MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển
mình, vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vị trí trong khu vực cũng như trên thế giới.
một trong những thành viên của tổ chức thương mại quốc tế ( WTO), c diễn đàn
kinh tế lớn đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam nhiều n các hội đầu
tư, kinh doanh hợp tác. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng sẽ gặp nhiều khó khăn,
thách thức do cùng lúc xuất hiên nhiều đối thủ cạnh tranh cùng ngành nghề, cùng
cơ hội và điều kiện phát triển như nhau. Bởi vậy, rất cần một hành lang pháp lý để tạo
môi trường phát triển lành mạnh, công bằng, tháo gỡ những khúc mắc, xung đột trong
quá trình phát triển doanh nghiệp.
Một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy doanh nghiệp, đặc biệt các doanh
nghiệp trong lĩnh vực gia công, phân phối, đại sản phẩm thì hội chợ, triển lãm
thương mại một chiến lược phát triển quan trọng, giúp hàng hóa đến gần hơn với
người tiêu dùng, đồng thời khẳng định thương hiệu, vị thế của doanh nghiệp trong nền
kinh tế phát triển năng động như hiện nay.
Đối với người tiêu dùng, hội chợ, triển lãm thương mại thú vui để vừa thể tham
khảo, tìm hiểu sản phẩm hàng hóa, vừa thể mua được những món đồ ưng ý. Sức
mua ở hội chợ là rất lớn, vì những mặt hàng ở đây đều có tính mới, giá cả phải chăng,
đồng thời, khách hàng còn được trực tiếp thử nghiệm. Bởi vậy, những nhân kinh
doanh hội chợ rất biết quảng sản phẩm của đơn vị mình thông qua những hình
thức như khuyến mại, giảm giá.
Tuy nhiên thực tế Việt Nam, số lượng hội chợ, triển lãm thương mại diễn ra quy
lớn, thu hút được đông đảo sự quan tâm cũng như tham gia của công chúng còn
hạn chế. Tính “ chợ” vẫn còn phổ biến, không có tính chọn lọc về mặt hàng cũng như
thương nhân tham gia. Hội chợ, triển lãm thương mại ở quy mô nhỏ vẫn chiếm đa số,
chưa tận dụng hết được thế mạnh của địa phương cũng như doanh nghiệp đứng ra tổ
2
chức. Bên cạnh đó, chưa kể đến những chủ thể tổ chức trò đỏ đen, cờ bạc biến tướng
khiến khách hàng tham gia bức xúc, không còn lòng tin những hội chợ, triển lãm
thương mại.
một sinh viên theo học ngành luật, nhận thấy những bất cập trên, em mong muốn
được tìm hiểu những quy định của pháp luật về hội chợ, triển lãm thương mại cũng
như được đi vào khảo sát thực tế việc thưc hiện pháp luật trong lĩnh vực này tại c
doanh nghiệp. Từ đó đưa ra những bất cập, hạn chế đề ra các kiến nghị, giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về hội chợ, triển lãm thương mại, góp phần nâng cao hiệu
quả của xúc tiến thương mại trong doanh nghiệp.
do trên, em quyết định chọn đề tàiPháp luật về hội chợ, triển lãm thương mại
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thực tiễn thực hiện tại công ty cổ
phần truyền thông và tổ chức sự kiện Hà Nội” làm đề tài báo cáo tốt nghiệp cho mình.
3
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT V HỘI CHỢ, TRIỂN LÃM
THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
TRUYỀN THÔNG TỔ CHỨC SỰ KIỆN HÀ NỘI
1.1. Thực trạng pháp luật về hội chợ, triển lãm thương mại theo quy định của
pháp luật Vit Nam hiện hành
1.1.1. Tổng quan pháp luật điều chỉnh về hội chợ, triển lãm thương mại
Để điều chỉnh vấn đề về hội chợ, triển lãm thương mại, hiện nay, pháp luật Việt Nam
có quy định tại luật thương mại 2005 và Nghị định 81/2018/ NĐ- CP quy định chi tiết
luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, nghị định 175/2004/ CP về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Số văn bản pháp luật để điều
chỉnh vấn đề này không nhiều, tuy nhiên vẫn luôn phát huy hiệu lực trong suốt thời
gian dài trong quá trình phát triển và hội nhập nền kinh tế.
Ngoài ra, khi hội chợ diễn ra với nhiều chủ thể tham gia khác nhau thì luật dân sự,
hành chính, nh sự, những quy chuẩn đạo đức hội, các văn hóa, thuần phong mỹ
tục của vùng miền hoặc của dân tộc cũng được áp dụng trong việc xây dựng hợp
đồng, quy chế tham gia hội chợ, triển lãm thương mại. c chủ thể thể xây dựng
những nội quy áp dụng riêng, phù hợp với ngành nghề tham gia và pháp luật.
1.1.2. Nội dung hội chợ, triển lãm thương mại theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành
1.1.2.1. Khái niệm hội chợ, triển lãm thương mại
Khoản 10 điều 3 luật thương mại 2005 quy định Xúc tiến thương mại hoạt
động thúc đẩy, m kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dch vụ, bao gồm hoạt
động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ
hội chợ, triển lãm thương mại”.
4
Như vậy, hội chợ, triển lãm thương mại một trong những hoạt động của xúc tiến
thương mại. Có thể hiểu, hội chợ là nơi tổ chức trưng bày, giới thiệu các sản phẩm của
một địa phương, một nước trong một khoảng thời gian nhất đnh. Còn triển lãm
cuộc trưng bày vật phẩm, tài liệu để cho mọi người đến xem.
Theo điều 129 luật thương mại 2005 “Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc
tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian một địa điểm nhất
định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy,
tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ”.
Đồng thời , luật thương mại 2005 cũng định nghĩa về kinh doanh dịch vụ hội chợ,
triển lãm thương mại, theo đó Kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại
hoạt động thương mại, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ này cung ứng dịch vụ
tổ chức hoặc tham gia hội chợ, triển lãm thương mại cho thương nhân khác đnhận
thù lao dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại”.
1.1.2.2. Đặc điểm hội chợ, triển lãm thương mại
Thứ nhất, đối tượng tham gia hội chợ, triển lãm thương mại những thương nhân
theo quy đnh của pháp luật, bao gồm: Thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương
nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Trường hợp
thương nhân nước ngoài muốn tham gia hội chợ, triển lãm tại Việt Nam thể tham
gia trực tiếp hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại
tại Việt Nam thực hiện ( điều 131 luật thương mại 2005).
Thương nhân Việt Nam bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên đăng kinh doanh
( khoản 1 điều 6 luật thương mại 2005). Thương nhân nước ngoài thương nhân
được thành lập, đăng kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài được
pháp luật nước ngoài công nhận ( điều 3 nghị định 90/2007/ NĐ-CP của Chính phủ
5