T R ƯỜ NG ĐẠI HỌC NGOẠI T H Ư Ơ NG

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

POREIQN T R ÀM (1NIVERHTY

KHOA LUẬN TỐT NGHIỆP

SĐètài:

TÌM Hiếu MỘT SỐ QUY ĐỈNH vế HÀNH VI CẠNH TRANH

'

í

"

KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LUẬT CẠNH TRANH Vỉệr NAM

*

NĂM 2004 VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG THỰC TI€N

Sinh viên thực hiện : NGUYÊN HỔNG HẠNH

Lớp

: A4 - QTKD - K40

Giáo viên hướng dẫn : TH.S HỚ THÚY NGỌC

HÀ NỘI- 2005

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

POREIGN T R A DE ÍINIVERSI1Y

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đê tài:

TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

K H Ô NG L À NH MẠNH TRONG LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM

N ĂM 2004 VÀ K HẢ N Â NG ÁP DỤNG TRONG THỰC TIỄN

Nguyễn Hồng Hạnh A4- QTKD-K40

Sinh viên : : Lớp Giáo viên hướng dần :

ThS. Hồ Thúy Ngọc

HÀ NỘI 10 - 2005

i

MỤC LỤC

Lời tựa Ì

Chương ì: Một số lý luận chung về cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh 4 4 ì. Khái niệm về cạnh tranh li. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh 7 Ì. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh 7 2. Bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh 13 3. Tác động của hành vi cạnh tranh không lành mạnh 14 a. Tác động đến nền kinh tế 14 b. Tác động đến bản thân doanh nghiệp 17 III.Tình hình cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam 20

Chương li: Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của L u ật Cạnh t r a nh Việt Nam n ăm 2004 32 ì. Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam trước ngày 1-7-2005. 32 li. Giới thiệu về Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 36 1. Sự cần thiết ban hành Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004.... 36 2. Cơ cấu Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 41 HI. Phân tích một số quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 46 1. Chỉ dẫn thương mại gây nhẩm lẫn 47 2. X âm phạm bí mật kinh doanh 48

3. Ép buộc trong kinh doanh 49 4. Gièm pha doanh nghiệp khác 51 52 5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác 53 6. Quảng cáo nh m cạnh tranh không lành mạnh 56 7. Khuyến mại nh m cạnh tranh không lành mạnh

li

T- ỵ\v^ ụ úi Mi

8. Phân biệt đối xử của hiệp hội 58 59 9. Bán hàng đa cấp bất chính 10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác 62 IV. Phân tích khả năng vận dụng trong thực tiễn của các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 64 Ì. Quy định của Luật còn mang tính chung chung, khó áp dụng trong thực tiễn 64 2. M ột số quy định còn chưa hợp lý, khiến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn 66 3. Cơ quan có trách nhiệm thụ lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến cạnh tranh hoạt động chưa thật hiệu quả 67 4. Người tiêu dùng chưa thững thắn lên tiếng bảo vệ quyền và lợi ích cùa mình trước những hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm hạn chế khả năng áp dụng Luật trong thực tiễn 68

Kết luận

Chương n i: M ột số giải pháp để vận dụng có hiệu quả các quy định về hành vi cạnh t r a nh không lành mạnh trong L u ật Cạnh t r a nh Việt Nam 70 nám 2004 ì. Quan điểm của Nhà nước về cạnh tranh không lành mạnh và hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh 70 li. M ột số giải pháp để vận dụng có hiệu quả các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh Việt Nam 73 năm 2004 73 Ì. N h óm các giải pháp về phía Nhà nước 2. N h óm giải pháp về phía doanh nghiệp 81 3. N h óm các giải pháp khác 82

Danh mục tài liệu tham khảo

84 85

Khóa luận tốt nghiệp

-1 -

LỜI TỰA

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việc chuyển đổi, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới được coi là một trong những bước chuyến đột phá của công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, lãnh đạo thực hiện từ năm 1986. Đến nay, sau hơn 18 năm, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, khi chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta cũng phải thừa nhận những quy luật, những thuộc tính của nó. Trong đó, cạnh tranh là một quy luật, là thuộc tính tốt yếu. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển nhưng đồng thời nó cũng là yếu tố đưa đến những hậu quá tiêu cực về kinh tế - xã hội. Cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.

Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác quốc tế về pháp luật, chính sách cạnh tranh và pháp Luật Cạnh tranh luôn là những vốn đề được quan tâm. Việc xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh trong tổng thể của hệ thống pháp luật nói chung và khung pháp luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chú nghĩa nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt nhằm cải thiện môi trường pháp lý, khuyến khích hơn nữa các hoạt động đầu tư, sản xuốt kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2005 ra đời thể hiện nỗ lực của chính phù và rốt nhiều tổ chức, cá nhân nhằm đáp ứng đòi hỏi của thị trường Việt Nam trong những năm vừa qua. Được soạn thảo từ những kinh nghiệm của Luật Cạnh tranh các nước đi trước và nhũng nghiên cứu của những nhà làm luật, Luật Cạnh tranh là một văn bản thống nhốt điều chính nhũng vốn đề liên quan đến cạnh tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam. Để có thêm những hiểu biết về lĩnh vực này, người viết đã lựa chọn đề tài: "Tìm hiểu một số quy định

Khóa luận tốt nghiệp

-2-

vê hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh Việt Nam 2005 và khả năng áp dụng trong thục dền " làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. M ục đích nghiên cứu

- T im hiểu những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2005. Qua đó đánh giá những đóng góp và hạn chế của nhũng quy định này.

- T im hiếu, nghiên cún nhũng vấn đề đặt ra trong quá trình thực t hi những quy định này.

- Đề ra những giải pháp góp phần thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh 2005 nói chung và những quy định chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng trong thực tế.

3. Đỏi tường và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tường nghiên cứu của khoa luận này là những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Luật Cạnh tranh Việt Nam 2005.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ của một khoa luận tốt nghiệp, người viết sẽ cố gắng đưa ra những phân tích và đánh giá của mình đối với những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Việt Nam 2005 và khả năng áp dụng trong thực tiễn những quy định này dựa trên việc phân tích những quy định cùa Luật và so sánh với Luật Cạnh tranh của những nước khác.

4. Phưong pháp nghiên cứu.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điếm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế cũng trở thành một phần không thể thiếu trong phương pháp nghiên cứu cùa người viết.

-3-

Khóa luận tốt nghiệp

Bên cạnh đó, bằng phương pháp so sánh luật học, người viết sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu những quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2005 với Luật Cạnh tranh của Pháp và liên minh Châu Âu, Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Bungary,... để thấy được những điểm hợp lý và hạn chế Luật Cạnh tranh 2005. Cùng với những phân tích về bối cảnh thực tiộn ở Việt Nam hiện nay, vói yêu cầu của quá trình hội nhập, từ đó đề ra những giải pháp để thực thi có hiệu quả đạo luật này.

5. Bố cục của khoa luận.

N ội dung của khoa luận được chia thành ba chương như sau:

Chương ì: Khái quát chung về cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Chương l i: Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004

Chương n i: Một số giải pháp để vận dụng có hiệu quả các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2005

V ới sự phân tích dựa trên tình hình thực tế và tham khảo từ những nghiên cứu của những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực luật cạnh tranh, người viết hy vọng đề tài của mình phần nào cung cấp được những thông tin về Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2005, đặc biệt là về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy, cô giáo trong khoa Quản Trị Kinh Doanh, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - Thạc sỹ Hồ Thúy Ngọc đã giúp đỡ em hoàn thành bài khoa luận này.

Em xin trân trọng cảm ơn!

Người viết

Nguyễn Hồng Hạnh

Nguyễn Hóng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-4-

Khóa luận tốt nghiệp

chương ì

M ỘT SỐ LÝ L U ẬN C H U NG VỀ C Ạ NH T R A NH VÀ

H À NH VI C Ạ NH T R A NH K H Ô NG L À NH M Ạ NH

I. KHẢI NIỆM VỀ CẠNH TRANH

Kinh tế thị trường được xem là một trong nhũng phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại khi con người đã phải trải qua sỉ thống trị của kinh tế tỉ nhiên luôn làm cho xã hội vận động chậm chạp và sỉ thống trị của kinh tế chỉ huy làm mất động lỉc kinh tế, triệt tiêu tính năng động và sáng tạo của con người. Cho đến nay, chúng ta không thể tìm ra được một kiểu tổ chức kinh tế nào có hiệu quả hơn kinh tế thị trường vì nó luôn hàm chứa trong mình những thách thức đối với sỉ nhạy bén và sáng tạo của con người thông qua môi trường cạnh tranh.

Các học thuyết về kinh tế thị trường hiện đại dù thuộc trường phái chủ nghĩa tỉ do hay trường phái chù nghĩa can thiệp đều đi đến kết luận rằng: Cạnh tranh với đặc trưng là động lỉc phát triển nội tại của mỗi nền kinh tế chỉ xuất hiện và tồn tại trong điều kiện của kinh tế thị trường.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Điếu cần nhấn mạnh là, cạnh tranh chỉ xuất hiện với đặc trung là động lỉc phát triển nội tại của nền kinh tế trước áp lỉc liên tục của người tiêu dùng đối với giá cá buộc các chủ thể kinh doanh phải phản ứng tỉ phát, phù hợp với các mong muốn thay đổi của người tiêu dùng. Cạnh tranh cũng chỉ hiện thân với đặc trưng là động lỉc thúc đẩy lỉc lượng sản xuất xã hội phát triển nhằm nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong điều kiện các yếu tố của sản xuất như tài nguyên, chất xám, sức lao động... đều là hàng hoa. Hơn nữa, cạnh tranh cũng chi xuất hiện thỉc sỉ với đặc trưng là một cuộc đua tranh trong một ngành, một lĩnh vỉc kinh tế nào đó khi có sỉ tham gia cùa các chủ thể kinh doanh có lợi ích cơ bản là máu thuần nhau. Những phân tích trên đây đã cho phép kết luận rằng, cạnh tranh chỉ xuất

-5-

Khóa luận tốt nghiệp

h i ện t r o ng điều k i ện c ủa k i nh tế thị trường, nơi mà c u ng c ẩu là c ốt v ật c h ấ t, giá cả là d i ện m ạo và c ạ nh t r a nh là l i nh h ổn s ố ng c ủa thị trường. 1

T h ô ng q ua sự p h ân tích cơ sở k i nh tế và p h áp lý c ủa h i ện t ượ ng c ạ nh t r a nh đã c h ứ ng tỏ r ặ n g: C ạ nh t r a nh là m ột h i ện t ượ ng xã h ội r ất p h ức t ạp và đòi h ỏi c ần p h ải đ ược l àm sáng tỏ ở n h i ều t ầ ng t i ếp c ận k h ác n h au và chính điều n ày c ũ ng lý g i ải tính k h ô ng t h ố ng n h ất t r o ng các định n g h ĩa về c ạ nh t r a nh đặc bịêt là vế p h ạm vi c ủa t h u ật n gữ này.

V ới cách t i ếp c ận c ạ nh t r a nh là t hủ p h áp c ủa các n hà k i nh d o a n h, t h eo từ điển K i nh d o a nh c ủa V ư ơ ng q u ốc A n h, x u ất b ản n ăm 1 9 9 2, c a nh t r a nh đ ược định n g h ĩa n hư sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình ".

C ục c h ố ng T ờ - r ớt t h u ộc Bộ Tư p h áp Mỹ d ụ ng định n g h ĩa c ạ nh t r a nh đối v ới m ột q u ốc g ia n hư sau: "Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các diều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sỏn xuất các hàng hoa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của các thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhăn dân nước đó "}

B áo c áo về c ạ nh t r a nh toàn c ầu định n g h ĩa c ạ nh t r a nh đối v ới m ột q u ốc g ia là: "Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bển vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trường kinh tế cao được xác định bằng thay đôi của tổng sản phỏm quốc nội (GDP) trên đỏu người theo thời gian "?

1. TS. Nguyền Như Phát, ThS. BÙI Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nén kinh tế thị tràng ớ Việt Nam. 2. www.usdoj.gov/atr/public/comments/sec271/sbc/afdvt02.htm 3. "The relationship between coinpetition. Competitivness and development (TDB-C0M2. Intergovemmental Group of Experts ôn Competiĩion Law and Policy. 4,h session, 3-5 July2002), Aprỉl 2002. www.unctad.org

D i ễn đ àn c ấp c ao về c ạ nh t r a nh c ô ng n g h i ệp c ủa Tổ c h ức h ợp tác và phát t r i ển k i nh tế ( O E C D) đã c h ọn định n g h ĩa về c ạ nh t r a nh k ết h ợp cả các d o a nh n g h i ệ p, n g à n h, q u ốc g ia n hư sau: "Khả năng của các doanh nghiệp,

Nguyễn Hống Hạnh - A4 K40B - QTKD

- f i-

Khóa luận tốt nghiệp

ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế".4

Còn trong từ điển Tiếng Việt 5 thì cạnh tranh được hiểu là "cố gắng giành phẩn hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức nhằm những lợi ích như nhau".

Qua các khái niệm trên có thể nhận thấy một điếm chung là cạnh tranh là sự chạy đua giữa ít nhất là hai đối thủ với nhau trở lên. Cạnh tranh trong kinh tế, về bản chất, được hiểu là sự chạy đua giữa các doanh nghiệp trên thị trưẻng liên quan nhằm không ngừng tung ra thị trưẻng những sản phẩm có giá trị tốt nhất với giá cả rẻ nhất nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Nếu nhìn từ phía các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của ngưẻi tiêu dùng. Nếu nhìn khái quát trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phàn bổ các nguồn lực một cách tối ưu, do đó là động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Điều cần nhấn mạnh là, cùng với mục đích tối đa hóa lợi nhuận của các doanh nghiệp, cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau. Đây là tiền để vật chất cho sự hình thành các hình thái cạnh tranh không hoàn hảo trong đó có độc quyền. Cạnh tranh còn là môi trưẻng đào thải các nhà kinh doanh không thích nghi được với các điều kiện của thị trưẻng.

Cho đến những năm cuối của thế kỷ này, hầu hết các nước có nền kinh tế thị trưẻng đều đã có pháp Luật Cạnh tranh và sử dụng chúng như một công cụ khuyến khích và bảo đảm "linh hồn sống" của cơ chế thị trưẻng với hy vọng rằng cạnh tranh có thể đem lại một số lợi ích sau đây:

4. Mục 29, "Glossary of Industrial organỉzation economics anđ competition law", the OECD. www.oecd.org 5. Từ điên Tiếng Việt-Trung tâm Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1998. Hoàng Phê chủ biên

Nguyền Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Thứ nhất, đảm bảo đáp ứng thị hiếu và nhu cầu của ngưẻi tiêu dùng. Ngưẻi tiêu dùng nhận được cái mà họ muốn vì nếu một ngưẻi bán không cung cấp cho họ cái họ muốn thì sẽ luôn luôn có ngưẻi khác sẵn sàng làm điều đó.

Khóa luận tốt nghiệp

Thứ hai, người tiêu dùng nhận được cái họ muốn với giá thấp nhất có thể. Trong môi trường cạnh tranh, không ai có thể bóc lột người tiêu dùng vi

luôn có một số đối thủ mời chào sản phẩm với giá thấp hơn. Giá cả trong cơ chế thị trường nhìn chung bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận vệa đủ đế cho phép người sản xuất tồn tại kinh doanh.

Thứ ba, khuyến khích áp dụng công nghệ mới. Công nghệ mới có ý nghĩa là giảm chi phí sản xuất và các hãng áp dụng công nghệ mới sẽ có khả năng chiếm được phẩn lớn thị trường do bán rẻ hơn so với các đối thủ cạnh tranh của họ.

Thứ tư, tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực (lao động, vốn, kinh nghiệm quản lý) để tăng hiệu quả kinh tế.

Thứ năm, tạo sự đổi mới nói chung, thường xuyên và liên tục và vì vậy

mang lại tăng trưởng kinh tế cao.

-7-

li. KHÁI NIỆM VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

Tự do cạnh tranh là quyền của doanh nghiệp được luật pháp ghi nhận. Để được Nhà nước bảo hộ, hoạt động cạnh tranh phải tuân thủ nguyên tắc trung thực, không xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và tuân thủ quy định của pháp luật.

Với bẳn chất là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sán xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt một mục tiêu kinh doanh cụ thể, cạnh tranh luôn tạo ra sức ép hoặc kích thích ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và giá bán hàng hóa. Để đạt được mục tiêu của mình, trong quá trình đó, doanh nghiệp có khả năng sáng tạo rất nhiều cách thức ganh đua khác nhau, tạo ra tình trạng cạnh tranh ở những mức độ khác nhau, thậm

chí, xuất hiện cà những hành vi trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

1. Khái niệm hành vi cạnh t r a nh không lành mạnh

-8-

Khóa luận tối nghiệp

Trên thị trường, mức độ cạnh tranh càng cao khi không có người mua hoặc người bán nào đủ sức gây ra những hạn chế hoặc chế ngự được hoàn toàn

thị trường. Xét từ phương diện này (từ mức độ cạnh tranh cao hay thấp), cạnh

tranh được chia thành hai loại là cạnh tranh hoàn toàn và cạnh tranh không hoàn toàn. Thuật ngữ cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh cũng được sử dụng đỉ biỉu thị tính cạnh tranh trên thị trường nhưng không phản ánh mức

độ cạnh tranh cao hay thấp mà phản ánh khía cạnh đạo đức trong kinh doanh

của những người tham gia thị trường. Thông thường, đỉ xác định một doanh

nghiệp có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp khác hay không, phái căn cứ

vào chỉ tiêu thỉ hiện năng lực và trình độ trong kinh doanh, như quy mô đẩu

tư, doanh số, công nghệ, hiệu quả lợi nhuận... Một số doanh nghiệp thay vì quan tâm đến các điều kiện trên đây, họ tiến hành cạnh tranh bằng các biện pháp thiếu trung thực, giả dổi như: quảng cáo thổi phổng những đặc tính hữu ích, chất lượng cao hơn thực tế đạt được, nói xấu, gièm pha chất lượng hàng hóa, hạ thấp uy tín của thương nhân khác...

ở giác độ khái quát, "cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại với các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội" 6. Trong nhiều tài liệu, khái niệm cạnh tranh không lành mạnh, cạnh tranh bất chính, cạnh tranh bất hợp pháp...đều được sử dụng đỉ chì những biỉu hiện trên thực tế của các nhà doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh đó có thái độ gian dối, không trung thực, không lành mạnh,

gây cản trở hoạt động kinh doanh của thương nhân khác. Tuy nhiên, thuật ngữ cạnh tranh không lành mạnh được sử dụng phổ biến vì "bất chính" hay "bất hợp pháp" đều không bao quát được nội dung của vấn đề đặt ra. Có thế coi cạnh tranh không lành mạnh là "nhũng hành vi cụ thỉ, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của chù thỉ kinh doanh luôn thế hiện tính không lành mạnh

6. TS. Đặng Vù Huân. Pháp luật về kiểm soái độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh ớ Việt nam, Nxb. Chinh trị Quốc gia, Ha Nội, 2004, tr. 30-31.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-9-

(chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà mục tiêu của nó là gây cho một hay các đối thủ cạnh tranh sự bất lợi hay thiệt hại trong hoạt động kinh doanh"7.

Cạnh tranh không lành mạnh theo nghĩa hẹp (cổ điển) chỉ đơn thuần là những hành vi cạnh tranh nhẩm trực tiếp vào đối thủ cạnh tranh đi ngược lại các giá trị đạo đức và tập quán kinh doanh truyền thống như: nói xấu, gièm pha, tẩy chay... và do đó pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh theo nghĩa hẹp chỉ đơn thuần là công cụ để bảo vệ các nhà cạnh tranh.

Quan niệm theo nghĩa rộng, hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm tất cả hành vi nào xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại tới quyền tự do cạnh tranh công bẩng của các doanh nghiệp. Theo cách quan niệm này, các hành vi hạn chế cạnh tranh (nhất là các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường) cũng thuộc vào phạm trù "cạnh tranh không lành mạnh"8.

Cạnh tranh không lành mạnh là một dạng của hành vi vi phạm pháp luật. Do mỗi hành vi vi phạm pháp luật đều có cơ chế xử lý riêng. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng là loại hành vi vi phạm pháp luật và để phòng chống một cách hiệu quả cần có cơ chế xử lý mang tính đặc thù. Chính vì thế, việc xác định những hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề rất quan trọng về mặt chính sách. Nói chung, về nguyên tắc, ngoài các quy định nêu trong Công ước Paris năm 1883, các quốc gia tùy điều kiện, hoàn cảnh, nhu cẩu cụ thể của nước mình mà xác định hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Theo Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Bungary, cạnh tranh không lành mạnh là "những hành động hoặc phi hành động 9 trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh tế trái với các tập quán thương mại công bẩng và xâm phạm hoặc có khả năng xâm phạm tới lợi ích của đối thủ cạnh

7. V i ện n g h i ên c ứu N hà n ước và p h áp luật, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, N x b. C ô ng an n h ân d â n. Hà N ộ i, 2 0 0 1, tr. 2 4 1. 8. L u ật c ạ nh t r a nh c ủa M ò ng cổ 9. N g u y ên v ãn " a c t i on or i n a c t ỉ o n"

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 10-

Khóa luận tốt nghiệp

t r a nh t r o ng m ối q u an hệ g i ữa họ v ới n h au hoặc t r o ng m ối q u an hệ g i ữa họ v ới

công chúng" 1 0.

T ại H oa K ỳ, " c ạ nh t r a nh k h ô ng lành m ạ n h" (uníair c o m p e t i t i o n)

k h ô ng p h ải là " m ột hành vi gày t h i ệt h ại ngoài h ợp đồ ng cụ t h ế" (a t o n) mà

là m ột " n h óm các hành vi gây t h i ệt h ại ngoài h ợp đồ n g "" n h ằm b ảo vệ "các

l ợi ích thương m ạ i ". T h eo các án lệ và văn b ản pháp l u ật H oa K ỳ 1 2 , các

hành vi đ ược c oi là c ạ nh t r a nh k h ô ng lành m ạ nh ớ H oa Kỳ thường b ao g ồm

b ốn n h óm hành vi s a u 1 3 :

N h óm 1: Các hành vi gây r ối các q u an hệ k i nh d o a nh c ỡa đối t hỡ

c ạ nh t r a n h 14 ( t ức là gây r ối b ằ ng các thú đ oạn n hư dùng vũ l ự c, d ù ng l ời nói

g i an d ố i, d ù ng các b i ện pháp c ưỡ ng b ức h o ặc dùng các t hỡ đ oạn khác để

x âm h ại t ới 3 l o ại q u an hệ sau: q u an hệ v ới n g ười làm công, q u an hệ v ới

khách hàng, q u an hệ v ới nhà c u ng c ấp nguyên vật l i ệ u ).

N h óm 2: Các hành vi gây n h ầm lân t r o ng chỉ d ẫn về s ản p h ẩ m, dịch

vụ và d o a nh n g h i ệp (ví dụ n hư sử d ụ ng tên thương m ại h o ặc thương h i ệu

tương t ự ).

N h óm 3: Các hành vi c h i ếm đoạt các giá trị thương m ại vô h ì n h 15

( g ồm c h i ếm đoạt các giá trị thương m ại vô hình đã đ ược công k h ai h ó a 16 và

c h i ếm đoạt các giá trị thương m ại k h ô ng được công k h ai h ó a 1 7 .

N h óm 4: T h ực h i ện các hành vi định giá, k h u y ến mãi có tính gây t h i ệt

h ạ i 1 ( q u ả ng cáo g i an d ố i 1 9 , các hành vi k h u y ến m ại g i an d ố i, h ối lộ khách

lo. w w w . u n c t a d . o rg 11. X e m: P a t r i c ia V. N o r t on - T he e f f e ct of A r t i c le l O b is of the P a r is C o n v e n t i on ôn A m e r i c an u n f a ỉr c o m p e t i t i on l a w- P o r d h am L a u' R e v i e w. O c l o b er 1 9 9 9. P a ge 2 3 0. 12. C h ẳ ng h ạn Đạo l u ật L a n h am ( L a n h am A c t) n ăm 1 9 46 ( P a t r i c ia V. N o r t on - T he e f f e ct of A r t i c le l O b is of the P a r is C o n v e n i i on ôn A m e r i c an u n f a ir c o m p e l i t i on l aw - F o r đ h am L aw R e v i e v v. O c t o b er 1 9 9 9. P- 2 2 8- 2 2 9 ). 13. X e m: C h a r l es R. M c M a n i s: U n í a ir T r a de P r a c t i c e s, W e si P u b l i s h i ng Co - 1 9 88 14. N g u y ên v ãn " i n t e r f e r e n ce w i th p r o s p e c t i ve a nd e x i s t i ng c o n t r a c t u al r e l a t i o n s h i p s" 15. N g u y ên v ãn " a p p r o p r i a t i on of i n t a n g i b le t r a de v a l u e s ". lõ. C h ả ng h ạn x âm p h ạm q u y ển sở h ữu c ó ng n g h i ệp và q u y ền tác g iả dã đ ược đã ng k ý, b áo h ộ. 17. C h ả ng h ạn c h i ếm đ oạt c ác bí m ật t h ư ơ ng m ạ i. c h i ếm đ oạt c ác q u an hệ bí mật. 18. N g u y ên v ãn " ỉ n j u r i o us p r o m o t ỉ o n al a nd p r i c i ng p r a c t i c e s ". 19. N g u y ên v ãn "đeceptive a d v e r t i s i n g ".

Nguyên Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

- li -

hàng... bán hàng dưới giá thành20, định giá thấp một cách bất hợp lý21, phân biệt đối xử về giá22).

Tại Nhật Bẳn, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được điều chỉnh riêng bởi Luật chống cạnh tranh không lành mạnh năm 1934 (đã được sửa đổi để mở rộng loại hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh vào các năm 1938, 1950, 1990, 1993 và lần sửa đổi gần đây nhất vào năm 2001). Loại hành vi này được coi là cạnh tranh không lành mạnh (acts of uníair competition) được quy định tại khoồn Ì Điều 2 của Luật cụ thể gồm các hành vi sau: Sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn (tức là sử dụng tên thương mại, thương hiệu hoặc các dấu hiệu khác cho sồn phẩm, dịch vụ hoặc doanh nghiệp gây nhầm lẫn với sồn phẩm, dịch vụ hoặc doanh nghiệp nổi tiếng khác; sử dụng chỉ dẫn gày nhầm lẫn); Nhái kiểu dáng, mẫu mã thiết kế sồn phẩm của doanh nghiệp khác, X ám phạm bí mật k i nh doanh; Phát tán thõng t in sai lệch, bôi nhọ đối thủ cạnh tranh; Quồng cáo sai lệch về nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng, thành phần ... của sồn phẩm; sử dụng trái phép thương hiệu của doanh nghiệp ở nước ngoài; sử dụng sai lệch cờ, biểu tượng của nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, pháp luật Nhật Bồn còn coi một số hành vi như bán dưới giá thành sồn phẩm, từ chối giao dịch một cách bất hợp lý, phân biệt đối xử về giá, phân biệt đối xử hiệp hội, quồng cáo so sánh, quồng cáo khống, khuyến mại bất hợp pháp (chẳng hạn, tặng không hàng hóa cho người tiêu dùng với lượng quá lớn) cũng có thể xếp vào loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh (hoặc không công bằng) mặc dù các hành vi này không được quy định trong Luật Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và sẽ được xử lý theo cơ chế riêng.

Tại Pháp, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Bộ luật Thương mại (Điều L.442-6) với các nội dung về căn bồn là giống các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh Việt Nam

20. Nguyên vãn "sales belovv cost". 21. N g u y ên vãn "unreasonably low prices". 22. N g u y ên vân "price điscrimination".

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 12-

Khóa luận tốt nghiệp

năm 2004 23. Ngoài ra, Bộ luật Thương mại Pháp còn coi hành vi đột ngột chấm dứt quan hệ kinh doanh truyền thống mà không báo trước một thời gian hợp lý với đối tác cũng là hành vi cạnh tranh không lành mạnh - đây là một điểm khác biệt so với Luật Cạnh tranh của Việt Nam.

Tại Đức, Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh được ban hành từ

năm 1909 có quy định nghiêm cấm các hành vi như đưa ra các dữ liệu gây

nhầm lổn; quảng cáo vi phạm luật; nói xấu, bôi nhọ đối thủ; nhái nhãn hiệu nổi tiếng 2 4; xâm phạm bí mật kinh doanh; quảng cáo so sánh25...

Tại Trung Quốc, theo Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh năm 1993, cạnh tranh không lành mạnh được hiếu là các hoạt động của chủ thể kinh doanh thực hiện trái pháp luật, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác, làm rối loạn trật tự kinh tế, xã hội. về cơ bản, Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh năm 1993 của Trung Quốc đã luật hóa các quy định tại Điều lObis của Công ước Paris về bảo hộ quyển sở hữu công nghiệp 2 6.

Theo cách quan niệm của Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004, cạnh

tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (Điều 3, Khoản 4). Với định nghĩa này, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có các dấu hiệu cơ bản: (i) là hành vi của Doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh (li) hành vi đó có biểu hiện trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh (iii) về hậu quả: hành vi đó gây Ihiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho Doanh nghiệp khác hoặc cho

người tiêu dùng và được cụ thể ớ 10 hành vi sau:

23. Xem: Ký yếu hội tháo "Dự thảo hướng dần thi hành Luật Cạnh" ngày 19-30/3/2005 tại Nhà Pháp luật Việl Pháp - tràng 8. 9. 24. Điều lỗ Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Đức. 25. Xem: Đãng Vũ Huân, Luận án Tiến sĩ luật " Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ơ Việt Nam". 2002. trang 71. 26. Xem: Đặng Vũ Huân, Luận án Tiến sĩ luật: "Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ớ v i ệt Nam", 2002. trang 71, 72.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 13-

Khóa luận tốt nghiệp

Chỉ dẫn gây nhẩm lẫn

X âm phạm bí mật kinh doanh

Ép buộc trong kinh doanh

Gièm pha doanh nghiệp khác

Gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác

Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Phân biệt đối xử của hiệp hội

Bán hàng đa cấp bất chính

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh do Chính phủ quy định

Trong bối cảnh điều kiện kinh tế, kinh nghiệm lập pháp và thực thi luật như Việt Nam, phạm vi các hành vi được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh như trên là tương đối phù hợp, mỡc dù có một số hành vi như "phân biệt đối xử cùa hiệp h ộ i" và "bán hàng đa cấp bất chính" khi xếp vào nhóm các hành vi "cạnh tranh không lành mạnh" có thể còn có phần khiên cưỡng.

2. Bản chất của hành vi cạnh t r a nh không lành mạnh

Xét tự giác độ doanh nghiệp, bản chất hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoỡc là hành vi hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác hoỡc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.

Trong quy luật cạnh tranh "mạnh được yếu thua", các phương thức cạnh tranh không lành mạnh đã được sử dụng nhằm tăng cường khả năng chiến thắng trong cạnh tranh cùa doanh nghiệp sử dụng biện pháp này.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác, chẳng hạn bằng cách chiếm đoạt bí mật thương mại (vốn là các tài sản mà đối thu

- 14-

Khóa luận tốt nghiệp

cạnh tranh đã phải đẩu tư rất nhiều công sức m ới có được) hoặc hành vi nhái

nhãn mác, k i ểu dáng, thương hiệu, tạo sự n h ẩm lẫn trong khách hàng gây thiệt

hại trực tiếp cho đối thủ cạnh tranh.

H à nh vi h ủy hoại ưu t hế cạnh tranh của doanh n g h i ệp khác như gièm

pha đối t hủ cạnh tranh, gây r ối hoạt động k i nh doanh của doanh n g h i ệp

khác... khiến cho đối thủ cạnh tranh bị mất uy tín, mất thừi gian công sức để xử

lý các vấn đề m ới phát sinh cũng gây ảnh hưởng trực tiếp cho đối thủ cạnh tranh.

Hành vi tạo ưu t hế cạnh tranh g iả tạo thông qua việc quảng cáo g i an

dối, nhái thương hiệu, k i ểu dáng sản phẩm của doanh n g h i ệp khác ... vừa trực

tiếp gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh vừa gây thiệt hại cho ngưừi tiêu dùng.

Có the nói, thực hiện 3 loại hành vi ké trên là m ột "con đưừng t ắ t" để

chiến thắng trong cạnh tranh. D o a nh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh

không lành mạnh chính là các doanh nghiệp "ăn không" (free riding), hưởng

thành quả không n hừ các nỗ lực vươn lên của mình 2 7.

Sản phẩm của k i ểu cạnh tranh này không k h u y ến khích doanh n g h i ệp

làm ăn có hiệu quả, chân chính t ồn tại mà ngược lại, t rở thành mảnh đất tốt

cho các doanh nghiệp làm ăn chụp giật, không chân chính t ồn tại. K hi đó, củ

ngưừi tiêu dùng và xã h ội sẽ bị thiệt hại. Chính vì thế, pháp luật phái lên án,

trừng trị các doanh nghiệp có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

3. Tác động của hành vi cạnh tranh không lành mạnh

a. Tác động đến nền kinh tê

Bên cạnh những tác động tích cực đã trình bày ở trên, cạnh tranh cũng

gây ra những tác động tiêu cực mà tiêu biểu là những tác động tiêu cực do

những hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra. Chúng ta có thể dễ dàng

thấy được những hành vi như bán hàng đa cấp bất chính, quảng cáo nhằm

27. TS. Phạm Vãn Lợi. TS. Lê Thị Hoàng Oanh. ThS. Nguyễn Vãn Cương. ThS. Hoàng Thí Anh. ThS. Vũ Thị Hiệp. Chuyên đề nghiên cứu: "Pháp luật chong cạnh tranh không lành mạnh ỏ Việt Nam: một sớ vấn dể lý luận và thực tiễn".

Nguyền Hống Hạnh - A4 K40B - QTKD

(Ì) Kìm hãm sự phát triển lành mạnh trong kinh doanh:

- 15 -

Khóa luận tốt nghiệp

cạnh tranh không lành mạnh, gièm pha, bôi nhọ uy tín của doanh nghiệp khác... có ảnh hướng như thế nào đến sự phát triển lành mạnh của thị trường, của nền kinh tế nói chung và lợi ích của các doanh nghiệp tham gia thị trường hay lợi ích của người tiêu dùng nói riêng.

Như đã phân tích ở trên, cơ chế thị trường đòi hỏi các chú thế kinh doanh phải định hướng theo các điểu kiện của thị trường, được thể hiện thông qua các điều kiện của thị trường, được thể hiện thông qua việc các nhà sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ tiến hành cạnh tranh để tiêu thụ sản phổm của mình. Cạnh tranh lành mạnh tạo cho bạn hàng cơ hội lựa chọn tối ưu, phân bổ các nguồn lực, đám bảo việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, lao động và các nguồn vốn khác, sức ép cạnh tranh là một động lực thúc đổy công nghệ phát triển. Nhung nếu trong một thị trường có một số doanh nghiệp cạnh tranh không bằng những nỗ lực, cố gắng trong việc đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sán phổm... mà bằng các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh như làm hàng nhái, nói xấu, gièm pha, quáng cáo lừa dối... thì hoạt động cạnh tranh trên thị trường sẽ không còn thực hiện vai trò là động lực thúc đổy săn xuất, công nghệ phát triển nữa. Trong trường hợp làm hàng nhái (nhái tên thương mại, kiểu dáng...), những doanh nghiệp cạnh tranh bất chính thu lợi dựa trên uy tín của doanh nghiệp khác, khách hàng bị lừa gạt và doanh nghiệp kinh doanh chân chính thì bị khách hàng tổy chay. Hậu quả tất yếu là hạn chế sự nghiên cứu phát triển sán phổm, đổi mới quản lý, áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sán xuất.

(2) Xàm hại lợi ích cùa người tiêu dùng:

Người tiêu dùng là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ và là người cuối cùng đánh giá chất lượng của hàng hóa, dịch vụ đó. Khi các doanh nghiệp tiến hành các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì sẽ xâm hại ngay lập tức tới lợi ích của người tiêu dùng.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Dư luận và báo chí gần đây đã phản ánh, hình thức bán hàng đa cấp gây nhiều tác hại cho người tiêu dùng. Việc bán hàng với mục đích lấy tiền của

- 16-

Khóa luận tốt nghiệp

người sau nộp cho người trước, đẩy giá hàng hóa, dịch vụ lẽn cao một cách phi lý là sự gian dối. Hình thức này không chấp nhận được cả về mặt đạo đức và pháp luật. Những người làm đại lý bán hàng đa cấp phởn lớn chỉ quan tâm đến lợi nhuận, số hoa hồng được hưởng, hoặc muốn gỡ lại tiền sau khi trót mua chất lượng, độ an toàn hàng với giá quá cao. Vì vậy, họ không cởn biết đến gian dối. Do đó, l ợi ích của người tiêu của sản phẩm ... và dề có tính lừa đảo, dùng bị xâm hại rất nghiêm trọng.

Trong "cuộc chiến" không lành mạnh giữa các nhà kinh doanh, xét về lâu dài cũng như trước mắt, người tiêu dùng không bao giờ có thế trớ thành "thượng đế" mà họ chỉ là những "nạn nhân" phải hứng chịu hậu quả. Sự thiệt thòi của "bên thứ 3" khi tham gia quan hệ mua bán trên thị trường không thế bù đắp được bằng những lợi ích nho nhó mà hiện thời các doanh nghiệp đang tìm cách đánh vào "lòng tham" của người tiêu dùng. Những "vị trọng tài khách quan" này đang bị chi phối bởi những "món quà" vật chất đởy hứa hẹn nhưng có lẽ chẳng mấy khi hoặc không bao giờ đến được tay họ. Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay còn đang bị "lừa d ố i" bởi sự quảng cáo không trung thực bởi lượng hàng nhái, hàng giả nhiều vô kể trên thị trường. Những người khách hàng "đáng thương" này không thế tự mình xác định một cách chính xác chất lượng hàng hóa đang lưu thông trên thị trường trừ phi sau khi họ đã sử dụng và phái gánh chịu toàn bộ nhũng hậu quả do hàng kém chất lương hoang mang lo lắng và đôi đem l ạ i. Hơn thế nữa, họ đang mất dởn lòng tin, khi là bất bình trước sự quảng cáo quá lố trên các phương tiện thông tin đại doanh luôn chúng, trước sự tiếp thị "hiếu chiến" của nhiều nhà sản xuất kinh đặt họ vào tình thế việc đã rói. Quyền lợi của người tiêu dùng - đại bộ phận tởng lớp dân cư chiếm số đông trong xã hội Việt Nam - đang bị xâm hại nghiêm trọng và đang rất cởn sự bảo vệ từ phía các cơ quan nhà nước, các quy định của pháp luật và các cụ trấn áp của quyền lực công. M ột giá cả hợp lý, một chất lượng sản phẩm cao, một phương thức phục vụ tốt dành cho người tiêu dùng nếu các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 17-

Khóa luận tốt nghiệp

Không chỉ có lợi ích người tiêu dùng và các nhà kinh doanh bị xâm hại mà lợi ích của Nhà nước cũng bị tổn thất bởi các hành vi trốn thuế, buôn lậu... Nguồn thu ngân sách bị hao hụt. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến trật tự kinh tế mà còn đe dứa trật tự xã hội. K èm theo đó là sự tha hóa biến chất, sự tham nhũng, nhận hối lộ của các cán bộ nhà nước có thẩm quyền. Đạo đức kinh doanh của các nhà kinh doanh giảm sút. Thực tế diễn biến gần đây cho thấy hiện tượng này đã trở thành phổ biến đến mức cần phải báo động. Số vụ phạm pháp kinh tế cũng gia tăng, nghiêm trứng, tiêu biểu là vụ Tán Trường Sanh, EPCO- Minh Phụng...

Rõ ràng, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là nhà nước ta cần phải ban hành những chính sách, quy định đảm bảo một trật tự kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, người tiêu dùng và các nhà kinh doanh.

(3) Thâm hụt ngân sách quốc gia:

Một tiêu chí để phân biệt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là căn cứ vào đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của những hành vi này. Theo quan điểm chung của pháp luật trên thế giới thì những hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến lợi ích của các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trẽn thị trường. Những tác động này có thể bao gồm:

b. Tác động đến bản thăn doanh nghiệp

Trên thị trường Việt Nam hiện nay, các nhà kinh doanh vừa và nhỏ, các

nhà kinh doanh lành mạnh đang "kêu cứu" trước sức ép từ những "tập đoàn" đầy tiềm năng và sức mạnh kinh tế, trước những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh. Những doanh nghiệp yếu thế không thể tồn tại, những doanh nghiệp mới không có cơ hội gia nhập thị trường - điều đó cản trở quyền lự do kinh doanh, quyền tiến hành các hoạt động kinh doanỊĩ qựậ"că

Nguyên Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

(1) Mất thị phẩn và nguy cơ bị thăn tóm

• 18 -

Khóa luận tốt nghiệp

xã hội. Nguyên tắc quyền tự do trong kinh doanh được quy định trong H i ến pháp sẽ không được đảm bảo thực hiện trên thực tế.

Hơn nữa, ngành công nghiệp sản xuất trong nước đang bị đe dọa và có nguy cơ "mất trắng" thị phần trước sự xâm chiếm của hàng ngoại, của các doanh nghiệp nước ngoài giàu kinh nghiệm lãn tài chính. Sự non trẻ hơn 10 năm kinh doanh trong nền kinh tế thị trường với hểu quả của 30 năm chiến tranh và sự lạc hểu của những năm bao cấp, trong điều kiện tình hình kinh tế nước ta còn gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đang chểp chững những bước đi đầu tiên tất yếu các doanh nghiệp trong nước không thể so sánh được với các doanh nghiệp, tểp triển, nền sản xuất công đoàn lớn của các nước có nền kinh tế thị trường phát nghiệp tiên tiến. Đành rằng, yêu cẩu phát huy nội lực, các doanh nghiệp Việt Nam phải cải tổ, thay đổi cõng nghệ, phương thức kinh doanh tổ chức quản lý doanh nghiệp nhưng trong thời gian ngắn và hoàn cảnh hiện tại điều đó không thể xảy ra một cách nhanh chóng. Nếu không có sự bảo hộ cho ngành cõng nghiệp nội địa có thể tổn tại thì không thể nói tới sự phát triển trong tương lai. "Bảo h ộ" ở đây là sự báo vệ trước những thủ đoạn kinh doanh không lành mạnh, việc lạm dụng thế mạnh kinh tế cùa các doanh nghiệp nước ngoài chứ không phải là sự hỗ trợ, un đãi bao cấp về vốn, điều kiện kinh doanh, lãi suất tiền vay... Hay nói cách khác, Nhà nước duy trì một trểt tự cạnh tranh lành mạnh, môi trường kinh doanh công bằng, tạo "đất sống" cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội đặt "dấu ấn" trên thị trường Việt Nam và xa hơn là trên thế thị trường thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra được lợi t hế cạnh tranh lâu dài, ổn định. Muốn thế, trước hết hoạt động sản xuất kinh doanh của họ phải được an toàn trong một khung pháp lý, trong "vành đai" khuôn khổ pháp luểt, chính sách duy trì cạnh tranh lành mạnh.

Mặt khác, trước chủ trương thu hút vốn đâu tư nước ngoài cùa Nhà nước ta hiện nay, chúng ta cần phải tỉnh táo và ngăn chặn hành vi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp nước ngoài. Khi các doanh nghiệp liên doanh làm ăn thua lỗ

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 19-

Khóa luận lốt nghiệp

thì chỉ có phía Việt Nam chịu thiệt còn các nhà kinh doanh nước ngoài thì

bình thản trở thành "ông chủ duy nhất" khi phía Việt Nam không còn đủ sức chịu đựng và buộc phải nhượng phần vốn góp của mình. Tất nhiên điều kiện chuyển nhượng là hết sức thấp và không thuận lợi. Và chính lúc này sau khi "vọt kiệt" sức lực, kinh nghiệm thị trường của phía Việt Nam, các doanh

nghiệp nước ngoài với các sản phẩm, hàng hóa của họ đã tìm được chỗ đứng trên thị trường và công việc làm ăn bọt đầu khởi sọc. Với tình hình này nếu chúng ta không có những biện pháp khẩn cấp, kịp thời ngăn chặn và xử lý các hành vi "chơi xấu" này thì đến lúc nào đó Việt Nam chỉ là "sân sau" của các nước tư bản phát triển 2 8.

(2) Mất uy tín, lòng tin từ phía khách

hàng

Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như làm hàng giả, hàng nhái về tên thương mại, nhái kiểu dáng sẽ làm cho khách hàng rất khó phân biệt và mua nhầm hàng kém chất lượng. Từ đó, uy tín của doanh nghiệp sản xuất hàng chính hãng sẽ bị tổn thất. Cho dù khách hàng có ý thức được là họ mua phải hàng giả, hàng nhái thì họ cũng rất e ngại mua lại sản phẩm của doanh nghiệp chính hãng đó do tâm lý lo sợ không phân biệt được hàng thật, hàng giả. Đặc

biệt là trong ngành dược phẩm, mỹ phẩm, khách hàng rất khó có thể phân biệt được những sản phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc với nhũng sản phẩm của nhũng hãng nổi tiếng ở nước ngoài. Và theo nhiều khách hàng thì họ sẽ chuyến sang dùng sản phẩm khác mà đảm bảo là hàng chính hãng để tránh những rủi ro về hàng giả.

Ngoài ra, trước những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như

quảng cáo so sánh, hành vi nói xấu, gièm pha đối thủ cạnh tranh... các doanh nghiệp là đối tượng của các hành vi trên sẽ phải chịu những tổn thất rất lớn do sự hiểu lầm của khách hàng, có thể dẫn đến tình trạng bị khách

hàng tẩy chay.

28. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an Nhân dãn. năm 2001.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-20-

Bất cứ một doanh nghiệp nào khi hoạt động trên thương trường đều có bí mật kinh doanh riêng của mình. Điều này càng có ý nghĩa trong môi trường

cạnh tranh vì đó chính là một trong những công cụ, phương tiện bảo vệ lợi ích và sự thành đạt của doanh nghiệp. Nhung cũng vì mục tiêu cạnh tranh mà các đối thủ cạnh tranh luôn tìm mọi cách để biết hoằc chiếm đoạt cho được những bí mật trong kinh doanh của đối thủ khác.

Vi phạm nghĩa vụ bảo mật này thông thường là nhân viên làm việc tại doanh nghiệp mà theo đó, họ có thể tiếp cận với tài liệu "nội bộ"để đánh cắp thông tin phục vụ cho mục đích riêng của mình hoằc đưa tin ra ngoài. Hiện nay, quan điếm của đa số các nhà luật học còn cho rằng, ngay cả các thành viên hội đồng quản trị hay ban kiểm soát của công ty cổ phần hoằc giám đốc điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn mà tiết lộ bí mật kinh doanh cũng bị coi là vi phạm. Những hành vi kiểu như vậy không những là không lành mạnh mà ở nhiều quốc gia còn bị coi là hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự.

(3) Mất cơ hội kinh doanh, mất ưu thế trên thị trường

Từ Đại hội Đẳng toàn quốc lần thứ V I, Nhà nước ta chủ trương phá!

triển nền kinh tế hàng hoa nhiều thành phần đã khởi đầu cho hoạt động cạnh tranh thực sự công khai và mở rộng trong nền kinh tế nước ta. Trước hết, phải kế đến sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp ngoài

lít. TÌNH HÌNH CẠNH TRANH K H Ô NG LÀNH MẠNH Ỏ VIỆT NAM

Cạnh tranh thực sự gay gắt bắt đầu vào giữa năm 1989, khi Nhà nước thi hành hàng loạt các chính sách về chống lạm phát, xoa bỏ bao cấp qua giá và một phẩn qua vốn chủ yếu đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Sự cạnh

quốc doanh.

Bộ hay trong một địa phương, trong cùng một hình thức sở hữu, cạnh tranh

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Hanh diễn ra ngay giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, trong cùng một

- 21 -

Khóa luận tốt nghiệp

giữa hàng nội và hàng ngoại... Cạnh tranh bắt đầu đưa l ại sức sống mới cho nền kinh tế xã hội.

Gần đây, với việc ban hành các chính sách đổi mới quản lý kinh tế, đã giảm dẩn những ưu đãi về đầu tư, về tín dụng và thực hiện bình đẳng nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc thành triển cậa nền kinh tế phần kinh tế khác, tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát quốc dân. Cạnh tranh trên thị trường thực sự đã đem lại nhiều kết quả tích cực, đương nhiên đó phải là cạnh tranh lành mạnh.

Như vậy, động lực để điều tiết trong một nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh. Nếu không có cạnh tranh, sẽ xuất hiện độc quyền và hệ thống kinh tế thị trường hoạt động sẽ không có hiệu quả. Nếu không có cạnh tranh, người tiêu dùng không có cách lựa chọn mà phải mua bất cứ giá nào mà người sán xuất đòi hỏi. Nếu không có cạnh tranh, người sản xuất không có động lực để áp dụng công nghệ mới và sản xuất hàng hoa với giá rẻ và chất lượng tốt hơn.

Việt Nam Qua một số năm thực hiện nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã có những khới sắc đáng mừng, hàng hoa trên thị trường dồi dào và phong phú, đời sống dân cư được cải thiện từng bước, người mua, người bán được tự do lựa chọn hằng hoa và thoa thuận giá cả trong trao đổi hàng hoa. Các doanh nghiệp đã tự vươn lên đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng hàng hoa cho phù hợp với nhu cầu để đứng vững trong cạnh tranh.

Song, nhũng khuyết tật vốn có cậa thị trường không thể không bộc lộ trong thực tiễn. Bên cạnh những kết quả tích cực cậa thị trường hàng hoa cạnh tranh diễn ra một cuộc cạnh tranh sôi động không cân sức và không bình đẳng giữa hàng ngoại nhập vào với hàng sản xuất trong nước. Những yếu tố cạnh tranh không lành mạnh đã nảy sinh trên nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế nước ta.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Tinh trạng không cân sức biểu hiện ở chỗ: Hàng nhập ngoại có mẫu mã, kiểu cách, màu sắc phong phú, đa dạng, phù hợp với thị hiếu cậa người tiêu dùng, có chất lượng và tính sẵn sàng cho tiêu dùng cao hơn và hợp với yêu cầu

-22-

Khóa luận tốt nghiệp

sử dụng, trong khi đó trình độ công nghệ sản xuất trong nước chưa cho phép đạt được điều đó. Không bình đẳng biểu hiện ra ở mức giá rẻ của hàng ngoại nhập do trặn lậu thuế nhập khẩu. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vặn đẩu tư nước ngoài đã không ngần ngại sử dụng các thủ pháp cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường để dành ưu thế cho sản phẩm của mình. Có thể dẻ nhận thấy các thủ pháp cạnh tranh không lành mạnh sau đã trỏ nên phổ biến trên thị trường Việt Nam:

ịÌ) Cạnh tranh bằng cách phá giá

* Phá giá là biện pháp "kinh điển" và trở nên " l ỗi thời" ở các nước có nén kinh tế phát triển nhưng đặi với nền kinh tế thị trường non trẻ của Việt Nam, biện pháp bán phá giá đang trở thành một công cụ hữu hiệu của các hãng nước ngoài sử dụng để thâu tóm thị phần của các đặi thủ cạnh tranh. V ới thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, các doanh nghiệp nước ngoài đang tiến hành những cuộc phá giá thực sự ngoạn mục và giành được những thắng lợi hết sức vang dội trước sự bất lực của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Tiêu biểu phải kể đến "cuộc chiến" giữa các hãng, công ty trong ngành sản xuất nước giải khát.

Bước vào cuộc chiến với các hãng đổ uặng quặc tế có ga như Coca Cola, Pepsi các hãng sản xuất nước giải khát Việt Nam như Mekoíood (sản xuất đồ uặng có ga nhãn hiệu Festi) và công tỵ Tribico nhìn thấy trước cái chết. Ngay khi vào cuộc cả hai hãng đưa ra hàng loạt các chiến thuật cạnh tranh quyết liệt và liên tục. Coca Cola hạ giá bằng cách nâng dung tích chai từ 207 mi lên 300 mi nhung vẫn giữ giá bán 1.500 đồng. Pepsi đưa ra loại chai 500 mi mà giá bán chỉ có 1.600 đồng, như vậy giá thành đã hạ xuặng còn 800 đồng/250 mi. Trong khi đó, sản phẩm của Tribico là chai dung tích 207 mi với giá bán 1.100 đổng/chai. Còn chai Festi 200 mi, giá bán 2.200 đồng.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Ngày 31 tháng Ì năm 1996 công ty liên doanh Coca Cola Ngọc Hồi áp dụng chế độ khuyến mại theo kiểu cứ mua 3 két Coca hoặc 3 két Sprite được tặng thêm Ì két hay mua 5 thùng Coca hoặc 5 thùng Sprite thì tặng thêm Ì

-23-

Khóa luận tốt nghiệp

thùng. Nếu tính ra thì Coca Cola đã hạ giá đến 25%, với mức giá này thì rõ ràng Coca Cola đã làm một cuộc phá giá thực sự bởi mức thuế doanh thu nước ngọt lúc bấy giờ là 8%, thuế nhập khẩu hương liệu là 30%, khó có một giá thành sản xuất rẻ hơn mức giá khuyến mại này.

M ột hãng khổng lồ sản xuất ở vài chủc nước khác nhau như Coca Cola và Pepsi chỉ cần mang ít hàng tồn kho tạm thời đưa vào V i ệt Nam cho không người tiêu dùng cũng không ảnh hưởng gì đến doanh thu của họ. M u ốn đánh mang tiếng là gủc đối phương họ đã không làm như vậy vì của cho không sẽ đổ bỏ đi. Họ bán dưới giá thành sản xuất của các công ty trong nước và mờ rộng các đạt khuyến mại liên tủc trị giá hàng tỷ đổng, họ không hề chịu lỗ bởi vì số hàng này chỉ là số hàng thừa theo kế hoạch sản xuất trên toàn thế giới mà họ đã thu đủ lợi nhuận. Đối với các hãng liên doanh việc giảm giá bán sản phẩm đến mức thấp hơn giá thành dẫn đến doanh nghiệp bị l ỗ, liên doanh không được chia l ờ i, thực chất chỉ phía Việt Nam chịu thiệt còn phía nước ngoài vẫn có lãi thông qua thông qua việc cung cấp nguyên liệu, công nghệ thiết bị với giá cao. 29

Không thể đứng vững nổi trong cuộc cạnh tranh không bình đẳng và không cân sức này, công ty Tribico - "con chim đầu đ à n" của ngành sản xuất nước ngọt Việt Nam đang lâm vào tình trạng hấp hối. Năng suất năm 1996 những năm trước. giảm 30% đến năm 1997 sản lượng đã giảm 60% so với Còn các hãng nước ngọt Việt Nam khác thì đã bị thanh toán dúi điếm từ lâu. Mặt khác hiện nay, giá một két Coca Cola tăng từ 36.000 đồng lên 46.000 đồng nhưng sản lượng tiêu thủ của Coca Cola không hề giảm sút vì thị trường nước giải khát Việt Nam phần lớn đã thuộc về họ. Thậm chí hãng Coca Cola còn hùng hồn tuyên bố rằng từ giờ đến năm 2010 họ sẽ thống lĩnh thị trường Việt Nam, tiêu diệt đối thù cạnh tranh lớn nhất là hãng Pepsi. L i ệu khi đó giá của một chai Coca Cola có còn "mềm dẻo" như trước hay người tiêu dùng vẫn phải chấp nhận một mức giá cao mà không có sự lựa chọn nào khác?

29. Trần Vãn Tường. Bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu. Nxb. Thống ké. 1998

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-24-

* Bên cạnh đó, chúng ta phải đương đầu với tình trạng hàng ngoại nhập "ồ ạt chảy vào" thị trường nước ta với giá rẻ hơn nhiều lần so với hàng nội địa. Chiếc xe Super Dream của hãng Honda - Việt Nam vừa mới xâm nhập thị trường và chưa tìm được một chỗ đứng vổng chắc thì ngay lập tức điêu đứng trước làn sóng xe Trung Quốc đổ bộ vào Việt Nam với mức giá liên tục giảm và thấp ngoài sức tướng tượng. M ột chiếc xe Wave Trung Quốc với giá bán chì có 10 triệu đổng Việt Nam (trước đây khi mới ra là 17 triệu) trong khi một chiếc xe Super Dream giá 21 triệu đồng Việt Nam. Tất nhiên về chất lượng xe Super Dream cao hơn so với xe Trung Quốc, nhưng với mức thu nhập hiện nay của người Việt Nam thì giá cá của chiếc xe Wave Trung Quốc dễ dàng được chấp nhận hơn. Và thế là phong trào mua xe Wave - Trung Quốc tăng lên trên thị trường Việt Nam trong thời gian gần đáy. Trên thị trường vãi sợi hiện nay, hàng vải ngoại đã nắm giổ đến 8 0% thị phần trong đó vải Trung Quốc chiếm đến 60%. Thị trường quẩn áo may sẩn Trung Quốc nhiều như chưa từng có với nhổng kiểu dáng, màu sắc, mẫu mốt, phong phú và giá rẻ bất ngờ. Chỉ với 20.000 đồng đến 30.000 đổng bạn có thể mua một chiếc áo hợp mốt mặc qua mùa hè trong khi một chiếc áo sơ mi của công ty May 10 hay Hanosimex giá trung hình từ 60.000 đến 70.000 đồng. Hàng ngoại nhất là hàng Trung Quốc nhập lậu trốn thuế nhập khẩu đổ bộ vào Việt Nam bằng nhiều con đường, ngoài việc buôn lậu vải qua các cửa khẩu, các tàu viễn dương, hàng vái ngoại còn trốn được thuế nhập khẩu thông qua con đường nhập chính ngạch. Do trốn được thuế hàng nhập lậu đã tạo cho mình một lợi thế cạnh tranh hon hẳn (dù bất hợp pháp) so với hàng nội địa. Điều này có thế lý giải phần nào tại sao nhiều mặt hàng sản xuất có tiếng một thời của Việt Nam như quạt điện, dệt... đang trong tình trạng liêu xiêu trước hàng ngoại.

(2) Cạnh tranh bằng khuyến mại quá lố

Nguyễn Háng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Lạm dụng thế mạnh tài chính, bên cạnh việc bán phá giá, các hãng nước ngoài đang thi nhau tiến hành các chiến dịch khuyến mại với quy mô và

Khóa luận tết nghiệp

-25-

giá trị ngày càng lớn, bỏ lại phía sau đường đua là các doanh nghiệp Việt Nam đang lắc đầu chịu thua và mệt nhoài vì trượt dốc.

Thị trường bia rượu Việt Nam đang sôi động hẳn lẽn không chỉ bởi vì đội tuyến bóng đá Việt Nam sẽ tham dự Tiger Cup mà là đạt khuyến mại của Tiger Beer - uống bia Tiger đả trúng một trong năm chiếc vé sang Thái Lan xem trực tiếp các trận bóng đá Tiger Cup và Ì trong lũ chiếc Tivi Samsung 21

inche. Không hề chịu thua, hãng bia Foster - "bia phong cách úc" - phong cách được đặc trưng bới một cảnh tượng rùng rợn: Một con người đang quằn quại trong biản máu trước hàm răng của cá sấu- ngay lập tức mở chiến dịch

"đãi vàng kiảu úc" mà phần thướng đặt ra là một lon bia Foster bằng vàng ròng 9999. Và điều này khiến chúng ta không hề thấy lạ khi hãng bia Sài Gòn sản xuất lon bia 333 hay hãng bia Halida - "niềm tự hào bia n ộ i" bị đẩy vào một góc thị phần nhỏ hẹp nhường chỗ cho những hãng bia nước ngoài danh tiếng là Tiger, Heineken và bây giờ có sự góp mặt đầy ấn tượng của Foster.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Nhiều người tiêu dùng sẽ chẳng còn quan tâm liệu còn doanh nghiệp Việt Nam sản xuất nước ngọt nào hay không mà họ chỉ quan tâm mình nặng thêm bao nhiêu kilogram (kg) đả "biến trọng lượng thành vàng". Không biết có phải sau đạt bóng đá Euro 2000 những "quả bóng vàng" của Coca Cola không có người trúng thưởng hay sao mà hãng nước ngọt nổi tiếng trên toàn thế giới đã vội vàng tổ chức ngay một đạt khuyến mại mới với một giá trị lớn ngoài sức tưởng tượng. Và thực tế không ít người đã tiếc rằng tại sao mình không tập môn võ Sumô của Nhật Bản đả có được một lượng cân nặng khổng lổ đả nếu có trúng thưởng thì không biết đả đâu cho hết vàng? Và thế là người người uống Coca Cola, nhà nhà uống Coca Cola. Từ đó khách hàng không cẩn đế ý đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Chẳng có mấy phản ứng khi Coca Cola tăng giá. Coca Cola đã làm tê liệt phản xạ và sự lựa chọn của người tiêu dùng. Họ bị lệ thuộc vào sản phẩm của hãng. Đó là sự thành công của Coca Cola hay là sự thất bại của thị trường cạnh tranh Việt Nam trong việc giữ một môi trường cạnh tranh lành mạnh?

-26-

Khóa luận tốt nghiệp

Đến với cuộc cạnh tranh của các nhà sản xuất kem đánh răng, người tiêu dùng đang xôn xao về một đạt khuyến mại đặc biệt của Colgate. Dùng kem đánh răng Colgate đế có cơ hội trúng thưởng Ì trong 3 căn hộ trị giá 350 triệu đồng. Giá trị giải thướng quá lớn, lớn hơn cả giải đặc biệt của xổ số điện toán 123 của Nhà nước. Và những sinh viên ngoại tỉnh vui mậng rủ nhau mua kem đánh răng Colgate vậa để răng "to, chắc, khoe, không bị sâu" mà biết đâu lại trúng căn nhà lớn để không còn phải thuê nhà trong những khu chung cư chật hẹp. Thị trường cạnh tranh Việt Nam đang hổi hộp chờ đợi những biện pháp cạnh tranh mới được đưa ra tậ những đối thủ cạnh tranh sản xuất kem đánh răng như p/s hay Close - úp. Còn các nhà sản xuất kem đánh răng trong nước như Dạ Lan thì chỉ còn là quá khứ.

Thời gian qua ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang phải điêu đứng trước những đợi khuyến mại của các hãng điện tử nước ngoài như SONY, JVC, TOSHIBA (Nhật Bán), SAMSUNG, LG, DAEV/OO (Hàn Quốc)... Do không cạnh tranh được, nhiều nhà máy lắp ráp tivi đã phải giảm tậ 5 0% đến 7 0% công suất. Nhiều hãng điện tử trong nước một thời "oanh liệt" nay đã phải ngưng lắp ráp tivi như điện tậ Giảng Võ, Sao Mai (Bộ Quốc Phòng), Viettronics Đống Đa... Một số hãng điện tử khác thì tìm "đường sống" bằng cách liên doanh với nước ngoài như Viettronics Tân Bình hay HANEL. Hi vọng xây dựng ngành công nghiệp điện tử trong tương lai, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoa - hiện đại hoa liệu có thành hiên thực?

Với những thú đoạn cạnh tranh không lành mạnh nêu trên, các hãng sản xuất nước ngoài đang chia nhau thị phần Việt Nam. Liệu trong tương lai, khi đã thống lĩnh và độc chiếm, sản phẩm của họ có còn "dễ thương" nữa hay không? Chỉ biết rằng khi đó Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ cho sản phẩm nước ngoài.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Công bằng mà nói, việc một doanh nghiệp nào đó vì làm ăn không có hiệu quả và không còn sức để cạnh tranh và vì vậy phải "biến mất" khỏi thương trường là điều đương nhiên song vấn đề là ở chỗ, những tuyên bố

-27-

Khóa luận tốt nghiệp

"đanh thép" của các hãng khổng lổ trên đây có trở thành sự thật hay không và điều đó nếu là sự thật thì liệu tồn tại bao lâu?

(3) Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo

Trong những năm gần đây, hoạt động quảng cáo ở Việt Nam diễn ra rất sôi động. Tổng chi phí dành cho quảng cáo ước tính lên đến hàng trăm triệu USD mỗi năm, ngang bịng hoặc thậm chí lớn hơn vốn đầu tư về máy móc và xây dựng cơ bản của doanh nghiệp. Cuộc chiến trong lĩnh vực quảng cáo đầy

kịch tính và nóng bỏng. Ó đó những hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ngày càng nhiều từ cả hai phía doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài với một thực tế khó có thế phú nhận là nội dung, chương trình các tiết mục quảng cáo hàng ngoại quốc hay hơn, hấp dẫn hơn so với quảng cáo của hàng Việt Nam. Có thể nhận thấy những hành vi cạnh tranh không lành mạnh tồn tại chủ yếu dưới những dạng như:

* Quảng cáo không trung thực:

Các hành vi quảng cáo gian dối, quảng cáo quá lố về quy cách, phẩm chất của hàng hoa đang diễn ra một cách công nhiên ớ Việt Nam. Người ta nghi ngờ về độ trắng "tuyệt v ờ i" của bột giặt TIDE, OMO trong khi thực tế chúng cũng không hơn gì hàng nội địa như LIX, neo. Rất nhiều người tiêu dùng bất bình khi dùng dầu gội đầu Clear do Viện E L I DA (Pari) chứng nhận với hi vọng "sạch gầu chỉ sau 7 lẩn gội"...

Thêm một ví dụ về trường hợp vi phạm quy định về quảng cáo so sánh. Hội đổng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã công bố quyết định giám đốc thẩm: Công ty Kymdan không sản xuất đệm lò xo và mút xốp, nhưng dăng quảng cáo so sánh chất lượng đệm của doanh nghiệp với hai sản phẩm này, dù không nêu đích danh, là vi phạm về các quy định quảng cáo thương mại.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Hội đồng thẩm phán tuyên cuộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải xin lỗi hai nguyên đơn là Công ty đệm Vạn Thành, Ưu Việt và đăng tải công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Khóa luận tốt nghiệp

-28-

Vụ kiện nảy sinh khi tháng 7/2001, Kymdan đãng quảng cáo với nội dung: "... Đệm lò xo phàn bố lực không đều, độ đàn hổi thấp nên bị xẹp theo thời gian. Độ đàn hổi cao thì dễ gây cháy, nguy hiểm cho người sử dụng... Nệm nhựa tổng hợp poly-urethane (nệm mút xốp nhẹ) tính dẩo ưu việt nên không có độ đàn hổi, mau xẹp...". Công ty Vạn Thành và Ưu Việt cho rằng Kymđan nói xấu sản phẩm của mình sản xuất, nên đã đâm đơn ra tòa yêu cầu cải chính và xin lỗi vì cạnh tranh không lành mạnh.30

* Quảng cáo so sánh:

Quảng cáo so sánh là hành vi doanh nghiệp quảng cáo cho sản phẩm của mình là tốt nhất mà giá lại rẩ nhưng thực tế lại không phải như vậy. Các kiểu so sánh đưa thông tin mập mờ khiến người xem khó hiểu? Nếu chú ý theo dõi chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta sẽ thấy kiểu quảng cáo như thế này là phổ biến: OMO tẩy sạch bóng vết dầu mỡ mà "bột giặt thường" không thể?, p/s diệt khuẩn bảo vệ răng suốt cả ngày bởi p/s có chất diệt khuẩn còn "kem đánh răng thường" chỉ có ílour, V IM tẩy sạch những chỗ tưởng không thể tẩy rửa được và tiệt trùng mà những "nước vệ sinh khác" không thể rửa được, Liíebouy - sạch hơn "xà bông thường" diệt trên 9 0% vi khuẩn, "Nước rửa chén thường" khó mà rửa sạch lại khó ráp da tay, SUNLIGHT vitamin E rửa sạch, mềm mại với da tay... Vậy những cái "thường", cái "khác" đó là cái gì? Phải chăng họ muốn gieo vào tâm lý người tiêu dùng rằng sản phẩm của họ là tốt hơn cả?

(4) Cản trở quyền lựa chọn của người tiêu dùng

30. Kymđan phải công khai xin lỗi hai đối thủ, www.vnn.vn. cặp nhật lúc Ì Hi 21' ngày 21/7/2003

Nguyễn Hóng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Thật dễ dàng nhận thấy, rất nhiều cửa hàng giải khát chỉ bán sản phẩm của Coca Cola và Pepsi. Khi được hỏi tại sao không bán hàng của Việt Nam, họ trả lời rằng các hãng nước ngoài cấm và lợi nhuận khi bán hàng cho các hãng trên được chiết khấu cao gấp 5 lần hàng nội. Nhiều đại lý trước đây bán neo, DASO, N ÉT nay chuyển sang nhà phân phối chỉ bán bột giặt của P&G

-29- Khóa luận tốt nghiệp

và U N I L E V ER bởi vì họ ký hợp đổng phân phối độc quyền chỉ được bán hàng cho các hãng nước ngoài không được bán hàng nội địa. Bù lại, họ thu được lợi nhuận rất cao và có thể cho nợ đến hàng tỷ đồng tiền hàng, dể dàng trốn thuế bởi trên hoa đơn vân ghi chiết khấu thấp nhưng cuối tháng lại được thướng hoặc làm phiếu thu thêm 5% tiền nhung thệc ra không thu mà chỉ làm giấy tờ hợp thức 3 1.

(5) Gièm pha, bôi nhọ đối thủ

Hành vi này được thệc hiện bằng việc tung ra các tin tức không có thật nhằm làm giảm uy tín của các đối thủ. Thị trường rượu bia tại Việt Nam có thời kỳ rộ lên với các tin đồn "trong bia Tiger có gián" làm cho các nhà chức trách Việt Nam tốn không ít công sức để giải thích tại sao một quy trình sản xuất bia khép kín tối tân đến như vậy lại bị gián "chui" vào, cuối cùng không tìm ra nguyên nhân tại sao! Còn người tiêu dùng cứ nhìn thấy bia Tiger lại tướng tượng ra nguy cơ "uống phải gián"32. Thị trường phở Hà Nội cũng nhiều phen sóng gió với những tin độn thất thiệt. Nhà hàng phở Thìn nổi tiếng của Hà Nội mấy năm trước đã phải khóc dở mếu dở vì cái tin "trong nước phở có ngón tay người". Cuối năm 1999, thị trường phở điêu đứng vì thông tin trong phở có chất íomaldehit dùng để ướp xác người, nếu ăn phải sẽ bị bệnh ung thư. Thế là các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải vào cuộc khẩn trương với các chiến dịch kiểm tra chất lượng sản phẩm và cấp giấy chứng nhận để trả lại sệ bình yên cho thị trường phở - món ăn nổi tiếng của đất Hà thành.

(6) Nhái nhãn hiệu nổi tiếng

31. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý. chuyên để vé canh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyển, 1996. tr. 155 - 156. 32. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Chuyên để vế cạnh tranh, chống cạnh /ranh bái hợp pháp và kiểm soát dộc quyển. 1996. tr. 155 - 156.

Đây là hành vi khá phổ biến trên thị trường Việt Nam nhất là từ k hi chúng ta tiến hành mở cửa nền kinh tế. Nhãn hiệu nổi tiếng là một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn của các hãng sản xuất bởi khi đọc đến tên nhãn hiệu, người

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-30-

Khóa luận tốt nghiệp

tiêu dùng trên toàn thế giới có thể cảm nhận được ngay, phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức phục vụ của sản phẩm này so với sản phẩm cùng loại mang nhãn hiệu khác. Và như thế đâu đâu người ta cũng dán mác M A DE IN JAPAN, M A DE IN KOREA, M A DE IN USA... trong khi ai cũng thừa biết đó là hàng sản xuất tại Việt Nam hoặc Trung quịc. Nước khoáng Lavie cho đến nay không thể đếm hết mình có bao nhiêu anh em đổng hao với những cái tên na ná kiểu như Laville, Leville, La vier... Xe Wave cùa hãng H O N DA (Nhật Bản) với kiểu dáng thanh lịch được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng thì ngay lập tức trên thị trường đã xuất hiện xe Wave (Trung Quịc) với cái tên Waver, Weaser... có kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc, giịng như thật. Thị trường điện thoại di động cũng đang nhức nhịi bởi hàng giả, hàng nhái. Trong ngành công nghiệp điện tử, thật khó để phân biệt đâu là hàng thật, đâu là hàng giả kể cả những người có chuyên môn. Hầu hết hiện nay tại các cửa hàng bán điện thoại di động đều lưu hành loại máy Startac X, Startac V (Motorola) của Trung Quịc. Tinh trạng hàng nhái tràn lan và không kiểm soát được đến mức báo động khiến các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có những sản phẩm nổi tiếng đã phải khuyến cáo người tiêu dùng nên mua hàng tại siêu thị, đại lý độc quyền - nơi mà họ trực tiếp bán hàng mới có thể tránh được tình trạng mua phải hàng nhái, hàng giả.

Một thực trạng hiện nay là các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với nhau nhung kết quả lại làm lợi cho các hãng nước ngoài. Họ có thể ép giá xuịng thấp mà các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận. Tinh trạng doanh nghiệp Việt Nam bị hãng nước ngoài trả lại sản phẩm là phổ biến. Điều đó đã làm giảm uy tín của hàng hoa Việt Nam trên trường quịc tế. Hay có những người kinh doanh lợi dụng tình hình khan hiếm, thiên tai, hỏa hoạn... vơ vét, đầu cơ, tích trữ rồi bán với giá cao làm rịi loạn thị trường, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

Nguyền Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Một vài năm trở lại đây, người tiêu dùng rất bất bình trước những hành vi tiếp thị "hiếu chiến", kiểu mời chào, cưỡng ép khách hàng rất trắng trợn cùa

- 31 -

Khóa luận tốt nghiệp

nhiều nhà hàng cũng như người buôn bán sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Hậu quả để lại không chí dừng lại ở những lời xúc phạm nhân phẩm, việc bắt buộc phải mua mà đôi khi còn bị xâm phạm tính mạng, sức khoe. Và như vậy chễng tội gì người tiêu dùng lại không tìm đến với nhà sản xuất nước ngoài với phương thức phục vụ hiện đại, tận tình, chu đáo.

Nguyên Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Tuy chưa đến mức độ gay gắt và quyết liệt như các nước có nền kinh tế phát triển nhưng tình hình cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam đang diễn biến hết sức phổ biến và vô cùng phức tạp. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ngày càng nhiều và rất khó kiếm soát. Nhũng mầm mông tiêu cực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đã lan tràn tới mọi lĩnh vực cùa đời sống kinh tế xã hội, từ sản xuất tới tiêu dùng dưới mọi hình thức: bán phá giá, quảng cáo không trung thực, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp - nhãn hiệu hàng hoa... gây ra nhiều hậu quả xấu trong xã hội, cho người tiêu dùng và cho các doanh nghiệp khác đang và sẽ tham gia vào các hoạt động trên thị trường. Lợi ích của các chủ thể trong xã hội đang bị xâm hại, đe doa bởi "sức tấn công" mạnh mẽ của các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Nguy hiểm hơn nữa trật tự kinh doanh công bằng đang có nguy cơ bị phá vỡ, nền kinh tế quốc gia sẽ phải đối phó với những khủng hoảng nghiêm trọng bởi sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp trong nước, sức khoe và lợi ích của người tiêu dùng cũng như sự thống trị độc quyền chi phối của các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực kinh tế mạnh. Cơ cấu kinh tế bị đảo lộn, mất ổn định, cân đối, chỉ tập trung vào một số ngành đang được "ưa chuộng" trên thị trường. Và tất yếu "thiếu" thì phải "lệ thuộc", chúng ta không có quyền tự do lựa chọn và không thể có quyền quyết định, Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ cho sản phẩm hàng hoa nước ngoài.

-32-

Khóa luận tốt nghiệp

chương li

Q UY ĐỊ NH VỀ H À NH VI C Ạ NH T R A NH K H Ô NG L À NH M Ạ NH

C ỦA L U ẬT C Ạ NH T R A NH V I ỆT N AM N ĂM 2004

I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

ỏ VIỆT NAM TRƯỚC N G ÀY 1-7-2005

Chính sách cạnh tranh có thể được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các biện pháp tăng tính cạnh tranh của một nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách cạnh tranh thường được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm những chính sách liên quan đến kiểm soát độc quyền và chừng cạnh tranh không lành mạnh. Tùy theo lịch sử từng quừc gia, tên gọi của pháp luật cạnh tranh cũng khác nhau: người Mỹ gọi là Luật chừng Tờ-rớt, người Đúc gọi là Luật Các-ten và chừng cạnh tranh không lành mạnh, Anh và nhiều nước khác thì gọi chung là Luật Cạnh tranh. Nước ta hoàn toàn không có truyền thừng về lĩnh vực pháp luật đặc thù này, trong quá trình du nhập từ phương Tây, một khái niệm pháp luật cạnh tranh chung dường như đã được sử dụng ngày một rộng rãi.33

Trong nền kinh tế kế hoạch hoa tập trung ở Việt Nam trước năm 1986 không tổn tại khái niệm "Cạnh tranh" mà chí tồn tại khái niệm "Thi đua xã hội chú nghĩa". Thi đua xã hội chủ nghĩa là phong trào của những người lao động, họ không có tài sản gì khác để thi đua với nhau ngoài chính sức lao động của mình; và phần thưởng họ giành được đó là tấm giấy khen, huân chương, huy chương để treo trên tường mà không phải là thị phần về một loại hàng hoa, dịch vụ nào đó và lợi nhuận phát sinh từ đó. Vì vậy, bản chất của thi đua xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế kế hoạch hoa tập trung khác hẳn so với cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Cũng từ đó, chúng ta chưa có các quy phạm pháp luật về cạnh tranh.

Trong những năm đáu của thời kỳ đổi mới, chúng ta chưa ban hành Luật Cạnh tranh với tư cách là một đạo luật độc lập điều chính các quan he

33. TS. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế ( I r g. 787). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. nám 2004.

Nguyễn Hóng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-33-

cạnh tranh, nhưng cũng đã có một số quy phạm pháp luật nằm rải rác ờ các văn bẳn pháp luật khác nhau điều chỉnh về vấn đề này.

Nhu cầu về việc "ban hành Luật bảo đảm cạnh tranh và kiểm soát độc quyển trong kinh doanh, chống cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế thương mại" nhằm tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh đã được nêu ra trong các văn kiện Đại hội V UI Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định quyền tự do kinh doanh là một trong các quyền cơ bản cớa công dán Việt Nam. Đày là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm sự tự do cạnh tranh ớ nước ta. 34

Hai bộ luật lớn cớa nước ta là Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự cũng có vai trò trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh. Bộ luật Dân sự với các quy định về các nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự (tự do ý chí, tự nguyện, tự định đoạt, thoa thuận, bình đẳng, thiện chí, trung thực, tôn trọng lợi ích cớa Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích cớa người khác.) và các quy định về các phương thức mà các chớ thể có thể dụng để bảo vệ các quyền và lợi ích cớa mình khi bị xâm hại (đòi bồi thường thiệt hại, buộc khôi phục lại quyền, buộc công khai xin lỗi...) đã tạo ra cơ sở pháp lý khá thuận lợi cho các chớ thể kinh doanh và các công dãn báo vệ quyền lơi cớa mình khỏi sự xâm hại cớa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi hạn chế cạnh tranh (độc quyền).35

34. Điều 57 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chù nghĩa Việt Nam. 35. Điểu 2,4 và 5 Bộ Luật Dân sự 1995

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Cạnh tranh bất chấp pháp luật làm phương hại nghiêm trọng đến lợi ích cớa Nhà nước, lợi ích cớa người tiêu dùng, lợi ích công cộng và l ợi ích cớa các chớ thể kinh doanh bị Bộ luật Hình sự năm 1999 coi là các t ội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hành sự. Đó là các hành vi: sán xuất, buôn bán hàng giả (các điều 156,157, 158); đẩu cơ (điều 160); lừa dối khách hàng (điều 163); quáng cáo gian dối (điều 168); xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 172).

-34-

Khóa luận tốt nghiệp

Luật Báo chí năm 1990, Luật Thương mại năm 1997, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng 27 - 4 - 1999, Pháp lệnh Chất lượng hàng hoa 4 -7 - 2000, Nghị định 194 - CP ngày 31 - 12 - 1994 về hoạt động quảng cáo có đề cập một số hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo: đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, quảng cáo so sánh gây nhầm lẫn cho khách hàng, quảng cáo không trung thực, sai sự thật, gây thiệt hại đến lợi ích của người khác.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá được đề cập trong các văn bản pháp luật về giá và trong các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính trong một số linh vực. Các hành vi như lợi dụng thế độc quyền hoớc liên minh độc quyền, lợi dụng hoàn cảnh thiếu thốn và khó khăn đớc biệt để nâng giá, ép giá gây thiệt hại cho những người khác; bán phá giá; vi phạm nghĩa vụ niêm yết giá trong hoạt động thương mại, ngân hàng, khuyến mại; bán hàng hoa hoớc cung cấp dịch vụ cao hơn ( 7 0 %) hoớc thấp hơn ( 3 0 %) giá của hàng hoa dịch vụ khuyến mại trước thời gian khuyến mại; gian lận để nhận tiền trợ giá, trợ cấp vận chuyển hàng hoa...đã được đề cập trong Quyết định số 137-HĐBT ngày 27 - 4 - 1992 (điều 2), Luật Thương mại (các điều 8,9), Nghị định 01-CP ngày 3 - Ì - 1996 về xử phạm vi phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại (các điểu 8,9).

Nghị định 18 ngày 24 - 2 - 1997 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực ngán hàng (điều 14, khoản Ì); Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ngày 27 - 4 - 1999 (điều 15) và Nghị định 44 ngày Ì - 9 - 2000 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá cả (điều 10 khoản Ì - 3, điều 11 khoản 3, điều 13 khoản Ì - 3).

Trong một số lĩnh vực như thị trường chứng khoán, sở hữu công nghiệp... chúng ta cũng đã có một sô quy định nhằm bào đảm cạnh tranh lành mạnh. Đó là các quy định cấm hoớc hạn chế hành vi bán khống chứng khoán, mua bán nội gián, thông tin sai sự thật, lũng đoạn thị trường (Nghị định 48 - CP ngày li -7 - 1998 về Chứng khoán và Thị trưởng chúng khoán). Nghị định 22 - CP ngày lo - 7 - 2000 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-35-

Khóa luận tốt nghiệp

khoán và thị trưởng chứng khoán xác định rõ hơn về các hành vi này: tạo ra cung cẩu hoặc giá giả tạo, mua bán giả tạo để thay đổi giá chứng khoán, sử dụng thông tin nội bộ để giao dịch, lũng đoạn giá chứng khoán nhằm chiếm ưu thế biểu quyết.

Nghị định 12 - CP ngày 6 - 3 - 1999 của Chính phủ có quy định một số cạnh tranh không lành mạnh: xác lập, thẹc hiện, hành vi có thể coi là hành vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, hạn chế hoặc thu hẹp phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của người khác, lợi dụng hoặc hạ thấp uy tín thương mại của cơ sở kinh doanh khác (điều 5, khoản 1); sử dụng những dấu hiệu gây nhầm lẫn hoặc lừa dối người tiêu dùng về xuất xứ hàng hoa dịch vụ (điều 6 khoản Ì, khoán 2).

Tóm l ạ i, những quy định về cạnh tranh không lành mạnh ở V i ệt Nam nằm rải rác và chưa đẩy đủ, không mang tính hệ thống. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng chúng gặp nhiều khó khăn. Có thể rút ra những nhận xét sau về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ớ V i ệt Nam trước 1/7/2005 như sau:

sang vận hành theo cơ chế thị Thứ nhất: Việc chuyển đổi nền kinh tế trường đã có sẹ tác động to lớn, làm thay đổi quan điểm và nhận thức trong việc xây đẹng hệ thống pháp luật phù họp với điểu kiện khách quan của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện khung pháp luật về kinh tế, làm cơ sở vũng chắc cho các quan hệ về kinh tế mới vận động và phát triển.

Việc điều chỉnh pháp luật đã biết lấy thị trường làm trung tâm và các quan hệ phát sinh xung quanh nó làm căn cứ, đối tượng để điều chỉnh. Các nguyên tắc và quy luật vận động của kinh tế thị trường được coi trọng.

Vấn đề cạnh tranh và độc quyền là vấn để mang tính quy luật, song hết sức phức tạp và nhạy cảm trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Bởi vậy, mặc dù đã có sẹ định hướng căn bàn của Đảng và Nhà nước, song việc điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này cũng còn đang ở giai đoạn

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-36-

Khóa luận tốt nghiệp

t h ăm d ò, t ừ ng b ướ c, p hù h ợp v ới sự v ận độ n g, phát t r i ển và ả nh h ưở ng c ủa nó t ới n ền k i nh t ế.

Thứ hai: X ét về b ản c h ấ t, các h à nh vi c ạ nh t r a nh k h ô ng lành m ạ n h, h ạn c hế c ạ nh t r a n h, tình t r ạ ng độc q u y ền t r o ng k i nh d o a nh c ũ ng là n h ữ ng h i ện tượng, h à nh vi vi p h ạm p h áp l u ật đã g ây ra h ậu q uá về n h i ều m ặt đối v ới t hụ trường và xã h ộ i. N h ằm b ảo vệ l ợi ích c h u ng c ũ ng n hư l ợi ích c ủa các c hủ thê t h am g ia thụ trường, b ảo đ ám m ôi trường k i nh d o a nh lành m ạ n h, t r ật tự và h i ệu q u ả, p h áp l u ật - v ới tư cách là c ô ng cụ h ữu h i ệu t r o ng t ay N hà n ước đã t h ực h i ện điều c h ỉ nh n h ữ ng h à nh vi n ày b ằ ng q uy p h ạm p h áp l u ật c ủa n h i ều n g à nh l u ậ t, trên n h i ều lĩnh v ực n hư q uy đụnh và b ảo đảm q u y ền tự do k i nh d o a nh c ủa các c hủ t hể k i nh d o a nh t h u ộc m ọi thành p h ần k i nh t ế, b ảo đ àm sự bình đẳ ng trước p h áp l u ật g i ữa họ t r o ng h o ạt độ ng s ản x u ất k i nh d o a n h, b ảo hộ q u y ền sở h ữu tài s ản và t hu n h ập h ợp pháp, b ảo hộ q u y ền sở h ữu c ô ng n g h i ệ p, q uy đụnh các n g u y ên t ắc cơ b ản đ âm b ảo v i ệc tự do k hế ước, tự do h ợp đồ ng t h eo k h u ôn k hổ p h áp l u ậ t, b ảo đảm n g u y ên t ắc c ạ nh t r a nh t r o ng thương m ại và x úc t i ến thương m ạ i, q u ản lý và k i ếm soát giá cả, c h ố ng các h à nh vi l àm h à ng già, b u ôn b án h à ng g i ả, k i nh d o a nh trái phép, l ừa d ối k h á ch hàng, n g h i êm c ấm các h à nh vi c ạ nh t r a nh b ất h ợp p h áp t r o ng thương m ạ i, các h à nh vi h ạn c hế c ạ nh t r a nh t r o ng v i ệc t h ực h i ện q u y ền sở h ữu c ô ng n g h i ệ p, c h u y ển g i ao c ô ng n g h ệ, đấu t h ầ u, k i nh d o a nh c h ứ ng khoán...

li. GIÓI THIỆU VỀ LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM NĂM 2004

1. Sự cần thiết ban hành L u ật Cạnh tranh Việt Nam n ăm 2004

L u ật C ạ nh t r a nh đ ược h i ểu là "tổng hợp các quy phạm pháp luật áp dụng đối với các tác nhân kinh tế trong hoạt động cạnh tranh nhằm đâm bảo cho cạnh tranh diễn ra một cách hợp lý, tức là không thái quá"36.

36. Giáo su Yves SERRA. Giám dốc Trung tâm Nghiên cứu Luật Cạnh tranh và bào vệ người tiêu dùng. khoa luật Đại học Montpellier ì.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

L u ật C ạ nh t r a nh ra đời k hi và c hỉ k hi có cơ sở k i nh t ế - xã h ội c ho nó t ồn t ạ i, đó chính là n ền k i nh tế thụ t r ườ ng v ới n g u y ên t ắc n ền t ả ng là tự do

Khóa luận tốt nghiệp

-37-

khế ước, tự do kinh doanh. N hư trên đã nói, Luật Cạnh tranh thực chất là tổng hợp các biện pháp tác động ngược trở lại các quyền tự do này bằng cách xác định những hành vi mà các chủ thế kinh doanh không được phép làm. Ngoài "danh mục" những hành vi đó, thì các doanh nghiệp được tự do thực hiện. Nói cách khác, Luật Cạnh tranh chính là các biện pháp mà nhà nước sử dụng đừ điều tiết, đảm bảo cho cạnh tranh không diễn ra một cách nguyên thúy, vô chính phủ 3 7.

Từ cuối những năm 1980, khi Nhà nước t hi hành hàng loạt các chính sách xóa bỏ bao cấp thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bắt đầu diễn ra gay gắt. Chính phủ đã rất quan tâm đến việc nghiên cứu môi trường cạnh tranh trong nước đừ tìm ra các giải pháp khắc phục những khuyết tật vốn có của cơ chế thị trường. Hàng loạt nghiên cứu về môi trường cạnh tranh ớ Việt Nam đã được thực hiện, trong đó có thừ kừ đến các nghiên cứu của Viện nghiên cứu khoa học thị trường - giá cả (năm 1996). Việc nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (năm 2000 và năm 2002), Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (năm 2001)... Trên cơ sở các nghiên cứu đó, ta thấy về cơ bản có ba yếu tố tác động đến việc phải xây dựng Luật Cạnh tranh ớ nước ta bao gồm :

Thứ nhất, nhu cầu điếu tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đóm Luật Cạnh tranh là một trong những Luật có vai trò quan trọng nhất.

37. ThS. Nguyễn Hữu Huân. Những vẩn đề lý luận cơ bán về cạnh tranh và dộc quyền.

Nguy n Hóng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Nước ta đã thực hiện đường l ối đổi mới, chuyừn đổi nền kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội IX của Đảng đã gọi khái quát là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cạnh tranh không diễn ra trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nhưng lại là yếu tố quan trọng trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, là động lực phát triừn kinh tế.

Khóa luận tốt nghiệp

-38-

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh và phát triển của kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, đặt cơ sở cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc m ọi hình thợc sở hữu ở V i ệt Nam. Từ đó đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ Luật dân sự, Luật đẩu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật thương mại, Luật các tổ chợc tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm... đã góp phần tạo ra khung pháp lý cần thiết cho việc thực hiện các quyền đó của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cũng từ khi cạnh tranh được thừa nhận, các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp đã xuất hiện, đe dọa quyền kinh doanh, gây ra các hậu quả xấu cho môi trường kinh doanh, cho doanh nghiệp làm ăn chân chính và cho người tiêu dùng. Trong k hi đó, quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động cạnh tranh đã không đủ các chế định để quản lý hoạt động cạnh tranh tinh v i, phợc tạp của các doanh nghiệp trên thị trường, cụ thể là ở những trường hợp sau:

- Chưa có một văn bẳn quy phạm pháp luật nào điều chinh các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, thông đồng, cấu kết làm phương hại đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Bước đầu ở nước ta, đã có hiện tượng các đối thủ cạnh tranh thỏa thuận ngăn cản không cho doanh nghiệp khác tham gia kinh doanh, mở rộng hoạt động, ợng dụng công nghệ mới, ấn định sản lượng, tẩy chay không cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá một số mặt hàng như đồ điện tử, nông sản... bị thao túng và không chế vào một vài thời điểm bởi một số nhà kinh doanh liên kết với nhau.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- Các hành vi lạm dụng ưu thế của các doanh nghiệp chi phối thị trường đang diễn ra mà chưa được quản lý bằng pháp luật. Ví dụ: các doanh nghiệp độc quyền mua thì ấn định giá mua thấp (như thu mua nông sản của nông dân), độc quyền bán thì bán giá cao hay kìm giũ' giá để thu lợi nhuận

Khóa luận tốt nghiệp

-39-

siêu ngạch hoặc ấn định giá bán thấp hơn giá vốn để loại trừ đối thủ cạnh tranh. Tinh trạng áp đặt các điều kiện ràng buộc bất hợp lý trong kinh doanh như ép mua, ép bán, mua kèm, bán kèm những sản phẩm, dịch vụ không cẩn thiết chủ yếu diễn ra giữa các nhà máy chế biến, công ty thu mua vậi nông dân đã được báo chí lên tiếng nhiều lần nhưng không xử lý được.

Chính vì vậy các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh rất cần được điều tiết bậi các quy định pháp luật. Trên thế giậi, tính tậi năm 2003, đã có hơn 82 nưậc và vùng lãnh thổ có luật điều tiết họat động cạnh tranh và kiểm soát độc quyền (theo thống kê của H ội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển "UNCTAD" 3 8.

Thứ hai, nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt khi mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế.

Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tổn tại bằng cách nào cũng thường gây ra những hậu quả tiêu cực nhất định đối vậi nền kinh tế quốc dân. Độc quyển trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc

quyền, giá cả lũng đoạn cao, làm ảnh hưởng đến lợi ích tiêu dùng. Ớ hầu hết các nưậc đều tổn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền Nhà nưậc.

ở nưậc ta vậi xuất phát điểm của trình độ kinh tế còn thấp và một số đặc điểm riêng của tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian t ậ i, sẽ vẫn còn một số ngành và lĩnh vực tổn tại độc quyền Nhà nưậc. Tuy nhiên, thông qua các quy định của Luật Cạnh tranh, Nhà nưậc sẽ có cơ chế kiểm soát nhằm hạn chế hiện tượng cửa quyền, lũng đoạn, lạm dụng vị trí độc quyền đế tránh gây hậu quả xấu cho xã hội.

38. United Nations Coníerence ôn Trađe and Developmenl (UNCTAD): Transnational Corporations. Market Structure and Competition, 1997.

Nguyễn Hông Hạnh - A4 K40B - QTKD

Bên cạnh đó, cùng vậi quá trình mở cửa thị trường thông qua việc ký kết và gia nhập các điều ưậc thương mại song phương và đa phương, đã và sẽ xuất hiện những công ty đa quốc gia hoạt động ở V i ệt Nam. Những công ty này, vậi tiềm lực mạnh về kinh tế của mình, có khả năng tạo lập

Khóa luận tốt nghiệp

-40-

được vị thế độc quyền và trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp nội địa V i ệt Nam với tiềm năng hạn chế đứng trước nguy cơ đang bị loại bỏ dẩn khói đời sống kinh tế. Tình trạng loại bỏ đối thủ để chiếm đoạt thị trường, thiết lập vị thế độc quyền diễn ra ặ mức độ nghiêm trọng như: có nhũng công ty đem hàng trăm tấn sản phẩm để biếu không hoặc bán phá giá làm cho không một doanh nghiệp trong nước nào có đủ tiềm lực kinh tế để duy trì hoạt động sản xuất bình thường. Do đó, việc chuẩn bị các cơ sặ pháp lý để kiểm soát độc quyền trong kinh doanh là điều cẩn thiết.

Thứ ba, yêu cầu tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng.

Mặc dù, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật, nhưng trong thực tế sự tuân thủ quy định này còn có nhiều hạn chế. Do tàn dư của lối tư duy cũ và nhiều nguyên nhân khác, nên tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khu vực tư nhân diễn ra khá phổ biến ờ một số lĩnh vực và một số nơi. Bên cạnh đó, so quyền lợi địa phương, cục bộ, một số cơ quan nhà nước, bằng các mệnh lệnh hành chính của mình, gián tiếp can thiệp vào hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp, tạo lợi thế cho một hay một số doanh nghiệp vẫn đang diễn ra. Tinh .trạng đó làm xuất hiện những rào cản thương mại ngay trên chính thị trường nội địa theo cách "chỉ được mua xi măng của tỉnh nhà trong xây dựng", hay gần đây là việc sặ Giáo dục của một tỉnh yêu cẩu các trường phổ thông trên địa bàn chỉ được mua bút bi của một danh nghiệp, làm mất cơ hội cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp khác, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Với tình hình cạnh tranh không lành mạnh diễn ra tràn lan, dưới mọi hình thức như ặ Việt Nam thì việc ban hành Luật Cạnh tranh đế trực tiếp điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền là hết sức cần thiết. Thị trường cạnh tranh Việt Nam hiện nay giống như một sân

-41 -

Khóa luận tốt nghiệp

chơi không có trọng tài, mà nếu có trọng tài đi nữa thì cũng không có quy định nào để xử lý vi phạm. Thực tế cho thấy, dù pháp luật có hay không có quy định điểu chỉnh thì cạnh tranh vẫn tổn tại với cả hai mặt tích cực và tiêu hứng chịu, khắc phục hậu quả cực vốn có cắa nó. Giờ đây, chúng ta đang phải cắa do hành vi cạnh tranh không lành mạnh đem l ạ i. Cạnh tranh không lành mạnh như là một "căn bệnh nan y" cắa thị trường vốn không thể chữa khỏi nhưng có thể kiểm soát và hạn chế được thấp nhất các hậu quả xấu có thể xảy thực tế đòi hỏi chúng ta phải có một đạo Luật ra. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết Cạnh tranh kịp thời điểu chỉnh và định hướng sự phát triển lành mạnh cắa thị trường.

C ù ng với những đòi h ỏi cắa thực t i ễn thị trường V i ệt Nam, việc V i ệt Nam đ a ng nỗ lực h ội nhập h ội nhập vào đời sống kinh tế - quốc tế cũng đặt ra những thử thách và yêu cẩu cấp bách cho việc cần phải xây dựng c hế định pháp Luật Cạnh tranh trong hệ thống pháp luật kinh tế cắa V i ệt Nam. Hơn nữa, hầu hết các nước trên t hế giới đều đã ban hành Luật Cạnh tranh và kinh nghiệm các nước cho thấy đây là một biện p h áp hữu hiệu để duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát huy mặt tích cực triển cắa nền kinh tế. cắa cạnh tranh trở thành động lực thúc đẩy sự phát

2. Co câu Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004

Luật Cạnh tranh cắa Việt Nam mới được Quốc hội nước ta thông qua ngày 9/11/2004 có hiệu lực từ ngày 1/7/2005, tức là ban hành sau Luật Cạnh tranh cắa Canada, hay đạo luật Sherman về chống độc quyền cắa Mỹ hơn một thế kỷ. Nhìn chung, mục tiêu cắa việc ban hành đạo luật này ớ Việt Nam Cạnh tranh ớ các tương đồng với mục tiêu phổ biến cắa việc ban hành Luật nước khác.

Theo ban soạn thảo Luật Cạnh tranh Việt Nam, việc ban hành đạo luật này nhằm đạt 5 mục tiêu sau:

- Tạo lập và thúc đẩy các cơ h ội bình đẳng và không phân biệt đối xử trong cạnh tranh cắa các tổ chức, cá nhân kinh doanh;

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-42-

Khóa luận tốt nghiệp

- Bảo Vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh;

- Ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi hạn chế cạnh tranh trên thị trường;

- Bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của các chủ thẻ kinh doanh và của người tiêu dùng;

- Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội

Để hiểu rõ hơn về Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 chúng ta sẽ tìm hiểu một số vữn để cơ bẳn của Luật. Đó là:

(ì) Kết cấu của Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004

Luật Cạnh tranh gồm 6 chương, 123 điều; Chương ì: Những quy định chung (từ Điều Ì đến Điều 7); Chương li: Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh (từ Điều 8 đến Điều 38); Chương n i: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (từ Điều 39 đến Điều 48); Chương IV: Cơ quan quản lý cạnh tranh, hội đồng cạnh tranh (từ Điều 49 đến Điều 55); Chương V: Điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh (từ Điều 56 đến Điều 121); Chương V I: Điều khoăn thi hành (từ Điều 122 đến Điều 123).

(2) Phạm vi điều chỉnh cùa Luật Cạnh tranh

Phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh Việt nam được quy định ngay tại điều đầu tiên của Luật như sau: "Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự thù tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp Luật Cạnh tranh"

39. Xem khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh nám 2004.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi làm giám, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm các nhóm hành vi: thoa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế 3 9. Việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định cụ thê trong chương li của Luật Cạnh tranh từ Điểu 8 đến Điều 38.

Khóa luận tốt nghiệp

-43-

Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và l ợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng40. Theo điều 39 Luật Cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:

- Chỉ dãn gây nhẩm lản

- X âm phạm bí mật kinh doanh

- Ép buộc trong kinh doanh

- Gièm pha doanh nghiệp khác

- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

- Phân biệt đối xử của hiệp hội

- Bán hàng đa cấp bất chính

- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác do Chính phủ quy định theo tiêu chí xác định tại khoản 4 điều 3 của Luật này41.

Thủ tục tố tụng cạnh tranh, xử lý vi phạm pháp Luật Cạnh tranh được quy định trong chương V từ điều 56 đến điều 121. Luật Cạnh tranh Việt nam xác định rõ phạm vi áp dụng theo lãnh thổ là chỉ áp dụng Luật này đối với các hành vi gãy cản trở cạnh tranh thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.

(ĩ) Đòi tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh

Theo Điểu 2 Luật Cạnh tranh (2004) của Việt Nam, các chủ thể áp dụng của Luật này bao gồm:

40. Xem khoán 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 41. C ác h à nh vi c ạ nh t r a nh k h ô ng lành m ạ nh bị c ấm đ ược q uy đị nh cụ t hể từ đ iểu 40 đến đ iều 48 c ủa L u ật C ạ nh t r a nh

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-44-

Thứnhất, tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành thuộc độc quyền của Nhà nước

Như vậy, Luật Cạnh tranh của Việt Nam áp dụng đối với tất cả các chủ thể kinh doanh bao gồm:

- Doanh nghiệp nhà nước đưừc thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003;

- Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hừp danh (CTHD), doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đưừc thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp ngày 12/6/1999;

- Công ty cổ phần đưừc thành lập từ việc cổ phần hoa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị- xã hội;

- Công ty T N HH đưừc chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị- xã hội;

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đưừc thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài ngày 12/11/1996 sửa đổi năm 2000.

- Công ty Luật hừp danh đưừc thành lập theo quy định của Pháp lệnh luật sư ngày 25/7/2001;

- Doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm;

- Tổ chức tín dụng, công ty cho thuê tài chính;

- Hừp tác xã, Liên hiệp hừp tác xã;

- Hộ kinh doanh cá thế;

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích, doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực thuộc độc về quyền nhà nước, doanh nghiệp phục vụ quốc phòng an ninh khi các doanh nghiệp tham

Khóa luận tốt nghiệp

-45-

gia vào hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận hoặc khi các doanh nghiệp này lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Thứ hai, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam

Đó là cấc doanh nghiệp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp giấy phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại V i ệt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.

Thứ ba, hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt nam

Các hiệp hội ngành nghề này bao gồm: hiệp hội ngành nghề Việt Nam và hiệp hội ngành nghề nước ngoài được phép hoạt động tại V i ệt Nam. Các hiệp hội này là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, hoạt động theo điều lệ được Bộ N ội vụ phê duyệtnhưng trên thằc tế, nhiều hiệp hội có những thoa thuận và những thoa thuận đó vi phạm nguyên tắc cạnh tranh công bằng, làm mất đi mục tiêu của Luật Cạnh tranh. Do đó để tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, hiệp hội được xác định là đối tượng áp dụng của Luật canh tranh.

Điều 2 Luật Cạnh tranh quy định 3 loại chủ thể trên là đối tượng áp dụng của Luật, tuy nhiên chúng ta cần lưu ý quy định tại điều 6 về các hành vi bị cấm đối với cơ quan quản lý nhà nước.

Theo điều 6 Luật Cạnh tranh, cơ quan quản lý nhà nước không được thằc hiện những hành vi sau để gây cản trở cạnh tranh trên thị trường:

- Buộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải mua bán hàng hoa, dịch vụ với doanh nghiệp được cơ quan này chỉ định, trừ những hàng hoa, dịch vụ thuộc phạm vi độc quyền của nhà nước theo quy định của pháp luật.

- Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- Ép buộc các hiệp hội ngành nghề hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm loại trừ, hạn chế, cản trớ các doanh nghiệp khác cạnh tranh trên thị trường.

Khóa luận tốt nghiệp

- Các hành vi khác cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh

nghiệp.

Ngoài ra tại một số điều trong các chương tập trung kinh tế, thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ đặc biệt là chương về điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh đã quy đỘnh rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý cạnh tranh trong

việc thực thi nhiệm vụ trung thực, khách quan nhằm đảm bảo tính minh bạch

và môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.

IM. PHÂN TÍCH MỘT số QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM N ĂM 2004

Một trong nhũng điểm đặc trưng của Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 là đạo luật này điều chỉnh hầu như toàn diện các hành vi có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh. Cụ thể, đạo luật này điều chỉnh cả các hành vi hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vỘ trí thông lĩnh, tập trung kinh tế gây hạn chế cạnh tranh) và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật này được quy đỘnh là

bất cứ hành vi cạnh tranh nào của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh mà "trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng" (Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh).

Có thể nói, nếu so với cách đỘnh nghĩa trong Điều lObis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đỘnh nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh kể trên trong Luật Cạnh tranh Việt Nam bao quát và rộng hơn. Điều lObis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chỉ đề cập tới các hành vi "không trung thực trong hoạt động thương mại và công nghiệp" trong

khi đó Luật Cạnh tranh lại quy đỘnh bao gồm bất cứ hành vi nào "trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh", điều này có nghĩa sẽ bao gồm cả hành vi "không trung thực" và hành vi "trung thực" nhưng trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-46-

-47- Khóa luận tốt nghiệp

Với định nghĩa bao quát như vậy, Luật Cạnh tranh Việt Nam không bó hẹp việc cấm đoán các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác.

Cụ thể, theo quy định của Điều 39 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật này được hiểu gửm 10 loại hành vi sau:

1. Chỉ dẫn thương m ại gây nhám lẫn

Trong hoạt động kinh doanh, các chỉ dẫn thương mại, bao gửm chỉ dẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, kiểu dáng bao bì, chỉ dẫn địa lý... được doanh nghiệp sử dụng có ý nghĩa thông tin cho khách hàng về hàng hóa và dịch vụ. Những chỉ dẫn thương mại rõ ràng, dạt được sự tin cậy sẽ tác động tới quyết định mua sắm của khách hàng. Luật Cạnh tranh nghiêm cấm doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn thương mại làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa dịch vụ nhầm mục đích cạnh tranh (điều 40 Luật Cạnh tranh). Để tạo ra nhận thức sai lệch của khách hàng, chỉ dẫn thương mại được sử dụng có thể là giả mạo chỉ dẫn thương mại của thương nhân khác hoặc là những chỉ dẫn thương mại có khả năng gây nhâm lẫn với hàng hóa, dịch vụ với thương nhân khác. Như vậy, việc sử dụng những chỉ dẫn thương mại gây nhẩm lẫn không chỉ xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng mà còn có thể xâm hại đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh.

Để làm rõ thế nào là chỉ dẫn gây nhầm lẫn, chúng la có thể nghiên cứu khái niệm chỉ đẫn thương mại theo một số văn bản luật của Việt Nam. Theo Điều 4, Nghị định về bảo hộ quyển sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh liên quan tới sở hữu công nghiệp, "Chỉ dẫn thương mại" là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoa, dịch vụ, gửm nhãn hiệu hàng hoa, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoa, nhãn hàng hoa... Và việc "Sử dụng chỉ dẫn thương mại" là các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoa, bao bì hàng hoa,

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-48-

Khóa luận tốt nghiệp

phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoa có gắn chỉ dẫn thương mại đó.

Theo điều 40 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004: "Cấm doanh nghiệp sử dụng chì dẫn chứa đống thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dân địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh" và "Cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn quy định tại khoản Ì Điều 40".

Có thể thấy việc liệt kẻ một số loại thông tin gây nhầm lân mà doanh nghiệp có thế đưa ra như trên là còn hạn chế. "Các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ" chúng ta có thể tham khảo ở văn bản nào để áp dụng khi có tranh chấp liên quan đến hành vi này. Có thể coi đây là một điểm mở của Luật, cho phép mở rộng chì dẫn trong trường hợp phát sinh thêm những loại chỉ dẫn mới và đổng thời trong quá trình thốc thi có thể kết hợp Luật và một số văn bản pháp luật khác.

2. X âm phạm bí mật kinh doanh

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Để cạnh tranh, doanh nghiệp nào cũng có những thông tin được lưu giữ và coi đó là "bí mật kinh doanh". Luật Cạnh tranh quy định: Bí mật kinh doanh là những thông tin có đủ các điểu kiện sau đây: (a) không phải là những hiếu biết thông thường, (b) có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không có năm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó, (c) được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết đế thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được (Khoản 10, điểu 3 Luật Cạnh tranh). Như vậy, khái niệm bí quyết kinh doanh có nội hàm khá rộng và không chỉ là những đối tượng của sỏ hữu công nghiệp. Những thông tin nhạy cảm về thị trường, danh sách đại diện hay khách hàng của các doanh nghiệp, hổ sơ dố thầu, bản thiết kế máy... đều có thể là những tài liệu riêng được lưu giữ với chế độ bảo mật.

Khóa luận tốt nghiệp

-49-

Theo điều 41 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 "cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:

- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;

- Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh;

- Vi phạm hợp địng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng Ún của người có nghĩa vụ bảo mại nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông Ún thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;

- Tiếp cận, thu thập thòng tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thù tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm."

Vấn đề xâm phạm bí mật kinh doanh đã được quy định cu thể trong nhiều văn bản luật Việt Nam. Luật Cạnh tranh đề cập đến hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh như là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh với các chế tài xử lý hành chính, trong khi đó Luật sở hữu trí tuệ bảo hộ bí mật kinh doanh dưới góc độ là một đối tượng độc lập của quyền sở hữu trí tuệ, xử lý vi phạm theo chế tài dân sự, đặc biệt là quyền yêu cầu bịi thường thiệt hẹ; như Hiệp định TRIPS và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ quy định. Cách quy định về hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh như trên của Luật Cạnh tranh đã khá hợp lý, tuy nhiên về khái niệm "bí mật kinh doanh" thì vẫn còn khá chung chung.

3. Ép buộc trong kinh doanh

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Trong cơ chế thị trường, mọi khách hàng đều được tự do định đoạt trong môi trường cùa các chào hàng cạnh tranh. Doanh nghiệp bị coi là có xử sự không lành mạnh khi họ dịn khách hàng vào tình thế bắt buộc phải mua

-50-

Khóa luận tối nghiệp

hoặc không được phép mua hàng hóa mà không có cách lựa chọn nào khác. Đây thực chất là những hành vi ép buộc trong kinh doanh. Theo quy định hiện hàng, các hành vi ép buộc, đe dọa khách hàng và đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh để bắt họ không được giao dịch hoặc ngừng giao dịch với đối thủ cạnh tranh được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị pháp luảt nghiêm cấm.

Theo điều 42 Luảt Cạnh tranh Việt Nam năm 2004: "Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi de dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó."

Tham khảo quy định của Luảt Cạnh tranh Bungary, điều 34 quy định:

1. Cấm tiến hành cạnh tranh không lành mạnh nhằm mục đích thu hút khách hàng mà dẫn đến việc chấm đút hoặc vi phạm các hợp đồng ký kết giữa khách hàng với đối thủ cạnh tranh.

2. Cấm sử dụng sự ép buộc hoặc các cách thức bất hợp pháp khác để gây ảnh hưởng tới người bán, nhằm khiến họ không bán sản phẩm hoặc từ chối cung cấp dịch vụ cho một số nhà sản xuất nhất định.

3. Cấm sử dụng sự ép buộc hoặc các cách thức bất hợp pháp khác để gây ảnh hưởng tới khách hàng nhằm mục đích khiến họ phải mua, ngừng mua hoặc sử dụng một loại hình sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thế nào đó.

Luảt Cạnh tranh Việt Nam chỉ đưa ra một quy định chung về hành vi cưỡng ép đối với khách hàng, đại lý hay người phân phối. Tuy nhiên, theo quy định của Điều này, pháp luảt chỉ cấm nhũng hành vi "đe dọa và cưỡng é p" của doanh nghiệp đối với khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác. Như vảy, trường hợp một doanh nghiệp ký hợp đồng với nhà phân phối trong đó thỏa thuản nhà phân phối chỉ cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp này và do đó, được hưởng một số lợi ích nhất định thì có vi phạm luảt không? Có thể thấy là nhũng quy định của Luảt vẫn chưa bao quát được hết các trường hợp trong thực tế.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-51 -

4. Gièm pha doanh nghiệp khác

Khóa luận tốt nghiệp

Theo điều 43 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004: "Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó."

Việc đưa thông tin thất thiệt về người khác là điều không thế loại bỏ trong cuộc sống đời thường. Pháp luật không chỉ có những quy đổnh bảo vệ nhân phẩm, danh dự cho mọi cá nhân mà còn bảo vệ uy tín, danh dự của các tổ chức, đặc biệt là với các đối tượng là doanh nghiệp, bởi hậu quả của nó có thể là những thiệt hại vật chất rất lớn. M ọi hành vi trực tiếp hay gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác được đổnh danh là hành vi "gièm pha thương nhân khác".

Pháp Luật Cạnh tranh chỉ cấm đoán và tác động đến những hành vi gièm pha, bôi nhọ doanh nghiệp khác khi hành vi đó được thực hiện bởi đối thủ cạnh tranh. Việc doanh nghiệp sử dụng báo chí như là một công cụ để thực hiện thủ đoạn bôi nhọ, lăng mạ, hạ thấp uy tín kinh doanh của đối ihú cạnh tranh là một ví dụ về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở dạng này. Tuy nhiên, nếu một nhà báo (không phải là hành vi của đối thủ cạnh tranh) tự mình cho đăng tải những thông tin "nóng h ổ i" nhưng sai sự thật, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự của một doanh nghiệp nào đó thì chỉ thuộc khuôn khổ điều chỉnh của Luật Dân sự hay Luật Hình sự mà thôi. Ngoài ra, hành vi gièm pha, bôi nhọ thường nhằm vào doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trong cùng một thổ trường hàng hóa dổch vụ và thường liên quan đến các vấn đề như năng lực kinh tế - tài chính, lực lượng lao động hoặc người quản lý điều hành doanh nghiệp...

Có thể thấy quy đổnh về hành vi gièm pha doanh nghiệp khác theo Luật Cạnh tranh Việt Nam rõ ràng và ngắn gọn nhưng để hiểu chính xác "gièm pha" như thế nào để áp đụng trong thực tế thì rất khó. Quy đổnh này lại thuộc

Nguyên Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-52- Khóa luận tốt nghiệp

vào hàng định tính, không thuộc về định lượng thì không ai hiểu chính xác và thực thi được. Chúng ta thường thấy những kiểu quy định tương tự như thế này trong các văn bản pháp luật, vì công chức của chúng ta ở các cấp đã quen nói chung chung, không cụ thể (mót phần là do thiếu hiếu biết), thường hô hào. luôn đưa ra mục tiêu thay thế cho các biện pháp giải quyết cụ thể.

Hành vi gièm pha, bôi nhử, nói xấu doanh nghiệp khác cũng khá phổ biến ở Việt Nam, tuy nhiên, gần đây, việc kiểm soát và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh được tiến hành có hiệu quả hơn nên các doanh nghiệp không sử dụng hành vi gièm pha doanh nghiệp khác một cách trực tiếp và lộ liễu như vậy nữa. Có thể đưa ra một vài ví dụ như trường hợp nước khoáng Waterman gửi cho tất cả các đại lý và khách hàng một bản kết quả giám định so sánh hàm lượng chất khoáng trong nước khoáng Waterman và La Vie. Theo bân giảm định này thì nước khoáng Waterman có ưu điểm hơn hẳn La Vie. La Vie khởi kiện yêu cầu Walerman chấm dúi ngay hành vi canh tranh trên, với lý do không được cạnh tranh so sánh và bản kết quả giám định không có độ tin cậy. Vậy thì vụ việc này sẽ được giải quyết như thế nào theo Luật Cạnh tranh Việt Nam?

5. Gáy r ối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Điều 44 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 quy định: "Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cân trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó."

Các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác được gửi là hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Cũng như các loại hành vi trên đây, chỉ khi hoạt động gây cản trở, gián đoạn hoạt động kinh doanh do doanh nghiệp thực hiện (kể cả gián tiếp) đối với đối thủ cạnh tranh của mình mới được coi là biểu hiện của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi gây nhiễu hệ thống thông tin liên lạc, làm trục trặc nguồn điện năng phục vụ sản xuất kinh doanh,

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-53- Khóa luận tốt nghiệp

6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

thiết kế, sắp đặt các chướng ngại vật, nguồn gãy ô nhiễm... tại địa điếm, cơ sở kinh doanh của đối thủ cạnh tranh đều có thể trở thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở dạng biểu hiện này.

Quảng cáo, đưa tin không trung thực về mợi dữ liệu liên quan đến hàng hoa và phương thức, điều kiện thương mại là hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính "kinh điển". Trung thực trong kinh doanh được coi là nguyên tắc cơ bản và quan trợng nhất mà pháp Luật Cạnh tranh cần khuyến khích và bảo vệ. Việc quảng cáo, đưa tin dối trá về sản phẩm, hàng hoa... gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh và quảng cáo hay đưa tin man trá nhằm lừa dối khách hàng.

Trong lĩnh vực này, pháp luật quan tâm đến việc xác định khái niệm "dữ liệu". Dữ liệu về sản phẩm, hàng hoa được hiểu ở đây là mợi hình thức mò tả về hàng hoa và những điều kiện bán hàng, tồn tại dưới dạng hình ảnh, chữ viết hay các hình hình thức khác. Điều đáng lưu ý là, những dữ liệu này phải có khả năng được kiểm định, nghĩa là, bằng những biện pháp khác nhau, người ta có thẩm định được rằng, dữ liệu được đưa ra là đúng hay sai sự thật. Những kiểu quảng cáo như "dầu nhờn tốt nhất", "sản phẩm duy nhất"... đều được coi là những dữ liệu có thổ kiểm chứng được và trong trường hợp này, nói chung, được coi là không lành mạnh. Những dữ liệu về nghe, nhìn... nhằm mô tả hàng hoa, sản phẩm phải tạo cho khách hàng có ngay ấn tượng từ Thững tiếp xúc lẩn đầu. Pháp luật quan niệm như vậy vì cho rằng, khách hàng là những người không thể thông thạo về sản phẩm nên hợ đễ nhầm lẫn ngay từ khi tiếp xúc lần đầu, bởi vì ngay lúc đó cơ hội bán hàng đã xuất hiện.

Việc đưa tin về một sản phẩm nào đó có thể bao gồm nhiều dữ liệu. Sẽ là đủ để coi là quảng cáo sai lệch khi chỉ cần một hoặc thậm chí một phần của một dữ liệu là không thật. Cũng được coi là quảng cáo sai lệch khi một hoặc nhiều dữ liệu, khi được đưa ra, có thể có nhiều nghĩa và vì thế, từng khách hàng có thể nhầm lẫn khác nhau. Điều này, người đưa quảng cáo hay dữ kiện buộc phải tính đến khi hợ vô tình hay cố ý đưa một dữ kiện có nhiều nghĩa.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-54-

Khóa luận tốt nghiệp

Quảng cáo để giới thiệu, khuyếch trương về hàng hóa, dịch vụ của mình là quyền hợp pháp của doanh nghiệp. V ới bản chất là một quá trình thông tin có ý nghĩa lớn trong định hướng hành vi mua sắm và sử dụng dịch vụ của khách hàng, quảng cáo là phương pháp quan trọng giúp doanh nghiệp cạnh tranh, giành thị phần cho mình trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. Nhốm đạt được mục tiêu này ở mức độ tối ưu, doanh nghiệp có thể thực hiện quảng cáo không trung thực như khẳng định mình bống việc so sánh với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác, sử dụng sản phẩm quảng cáo hoặc những thông tin có thể gây nhẩm lẫn cho khách hàng để lôi kéo khách hàng... Những hoạt động quảng cáo như thế đểu được thực hiện với mục đích cạnh tranh không lành mạnh, cụ thể bao gồm những biểu hiện sau đây:

- So sánh hàng hóa của mình vói hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, có nhiều mức độ, cách thức khác nhau khi quảng cáo so sánh: so sánh trực tiếp với hàng hóa dịch vụ cùng loại của thương nhân khác để khẳng định mình và phủ nhận họ, so sánh không nhốm trực tiếp vào hàng hóa dịch vụ của thương nhân nào nhưng khẳng định sản phẩm của mình "có chất lượng tốt nhất"... Xét về hiệu quả tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng, cần phải coi cả hai loại quảng cáo so sánh này là biểu hiện của cạnh tranh không lành mạnh.

- Bắt chước sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.

- Đưa ra những thông tin gian dối hoặc gây nhâm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung: Giá cả, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công, cách thức sử dụng, thời hạn bảo hành....

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Theo điều 45 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004: "Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động quảng cáo sau đây:

Khóa luận tốt nghiệp

-55-

1. So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác;

hàng;

2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách

3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây:

a) Giá, số lưứng, chất lưứng, công đụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công;

b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;

c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.

4. Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm."

Như trên đã nhận xét, thì việc quy định riêng một Điều khoản về quảng cáo theo Luật Cạnh tranh Việt Nam thì cũng khá rõ ràng nhưng nội dung của quy định này có sự trùng lặp với Điều 40 Chỉ dẫn gãy nhầm lẫn. Khoản 3 Điểu này lại quy định lại vê việc đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng. Thêm vào đó, tại khoán 4 có quy định "các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm". Vậy thì những hoạt động quảng cáo nào là bị cấm? Nhiều doanh đang băn khoăn trước thông tin rằng quảng cáo so sánh có thể bị phạt 25 triệu đồng trong khi đa số quảng cáo đều dẫn đến so sánh. Nhưng trước mắt, Cục Quản lý cạnh tranh chỉ xử lý các hành vi so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác. Có thể hiểu so sánh trực tiếp là việc dùng lời nói, hình ảnh trong quảng cáo khiến người tiêu dùng ngay lập tức nhận ra đối tưứng mà quảng cáo đang so sánh là sản phẩm gì, của doanh nghiệp nào.42

42. Theo bà Đinh Thị Mỹ Loan - Cục trường cục quản lý cạnh tranh. Bộ Thương mại, "Quàng cáo so sánh sẽ bị phạt?", Vnexpress! cập nhật 18h 28". ngay 29/06/2005.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Theo Luật Cạnh tranh Bungary, hành vi quảng cáo đưức đưa vào nội dung của quy định về Chỉ dẫn gây nhầm lẫn và phá hoại danh tiếng uy tín của

- 56-

Khóa luận tốt nghiệp

đối thủ cạnh tranh. Quảng cáo ở đây chỉ có vai trò là phương tiện hay cách thức để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.

7. Khuyên mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, thì hành vi quàng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến và dưới nhiều cách thức tinh vi. Do đó, việc quy định riêng một Điều khoản về hành vi này là hặp lý.

Theo điều 46 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004: "Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại sau đây:

1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;

2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng;

3. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa hàn tổ chức khuyến mại khách nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;

4. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình;

5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm."

Luật Thương mại Việt Nam quy định khuyến mại là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lặi ích nhất định. Tùy thuộc vào mục tiêu của đặi khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh và phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường và điều kiện kinh phí dành cho đặi khuyến mại, lặi ích mà khách hàng đưặc nhận có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá, đưặc hứa tặng giải thưởng... Bị tác động bởi những lặi ích đưặc hưởng đó, khách hàng nhiều khi không cần quan tâm đến hàng hóa của các doanh nghiệp khác, thậm chí không quan tâm cả đến chất lưặng của sản phẩm. Nguồn gốc xuất hiện yếu tố "không lành mạnh" chính là ở chồ đó.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-57-

Khóa luận tốt nghiệp

Đối với nhiều khách hàng của cơ chế thị trường Việt nam, khuyến mại được coi là sự "ưu việt" của kinh tế thị trường nhung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, khuyến mại được coi là cạnh không lành mạnh và vì vậy có thể bị cấm. Đến nay, dường như chưa có được một định nghĩa thống nhất về khuyến mại, nhưng, nhìn chung, khuyến mại được coi là những biện pháp nhằm thực hiện những sụn phẩm hoặc dịch vụ phụ, không mất tiền, trên cơ sờ có việc mua bán những sụn phẩm, dịch vụ chính. Đế xác định một hiện tượng khuyến mại, cần xem xét những dấu hiệu sau đây:

- Sụn phẩm chính và sụn phẩm phụ phụi có một quan hệ nội tại (thí quan hệ xe dụ, mua một xe máy có thế được tặng thêm một đôi mũ bụo hiểm; máy và mũ bụo hiếm);

- Sụn phẩm phụ bị lệ thuộc vào sụn phẩm chính (mũ bụo hiểm chỉ có giá trị sử dụng khi có xe máy);

- Việc cung cấp sán phẩm hay dịch vụ phụ phụi vì mục đích bán được sụn phẩm chính;

- Sụn phẩm chính và phụ, phụi biệt lập với nhau, có giá trị kinh tế riêng biệt;

- Việc cung cấp sụn phẩm hay dịch vụ phụ là không mất tiền.

Đáng lưu ý là, trên cơ sở của "hứa thướng" mà khách hàng có quyền đòi hỏi những sụn phẩm hay dịch vụ phụ, hay nói khác đi, việc cung cấp sụn phẩm hay dịch vụ phụ được coi là nội dung của hợp đồng thì trường hợp này không phụi là khuyến mại. Trong trường hợp này, giá trụ cho sụn phẩm hay dịch vụ chính bao gồm cụ phần sụn phẩm phụ. Thực ra, đây chỉ là sự nguy trang cho việc giụm giá. Trên thực tế, sẽ còn nhiều hiện tượng hỗ trợ thương mại khác nữa nhưng cũng không được coi là khuyến mại như: những hỗ trợ về điều kiện tín dụng; một số đàm bụo đặc biệt liên quan đến bụo hành; giụm giá trong nhũng điều kiện và mức độ nhất định; sụn phẩm hay dịch vụ phụ có giá trị không đáng kể và những phụ tùng, phụ kiện được cấp kèm theo như trong

Nguyền Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-58-

thông lệ thương mại.... Tuy nhiên, một số hành vi lại được coi là khuyến mại bao gồm cả việc cho dùng thử hay biếu không sản phẩm mà đó chính là sản phẩm đang hoặc sẽ được bán. Đây là phương pháp ưa dùng của một số hãng thuốc lá ngoại ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy, khuyến mại sẽ diễn ra tương đối phong phú và đa dạng. K hi pháp luật đứng ra chống lại một số dạng khuyến mại, trước hết không vì mỏc tiêu bảo vệ người tiêu dùng hay khách hàng, mà là bảo vệ các thương gia vừa và nhỏ - những người không đủ tiềm lực kinh tế - tài chính để lao vào cuộc chơi của các bậc "đàn anh". Mặc dù vậy, khuyến mại cũng tạo cho khách hàng tâm lý và thói quen lệ thuộc vào thương gia khuyến mại. Họ bị chi phôi bởi tâm lý "tham lam" và "hám l ợ i" nên ít có cơ hội để quan tâm đến hàng hoa của đối thủ cạnh tranh khác. Kết cỏc cuối cùng là, khi thói quen mua hàng trở thành phản xạ có điều kiện, khách hàng sẽ không còn quan tâm đến chất lượng của sản phẩm. Tính không lành mạnh và sự nguy hiểm của khuyến mại chính là ở chỗ đó.

8. Phân biệt đòi xử của hiệp hội

Theo điều 47 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004: "Cấm hiệp hội ngành nghề thực hiện các hành vi sau đây:

1. Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh tranh;

2. Hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan tới mỏc đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên."

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội hành nghề được thành lập trên cơ sở sự tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên có chung lợi ích, là nơi cung cấp các thông tin đã được xử lý về các lĩnh vực trên thị trường trong nước và quốc tế, nơi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp, tập trung nguyên vọng để phản ánh lên Chính phủ... Với vai trò này, hiệp hội có thể tạo ra tình

-59-

Khóa luận tốt nghiệp

trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp thông qua các hành vi: từ chối việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội của các doanh nghiệp có đủ điều kiện mà việc từ chối mang tính phân biệt đối xử và làm cho các doanh nghiệp đó bất lợi trong cạnh tranh, hạn chế bất hợp lý các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan đến mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.

Khái niệm "phân biệt đối xử hiệp h ộ i" cần được hiểu rõ để tránh nhịm lẫn với hành vi phân biệt đối xử được quy định trong mục "Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, cản trở cạnh tranh". Hành vi phân biệt đối xử hiệp hội có chủ thể là các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội hành nghề tiến hành các biện pháp hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp thành viên hoặc ngăn cản sự gia nhập hoặc rút lui của các doanh nghiệp có đủ điều kiện; trong khi đó, hành vi phân biệt đối xử được xếp vào nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được tiến hành hởi "người" có vị trí thống lĩnh thị trường, dùng quyền lực kinh tế của mình mà phân biệt đôi xử, cột chặt những đối tác trung thành lệ thuộc vào mình và tịy chay các đối tác khác.43

9. Bán hàng đa cáp bất chính

Điều 47 Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 quy định: "Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp (BHĐC):

1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mau một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;

2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 9 0% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;

3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;

43. TS. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-60-

4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa đê dụ dỗ người khác tham gia."

Bán hàng đa cấp là một phương thức tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp với sự tham gia của nhiều người ở các cấp khác nhau, theo đó người tham gia sẽ được hướng tiền hoa hổng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ kết quỉ bán hàng hóa của mình và của người khác trong mạng lưới do mình tổ

chức ra và doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận, ở Việt Nam, hoạt động bán hàng đa cấp không bị cấm mà chỉ thuộc diện cần kiếm soát nhằm chống hiện tượng bán hàng đa cấp bất chính. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, việc phân biệt giữa bán hàng đa cấp thông thường và bán hàng đa cấp bất chính chỉ dựa vào những điểm chính như: việc thực hiện nghĩa vụ đặt cọc, nguồn gốc tiền thưởng, có mua lại hàng hóa đã giao cho người tham gia bán hàng đa cấp hay không...

Theo quy định của Luật Cạnh tranh, hoạt động bán hàng đa cấp có các dấu hiệu sau đây thì bị coi là bán hàng đa cấp bất chính:

- Yêu cầu người tham gia phỉi đặt cọc hoặc mua một lượng hàng hóa ban đầu nhất định để được quyền tham gia vào mạng lưới bán hàng. Quan điểm của Ban soạn thỉo Luật Cạnh tranh cho rằng: trong phương thức kinh doanh bán hàng đa cấp, việc đặt cọc không giống với hình thức đặt cọc trong quan hệ buôn bán thông thường. Người tham gia phương thức này không trực tiếp bán hàng hóa cho người tiêu dùng mà chỉ giới thiệu người tiêu dùng đến công ty để mua sỉn phẩm, vì vậy, yêu cầu người tham gia đặt cọc là không hợp lý.

Nguyên Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- Cho người tham gia nhận tiền thưởng, tiền hoa hồng, hay từ lợi ích kinh tế khác chỉ từ hoặc chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia vào mạng lưới mà không phụ thuộc vào kết quỉ bán hàng tới tay người tiêu dùng;

-61 -

Khóa luận tốt nghiệp

- Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất từ 9 0% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại

- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.

Thời gian qua, dư luận đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo về hình thức kinh doanh bán hàng đa cấp ( B H ĐC - hay còn gổi là phương thức truyền tiêu, hợp tác tiêu thụ đa tầng...) đã khiến nhiều người ôm mộng làm giàu rốt cuộc lâm vào tình cảnh tiền mất nợ mang. Thế nhưng hoạt động này lại ngày càng phát triển, thèm nhiều công ty mới ra đời, mạng lưới người tham gia đông hơn...

Với những cái tên nổi bật như Lô Hội, Thế Giới Mới, Sinh Lợi, Âu Việt

Á... người ta cũng được nghe về những phương thức bán hàng theo mạng lưới và những hình thức hoa hồng béo bở tương tự. Trong khi trình độ người dân còn thấp, vấn nạn việc làm còn lớn thì những công ty B H ĐC khai thác những đối tượng như người thất nghiệp, dân quê ở vùng ven thành phố, vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa các tỉnh, sinh viên, nội trợ, vẽ cho hổ viễn cảnh xa vời mà hổ không đủ trình độ đế hiếu, đế phân biệt thật giả, điều này thể hiện sự không lành mạnh, có dấu hiệu lừa gạt.

Theo ước tính của một tờ báo điện tử, cả nước có khoảng gần 100 000 người đang tham gia mạng lưới B H ĐC kiểu này, hết lớp này đi thì lớp khác trám ngay vào. Chính vì vậy mà số lượng người được coi là nạn nhân của B H ĐC không hề nhỏ chút nào.

Cùng với phương thức kinh doanh theo mạng chân chính, "biến tướng" của nó - mô hình "kim tự tháp", một kiểu kinh doanh lừa dào người tham gia đang bị nhiều quốc gia trên thế giới ngăn cấm. Mô hình kinh doanh "kim tự tháp" có bề ngoài rất giống với phương thức kinh doanh theo mạng thông thường nên rất dề gây nhầm lẫn cho khách hàng hoặc người tham gia. Theo

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-62-

các chuyên gia, tiêu chí để nhận dạng các công ty áp dụng kiểu "kim tự tháp", tức là bán hàng đa cấp bất chính thường là các doanh nghiệp bán hàng yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc một khoản tiền để được "quyền tham gia" vào mạng lưễi bán hàng nhưng không được nắm giữ hàng hóa. Đây chính là điểm mà nhiều người dễ bị lừa dào vì các công ty bất chính này thường đưa ra "mồi nhử" là một khoản hoa hồng rất cao (có khi lên đến 50-60%). Sau khi nhận được tiền đặt cọc, còng ty không hoại động nữa, thậm chí bỏ trốn và "ẩm" luôn tiền của những người đặt cọc. Tại thị trường Việt Nam đã từng xảy ra vụ Công ty Thế giễi mễi lừa đảo chiếm đoạt hơn 6 tỷ đổng của gần 200 người tham gia mạng lưễi. Bằng thủ đoạn yêu cầu người muốn tham gia vào mạng lưễi phải đặt cọc từ 1,8 - 3,6 triệu đồng hoặc mua đủ 3 sản phẩm vễi giá 120 USD, họ đã để các "chuyên gia Trung Quốc" "ôm" trọn 6 tỷ đổng của những người nhẹ dạ rồi bỏ trốn.

lo. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điểu 3 Luật Cạnh tranh do Chính phủ quy định.

Nguyễn Hàng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Như vậy, đối chiếu vễi các quy định của Luật Thương mại 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2005), Luật Cạnh tranh có quy định thêm một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh (hành vi phân biệt đối xử hiệp hội, bán hàng đa cấp bất chính...), không điều chỉnh một số hành vi bằng Luật Cạnh tranh mà sử dụng Bộ luật Hình sự để xử lý (hành vi đầu cơ để lũng đoạn thị trường, sản xuất và buôn bán hàng giả...) và chuyển một số hành vi (bán phá giá, nâng giá, ép giá...) sang phần "các hành vi hạn chế cạnh tranh" cần kiểm soát, bởi vì trong thực tế, chỉ các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyển mễi đủ sức thực hiện. Sự lựa chọn điểu chỉnh này của Luật Cạnh tranh là tương đối phù hợp, bởi lẽ, về mặt lý luận, ranh giễi giữa "các hành vi hạn chế cạnh tranh" và "các hành vi cạnh tranh không lành mạnh" là rất nhỏ, bởi vì bản thân các hành vi hạn chế cạnh tranh cũng hàm chứa mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh cho phép doanh nghiệp được quyết định giá mua, giá bán sản phẩm, được quyền liên kết hay có những

-M -

Khóa luận tốt nghiệp

thỏa thuận với đối tác để giành cơ hội thương mại cho mình. Chính vì vậy, hành vi hạn chế cạnh tranh không bị ngăn cấm và chỉ bị kiểm soát, trong khi đó, m ọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều bị pháp luật cấm thực hiện.

So sánh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được pháp luật một số quốc gia quy định, hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam có một số điểm đáng lưu ý sau:

Thứ nhất, trong các loại hành vi được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh kế trên, có một số hành vi mà pháp luật của các nước khác có quan niệm là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng chưa được Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định cờ thế là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chẳng hạn, hành vi chấm dứt đột ngột quan hệ kinh doanh với đối tác mà không được thông báo trước một thời gian hợp lý theo quy định của pháp luật Pháp là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng Luật Việt Nam không coi hành vi này là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi bán hàng hóa với giá quá thấp, từ chối giao dịch kinh doanh không có lý do chính đáng, phân biệt về giá theo pháp luật của một số nước cũng có thể xếp vào loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhung Luật Cạnh tranh Việt Nam không xếp vào loại hành vi này mà có lẽ những loại hành vi này chỉ có thể xử lý theo các quy định về chống lạm dờng vị trí thống lĩnh trong Luật Cạnh tranh Việt nam (Điều 13)

Thứ hai, ba hành vi nêu tên tại mờc 3, 4, 5 kể trên (ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác) về bản chất có thể xếp vào một loại hành vi đó là hành vi "gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác" như cách tiếp cận của pháp luật Hoa Kv về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bởi lẽ các hành vi này đều có tác dờng và mờc đích chung là gây rối các quan hệ hợp đổng tiềm năng và hiện hữu của đối thủ cạnh tranh.

Thêm vào đó, hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp quỵ định tại Điều 44 Luật Cạnh tranh chưa rõ có bao gồm các hành vi dờ dỗ.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tối nghiệp

-64-

xúi giục đối tác (bao gồm bạn hàng, người làm công, kế cả nhà đầu tư) phá vỡ hợp đồng mà pháp luật của một số nước đã cấm hay không. Đây cũng là vấn đề cần làm rõ khi áp dụng Luật trong thực tiễn.

Tìiứ ba, hành vi phân biữt đối xử của hiữp hội được pháp luật nhiều quốc gia coi là hành vi hạn chế cạnh tranh hơn là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, mặc dù hành vi này cũng có những biếu hiữn nhất định của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều 8 Khoản 6 Luật Cạnh tranh Viữt Nam khi quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng có đề cập đến "thỏa thuận ngăn cân kìm hãm không cho doanh nghiữp khác... phát triển kinh doanh". Hành động của Hiữp hội bao giờ cũng là hành động tập thế - nói cách khác, đó là hành động thực hiữn theo sự thỏa thuận - chính vì thế hành vi phân biữt đối xử của Hiữp hội về bản chất là hành vi thực hiữn theo thỏa thuận trong Hiữp hội - và là một dạng thỏa thuận hạn chế cạnht ranh. Chính vì thế, nếu coi hành vi phân biữt đối xử của hiữp hội là hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì cần phải có sự giải thích rõ để phân biữt với quy định tại Khoản 6 Điều 8 Luật cạnh tranh Viữt Nam năm 2004.

Thứ tư, hành vi bán hàng đa cấp bất chính thường gây tổn hại cho chính người tiêu dùng và thành viên tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp chứ không phải là hành vi có mục đích chính là gây hại cho đối thủ cạnh tranh, chính vì thế, viữc xếp loại hành vi này là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 còn có phần khiên cưỡng.

IV. PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG VẬN DỤNG TRONG THỰC TIÊN CỦA CÁC

QUY ĐỊNH VỀ H À NH VI CẠNH TRANH K H Ô NG LÀNH MẠNH TRONG LUẬT

CẠNH TRANH VIỆT NAM 2004

1. Quy định của Luật còn mang tính chung chung, khó áp dụng trong thực tiễn

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Cũng giống như một số luật khác, khi trình ra trước Quốc hội, cơ quan soạn thảo chưa đồng thời đưa ra được các nghị định hướng dẫn ban hành. Đến

Khóa luận tốt nghiệp

-65-

nay, mới chỉ có Ì trong 4 nghị định hướng dẫn luật được ban hành. Trong khi đó, trong luật vẫn còn rất nhiều điều quy định mang tính chất chung, nếu không có văn bản hướng dân cụ thể sẽ khó có thể áp dụng ngay được, điển hình như: quy định về trình tự xử lý vi phạm pháp Luật Cạnh tranh, thành lập hội đồng cạnh tranh; bán hàng đa cấp...

Việc nhởng điểu luật quy định "chung chung" cần có sự giải thích rõ ràng là rất cẩn thiết. Tuy nhiên, ngay cả khi đã có các nghị định thì việc thực hiện Luật vân còn rất khó khăn. Bởi vì nghị định chỉ được phép hướng dẫn nhởng quy định của Luật chứ không có chức năng giải thích Luật hay đưa ra nhởng khái niệm mới, quy định mới so với Luật. Chẳng hạn: việc xác định thê nào là "gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và người tiêu dùng" của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất cẩn thiết nhưng trong luật không quy định rõ khái niệm này. Thêm vào đó, như trên đã phân tích, còn một số từ ngở cần được cụ thể hóa trong Luật như "chỉ dẫn gây nhẩm lẫn", "gièm pha", "gây rối"... Trong một vài năm trở lại đây, dưới sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật điều tiết cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh quá "thô thiển" đã giảm nhiều nhưng vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp đang thực hiện nhởng hành vi cạnh tranh không lành mạnh tinh vi, và rất khó để xác định được các doanh nghiệp đó có vi phạm quy định của Luật hay không?

Theo các nhà nghiên cứu hiện nay, đối với các điều luật chưa rõ ràng, việc định lượng các hành vi trong luật là rất khó khăn, do đó, Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước. Theo kinh nghiệm của các nước thi dùng tập quán, án lệ của tòa án làm tiêu chí định lượng một hành vi để giải

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

quyết nhởng vấn đề tương tự. Ớ nước ta không áp dụng án lệ và chúng ra cũng chưa có án lệ trong cạnh tranh vì đây là một vấn đề mới. Vì thế không chì nhởng vấn đề mang tính định lượng mà cả nhởng quy định mang tính chung chung cần giải thích rõ ràng có lẽ Quốc hội nên giao cho Chính phủ (việc giao quyển phải được quy định rõ trong Luật) đồng thời cũng nên để thẩm phán tự định lượng, tự giải thích để từ đó đưa ra các phán quyết mà họ cho là đúng.

Khóa luận tốt nghiệp

-66-

Cách làm này dần dần hình thành nên cách định lượng chung, cách giải thích luật chung phù hợp với cuộc sống. Tuy nhiên, cách làm này đòi hỏi người thẩm phán phải có trình độ nghiêp vụ tốt đặc biệt phải là người công tâm. Làm theo cách này sẽ đảm bảo được đúng tính chất tòa án là cơ quan độc lập. Vì họ được phép hiữu luật và giải thích luật theo chính kiến của mình. Mặt khác sẽ khấc phục được tình trạng khi thẩm phán gặp những quy định chưa rõ lại phải đi xin ý kiến của các cơ quan có liên quan và nhiều khi lại phải xin ý kiến của chính đối tượng có liên quan đến vụ việc mình đang thụ lý giải quyết.44 Do đó, việc điữu tra, giải quyết các vụ tranh chấp sẽ hiệu quả hơn.

2. M ột sô quy định còn chưa hợp lý, khiến việc áp dụng gập nhiều khó khăn

Đối với việc quy định về các hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, điều 40 Luật Cạnh tranh chưa đề cập đến một cách cụ thữ, cho nên trong thực tế, khó có cơ sở rõ ràng đữ xác định một hành vi nào đó có phải là "chỉ dân thương mại gây nhầm lẫn" hay không? Việc đưa thông báo dối trá về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, nhái lại nhãn hiệu, kiữu dáng của những hàng hóa chưa đăng ký bảo hộ là không trái pháp luật, do đó, pháp luật của các nước đều chỉ cấm những hành vi có chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn khi nguồn gốc của sản phẩm chính hiệu là có thật, đã được đăng ký bảo hộ và hành vi đó phải nhằm mục đích cạnh tranh, nhằm thay thế hay gây nhầm lẫn với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.

44. Thực thi Luật Cạnh tranh: khổ có thữ áp dụng dược ngay, www. vnexpress.net

Nguyễn Hông Hạnh - A4 K40B - QTKD

Nếu đem so sánh với các quy định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo và khuyến mãi không trung thực theo Luật Cạnh tranh của Bungary thì ta có thữ thấy quy định của Việt Nam vừa thừa lại vừa thiêu. Quy định về việc cấm doanh nghiệp đưa ra những chỉ dẫn gây nhầm lẫn tập trung vào việc chống làm hàng giả, hàng nhái, còn việc lừa dối khách hàng về những khuyết tật, hay đặc tính nguy hiữm của hàng hóa, dịch vụ của mình thì không được quy định. Hay những thông tin lừa dối khách hàng trong nội dung quảng cáo, khuyến

Khóa luận tốt nghiệp

-67-

mại về giá cả, chất lượng, số lượng... thì lại được đưa vào Điều 45 Quản<; cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, có sự trùng lặp trong việc quy định về cùng một hành vi trong Luật. Điều này gây ra một số hạn chế nhất định trong quá trình áp dụng và thực thi Luật trong thực tế.

3. Cơ quan có trách nhiệm thụ lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến cạnh t r a nh hoạt động chưa thật hiệu quả

Trước đây, con đường hành chính là chỗ dựa duy nhất đủ các doanh nghiệp đối phó với những công ly lợi dụng sức mạnh đủ cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, kết quả giải quyết qua con đường này thường hạn chế, vì nó phụ thuộc vào sự nhiệt tình và quyết tâm của các cư quan quản lý, nhất là khi người bị khiếu nại lại là con đẻ của đơn vị có thẩm quyền xử lý và luật lệ thì chưa rõ ràng. Nhưng kủ từ ngày 1-7-2005, thời điủm Luật Cạnh tranh có hiệu lực, các doanh nghiệp bị vi phạm quyền lợi theo quy định của Luật không cần đi theo con đường hành chính nữa mà có thủ khởi kiện ra trước Hội đồng Cạnh tranh. Luật Cạnh tranh quy định rõ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm và chống lại việc các doanh nghiệp lợi dụng vị thế thống lĩnh thị trường đủ hạn chế cạnh tranh. Đổng thời, cư chế tố tụng, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên cũng được quy định khá chi tiết.

Tuy nhiên, điủm hạn chế của Luật là cơ quan thụ lý và giải quyết các vụ kiện không phải tòa án mà do Hội đồng cạnh tranh đảm nhận và cơ quan này vẫn thuộc hệ thống hành pháp. Cơ chế này được gọi là "hành chính bán tư pháp". Hội đồng Cạnh tranh, mà người đứng đầu do Thủ tướng bổ nhiệm, sẽ có quyền tiến hành điều tra và ra kết định xử phạt và quyết định đó phải được thực thi như một phán quyết của tòa án. Tuy nhiên, cho đến nay văn chưa ra đời cơ quan này, còn Cục Quản lý cạnh Hanh chỉ là một cơ quan của Bộ Thương mại với người đứng đầu do Bộ trưởng Thương mại bổ nhiệm.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khác với các luật về thuế, Luật Cạnh tranh không thủ mang lại hiệu quả trong một sớm một chiều mà cần có thời gian. Nhưng theo ông Trần Xuân Giá, Trưởng han nghiên cứu đổi mới của Chính phủ, đủ Luật vào được cuộc

- 68 -

Khóa luận tốt nghiệp

Sống thì Nhà nước phải tích cực thúc đẩy. "Nếu chúng ta ngồi một chỗ chờ đợi thì không biết đến bao giờ mới phát huy được hiệu quả của Luật này". Theo ông, Chính phú cần thành lập một tổ chức thúc đẩy thi hành Luật Cạnh tranh và phải hành động quyết liệt như đã làm đữi với luật Doanh nghiệp trước đây. Ngoài ra, các cơ quan Nhà nước cũng phải đẩy nhanh tiến độ ban hành văn bản hướng dẫn dưới luật, vì hướng dẫn càng rõ ràng thì việc thực thi Luật càng thuận lợi. 45

4. Người tiêu dùng chưa tháng thán lên tiêng bảo vệ quyền và lọi ích của mình trước những hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm hạn ché khả nàng áp dụng Luật trong thực tiễn

Chuyện người tiêu dùng kiện tụng có mại tích cực là sẽ thúc đẩy pháp luật có cơ hội được thực thi thường xuyên hơn và sẽ là một trong nhưng đòn bẩy mấu chữt để giải bài toán cạnh tranh và chững độc quyền. Nhưng thực tê ở Việt Nam, chuyện kiện tụng, ngay cả trong những vụ việc mà quyền lợi của người tiêu dùng bị tác động rõ ràng như vụ nghẽn mạng điện thoại di động hay vụ điện kế điện tử, vẫn còn rất xa vời.

45. Thực thi Luật Cạnh tranh: khó có the áp dụng dược ngay, w\vw. vnexpress.net

Theo luật gia Cao Bá Khoát, thành viên Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, nguyên nhân chủ yêu là do pháp luật không bảo vệ người tiêu dùng một cách đầy đủ nên người la không muữn khiếu nại, khiếu kiện. Do không được pháp luật bảo vệ đầy đủ nên phát sinh một tâm lý cho rằng kiện tụng cũng chỉ là chuyện "con kiến đi kiện củ khoai". Một vấn để khác là nhận thức của người tiêu dùng còn quá mơ hổ, nhiều khi chịu thua thiệt mà không biết mình có thể kiện, và nếu kiện thì kiện ở đâu, kiện ra sao... Một luật sư khác cho rằng các quy định của luật pháp hiện nay không khuyến khích người tiêu dùng kiện tụng. Đơn giản là, nếu người tiêu dùng mua một sản phẩm 10 đồng nhưng nếu không đạt chất lượng thì khi kiện tụng anh ta cũng không bao giờ đòi lại được sữ tiền đó. Trong trường hợp thắng kiện, người tiêu dùng vẫn thua thiệt nhiều do các chi phí chính thức lẫn không chính thức. Vì vậy, trong

Nguyền Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tối nghiệp

-69-

nhiều trường hợp, nhất là trường hợp giá trị hàng hóa dịch vụ không đáng kế. xu hướng chung của người tiêu dùng Việt Nam là bỏ qua. Tâm lý không thích "đáo tụng đình" khó lòng làm luật đi vào cuộc sống.

Theo văn phòng Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam tại Hà Nội, sáu tháng đầu năm cư quan này mới chỉ tiếp nhận hặ sơ kiện tụng của chưa đầy 100 vụ việc liên quan đến quyền lợi của người tiêu dùng. Và sau đó có tới 7 0% các vụ khiếu kiện được giải quyết bằng thương lượng, trong đó chủ yếu là phía nhà cung cấp hàng hóa thấy được cái sai của mình nên chủ động hòa giải để tránh phải ra trước pháp luật, hoặc thực hiện chiến thuật "cù nhẩy" để làm nản lòng người tiêu dùng46.

Một luật sư ở Hà Nội cho biết ở Trung Quốc người ta quy định nếu sản phẩm bán ra không đạt chất lượng và bị kiện thì nhà cung cấp phải bồi thường số tiền gấp đôi giá bán món hàng đó. Hơn nữa, việc thực thi phán quyết của tòa án là nghiêm túc và kịp thời khiên người tiêu dùng tin tưởng.

Tiến sỹ Phạm Duy Nghĩa, chủ nhiệm bộ môn Luật Kinh doanh thuộc khoa Luật trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, nói rằng khung pháp lý của Việt Nam về cạnh tranh có thể coi là tuông đối hoàn thiện vì vấn để này đã được quy định trong Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Bộ luật Dân sự Nhưng vấn đề là ở chỗ triết lý quản lý nhà nước có bảo vệ người tiêu dùng hay không.47

46. Luật Cạnh tranh: Bán khoăn chuyện thực hiện, www. Vnexpress.net 47. Luật Cạnh tranh: Bàn khoăn chuyện thực hiện, www. Vnexpress.net

Nguyễn Hàng Hạnh - A4 K40B - QTKD

T óm lại, sau một thời gian ngắn có hiệu lực (kể từ ngày 1/7/2005), việc áp dụng Luật Cạnh tranh trong thực tê vẫn còn rất hạn chế. Đặ Luật có thể là một công cụ hữu hiệu trong việc giải quyết các vấn đề về cạnh tranh, các cơ quan quản lý cũng như các cơ quan có liên quan phải nỏ lực rất nhiều trong việc điều tra. xử lý các vụ việc. Đặng thời, cũng cần có sự ủng hộ, tham gia của những nhà nghiên cứu và người tiêu dùng trong việc xây dựng và hoàn thiện Luật.

- 70-

Khóa luận tốt nghiệp

CÌMơng ỈU

M ỘT SỐ G I ẢI P H ÁP ĐỂ V ẬN D Ụ NG CÓ H I ỆU Q UẢ

C ÁC Q UY ĐỊ NH VỀ H À NH VI C Ạ NH T R A NH K H Ô NG L À NH M Ạ NH

I. QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỔNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

T R O NG L U ẬT C Ạ NH T R A NH V I ỆT N AM N ĂM 2004

Một trong những mục tiêu chiến lược cùa Đạng và Nhà nước la trong quá trình công nghiệp hoa và hiện đại hoa là phại hoạch định cho được một chính sách cạnh tranh phù hợp với các điều kiện của Việt Nam trước yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạch định đúng chính sách cạnh tranh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo những tiền đề cho việc xây dựng pháp Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.

Trên cơ sở định hướng chiến lược của Đạng và Nhà nước, cùng với sự phát triển của thị trường của Việt Nam trong những năm gần đây, chính sách cạnh tranh của Việt Nam phại đáp ứng được những yêu cầu sau:

Một là: Chính sách cạnh tranh phại xuất phát từ chiến lược phái triển kinh tế - xã hội, các chính sách kinh tế, xã hội cụ thể từng thời kỳ do Đạng cộng sạn Việt Nam đề ra, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hoa hiện đại hoa đất nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã ghi: "Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phẩn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ... hình thành cơ chế thị trường có sự quạn lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...".

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 71 -

Khóa luận tốt nghiệp

Nghị quyết của Đại hội V UI Đảng cộng sản Việt Nam có ghi: "Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh. hợp pháp, vãn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí nguồn lực, thôn tính lẫn nhau". "Vừn dụng cơ chẽ thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục các mặt tiêu cực. Phải xoa bỏ cơ chế từp trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, đồng thời xây dựng và thực hiện các công cụ pháp luừt, kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ và những phương tiện vừt chất và tổ chức cần thiết cho sự quân lý của Nhà nước, tạo điều kiện cho cư chế thị trường hoạt động hữu hiệu". 48

Hai là: về tổng thể, chính sách cạnh tranh phải đảm bảo các mục tiêu

sau:

- Sự cạnh tranh phát triển đúng hướng, đúng mục tiêu phát triển và tăng trưởng kinh tế.

- Cạnh tranh phải lành mạnh. công bằng, đúng pháp luừt và đạo đức xã hội.

- Cạnh tranh phải đảm bảo lợi ích chính đáng của người sản xuất, lợi ích của Nhà nước và người tiêu dùng.

- Xứ lý hợp lý mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyển cũng như liên minh cạnh tranh để tạo thế độc quyền.

- Hạn chế sự cạnh tranh một cách hợp lý trong từng lĩnh vực để cạnh tranh không gây hừu quả xấu, nặng nề về mặt xã hội như gây ra phá sản hàng loạt doanh nghiệp, tăng mạnh số người thất nghiệp và gia tăng các tệ nạn xã hội khác.

48 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VUI, trang 27

- Mở rộng và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-72-

Ba là: về phương thức, chính sách cạnh tranh phải được xây dụng từ chính sách ngành. Đặc biệt là, trong nội dung của chính sách cạnh tranh cần xác định các ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam cần đẩu tư trọng điểm, các ngành kinh tế chiến lược và khả năng tự do hoa của chúng, mức độ thâm nhổp của các ngành kinh tế cùa Việt Nam vào thị trường khu vực và thế giới...

Bốn là: về nội dung, chính sách cạnh tranh phải là sự tổng hợp của các chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách thương mại và giá cả. Điều cần nhấn mạnh là, chính sách cạnh tranh không chỉ đơn giản là phép tổng cộng các giải pháp của các chính sách kinh tế nói trên mà chính là yếu tố để đưa các giải pháp kinh tế này vào cuộc sống sau khi đã liên kết chúng trong một thể thống nhất.

Năm là: Chính sách cạnh tranh của Việt Nam phải phù hợp với thông lệ quốc tế khi toàn cẩu hoa các nền kinh tế là xu hướng tất yếu của thời đại.

Tuy nhiên, xây dựng pháp luổt về chống cạnh tranh không lành mạnh không những chỉ đòi hỏi phải bắt nguồn từ một chính sách cạnh tranh đúng đắn mà còn đòi hỏi tính lương hợp của bộ phổn pháp luổt này trong hệ thống pháp luổt nói chung và hệ thống pháp luổt kinh tế nói riêng.

Là một bộ phổn hợp thành của hệ thống pháp luổt, pháp luổt chống cạnh tranh không lành mạnh phải được xây dựng trên những nguyên tắc chung của hệ thống pháp luổt Việt Nam.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Hơn thế nữa, là một thành tố của hệ thống pháp luổt kinh tế, pháp luổt chống cạnh tranh không lành mạnh cũng phải được xây dựng trên những nguyên tắc với tính cách là điểu kiện khung của hộ thống pháp luổt kinh tế Việt Nam trong cơ chế thị trường. Đó là nguyên tắc đa dạng cua các chủ thế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; nguyên tắc tự do hình thành giá cả; nguyên tấc bình đẳng trước pháp luổt của các chú thể kinh doanh; nguyên tắc tự do kinh doanh và nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh.

- 73 -

Khóa luận tốt nghiệp

M ặt khác, pháp luật chống cạnh tranh không lành m ạ nh còn phải tương hợp với các bộ phận pháp luật khác có liên quan đến cạnh tranh không lành

mạnh, trên trục quan hệ pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là cơ sở

pháp lý trực tiếp để điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, còn

các bộ phận pháp luật khác là công cụ hỗ trợ để pháp luật chống cạnh tranh

không lành mạnh đạt được mục đích k hi ban hành nó. Biểu hiện của sự tương

hợp này là tạo ra được cơ sở pháp lý thống nhầt để điều chỉnh các hoạt động

cạnh tranh không lành mạnh mà không có m âu thuẫn và chồng chéo.

li. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VẬN DỤNG CỎ HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH

VỀ H À NH VI CẠNH TRANH K H Ô NG LÀNH MẠNH THEO LUẬT CẠNH TRANH

VIỆT NAM N ĂM 2004

1. Nhóm các giải pháp về phía Nhà nước

N hư đã phân tích ở phần trên, hiện tại m ới có Nghị định 116/2005/NĐ-

CP q uy định chi tiết thi hành m ột số điều của Luật Cạnh tranh và m ột số dự

thảo các nghị định quy định về xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh (hay dự

thảo nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về Cạnh tranh. Và i.rong

Luật còn có nhiều khái niệm được quy định chung chung, cần thiết phải có

những văn bản hướng dẫn, xử lý cụ thể tránh tình trạng làm sai luật mà không

biết, hay cố ý vi phạm, lợi dụng kẽ hở pháp luật.

Chính p hủ nên sớm ban hành các vãn bản hướng dân t hi hành Luật

Cạnh tranh, đặc biệt giải thích rõ các tiêu chí và ranh giới để xác định vị trí

thống lĩnh và vị trí độc quyền của doanh nghiệp, k hi nào thì bị coi là l ạm dụng

vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền đó, x in đơn cử m ột ví dụ hiểu như t hế nào

là "có k hả năng gây hạn c hế cạnh tranh m ột cách đáng k ể" (khoản Ì, Điều 11,

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

a. Nhanh chóng ban hành các văn bản dưới luật hướng dần thi hành Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 và các nghị định liên quan đến việc xử lý vi phạm trong tĩnh vực cạnh tranh

- 74-

Khóa luận tốt nghiệp

Luật Cạnh tranh). Nếu không có sự hướng dẫn thống nhất cụm từ này thì cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc hội đổng cạnh tranh khó có thể áp dụng hoặc nếu áp dụng thì dễ dẫn tới hiện tưịng áp dụng một cách tuy tiện. Bên cạnh đó cẩn sửa đổi, bổ sung các quy định về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong các văn bản pháp luật chuyên ngành còn trái hoặc thiếu so với Luật Cạnh tranh nhằm tạo ra một hệ thống pháp luật về cạnh tranh hoàn chỉnh, trong đó mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh với các luật chuyên ngành trong việc điều chình cạnh tranh đưịc xác định theo nguyên tắc: khi luật chuyên ngành không có quy định hoặc có nhưng không đầy đủ thì áp dụng Luật Cạnh tranh 4 9.

Bên cạnh đó, phải thực hiện dân chủ hoa trong việc phê duyệt các chú trương, chính sách của nhà nước về đầu tư, kinh doanh và đặc biệt là vấn đề phê duyệt giá cả hàng hoa, dịch vụ độc quyền. Trước khi phê duyệt, các cư quan nhà nước cần tham khảo ý kiến rộng rãi của các cơ quan hữu quan, cộng đổng doanh nghiệp và người tiêu dùng, điều này sẽ hạn chế đưịc sai sót trong quá trình phê duyệt các chủ trương, chính sách đó. hơn nữa còn bảo đảm đưịc lịi ích của các chủ thể trong xã hội.

Không chỉ dân chủ hoa mà còn phải thực hiện cơ chế công khai, minh bạch hoa về thông tin đối với các chủ trương, chính sách nói trên cũng như các thông tin về doanh nghiệp để mọi chú thể có nhu cầu đều có thể tiếp cận đưịc. Điểu này, sẽ giúp ích cho người tiêu dùng đưa ra đưịc những quyết định mua sắm dễ dàng hơn và các doanh nghiệp cũng có thể đưa ra đưịc các quyết định đầu tư một cách nhanh chóng, chính xác hơn. K hi thông tin về chú trương, chính sách, vổ doanh nghiệp đưịc công khai và minh bạch hoa thì sự khai thác những lịi ích từ những thông tin đó đưịc đảm bảo và công bằng, hiện tưịng thống lĩnh và độc quyển do lịi dụng sự nhập nhàng, mập mờ của những thông tin đó sẽ giảm đi.

Trong quá trình xây dựng các văn bân hướng dẫn có quan điểm cho rằng, vì các quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004 về cạnh tranh không

49. TS. Bùi Ngọc Cường, MỘI so vấn đe về quyến tự do kỉnh doanh trong pháp luật kinh tểViệí Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2004, tr.233 - 234.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

- 75 -

Khóa luận tốt nghiệp

lành mạnh (từ Điều 39 đến Điều 47) (ngoại trừ quy định về bán hàng đa cấp bát chính) đã rõ ràng (xét cả dưới giác đội quy định về luật nội dung và quy định về luật thủ tục) nên việc ban hành văn bản hướng dẫn về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là không cần thiết.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh năm 2004 và các văn bản pháp luật có liên quan, người viết nhận thấy cách quan niệm như trên còn nhiều điếm chưa hợp lý. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành đặi với các quy định về cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết, ít nhất là để xử lý các vấn đề sau:

Thứ nhất, loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh nào sẽ được áp dụng cơ chế xử lý hành chính như Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 đã quy định.

Hiện tại, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn có thể bị xử lý về mặt hành chính bởi nhiều kênh khác nhau.

Chẳng hạn, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp có thể được xử lý theo Nghị định 54/2000/NĐ-CP và các văn bản xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

Các hành vi về quảng cáo gian dặi có thể bị xử lý về mặt hành chính theo các văn bản pháp luật về quảng cáo.

Vậy, để tránh tình trạng chồng lấn trong thẩm quyển và cơ chế xử lý, vấn đề phân định rõ các hành vi bị xử lý theo cơ chế của Luât Canh tranh với các hành vi khác là rất cần thiết. Đây là vấn đề cần được hướng dẫn thi hành.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Để tránh chổng chéo trong vấn đề xử lý, tâng cường trách nhiệm cùa các cơ quan có liên quan, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định bởi Luật Cạnh tranh năm 2004 sẽ được xử lý về mặt hành chính theo mội cơ chế đó là thông qua Cơ quan quản lý cạnh tranh theo trình tự, thú tục mà Luật Cạnh tranh năm 2004 đã quy định. Các cơ quan khác, các cơ chế xù lý hành chính theo các văn bản pháp luật khác sẽ không được áp dụng.

Khóa luận tốt nghiệp

- 76-

Thứ hai, hình thức xử lý hành chính đôi với hành vi cạnh tranh không lành mạnh như thế nào là phù hợp?

Theo quy định tại Điểu 117, hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh (trong đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh) có thể bị xử lý về mặt hành chính như sau:

1. Hình thức xử phạt chính: cảnh cáo hoặc phạt tiền.

2. Hình thức xử phạt bổ sung: (a) thu hổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; (b) tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

3. Biện pháp khấc phục hậu quả: ... (c) cải chính công khai; (d) loại bỏ nhắng điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; (e) các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm.

Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2 Điều 119 Luật Cạnh tranh, Cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ có thể được áp dụng hình thức sau đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

- Phạt cảnh cáo.

- Phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

- Cải chính công khai.

Vấn đề đặt ra ở đây là, vậy Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền buộc chấm dứt hành vi vi phạm hay không? Thêm vào đó, ngoài các biện pháp mà Cơ quan quản lý cạnh tranh được quyền áp dụng kể trên, chủ thể có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp nào khác như đã quy định ở Điều 117 hay không? Nếu có thì cơ quan nào có thẩm quyền áp dụng?

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Đây là nhắng vấn đề cần có sự hướng dẫn trong thời gian tới.

-77-

Khóa luận tốt nghiệp

Thứ ba, cần ban hành van bản quy định rõ mức xử phạt vi phạm hành chính đối với từng loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Cho đến nay, chỉ có một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong rình vực thương mại được quy định cụ thể về mức xử phạt theo quy định tại Nghị định 175/2004/NĐ-CPngày 10/10/2004, đó là các hành vi sau:

- Khuyến mại bất hợp pháp (Điều 23 Nghị định 175/2004/NĐ-CP) với mức phạt từ 3 triổu đến 35 triổu lũy theo mức độ và các dạng hành vi vi phạm (trong đó có cả hành vi có thể coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh quy định tại Luật Cạnh tranh Viổt Nam năm 2004 nhưng cũng có hành VI nằm ngoài hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà Luật quy định).

- Tuyên truyền, nói xấu, đưa tinh thất thiổt đối với hoạt động hợp pháp cùa tổ chức, cá nhân kinh doanh khác (Điều 43 Khoản la Nghị định 175/2004/NĐ-CP) (hành vi này cũng đã được đưa vào Luật Cạnh tranh Viổt Nam năm 2004) với mức phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đổng.

- Mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc khách hàng trong mua bán hành hóa, dịch vụ (Điểu 43 Khoản lb Nghị định 175/2004/NĐ-CP) (hành vi này cũng đã được đưa vào Luật Cạnh tranh năm 2004) với mức phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng.

- Hành vi dụ dỗ, lỏi kéo nhãn viên của đối thủ cạnh tranh, gây rối hoạt động của tổ chức, cá nhân khác (Điều 43 Khoản 2 Nghị định 175/2004/NĐ- CP) với mức phạt tiền từ 1.000.000 đến 5.000.000 đồng.

- Hành vi bán phá giá để cạnh tranh không lành mạnh (Điều 45 Khoản 4a Nghị Định 175/2004/NĐ-CP) (vốn là hành vi không được quy định là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh tranh Viổt Nam năm 2004) và hành vi tổ chức bán hàng đa cấp không hợp pháp (hành vi này có được quy định trong Luật Cạnh tranh) với mức phạt tự 10 đến 20 triổu đổng và doanh nghiổp vi phạm còn bị tịch thu hàng hóa vi phạm và tịch thu số tiền thu lợi không hợp pháp.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tốt nghiệp

-78-

Như vậy, còn nhiều loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh chưa được quy định cụ thể về mức xử phạt chẳng hạn, các hành vi chiếm đoạt bí mài kinh doanh của doanh nghiệp khác, phân biệt đối xử của hiệp hội... chưa được Nghị định 175/200/NĐ-CP quy định.

Thứ tư, về thủ tục điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 đã quy định tương đối rõ trình tự, thủ tục điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh như đã phân tích ở phần trưấc.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiêu nội dung khá quan trọng liên quan tấi quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong vụ việc chưa được Luật đề cập. Chẳng hạn, Luật Cạnh tranh chưa quy định nghĩa vụ gửi các giấy tờ, hồ sơ khiếu nại cho bên bị khiếu nại biết để trả lời. Luật cũng chưa quy định thời hạn gửi Quyết định liên quan đến việc điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cho các bên có liên quan (bên khiếu nại, bên bị khiếu nại). Luật cũng chưa quy định thời hạn Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh phải ra quyết định liên quan đến việc điểu tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi đã có đề nghị của điều tra viên...

b. Tăng cường tuyên truyền và giới thiệu nội dung của Luật Cạnh tranh 2004

Đây là một công tác quan trọng không chỉ đối vấi việc thi hành Luật Cạnh tranh 2004 mà đối vấi tất cả các văn bản luật khác do Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban hành. Làm được điều này mấi đảm bảo cho các quy định của luật đi vào cuộc sống, và việc đảm bảo từng người dàn hiểu luật sẽ là yếu tố để xây dựng một nhà nưấc pháp quyền, đảm bảo mọi người dân sống và làm việc theo pháp luật.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Đối vấi Luật Cạnh tranh 2004, công tác tuyên truyền, giấi thiệu nội dung của Luật có vai trò đặc biệt quan trọng bởi vì trong Luật Cạnh tranh 2004 có rất nhiều nội dung mấi, rất nhiều quy định mấi, nếu không -uyên

-79-

Khóa luận tốt nghiệp

truyền, giới thiệu những nội dung mới đó thì khả năng áp dụng những quy định của Luật này vào thực tiễn sẽ gặp không ít trờ ngại.

Để công tác tuyên truyền, giới thiệu nội dung Luật đạt hiệu quả, trước hết cần tận dụng ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng nhỉt là khả năng đăng tải nhanh và tiện lợi của mạng Intemet. Hiện tại có một số web site đăng tải toàn văn của Luật này như web site của Bộ Thương mại và cụ thể là của Cục Quản lý cạnh tranh, của báo Nhân dân, của Quốc hội...Với những web site này thì quả thật, chỉ người nào thật sự quan tâm tới Luật mới có thể tìm được, còn phần lớn thì rỉt khó tìm. Do đó, cần phải đăng tải nội dung của Luật Cạnh tranh 2004 trên nhiều trang web hơn nữa để đảm bảo khi cần là có thể tìm thỉy ngay. Còn đối với những vùng mà việc truy cập web gặp nhiều khó khăn, thì cẩn tận dụng ưu thế của truyền hình, đài phái thanh, báo chí để nhiều doanh nghiệp, cá nhân có thể tiếp cận với nội dung của Luật.

Hơn nữa, nếu công tác tuyên truyền, phổ biến Luật được thực hiện hiệu quả thì người dân hay người tiêu dùng sẽ nắm được những quy định của Luật đổng thời cũng hiểu rõ quyền, lợi ích hay trách nhiệm của mình để tránh tình trạng bị vi phạm quyền lợi tràn lan như hiện nay mà không hề lên tiếng.

T óm lại, đây là một biện pháp cần thiết và được đánh giá là khá hiệu quả. Nhà nước cần vận dụng ưu thế của các phương tiện truyền thông để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao nhỉt.

c. Tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh

Cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trò rỉt quan trọng trong việc kiểm soát các hoạt động cạnh tranh. Công chúng coi cơ quan quản lý cạnh tranh là

một bộ phận thi hành của pháp luật. Ớ một số nước vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền lực rỉt lớn. Quyết định chỉp thuận hay không chỉp thuận các bên được hưởng miên trừ có thể đem lại hậu quà hoặc hiệu quả kinh tế xã hội cho bản thân chính các bên tham gia thỏa thuận và nền kinh tế nói chung. Vì vậy cần phải tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý cạnh tranh trong nền kinh tế: chủ động thực thi chính sách cạnh H anh nhằm

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

-80-

Khóa luận tốt nghiệp

hạn chế những trường hợp cạnh tranh bất hợp pháp và sửa đổi các chính sách công quyền can thiệp đến chức năng thích hợp của nền kinh tế thị trường.

ơ Việt Nam hiện nay mới chỉ có Cục Quản lý cạnh tranh là một cơ quan trồc thuộc Bộ Thương mại chịu trách nhiệm xử lý các vụ việc về cạnh tranh. Để đảm bảo các quyết định xử lý của cục sẽ được thồc thi m ội cách nghiêm túc thì cân phải có sồ hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có liên quan. Chảng hạn như cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cơ quan khác tước các giấy phép. chứng chí hành nghề... do họ đã cấp. Cơ quan thi hành án dân sồ cấp tỉnh. thành phố cũng sẽ vào cuộc hỗ trợ khi có yêu cầu của Cục. Đồng thời. Chính phủ nên sớm thành lập Hội đồng Cạnh tranh để cùng với Cục quản lý cạnh tranh phối hợp thồc hiện tốt công tác điều tra, xử lý các vụ việc liên quan đến cạnh tranh.

Xuất phát từ tính chất của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi được thẩm định bởi các nguyên tắc của luật tư: "không co đơn kiện thì không có thẩm phán" và không chỉ được đo bằng pháp luật hiện hành nên cuối cùng, các thẩm phán phải "giải thích pháp luật" để xác định tính không lành mạnh thông qua các án lệ. Điều này cũng gây phức tạp trong thồc tiễn tư pháp ở Việt Nam, bởi lẽ. theo thế chế Hiến định, các thẩm phán Việt Nam không được và cũng không quen với việc giải thích pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật. Vì vậy. nếu hệ thống tư pháp Việt Nam không được cải cách theo hướng mới thì để làm được điều này, lại phải cần đến một sồ hướng dẫn thường xuyên và cụ thể.

Nguyễn Hổng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Trong bối cánh hiện hành của Việt Nam, theo truyền thống của cơ chế áp dụng pháp luật, trong trường hợp này, việc hướniỉ dẫn thường xuyên về các dấu hiệu hay tiêu chí trong những bối cảnh khác nhau để xác định tính lành mạnh hay không lành mạnh của một hành vi thương trường có thế được thồc hiện bởi "Cơ quan quản lý Nhà nước về cạnh tranh" - một cách làm cũng khá đặc thù nhưng có thể có tính khá thi.

- 81 -

Khóa luận tốt nghiệp

Theo tinh thẩn đó, để pháp Luật Cạnh tranh có hiệu lực, còn cần có cả những quy định về thẩm quyển xét xử của toa án và thẩm quyển của các cơ quan quản lý hành chính để tránh tình trạng "tranh chấp về thẩm quyền". Theo kinh nghiệm quốc tế thì các tranh chấp phát sinh từ các hoạt động cạnh tranh và theo luật (nội dung) cạnh tranh là các tranh chấp thương mại và đưởc giải quyết tại các toa thương mại. Tuy nhiên, những điều này không nhất thiết phải đưởc ghi nhận trong "Luật Cạnh tranh".

2. N h óm các giải pháp về phía doanh nghiệp

a. Tiên hành nghiên cứu ngay những quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam 2004

Tổ chức, cá nhân kinh doanh và các hiệp hội hành nghề hoạt động ở Việt Nam là đối tưởng điều chỉnh chủ yếu của Luật Cạnh tranh 2004. Với việc quy định khá cụ thể về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh sẽ giúp các doanh nghiệp đưởc hoạt động trong một môi trường lành mạnh và đưởc đảm bảo về quyền và lởi ích tốt hơn. Tuy nhiên, có làm đưởc điểu này hay không lri phụ thuộc vào sự nhanh nhạy, sự năng động của thương nhân, đặc biệt phụ thuộc vào sự hiểu biết về pháp luật của họ.

Pháp luật ở đây, trước tiên là pháp luật về cạnh tranh. Luật Cạnh tranh 2004 có rất nhiều quy định khá cụ thế về các hành vi cạnh tranh như hành vi hạn chế cạnh tranh (bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung kinh tế) và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, thương nhân và cả những tổ chức, cá nhân muốn trở thành thương nhân cần phải nghiên cứu ngay những quy định mới này để áp dụng vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều rày là rất quan trọng, bởi vì chỉ khi nào họ thực sự hiểu pháp luật, họ mới biết pháp luật cho họ những quyền gì, họ phải có những nghĩa vụ gì, pháp luật quy định như thế nào về những hoạt động mà họ quan tâm. Nhờ đó, các thương nhân sẽ không vi phạm pháp luật và qua.1 trọng hơn, họ đưởc bảo vệ theo quy định của pháp luật, hoạt động có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình.

Nguyễn Hẩng Hạnh - A4 K40B - QTKD

Khóa luận tối nghiệp

-82-

b. Tiến hành kình doanh trên cơ sở tôn trọng và tuân theo những quy định của Luật Cạnh tranh 2004

Đây là một yêu cầu quan trọng đảm bảo cho sự vận hành "trôi chảy" của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chú nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta. Tất cả các quy định trong Luật Cạnh tranh 2004 cần được các thương nhân tuân thủ một cách nghiêm ngặt, vận dụng một cách đúng đửn vào thực tiễn hoạt động kinh doanh của mình. Hơn nữa, cùng với Luật Cạnh tranh 2004, dự thảo nghị định về xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh đã được ban hành, đã đưa ra những chế tài xử phạt khá nặng cho nhiều loại hành vi vi phạm pháp Luật Cạnh tranh, theo đó người vi phạm có thể bị phạt hành chính hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì thế, chì có tôn trọng và tuân thủ các quy định của Luật Cạnh tranh 2004 mới giúp các thương nhân tránh được những hành vi vi phạm, từ đó mới đảm bảo sự tổn tại lâu dài của chính mình trên thương trường.

3. N h óm các giải pháp khác

a. Đôi với cơ quan quản lý cạnh tranh, hội đồng cạnh tranh

Đây là hai cơ quan có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp liên quan đến các vấn đề về cạnh tranh. Để đảm bảo hoạt động có hiệu quả của mình, các cơ quan này cần phải:

- Nghiên cứu Luật Cạnh tranh 2004 một các kỹ càng, đặc biệt các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh và các quy định về điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh...

Nguyễn Hống Hạnh - A4 K40B - QTKD

- Không ngừng nâng cao trình độ của các cán bộ tham gia vào giải quyết tranh chấp, nhất là phải lựa chọn được cán bộ có đủ năng lực, nghiệp vụ chuyên m ôn cũng như phẩm chất đạo đức để đảm nhiệm các chức vụ Chủ tịch H ội đổng cạnh tranh, điều tra viên và thành viên của H ội đổng cạnh tranh.

-83-

Khóa luận tốt nghiệp

b.Đối với các chủ thể khác của Luật Cạnh tranh 2004

Ngoài các chủ thế đã kể trên, Luật Cạnh tranh 2004 còn điều chỉnh mội số chủ thể khác hoạt động liên quan đến thương mại chẳng hạn như các hiệp hội thương mại, các hiệp hội ngành hàng... M ột số việc mà các hiệp hội này cẩn làm là:

- T im hiểu những quy định của Luật Cạnh tranh 2004

- Tổ chức các lớp học cho các thương nhân tham gia hiệp hội của mình về Luật Cạnh tranh 2004. Đây đưỚc coi là một biện pháp khá hiệu quả để tuyên truyền, giới thiệu Luật Cạnh tranh đến tận các doanh nghiệp.

T óm lại, cạnh tranh và độc quyền là những thuộc tính cố hữu của nền

kinh tế thị trường. Ớ đâu có cạnh tranh và cạnh tranh gay gắt thì ở đó tất yếu sẽ có thống lĩnh và độc quyền. Kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền và duy trì một trật tự cạnh tranh lành mạnh làm động lực cho sự phát triển của nền kinh tế thuộc về vai trò của nhà nước. Để thực hiện vai trò này, mỗi quốc gia đều có những bước đi, cách làm cụ thể, song thực tế đã chứng minh, chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền chì có thê thành công nếu nó đưỚc xây dựng xuất phát từ nhận thức đầy đủ về đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế, vãn hoa, xã hội cũng như các truyền thống và kỹ năng lập pháp của mồi quốc gia đó.

Nguyễn Hống Hạnh - A4 K40B - QTKD

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, chúng ta đang đứng trước những thách thức và cơ hội to lớn trong quá trình đổi mới và hội nhập mạnh mẽ vào đời sồng kinh tế quốc tế. Thực tiễn hoạt động thương mại giữa các thương nhân trong và ngoài nước cho thấy chúng ta đang phải đối mặt với quá trình cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền đang có chiều hướng gia tăng. Đứng trước thực trạng đó, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng đưỚc chính sách cạnh tranh phù hỚp với đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta. trỉn cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước đi trước.

Khỏa luận tốt nghiệp

-84-

KÊT LUẬN

Cạnh tranh là một hoạt động thực tiễn của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một quy luật kinh tế, chịu sự chi phối, tác động của nhiều quy luật kinh tế khác nhau. Mặt khác, cạnh tranh là hoạt động có tính chủ quan của chủ thể sân xuất, kinh doanh vừa do bản chất, mục đích kinh doanh của người đó chi phối, vừa chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước điều tiết phù hỏp với quy Luật Cạnh tranh và các quy luật khác về kinh tế và xã hội.

Xây dựng pháp luật vẻ chống cạnh tranh không lành mạnh ớ Việt Nam là đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa đất nước. Tuy nhiên, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nó đưỏc xuất phát từ một chính sách cạnh tranh đúng, phù hỏp với các điều kiện của Việt Nam trước yêu cẩu hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Xuất phát từ những phân tích ở trên, người viết đề ra một số giải pháp để thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 nói chung và những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng trong thực tế. Các giải pháp đưỏc chia ra làm ba nhóm chính: nhóm giải pháp về phía các cơ quan nhà nước quản lý về cạnh tranh, nhóm các giải pháp liên quan đến doanh nghiệp và nhóm giải pháp liên quan đến các chú thể khác của Luật. Tất cà những giải pháp trên sẽ là những biện pháp cẩn thiết đảm bảo chò sự áp dụng đúng đắn và hiệu quả nhất Luật Cạnh tranh 2004 đối với hoạt động cạnh tranh đang diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp trên thị trường.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

T óm lại, trên đây mới chỉ là nghiên cứu cơ bản về những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh Hanh Việt Nam năm 2004. Để có thể phân tích một cách cụ thể và chi tiết hơn những quy định cứa Luật, và khả năng áp dụng trong thực tiễn của những quy định này cần phải có nhiều nghiên cứu, nhiều đánh giá sâu sắc trong một khoảng thời gian dài hơn nữa. Người viết hy vọng có thể đề cập lại, có mở rộng, vấn để này trong mội nghiên cứu cao hơn của mình.

- 85 -

Khóa luận tốt nghiệp

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ì. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm 2001.

Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995. 2.

3. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.

Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004, nhà xuất bản Chính trị 4. Quốc gia, năm 2005.

5. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997.

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005. 6.

7. Pháp lệnh Bảo vệ quyên lợi của nguôi tiêu dùng 27- 4 - 1999.

8. Pháp lệnh Chất lượng hàng hoa 4 - 7 - 2000.

9. Nghị định 194 - CP ngày 31 - 12 - 1994 về hoạt động quảng cáo.

lo. Bộ thương mại, Tài liệu tham khảo luật vẻ cạnh tranh và chống độc quyền của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, Ban soạn thảo luật cạnh tranh và chống độc quyền, năm 2001.

11. Các văn bản pháp quy điều tiết về cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004.

12. Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hòa Pháp, tập Ì, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004.

13. Viện nghiên cởu Nhà nước và pháp luật, "Những vấn đề lý luận cơ bân về Nhà nước và pháp luật", Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. K i nh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.

15. ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, Chuyên đề nghiên cởu: "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp Luật Cạnh tranh".

Nguyền Hồng Hạnh - A4 - K40B - QTKD

Khóa luận tối nghiệp

-Sô-

lô. Lê Đăng Doanh, "Những vấn đề cơ bản về chính sách cạnh tranh và pháp Luật Cạnh tranh", Tạp chí nhà nước và pháp luật năm 2000.

17. Nguyễn Thị Dung, Chuyên để nghiên cứu: "Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh".

18. ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương, Chuyên để nghiên cứu: "Bảo vệ quyển lợi người tiêu dùng trong pháp Luật Cạnh tranh".

19. Vũ Xuân Đào, Chuyên đề nghiên cứu: "Nhà nước với việc kiểm soát độc quyền và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam".

20. PGS. TS. Lê Hồng Hạnh, Chuyên để nghiên cứu: "Một sầ đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có ảnh hưởng tới pháp luật về cạnh tranh".

21. TS. Trần Đình Hảo, Chuyên đổ nghiên cứu: "Pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinhtế hàng hóa, nhiều thành phần theo cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay".

22. ThS. Hà Huy Hiệu, ThS. Bùi Nguyên Khánh, Chuyên để nghiên cứu: "Một sầ khía cạnh quầc tế của pháp luật về chầng cạnh tranh không lành mạnh".

23. ThS. Đặng Vũ Huân, Chuyên đề nghiên cứu: "Điều chinh pháp luật đầi với hành vi cạnh tranh không lành mạnh và vấn đề kiểm soát độc quyền". Bộ Tư pháp.

24. Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyên và chầng cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quầc gia, năm 2004

25. Nguyễn Hữu Huyên, Chuyên đề nghiên cứu: "Thực tiễn giảng dạy, nghiên cứu Luật Cạnh tranh ở một sầ nước trên thế giới".

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

26. Nguyễn Hữu Huyên, Chuyên đề nghiên cứu: "Những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và độc quyền".

-87-

Khóa luận tốt nghiệp

27. ThS. Nguyễn Đức Minh, Chuyên đề nghiên cứu: "Pháp Luật Cạnh tranh trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta - thực trạng và yêu cầu hoàn thiện", Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.

28. TS. Phạm Hữu Nghị, Chuyên để nghiên cứu: "Về mô hình pháp Luật Cạnh tranh ở Việt Nam".

29. TS. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nỉi, năm 2004.

30. TS. Phạm Duy Nghĩa, T im hiểu Luật Thương M ại Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia năm 1999.

31. ThS. Nguyễn Khánh Ngọc, Chuyên để nghiên cứu: "Mỉt số kinh nghiệm quốc tế về thiết lập và thực thi pháp luật về cạnh tranh".

32. TS. N guyễn Như Phát, Bùi Đình Hảo, Canh tranh và xây dưng pháp Luật Cạnh tranh ở Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.

33. T.s Nguyễn Như Phái, Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật năm 2005.

34. T.s Nguyễn Như Phát, ThS. Bùi Nguyên Khánh, Chuyên để nghiên cứu: "Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam".

35. TS. Nguyễn Như Phát, LG. Nguyễn Thị Hiền, Chuyên đề nghiên cứu: "Thực trạng cạnh tranh và sự cẩn thiết xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam".

36. TS. Nguyễn Như Phát, Chuyên đề nghiên cứu: "Tim hiểu đối lượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh", Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

37. CN. Lê Viết Thái, Chuyên đề nghiên cứu: "Xây dựng chính sách cạnh tranh ử Việt Nam hiện nay".

- 88 -

Khóa luận tốt nghiệp

38. TS. Bùi Tất Thắng, Chuyên đề nghiên cứu: "Tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay", Viện Kinh tế học.

39. PGS. TS. Đào Trí úc, Chuyên đề nghiên cứu: "Quan điểm về cạnh tranh và pháp Luật Cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam".

40. Nguyễn Thị Yến, Chuyên đề nghiên cứu: "Sự cần thiết của việc nghiên cứu và giảng dạy pháp Luật Cạnh tranh tại trường Đại học Luật Hà

Nội".

41. Tạp chí nghiên cứu kinh tế s 229 - tháng 6/1997

42. Tạp chí nghiên cứu kinh tế s 254 - tháng 7/1999

43. Thời báo kinh tế Việt Nam - 24/7/2000

44. Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 4/2000

45. M ột s trang Wcb:

• www.gso.gov.vn;

• www.irv.raoi.gov.vn;

• www.vnexpress.net;

• www.mot.gov.vn;

• www.mof.gov.vn;

• www.vnn.vn;

• www.thanhnien.com.vn;

• www.review.com.vn;

• www.unctad.org.com;

• www.oecd.org.com;

• www.undp.org.com; ...

Nguyễn Hồng Hạnh - A4 K40B - QTKD

LV.01051