ chế độ cũ và không là một thứ cách mạng. Ông ta không phải người đi ra ngoài và tutoi một cách dễ dàng. Các nhà cách mạng tutoient – tutoie là trong hình thức quen thuộc, giống du ở Đức, như trái ngược với Sie. Du là một hình thức quen thuộc. Tất cả đều công bằng, vì thế, ông ta không nói vous với những người về bạn trong bậc thang xã hội. Ông ta không thích mọi người chạm vào ông ta. Thật vậy, có lẻ ông ta trong sạch. Ông ta chỉ có một ít giấy bạc và chỉ bằng cách tán tỉnh thư với phụ nữ. Khi họ đã chọn ông ta lên, bạn phải tưởng tượng một loại của tương tự người Mĩ điềm đạm, nơi huấn luyện viên bóng đá người đã bị cuốn hút bởi đôi chân sau đó buồn bã hoặc cái gì đó. Ông ta không thích người sờ vào ông ta. Ông ta không thích bị mang đi bởi họ. Ông ta khổ hạnh, luôn luôn ưa thích một mình. Ông ta ăn rất khiêm tốn. Một bức thư đến ông ta nói, “như không thể lay động như bạn là người can đảm” và và ông ta là, “bạn luôn luôn có trình bày cảm xúc của bạn. Nó chưa bao giờ có sự quan tâm hành động bạn đã thực hiện hoặc nói, chỉ có sự quan tâm chung.” Ông ta xác định với những người bình thường và ông ta kết thúc ở phía Tây nước Pháp, phần thịnh vượng hơn của Pháp, nhưng trong nhà của một thợ mộc trên một đường gọi là Faubourg Saint-Honeré. Đó thật sự là thời điểm hạnh phúc nhất của ông ta. Nó cung cấp ông ta với một gia đình. Nó có những đứa trẻ nhỏ trong đó mà thực sự không có-một tình huống rất bình thường. Những người đến thấy ông ta nhìn thấy ông ta kéo dài trên li văng với gia đình của ông ta cố gắng đoán từ đường ông ta nhìn cái gì ông ta có thể muốn. Ông ta sẽ muốn nho hơn? Ông ta sẽ muốn sữa hơn? Ông ta đọc nhiều. Ông ta viết bài phát biểu của ông ta, được viết ra bằng ta. Ông ta luôn luôn chải tốt và có phấn, chiếc áo choàng sạch nhất,…
Bản dịch - Nguyễn Công Hậu Bài giảng Online của Giáo sư John Merriman tại Đại học Yale
78
This portrait Charles I and his queen, Henrietta, was painted by Anthony Van Dyck in about 1632 Nguồn: [13, tr.478]
Statue of Oliver Cromwell in Market Hill, St Ives, Cambridgeshire, where Cromwell lived from 1631 - 1636 Nguồn:
https://historicengland.org.uk/listing/what-is-designation/heritage-highlights/did- oliver-cromwell-really-ban-christmas
79
Đại hội 13 thuộc địa Anh thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập (4 - 7 - 1776) Nguồn:
https://news.yale.edu/2015/06/30/american-revolution-history-made-tangible-yale- collections
Bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ 4 - 7 - 1776 Nguồn:
http://www.latinorebels.com/2012/07/04/the-declaration-of-independence-the-full-text-in- english-and-spanish/
80
Hành quyết vua Louis XVI Nguồn:
https://robinengelman.com/2009/08/26/the-scarlet-pimpernel-a-case-for-cinematic- authenticity/1793-execution-of-louis-xvi/
Hành hình nhà Độc tài Robespierre Nguồn: http://www.executedtoday.com/2008/07/28/1794-maximilien-robespierre-saint- just-jacobins/