ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Hồ Trung Hiếu
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MAI THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2013-L
HÀ NỘI, 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Hồ Trung Hiếu
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MAI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chất lượng cao
Khóa học: QH-2013-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
Thầy Trần Trí Trung
Giảng viên bộ môn Luật kinh doanh, Khoa Luật
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là do tự bản thân thực hiện có sự hỗ
trợ từ giáo viên hướng dẫn và không sao chép các công trình nghiên cứu của người
khác. Các dữ liệu thông tin thứ cấp sử dụng trong Khóa luận là có nguồn gốc và
được trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... iii
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI .............................................................................................................................6
1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................................6
1.1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc ( Most Favour Nation treatment) và Đối xử Quốc gia (National Treatment) .............................................................................6
1.1.2. Khái niệm về phòng vệ thương mại ........................................................8
1.2. Cơ sở pháp lý của công cụ phòng vệ thương mại ........................................9
1.3. Một số biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến .....................................10
1.3.1. Biện pháp chống bán phá giá ...............................................................10
1.3.2. Biện pháp chống trợ cấp .......................................................................12
1.3.3. Biện pháp tự vệ ......................................................................................15
1.4. Tính chất, mục đích của công cụ phòng vệ thương mại ...........................16
1.5. Pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ ........................................17
1.5.1. Khái quát chung về phòng vệ thương mại trong pháp luật Hoa Kỳ ...17
1.5.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật Hoa Kỳ ...18
1.5.2.1. Chống bán phá giá theo pháp luật của Hoa Kỳ ..............................18
1.5.2.2. Biện pháp chống trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ ............................24
1.5.2.3. Biện pháp tự vệ ................................................................................28
Kết luận chương 1 ...................................................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM ......................................................................................................31
2.1 Pháp luật hiện hành về các biện pháp phòng vệ thương mại ..................31
2.1.1 . Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá .........................................31
2.1.1.1 Thủ tục điều tra vụ việc chống bán phá giá ....................................32
iv
2.1.1.2 Thủ tục xử lý vụ việc chống bán phá giá .........................................40
2.1.1.3 Phương thức áp dụng thuế chống bán phá giá ...............................47
2.1.2 Pháp luật về biện pháp chống trợ cấp ..................................................49
2.1.2.1 Định nghĩa trợ cấp hàng hoá nhập khẩu ........................................49
2.1.2.2 Các hình thức trợ cấp hàng hoá nhập khẩu ....................................50
2.1.2.3 Xác định trợ cấp ..............................................................................51
2.1.2.4 Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp .......51
2.1.2.5 Áp dụng biện pháp chống trợ cấp ...................................................52
2.1.3 Pháp luật về biện pháp tự vệ .................................................................53
2.1.3.1 Cơ sở áp dụng biện pháp tự vệ ........................................................54
2.1.3.1 Áp dụng biện pháp tự vệ ..................................................................54
2.2 Thực tiễn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ tại Việt Nam ........................................................................................................55
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ...........................................................................................................59
3.1 Những hạn chế về mặt pháp lý trong việc sử dụng công cụ phòng vệ thương mại tại Việt Nam ........................................................................................59
3.2 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam ........................................................................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................68
v
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ADA Anti-dumping Agreement Hiệp định về chống bán phá
giá của WTO
DOC Department of Commerce Bộ Thương mại Hoa Kỳ
EU European Union Liên Minh Châu Âu
FTA Free Trade Agreements Hiệp định thương mại tự do
ITC International Trade Commission Uỷ ban Thương mại Quốc
tế Hoa Kỳ
SCM Agreement on Subsides and Hiệp định về Chống trợ cấp
Countervailing Measures và các biện pháp đối kháng
của WTO
SG Agreement on Safeguard Measures Hiệp định về biện pháp tự
vệ của WTO
VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Phòng Thương mại và
Industry Công nghiệp Việt Nam
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế
giới
PVTM Phòng vệ thương mại
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
1.1 Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ 27
vii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại thương mại toàn cầu, khi cạnh tranh thương mại không chỉ nằm
gọn trong biên giới khu vực hay một quốc gia nhất định thì pháp luật điều tiết vấn
đề cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì vậy, quy chế về
phòng vệ thương mại đã trở thành một trong những nội dung quan trọng trong
khuôn khổ pháp luật về thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới. Pháp
luật Việt Nam cũng kịp thời ghi nhận và có các quy định hướng dẫn cách áp dụng
các công cụ này để bảo hộ cho hàng hóa và nền sản xuất trong nước trước sự thâm
nhập và cạnh tranh ngày một mạnh mẽ của hàng hóa nước ngoài. Cụ thể, pháp lệnh
chống bán phá giá, pháp lệnh chống trợ cấp và pháp lệnh tự vệ cùng các văn bản
hướng dẫn thi hành đã được ban hành, để trang bị cho các doanh nghiệp Việt Nam
thêm một phương tiện hợp pháp trong quá trình tự do hóa thương mại quốc tế, tuy
nhiên trên thực tế các văn bản này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Trên thực tế, cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam phải
đối mặt với ngày càng nhiều các vụ kiện phòng vệ thương mại khi xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài. Dưới hình thức thuế bổ sung, hạn ngạch... các biện pháp phòng
vệ thương mại này là những rào cản mang tính bảo hộ đang có nguy cơ gia tăng tại
các thị trường xuất khẩu, gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và mở rộng thị phần xuất khẩu. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của WTO, những vụ kiện do các nước áp dụng các biện pháp phòng vệ
thương mại không những không giảm đi mà ngược lại có xu hướng tăng lên rõ rệt.
Những vụ kiện này rõ ràng đã gây ra những tác động lớn cho nền kinh tế Việt
Nam.Trong khi đó, việc sử dụng công cụ phòng vệ thương mại tại nước nhà lại
không thật sự hiệu quả. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Nhà nước, các địa phương, Hiệp
hội ngành hàng và nhất là bản thân các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động đối
phó, phải nâng cao hiểu biết pháp luật về phòng vệ thương mại để có thể nâng cao
năng lực tự bảo vệ trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
viii
Vì vậy, hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu đề tài :"Áp dụng các biện pháp
phòng vệ thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay" có tính cấp thiết cao.
Qua việc nghiên cứu về pháp luật phòng vệ thương mại của WTO, Hoa Kỳ và pháp
luật Việt Nam, tác giả đã cố gắng đưa ra những góp ý về mặt pháp lý nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về phòng vệ thương mại tại Việt Nam, qua đó tạo cơ sở
tiền đề cho các doanh nghiệp, Hiệp hội trong nước có thể sử dụng công cụ này một
cách hữu ích hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi chuẩn bị cho quá trình đàm phán gia nhập WTO và thực hiện các chính
sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, tại Việt Nam, liên quan đến đề tài,
đã có nhiều công trình nghiên cứu, các đề tài chuyên khảo của các luật gia và tổ
chức trong nước. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu đã được Phòng thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát hành, như "Hỏi - đáp Pháp luật về
chống bán phá giá - Những điều cần biết". Đây là cuốn sách đầu tiên tại Việt Nam
giới thiệu tương đối đầy đủ những quy định hiện hành của WTO, Hoa Kỳ và Liên
minh Châu Âu về việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá dưới dạng các câu
hỏi và đáp ngắn gọn, cụ thể và thiết thực. Hay "Kiện chống bán phá giá", "Trợ cấp
và thuế chống trợ cấp", "Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế" và "Cẩm nang
kháng kiện chống bán phá giá - chống trợ cấp tại Hoa Kỳ" là những ấn phẩm bổ ích
trong việc đem lại những kiến thức cơ bản cho người đọc trong việc tiếp cận các
khái niệm chung, các đặc điểm của các biện pháp phòng vệ thương mại. Hội đồng
tư vấn về phòng vệ thương mại (Hội đồng TRC) thuộc VCCI cũng đã phát hành
nhiều cuốn sách về phòng vệ thương mại, như cuốn "Tranh chấp về chống bán phá
giá trong WTO", "Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá - chống trợ cấp tại Hoa
Kỳ", Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá -chống trợ cấp tại Hoa Kỳ"... cùng
với các ấn phẩm khác của Cục Quản lý Cạnh tranh, trực thuộc Bộ Công thương như
"Các văn bản pháp luật về Biện pháp bảo đảm thương mại công bằng trong thương
mại quốc tế của Việt Nam" và "Hỏi đáp về pháp luật chống bán phá giá của Việt
Nam"là những ấn phẩm đã được xuất bản rộng rãi, là tài liệu quen thuộc với các
2
doanh nghiệp, các đối tượng muốn tìm hiểu về pháp luật phòng vệ thương mại nói
chung.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới các công trình nghiên cứu, luận văn
của các thạc sĩ, luận án của các tiến sĩ cũng về đề tài này. Có thể kể đến luận án tiến
sĩ của tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu
và cơ chế thực thi tại Việt Nam, bảo vệ năm 2011 tại trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Anh, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, các bài học
kinh nghiệm của một số nước và khuyến nghị đối với Việt Nam trong thời gian
tới,...cùng nhiều luận án, luận văn có liên quan hoặc đề cập tới đề tài này. Những
kiến thức trên là những kiến thức rất quý báu để tác giả có thể tham khảo, kế thừa
nhằm hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài :"Áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại theo
pháp luật Việt Nam hiện nay" nhằm đạt được các mục đích sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp phòng vệ thương mại
đang được pháp luật thương mại thế giới thừa nhận và cho phép áp dụng, cụ thể
như: Khái niệm các biện pháp phòng vệ thương mại; các đặc điểm của các biện
pháp phòng vệ thương mại và các điều kiện áp dụng các biện pháp phòng vệ thương
mại; vai trò, tác dụng của các biện pháp phòng vệ thương mại đối với thương mại
hàng hóa và kinh tế quốc tế.
Thứ hai, phân tích, đánh giá khái quát các quy định pháp luật về phòng vệ
thương mại tại quốc gia có nền kinh tế phát triển cao và là thị trường xuất khẩu
trọng điểm của Việt Nam là Hoa Kỳ, và từ đó so sánh, đối chiếu các quy định của
pháp luật phòng vệ thương mại của Việt Nam với các quy định của WTO và Hoa
Kỳ.
Thứ ba, trên cơ sở so sánh, đối chiếu pháp luật của Việt Nam với các quy định
của Hoa Kỳ và WTO, từ đó nhìn nhận một số hạn chế trong pháp luật nước nhà và
3
đề ra một số giải pháp pháp lý, góp phần đẩy mạnh hiệu quả sử dụng công cụ phòng
vệ thương mại tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là cơ sở pháp lý của các biện pháp phòng
vệ thương mại, thực trạng pháp luật và những vấn đề thực tiễn có ảnh hưởng đến
khả năng áp dụng pháp luật về phòng vệ thương mại nhằm góp phần hoàn thiện về
mặt lý luận và các quy định của pháp luật về phòng vệ thương mại đối với các hàng
hoá nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
Đề tài pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại là một đề tài sâu và
rộng, vì vậy, trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, tác giả giới hạn phạm
vi nghiên cứu về các khái niệm pháp lý của các biện pháp phòng vệ thương mại,
pháp luật về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ - thị trường xuất khẩu rất lớn của
Việt Nam, đây cũng là nơi xảy ra hàng loạt vụ kiện phòng vệ thương mại đối với
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, được khởi xướng bởi chính Hoa Kỳ; và cuối
cùng là nghiên cứu thực trạng pháp luật về phòng vệ thương mại tại Việt Nam qua
ba pháp lệnh chính là Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt
Nam 2004, Pháp lệnh về chống trợ cấp 2004 và Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ
2002.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về
Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của khóa luận được nêu và phân tích dựa trên cơ
sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
và các tài liệu pháp lý.
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: tổng
hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu lịch sử....
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận tốt nghiệp
4
Đây là khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống, khá toàn diện về pháp luật
phòng vệ thương mại ở Việt Nam hiện nay. Các kiến nghị, kết luận nêu ra trong
khóa luận đều là các kiến thức mà tác giả đúc kết trong quá trình nghiên cứu kiến
thức từ các luật gia đi trước, đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với cá
nhân tác giả.
Về mặt thực tiễn, những nghiên cứu, kết luận và đề xuất hoàn thiện pháp luật
còn có ý nghĩa trong việc đóng góp vào công cuộc hoàn thiện pháp luật chống bán
phá giá, chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả và
khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan sử dụng công cụ phòng vệ thương mại như
là một phương pháp hữu ích, một chiếc van an toàn nhằm bảo vệ nền kinh tế nước
nhà.
7. Kết cấu của khoá luận
Kết cấu của khóa luận dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ và phạm
vi nghiên cứu. Khóa luận bao gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật phòng vệ thương mại
Chương II: Thực trạng pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại tại
Việt Nam
Chương III: Đề xuất và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện
pháp phòng về thương mại ở Việt Nam.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc ( Most Favour Nation treatment) và Đối xử Quốc
gia (National Treatment)
Dựa trên những nguyên tắc cốt lõi của WTO, các quốc gia đều không được
phân biệt bạn hàng thương mại của mình. Nếu dành ưu đãi đặc biệt cho một quốc
gia nào đó (ví dụ như tỷ suất thuế thấp đối với một loại sản phẩm) thì cũng phải
dành ưu đãi đó cho mọi thành viên khác trong WTO mà không cần bất cứ sự thoả
thuận thêm nào. Chính vì vậy, nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc và Đãi ngộ Quốc gia
không chỉ có ý nghĩa đối với việc đảm bảo một chính sách thương mại đa biên bình
đẳng, mà còn giảm thiểu được các chi phí trong đàm phán thương mại.
Đãi ngộ Tối huệ quốc là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong
Điều I - Hiệp định GATT, điều II - Hiệp định GATS và điều IV - Hiệp định TRIPS.
Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan
và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau
(hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng,
không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản
phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác
thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả
các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho
phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này.[23, tr 4]
Trong khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được phép áp
dụng đối xử phân biệt giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một
nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá
tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm
6
nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí
khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương
tự sản xuất trong nước. [23,tr 5]
MFN và NT là 2 nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của hệ thống thương mại quốc
tế và đều có chung bản chất là sự không phân biệt đối xử, hay nói cách khác là đối
xử bình đẳng. Nguyên tắc này được thể hiện rất rõ nét thông qua các Hiệp định của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ
hợp tác kinh tế-thương mại khu vực cũng như trong các hiệp định thương mại song
phương. Ở nước ta, với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối
ngoại, Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Chính vì vậy, các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế đang dần dần
được nghiên cứu và áp dụng.
Theo cách tiếp cận của Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 về đối xử tối
huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế, đối xử tối huệ quốc trong
thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành
cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ một nước so với hàng hoá tương tự nhập
khẩu có xuất xứ từ nước thứ ba hoặc hàng hoá xuất khẩu đến một nước so với hàng
hoá tương tự xuất khẩu đến nước thứ ba. Theo khái niệm này, nguyên tắc cơ bản
khi áp dụng MFN chính là không phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu có
xuất xứ từ nhiều nước khác nhau. Phạm vi áp dụng MFN không chỉ đơn thuần nằm
trong lĩnh vực thuế, các loại phí và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu hoặc liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu mà còn bao gồm cả
phương thức thanh toán, việc chuyển tiền thanh toán, các quy định và thủ tục liên
quan đến xuất nhập khẩu, thuế và các loại phí thu trực tiếp hoặc gián tiếp trong
nước đối với hàng hoá nhập khẩu, chính sách hạn chế định lượng...
Song song với đối xử MFN, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc
gia trong thương mại quốc tế quy định các nguyên tắc áp dụng đối xử quốc gia, theo
đó đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn
đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá tương tự trong
7
nước. Theo khái niệm này, Việt Nam không thể thực hiện các phân biệt đối xử giữa
hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp sản xuất trong
nước. Nói cách khác đối xử quốc gia là việc áp dụng các chính sách, quy định ưu
đãi thể hiện bằng luật pháp và cơ bản bằng thuế đối với doanh nghiệp, công dân của
quốc gia khác ngang bằng với các ưu đãi dành cho doanh nghiệp, công dân của
quốc gia mình.
Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia cũng khẳng định Nhà
nước Việt Nam áp dụng Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại
quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi. Tuy nhiên,
Pháp lệnh cũng đưa ra các ngoại lệ để từ đó có thể xây dựng và áp dụng các biện
pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước khi cần thiết. Tất
nhiên, việc áp dụng các ngoại lệ này phải đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực
trong thương mại quốc tế, tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo
tính công bằng, có đi có lại và bình đẳng giữa các bên.
1.1.2. Khái niệm về phòng vệ thương mại
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại khi hàng rào thuế quan
trên thế giới đang chịu sức ép cắt giảm, các nước bắt đầu chú ý nhiều tới các biện
pháp phòng vệ đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Dù tồn tại nhiều quan niệm
khác nhau, tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại quốc tế, biện pháp phòng vệ có thể
được gói gọn lại là tất cả các biện pháp được Chính phủ của một quốc gia sử dụng
nhằm hạn chế các dòng mậu dịch giữa lãnh thổ nước này với lãnh thổ nước khác.
Mặc dù có thể khác nhau về bản chất, các biện pháp này đều được áp dụng nhằm
mục tiêu bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị
trường nội địa của nước nhập khẩu. Ở thời điểm hiện tại, nói đến các biện pháp
phòng vệ có thể nhắc đến các biện pháp liên chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ. Phòng vệ thương mại theo đó được hiểu là những biện pháp nhằm ngăn chặn,
hạn chế (áp thuế bổ sung, quy định hạn ngạch...) được áp dụng đối với hàng hóa
xuất khẩu từ nước này sang nước kia, được nước nhập khẩu áp dụng sau một quá
trình điều tra mà kết quả hội đủ ba điều kiện: (i) Có hiện tượng bán phá giá hoặc
8
bán hàng có trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt; (ii) ngành sản xuất nội địa của nước nhập
khẩu chứng minh được thiệt hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá
giá, bán hàng trợ cấp hay nhập khẩu ồ ạt tới ngành hàng sản xuất trong nước của
nước nhập khẩu. Hoạt động này được WTO cho phép các nước nhập khẩu sử dụng
để chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các nước xuất khẩu. Tuy nhiên,
cần phân biệt rõ, không phải là WTO áp dụng các biện pháp này mà là bản thân các
nước nhập khẩu có quyền áp dụng các biện pháp phòng vệ vì đây là mối quan hệ
giữa các nước xuất khẩu với nước nhập khẩu.[7, tr 9]
Được sử dụng để "đối phó" với hành vi thương mại hoàn toàn bình thường
(không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên về hình
thức, việc áp dụng biện pháp phòng vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hoá
thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là những biện pháp được thừa nhận trong
khuôn khổ WTO (với các điều kiện chặt chẽ để tránh bị lạm dụng). Lý do là trong
hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết
WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại là một hình thức “van an toàn” mà hầu
hết các nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn. Với chiếc van này,
nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất
nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn. Với
việc được công nhận và hợp thức hóa trong các Hiệp định của WTO, các biện pháp
phòng vệ thương mại đang ngày càng được áp dụng một cách có hiệu quả cho các
quốc gia thành viên sử dụng để tạo ra một sân chơi thương mại bình đẳng, cạnh
tranh lành mạnh. Hơn nữa, các biện pháp phòng vệ thương mại còn có tác dụng tích
cực trong việc khuyến khích tự do hóa thương mại phát triển và góp phần thúc đẩy
xây dựng một nền kinh tế quốc tế phát triển ổn định, lành mạnh hơn.
1.2. Cơ sở pháp lý của công cụ phòng vệ thương mại
Nghĩa vụ MFN và NT là hai nghĩa vụ cơ bản mà các nước thành viên của
WTO phải tuân thủ. Đồng thời nó cũng là nghĩa vụ bắt buộc trong các Hiệp định
thương mại song phương, các thoả thuận thương mại khu vực.Tuy nhiên, song song
với các quy định ràng buộc về nghĩa vụ MFN các hiệp định thương mại song
9
phương, đa phương hay các thỏa thuận khu vực cũng cho phép áp dụng các trường
hợp ngoại lệ.
Khi áp dụng MFN và NT cần đáp ứng yêu cầu cơ bản về bình đẳng, tự do
cạnh tranh với các bên tham gia và phải phù hợp với các chuẩn mực trong thương
mại quốc tế. Điều đáng lưu ý ở đây là cùng với việc áp dụng MFN và NT, sức ép
cạnh tranh do luồng hàng hóa nhập khẩu gây ra đối với ngành sản xuất trong nước
chắc chắn sẽ gia tăng. Thực tiễn trong thương mại quốc tế cho thấy, nguy cơ chịu
thiệt hại của ngành sản xuất trong nước sau khi thực hiện các cam kết MFN và NT
là rất cao. Chính vì vậy, song song với việc cam kết và thực hiện các cam kết MFN
và NT, cần cân nhắc sử dụng triệt để các trường hợp ngoại lệ của MFN để giảm
thiểu thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại mà luồng hàng hóa nhập khẩu có thể gây ra
cho ngành sản xuất trong nước.
1.3. Một số biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp phòng vệ thương mại chính đáng
được hiểu như các công cụ áp dụng nhằm mục đích bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa
tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu trong
một giai đoạn nhất định trước sự xâm nhập và cạnh tranh không công bằng của
hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Các biện pháp này nhìn chung bao gồm các biện
pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống trợ cấp.
1.3.1. Biện pháp chống bán phá giá
Bán phá giá được xem là hiện tượng xuất hiện khá sớm trong thực tiễn thương
mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước
đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bán phá giá, dưới góc độ học thuật, bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu được hiểu ngắn gọn là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp
hơn giá bán tại thị trường nội địa. Ví dụ Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng bán
phá giá (dumping) được hiểu là việc bán một hàng hoá ở nước ngoài với mức giá
thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước. [10, tr 282]; Theo Từ điển chính
sách thương mại: phá giá được hiểu là thực tiễn bán hàng của một công ty với giá
10
bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước (giá nội địa của nước
xuất khẩu) [11, tr 82]; cuốn Black’s Law dictionary định nghĩa phá giá là hành vi
bán hàng hoá ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa [12, tr
518]. Theo cách hiểu này, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là sự phân biệt giá của
cùng loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu và tiêu thụ trên thị
trường nước nhập khẩu. Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính toán
được giá xuất khẩu và giá bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa (còn gọi là giá
nội địa).
Điều 2.1 của Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại 1994 (Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO) quy định như sau:
" Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là
được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông
thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ
nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm
tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường...". [13, Điều 2.1]
Quy định trên đây đã thể hiện rõ ràng rằng việc bán phá giá trong thương mại
quốc tế có yếu tố cơ bản đó là sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị
trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, cho dù giá bán ở thị trường
tiêu thụ (nước nhập khẩu), có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường
hợp giá bán của sản phẩm nhập khẩu còn cao hơn giá của sản phẩm tương tự hiện
đang được bán tại thị trường nước nhập khẩu. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều
thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hóa xuất khẩu được bán sang
một nước khác (nước nhập khẩu) với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của
nước xuất khẩu).
Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh 20/2004 có quy định: "Biên độ phá giá là khoảng
cách chênh lệch có thể tính được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam", tại đây điều luật
không định nghĩa một cách trực tiếp khái niệm bán phá giá, nhưng việc xác định
11
biên độ phá giá thông qua sự so sánh giữa giá thông thường (giá bán sản phẩm
tương tự tại thị trường nước nhập khẩu là chủ yếu) với giá xuất khẩu sản phẩm đó
vào Việt Nam cho chúng ta thấy bán phá giá là hiện tượng khi giá xuất khẩu một
hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam thấp hơn giá thông thường của hàng hóa đó.
Một cách khái quát nhất thì bán phá giá trong thương mại quốc tế, là việc một
sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá
có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được bán tại nước xuất khẩu theo điều
kiện thương mại thông thường.
Các quy định của WTO không quy định cấm hành vi bán phá giá, nhưng áp
đặt nghĩa vụ cho các thành viên WTO và điều chỉnh hành vi bán phá giá của các
thành viên WTO. Do việc bán phá giá có thể gây thiệt hại cho ngành kinh tế nội địa
của nước nhập khẩu, nên hành vi đó "bị lên án"[14, Điều VI]. Do đó, Chính phủ
nhiều nước cho rằng họ cần phải có hành động chống lại hành vi đó nhằm bảo vệ
ngành công nghiệp trong nước mà thông thường là thông qua việc đánh thuế chống
bán phá giá để bù đắp những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do
hành vi bán phá giá gây ra.Để có thể áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa
nhập khẩu bán phá giá thì nước nhập khẩu phải chứng minh được một cách rõ ràng
các vấn đề: (i) có việc bán phá giá; (ii) có thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại; (iii)
có mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại. [15, tr.93] Để xác định
những vấn đề này, các quốc gia phải tiến hành các hoạt động theo quy định của
pháp luật của quốc gia mình trên những cơ sở không trái với các quy định của WTO
về chống bán phá giá. Như vậy, chống bán phá giá trong thương mại quốc tế là biện
pháp hợp pháp được các quốc gia thừa nhận.
1.3.2. Biện pháp chống trợ cấp
Trong đời sống thường ngày, trợ cấp được hiểu đơn giản là hành vi mà một
chủ thể có năng lực tài chính hỗ trợ cho chủ thể khác một khoản giá trị vật chất nhất
định nhằm giúp bên được trợ cấp khắc phục những khó khăn về tài chính.
Thực tế đời sống xã hội hiện nay đã tồn tại nhiều trường hợp trợ cấp với
những mục đích khác nhau, chẳng hạn như trợ cấp y tế, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
12
giáo dục... Trong các trợ cấp nói trên, có thể thấy rằng người được trợ cấp thường là
bên cần có tiền để trang trải các chi phí y tế, giáo dục, ổn định đời sống... và bên trợ
cấp thường là Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân có năng lực tài chính.
Trong hệ thống pháp luật thương mại quốc tế, theo quy định của WTO, trợ cấp
được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung
ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp/ngành sản xuất:
Một là, hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ
phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
Hai là, miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế,
tín dụng);
Ba là, mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hóa (trừ cơ sở hạ tầng
chung);
Bốn là, thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân
tiến hành các hoạt động nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
Để xác định giới hạn mức độ trợ cấp cũng như tính pháp lý của các hành vi trợ
cấp trong thương mại quốc tế, Hiệp định SCM chia trợ cấp thành 3 dạng dựa trên
mức độ ảnh hưởng đến thương mại của chúng : Trợ cấp đèn đỏ, trợ cấp đèn xanh và
trợ cấp đèn vàng.[16, trang 7]
Thứ nhất là trợ cấp bị cấm (hay còn gọi là trợ cấp đèn đỏ) là những hình thức
trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng, bao gồm: (i) trợ cấp
xuất khẩu là trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu, trợ cấp
nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm
tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng
xuất khẩu... và (ii) trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng hóa nội địa so với hàng nhập
khẩu.
Thứ hai là trợ cấp không bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ cấp đèn xanh) là
hình thức các nước thành viên có thể áp dụng mà không bị các thành viên khác
13
khiếu kiện, bao gồm: (i) trợ cấp không cá biệt là các loại trợ cấp không hướng tới
một ngành, một nhóm doanh nghiệp, một khu vực địa lý cụ thể nào, hay nói cách
khác tiêu chí để được hưởng trợ cấp loại này là khách quan, không do cơ quan có
thẩm quyền một cách tùy tiện, không xem xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng
cho bất kỳ đối tượng nào; và (ii) các trợ cấp như: trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu
do các công ty tổ chức nghiên cứu tiến hành, trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với
các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp), trợ
cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường kinh
doanh mới.
Thứ ba là trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ
cấp đèn vàng) bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn
xanh nêu trên). Các nước thành viên có thể sử dụng các hình thức trợ cấp này nhưng
nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất các sản phẩm
tương tự của nước khác thì có thể bị kiện ra WTO.
Trợ cấp hàng hóa nhập khẩu, dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng luôn có tác
động tiêu cực tới thị trường của nước nhập khẩu vì nó phá vỡ môi trường cạnh tranh
bình đẳng giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội địa. Kết quả là, loại trợ cấp
này sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong
nước với sản phẩm tương tự được trợ cấp xuất khẩu.
Do vậy, WTO cho phép nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp để
chống lại việc trợ cấp hàng hóa nhập khẩu nhằm hạn chế và khắc phục thiệt hại do
trợ cấp hàng hóa nhập khẩu gây ra. Các biện pháp mà nước nhập khẩu dùng để
chống lại hành vi trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu được gọi là các biện pháp
chống trợ cấp (còn được gọi là các biện pháp đối kháng - countervailing measures).
Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu là các biện pháp mà WTO cho phép Chính
phủ nước nhập khẩu áp dụng nhằm chống lại các tác động tiêu cực do có sự trợ cấp
của Chính phủ nước ngoài đối với hàng hóa gây ra cho thị trường nhập khẩu với
mục đích đảm bảo công bằng trong thương mại, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng
của các doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.
14
Chống trợ cấp là một biện pháp bảo hộ hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất
trong nước trước các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nhập
khẩu có sự trợ cấp của chính phủ nước ngoài. Nó nhằm vào các nhà sản xuất xuất
khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước
nhập khẩu tiến hành) chứ không nhằm vào Chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc
trợ cấp. Mục đích của biện pháp chống trợ cấp được áp dụng nhằm loại bỏ tác động
tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách
trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu.
1.3.3. Biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ nguyên nghĩa của nó là các công cụ điều tiết thương mại
mang tính khẩn cấp, tạm thời được đề cập và được biết đến lần đầu tiên một cách
chính thức từ GATT 1947. Trong đó, biện pháp tự vệ còn được hiểu là " các quy
định mang tính phòng vệ khẩn cấp". Tự vệ trong thương mại quốc tế nói chung là
các biện pháp mang tính chất tạm thời như tăng thuế nhập khẩu hoặc hạn chế về số
lượng hoặc hạn ngạch thuế quan, được một quốc gia đặt ra một cách rõ ràng và cụ
thể nhằm chặn đứng hoặc làm chậm dòng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội
địa để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà cung cấp trong nước so với
các nhà cung cấp nước ngoài.
Các biện pháp tự vệ được phân biệt với các biện pháp chống bán phá giá và
chống trợ cấp ở đối tượng mà nó điều chỉnh. Trong khi, việc áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá và chống trợ cấp chủ yếu xuất phát từ yếu tố cạnh tranh thiếu
lành mạnh, thì việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể dựa trên bất cứ sự cạnh trạnh
nào xảy ra mà kết quả của nó gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại
nghiêm trọng đến một ngành sản xuất trong nước nhất định.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự
vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về
điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ).
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành
điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
15
- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó
bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt
hại hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.
Các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn chặn
hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành sản xuất nội địa điều chỉnh; biện
pháp tự vệ không được kéo dài quá 4 năm (tính cả thời gian áp dụng biện pháp tạm
thời) và phải giảm dần theo định kỳ sau năm đầu tiên áp dụng. Trường hợp biện
pháp được áp dụng trên 3 năm thì phải được xem xét lại vào giữa kỳ để cân nhắc
khả năng chấm dứt hoặc giảm mức áp dụng mạnh hơn nữa. Biện pháp tự vệ có thể
gia hạn biện pháp tự vệ nhưng tổng cộng thời gian áp dụng và gia hạn không được
quá 8 năm. Tuy nhiên, WTO có quy định đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam có thể kéo dài thời hạn áp dụng thêm 2 năm, tức là các nước đang phát triển
như Việt Nam có quyền áp dụng biện pháp tự vệ với thời hạn không quá 10
năm.[17, tr.3]
1.4. Tính chất, mục đích của công cụ phòng vệ thương mại
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và
tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại.
Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng để đối phó với hành
vi cạnh tranh không lành mạnh. Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá
giá được sử dụng phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết
luận là phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó. Thực
tế, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông
thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp
dụng biện pháp chống bán phá giá.
Tương tự như biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp được áp
dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi biện pháp
16
chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp thì biện pháp
chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực xuất phát từ các chính sách
trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Thuế chống trợ cấp (hay còn gọi là thuế đối
kháng) là cũng là khoản thuế bổ sung, ngoài thuế nhập khẩu thông thường đánh vào
sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào nước nhập khẩu. Đây có thể được xem là
biện pháp nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài bị trợ cấp, chứ không
nhằm vào chính phủ nước ngoài thực hiện việc trợ cấp.
Khác với hai biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, biện pháp tự vệ
thường được nói đến như một công cụ bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong trường
hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước
do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, biện pháp tự vệ
có thể được áp dụng kể cả khi các đối tác thương mại thực hiện hoạt động kinh
doanh chính đáng, không có tình trạng cạnh tranh không công bằng, nên về hình
thức, việc áp dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại tự do hóa thương mại. Tuy
vậy, biện pháp tự vệ vẫn là biện pháp được thừa nhận trong WTO, với các điều kiện
áp dụng chặt chẽ nhằm tránh việc các quốc gia thành viên lạm dụng công cụ này. Vì
vậy, đây được coi là một biện pháp mà chính phủ các quốc gia có thể sử dụng để
bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong ngắn hạn.
1.5. Pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ
1.5.1. Khái quát chung về phòng vệ thương mại trong pháp luật Hoa Kỳ
Về bản chất, các biện pháp phòng vệ thương mại là các công cụ được phép
của nước nhập khẩu áp dụng nhằm hạn chế sự cạnh tranh về hàng hóa từ các công
ty nước ngoài để bảo vệ lợi ích cho ngành công nghiệp nội địa. Do đó, pháp luật
Hoa Kỳ về phòng vệ thương mại được soạn thảo cũng với mục đích hỗ trợ ngành
sản xuất nội địa của Hoa Kỳ để đảm bảo ngành sản xuất trong nước được hưởng lợi
từ các biện pháp đó. Đây được xem như là một công cụ hiệu quả của Hoa Kỳ trong
sự cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài, xuất phát từ đặc điểm và tính chất bảo hộ
của các biện pháp này.
17
Nhìn chung, pháp luật Hoa Kỳ có nhiều điểm bất lợi cho doanh nghiệp xuất
khẩu nước ngoài. Pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và phòng vệ thương mại
nói chung của Hoa Kỳ có từ những năm đầu thế kỷ XX, cụ thể là năm 1916, sau đó
được định hình rõ ràng trong Luật thuế quan năm 1930 và từ đó đến nay tiếp tục
được bổ sung thêm trở thành một hệ thống hoàn chỉnh các quy định kỹ thuật phức
tạp, tinh vi theo hướng bảo vệ tối đa quyền lợi của các nhà sản xuất nội địa.[25] Có
thể dễ dàng nhận thấy các Hiệp định trong WTO vẫn thể hiện một phần quan trọng
quan điểm của Hoa Kỳ và do đó, hệ thống pháp luật phòng vệ thương mại "mang
tính bảo hộ" của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục được duy trì đến nay.
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống lại hiện
tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bán
tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp chống trợ cấp áp
dụng nhằm chống lại hiện tượng bán hàng hóa nước ngoài được trợ cấp của Chính
phủ nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm
tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp phòng vệ được áp dụng trong trường hợp cần
bảo vệ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trước hiện tượng hàng hóa nhập khẩu tăng
đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành này.
Ngoài các biện pháp phòng vệ nêu trên, Hoa Kỳ còn quy định nhiều biện pháp
phòng vệ thương mại khác áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào
Hoa Kỳ (ví dụ Biện pháp về sở hữu trí tuệ quy định tại Chương 337 -Bộ Luật Tổng
hợp USC của Hoa Kỳ; Biện pháp về tiếp cận thị trường quy định tại Chương 301,
Biện pháp hạn chế thương mại vì lý do an ninh tại Chương 232...). Tuy nhiên, tần
suất sử dụng các biện pháp thuộc nhóm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ là
thường xuyên và rộng rãi nhất. [18, tr.16]
1.5.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật Hoa Kỳ
1.5.2.1. Chống bán phá giá theo pháp luật của Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống lại hiện
tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bán
18
tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất "sản phẩm tương tự" nội địa Hoa Kỳ. [25]. Pháp luật về chống bán
phá giá của Hoa Kỳ quy định về các vấn đề trình tự, thủ tục, nội dung của quá trình
điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tại Hoa Kỳ và các cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động này. Hiện nay, các vấn đề về chống bán phá giá được
quy định trong các văn bản sau đây: Luật chống bán phá giá 1916; Luật Thuế quan
1930; Các Phần 1671-1677n, Mục 19 Bộ luật Hoa Kỳ (US Federal Code); Các Phần
351.101-702 Mục 19 Bộ quy định Hoa Kỳ (US Federal Regulation) và các Phần
207.1-120 Mục 19 Bộ luật Quy định Hoa Kỳ. [19, tr 80]
Về thủ tục, một vụ điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ được tiến hành theo
các giai đoạn sau đây: (i) Đơn kiện được nộp; (ii) Khởi xướng điều tra; (iii) Điều tra
sơ bộ về thiệt hại; (iv) Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá; (v) Điều tra cuối cùng về
bán phá giá; (vi) Điều tra cuối cùng về thiệt hại; (vii) Quyết định áp dụng biện pháp
chống bán phá giá; (viii) Rà soát hành chính hàng năm; (ix) Rà soát hoàng hôn. [19,
tr 82-84] Không phải tất cả các vụ điều tra đều đi hết các giai đoạn nói trên. Theo
pháp luật cũng như trong thực tiễn thì ở mọi giai đoạn của vụ việc đều có những
khả năng để chấm dứt vụ điều tra. Pháp luật Hoa Kỳ quy định thời hạn tối đa cho
từng hoạt động cụ thể trong mỗi giai đoạn của vụ điều tra chống bán phá giá. Trong
thực tế, các thời hạn này có thể thay đổi tùy thuộc vào tính chất và hoàn cảnh khách
quan của từng vụ việc cũng như khả năng chủ quan của cơ quan điều tra (trong giới
hạn mà pháp luật cho phép).
(i) Nộp đơn kiện
Một vụ kiện chống bán phá giá bắt đầu bằng việc nộp đơn khởi kiện nhân
danh “ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ”. Ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ
được định nghĩa bao gồm:
Một là, các nhà sản xuất hoặc kinh doanh một loại sản phẩm nội địa giống hệt
với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra;
Hai là, hiệp hội các nhà sản xuất hoặc kinh doanh loại sản phẩm đó;
19
Và ba là, công đoàn hoặc nhóm công nhân làm việc trong ngành công nghiệp
nội địa đó.
Đơn khởi kiện phải được sự ủng hộ của các nhà sản xuất Hoa Kỳ có sản lượng
vừa đồng thời chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng trong nước, vừa chiếm trên 50%
tổng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp Hoa Kỳ lên tiếng nhân danh “ngành
công nghiệp nội địa Hoa Kỳ” (ủng hộ hoặc phản đối vụ kiện). Khi thụ lí vụ kiện,
trước hết các cơ quan giải quyết vụ kiện sẽ xem nội dung đơn khởi kiện có bao gồm
những thông tin cần thiết và được ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ ủng hộ hay
không. [26, page. I-7]
Theo pháp luật Hoa Kỳ, một vụ điều tra chống bán phá giá có thể được tiến
hành trên cơ sở đơn kiện của một bên "liên quan" hoặc theo quyết định của Bộ
Thương mại (Department of Commerce - DOC) mà không cần đơn kiện của ngành
sản xuất nội địa. Đơn kiện được nộp đồng thời cho cả DOC và Ủy ban Thương mại
Quốc tế Hoa Kỳ (International Trade Commission - ITC). Bên bị kiện trong vụ kiện
chống bán phá giá bao gồm: tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu mặt hàng bị kiện
sang Hoa Kỳ; hiệp hội mà phần lớn các thành viên là các nhà sản xuất, xuất khẩu
mặt hàng bị kiện và Chính phủ nước xuất khẩu bị kiện. Trong vòng 20 ngày (có thể
được gia hạn), DOC sẽ tiến hành xem xét các vấn đề ban đầu của đơn kiện để quyết
định có chấp nhận đơn kiện và khởi xướng điều tra chống bán phá giá hay không.
Việc xem xét "tiền tố tụng" của DOC đối với đơn kiện trong giai đoạn này chủ yếu
tập trung vào hai vấn đề cơ bản: tính đầy đủ của đơn kiện (đây là yếu tố xem xét bắt
buộc) và tư cách khởi kiện của nguyên đơn (chỉ xem xét khi có đơn khiếu nại về
vấn đề này của bị đơn).
(ii) Khởi xướng điều tra
ITC và DOC sẽ bắt đầu điều tra trong vòng 20 ngày sau khi nguyên đơn nộp
đơn khởi kiện bằng việc xem xét đơn khởi kiện có hội đủ các điều kiện luật định
hay không.
Giai đoạn điều tra của ITC và DOC là khác nhau. Đối với ITC là 3 năm trước
thời điểm đơn kiện được nộp, và khi cần thiết ITC vẫn có thể yêu cầu các bên cung
20
cấp thông tin dự đoán cho 2 năm tiếp theo kể từ thời điểm nộp đơn kiện. Trong khi
DOC chỉ quan tâm đến thông tin và dữ liệu của 4 quý tài khóa trước và gần ngày
nộp đơn khởi kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền kinh tế thị trường,
hoặc 2 quý tài khóa trước và gần ngày nộp đơn kiện nhất – áp dụng đối với những
nước có nền kinh tế phi thị trường. [26, page. II-3, II-4 ]
(iii) Điều tra sơ bộ về thiệt hại
Điều tra sơ bộ trong vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp ở Hoa Kỳ bao
gồm 02 hoạt động riêng rẽ: điều tra sơ bộ về thiệt hại do ITC tiến hành và điều tra
sơ bộ về bán phá giá do DOC tiến hành.Các kết luận này có ý nghĩa quan trọng đối
với việc tiếp tục hoặc chấm dứt vụ điều tra. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày Đơn
kiện được nộp, ITC sẽ phải ra kết luận sơ bộ về thiệt hại mà ngành sản xuất sản
phẩm tương tự của Hoa Kỳ phải chịu từ việc nhập khẩu mặt hàng bị kiện. Thời hạn
45 ngày này là cố định, không có gia hạn. Nếu ITC ra quyết định sơ bộ khẳng định
có thiệt hại thì vụ điều tra được tiếp tục. Ngược lại nếu ITC ra quyết định sơ bộ phủ
định việc có thiệt hại thì vụ điều tra chấm dứt ngay lập tức ở cả DOC và ITC. Thủ
tục điều tra sơ bộ về thiệt hại của ITC tương đối đơn giản. Sau đơn kiện khoảng một
tuần, ITC sẽ thông báo lịch trình cho việc điều tra sơ bộ về thiệt hại trên Công báo
Liên bang.Trong thời hạn 160 ngày kể từ ngày có đơn kiện, DOC sẽ tiến hành điều
tra sơ bộ để xác định hàng hóa nhập khẩu có bị bán phá giá hay không. Trường hợp
vụ kiện đặc biệt phức tạp hoặc nếu nguyên đơn có yêu cầu thì các thời hạn này có
thể kéo dài đến 210 ngày. Thủ tục điều tra của DOC trong quá trình này bao gồm:(i)
DOC gửi Bảng câu hỏi điều tra chi tiết tới các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài
liên quan;(ii) Các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài trả lời Bảng câu hỏi điều tra
trong khoảng 30 ngày (45 ngày nếu được gia hạn) sau khi nhận được Bảng câu hỏi
điều tra;(iii) Dựa trên Bảng câu hỏi đã được trả lời, DOC sẽ tiến hành gửi các câu
hỏi bổ sung, nếu có;(iv) DOC có quyền tiến hành thẩm tra thực địa (tại nhà máy của
các doanh nghiệp) để xác minh các thông tin được khai trong bản trả lời Bảng câu
hỏi (tuy nhiên trên thực tế DOC hầu như không thực hiện việc thẩm tra thực địa
trong giai đoạn này mà chủ yếu trong giai đoạn điều tra cuối cùng). [26, page. II-5 -
page II-7 ]
21
(iv) Điều tra sơ bộ về bán phá giá
Quy trình điều tra sơ bộ về bán phá giá được DOC thực thi qua ba giai đoạn,
bao gồm:
Thứ nhất, do quyết định sơ bộ được đưa ra trên cơ sở giả định rằng các thông
tin và dữ liệu do bên bị đơn cung cấp là xác thực, DOC cần tiến hành thẩm tra để
khẳng định tính xác thực này trước khi công bố Quyết định cuối cùng về tình trạng
phá giá. DOC cử chuyên viên kỹ thuật đến cơ sở sản xuất và kinh doanh của các bị
đơn bắt buộc ở nước sở tại nhằm thẩm tra tại chỗ.
Thứ hai, sau khi thẩm tra tại chỗ, các chuyên viên kỹ thuật của DOC lập "Báo
cáo thẩm tra", trong đó nhận định những thông tin và dữ liệu mà các bị đơn cáo
buộc đã báo cáo trong giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC.
Thứ ba, trên cơ sở Báo cáo thẩm tra, DOC đưa ra "Quyết định cuối cùng"
(thông thường trong vòng 215 ngày sau khi DOC bắt đầu điều tra hoặc tối đa 275
ngày trong trường hợp phức tạp), trong đó xác định biên phá giá của các nhà xuất
khẩu và kết luận về nhiều vấn đề khác nhau, như trường hợp nhập khẩu khẩn cấp và
thuế suất riêng biệt.
(v) Điều tra cuối cùng về bán phá giá
Sau phiên điều tra trần, ITC đưa ra quyết định cuối cùng kết luận về sự tổn hại
của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ (thông thường trong vòng 260 ngày sau khi
có đơn khởi kiện hoặc khoảng 45 ngày sau khi quyết định cuối cùng của DOC trong
trường hợp phức tạp).
(vi) Điều tra cuối cùng về thiệt hại
Thủ tục điều tra cuối cùng về thiệt hại phức tạp và lâu hơn thủ tục điều tra sơ
bộ. Thủ tục điều tra cuối cùng về thiệt hại của ITC bao gồm các hoạt động: thu thập
thông tin về thiệt hại, đánh giá các thông tin thu thập được (báo cáo trước phiên
điều trần, lập luận trước phiên điều trần, phiên điều trần, lập luận sau phiên điều
trần, báo cáo cuối cùng của ITC, bình luận về các số liệu, ủy viên ITC bỏ phiếu).
Thời hạn để ITC hoàn tất việc điều tra cuối cùng về thiệt hại phụ thuộc vào kết luận
22
sơ bộ của DOC. Theo đó, nếu DOC ra kết luận sơ bộ phủ định về việc bán phá giá
nhưng sau đó lại kết luận cuối cùng khẳng định có bán phá giá thì thời hạn để ITC
ra kết luận cuối cùng về thiệt hại là 75 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận cuối cùng.
Nếu DOC ra kết luận sơ bộ khẳng định có bán phá giá thì thời hạn để ITC ra kết
luận cuối cùng về thiệt hại là thời điểm muộn hơn trong hai thời điểm: (i) 120 ngày
kể từ ngày DOC ra kết luận sơ bộ, và (ii) 45 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận cuối
cùng. Nếu các thời hạn để DOC ban hành kết luận sơ bộ và/hoặc cuối cùng được
gia hạn thì thời hạn ITC ra kết luận cuối cùng cũng được gia hạn tương ứng. Như
vậy là khoảng 280-420 ngày kể từ ngày có đơn kiện ITC sẽ ra kết luận cuối cùng về
thiệt hại trong vụ việc. [26, page. II-13][19, tr 105-108]
(vii) Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Nếu quyết định cuối cùng của ITC khẳng định dấu hiệu có tổn hại nghiêm
trọng hoặc đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa Hoa
Kỳ, thì DOC sẽ ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá và giao cho cơ quan
hải quan thực hiện việc thu thuế chống bán phá giá (thông thường khoảng 1-2 tuần
sau Quyết định cuối cùng của ITC). Lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ chính
thức được thực hiện sau khi được công bố trên Công báo Liên Bang (Federal
Register). [26, page. II-6]
Sau khi DOC có kết luận cuối cùng khẳng định có hiện tượng hàng nhập khẩu
bán phá giá và ITC có kết luận cuối cùng khẳng định có thiệt hại và mối quan hệ
nhân quả thì Bộ trưởng DOC sẽ ra lệnh áp thuế chống bán phá giá và công bố lệnh
này trên Công báo liên bang. DOC cũng đồng thời gửi thông báo cho Cục Hải quan
Hoa Kỳ với các hướng dẫn cụ thể cho cơ quan này trong thủ tục đối với hàng hóa
nhập khẩu là đối tượng của lệnh áp thuế. Tiền thuế chính thức (cho phép thông quan
chính thức) cho các lô hàng này sẽ chỉ được xác định trong tương lai (căn cứ vào
các rà soát hành chính hàng năm).Hoa Kỳ áp dụng phương pháp hồi tố trongviệc áp
dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo đó, các mức thuế được nêu trong Lệnh áp
thuế chống bán phá giá chỉ là tạm thời, được sử dụng làm căn cứ để tính mức ký
quỹ cho các lô hàng nhập khẩu liên quan sau thời điểm có lệnh áp thuế; mức thuế
23
chính thức sẽ được xác định bởi quá trình rà soát hành chính thực hiện mỗi năm sau
đó.
(viii) Rà soát hành chính hàng năm
Rà soát hành chính, vì thế, là quá trình tính toán biên độ bán phá giá thực tế
trong năm để xác định mức thuế chính thức của năm đó. Thủ tục rà soát hành chính
gần giống với điều tra ban đầu về phá giá. Rà soát hành chính chỉ là điều tra về biên
độ phá giá, không bao gồm điều tra về thiệt hại như trong điều tra ban đầu. Kết quả
rà soát hành chính sẽ là mức thuế chính thức cho năm liền trước rà soát. Kết quả
này cũng là mức thuế tạm thời áp dụng cho năm liền sau rà soát này. Các rà soát
hành chính cứ tiến hành như vậy cho đến khi lệnh áp thuế được áp dụng hết 5 năm.
[19, tr 122-125]
(ix) Rà soát hoàng hôn
Kết thúc giai đoạn rà soát hành chính hàng năm, DOC và ITC sẽ tiến hành rà
soát cuối kỳ (còn gọi là rà soát hoàng hôn) để xem xét có tiếp tục lệnh áp thuế thêm
5 năm nữa hay chấm dứt thuế. Nếu cả DOC và ITC sau quá trình rà soát hoàng hôn
mà đi đến kết luận rằng việc chấm dứt biện pháp chống bán phá giá sẽ dẫn tới hiện
tượng tiếp diễn hoặc tái diễn tình trạng phá giá và thiệt hại cho ngành sản xuất nội
địa Hoa Kỳ thì biện pháp chống bán phá giá sẽ tiếp tục có hiệu lực thêm 5 năm nữa
(và sau 5 năm đó quy trình rà soát hoàng hôn này sẽ lặp lại tương tự). Nếu một
trong hai hoặc cả hai cơ quan (DOC hoặc ITC) kết luận phủ định (rằng việc bán phá
giá và/hoặc thiệt hại sẽ không tiếp tục hoặc tái diễn sau khi chấm dứt biện pháp
chống bán phá giá) thì biện pháp này sẽ chính thức chấm dứt (chấm dứt hoàn toàn
vụ việc). [19, trg 126-127]
1.5.2.2. Biện pháp chống trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ
Điều tra chống trợ cấp về cơ bản được thực hiện theo trình tự, thủ tục tương tự
với điều tra chống bán phá giá. Cụ thể, cả hai biện pháp này đều gồm có các bước
sau: (i) Khởi xướng điều tra, (ii) Xác định thiệt hại sơ bộ, (iii) Trả lời bảng câu hỏi,
(iv) Quyết định sơ bộ của Bộ Thương mại, (v) Xác minh, (vi) Những lập luận pháp
lý sau khi xác minh, (vii) Kết luận cuối cùng của Bộ Thương mại, (viii) Lệnh áp đặt
24
thuế, (ix) Rà soát của Tòa án, và (x) Rà soát hành chính. Trong các bước thủ tục
này, một vài điểm là cố định, không thể thay đổi trong khi có một số điểm lại rất
linh hoạt. Dưới đây, sẽ trình bày rõ hơn những khác biệt của thủ tục, trình tự điều
tra chống trợ cấp so với điều tra chống bán phá giá.[18, tr137]
Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp cụ thể như sau:
Bảng 1.1 Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ
Giai đoạn Thời hạn
Ngày nộp đơn 0 ngày
Ngày khởi xướng điều tra 20 ngày
Kết luận sơ bộ về thiệt hại 45 ngày
Kết luận sơ bộ về trợ cấp 85-150 ngày
Kết luận cuối cùng về trợ cấp 160- 225 ngày
Kết luận cuối cùng về thiệt hại 205-270 ngày
Nguồn: Bảng 7 - Cẩm nang kháng kiện Chống bán phá giá và chống trợ cấp
tại Hoa Kỳ.
Khác với điều tra chống bán phá giá, ngay cả khi quyết định khởi xướng điều
tra, việc điều tra sẽ không được tiến hành tự động đối với tất cả các chương trình trợ
cấp bị cáo buộc trong Đơn kiện. Trên thực tế, đối với từng chương trình trợ cấp bị
cáo buộc, DOC sẽ xem xét: (i) có đủ bằng chứng để xác định đó là một hình thức
trợ cấp hay không; hoặc (ii) chương trình trợ cấp đó có thực sự đến với doanh
nghiệp hay không. Nếu không có đủ bằng chứng về các vấn đề nói trên đối với một
chương trình bị cáo buộc là trợ cấp, DOC sẽ không tiến hành khởi xướng điều tra
đối với chương trình đó.
Việc điều tra chống trợ cấp được thực hiện với hai nội dung, bao gồm: điều
tra về trợ cấp và biên độ trợ cấp do DOC tiến hành và điều tra về thiệt hại và mối
quan hệ nhân quả do ITC tiến hành. Điều tra về thiệt hại gây ra đối với ngành sản
xuất nội địa Hoa Kỳ và mối quan hệ của nó với việc nhập khẩu hàng hóa nước
25
ngoài bị điều tra do ITC thực hiện có nội dung tương tự như phương pháp điều tra
mà ITC tiến hành trong điều tra chống bán phá giá. Điều tra về trợ cấp và biên độ
trợ cấp do DOC thực hiện sử dụng các phương pháp có rất nhiều khác biệt trong
tính toán trong khi vẫn sử dụng các phương pháp thu thập và xác minh thông tin
như điều tra chống bán phá giá.[18, tr 141]
Theo pháp luật Hoa Kỳ (phù hợp với quy định của WTO ghi nhận trong
SCM), một chương trình bị xem là "trợ cấp có thể đối kháng"phải có đầy đủ ba yếu
tố sau: (i) Yếu tố đóng góp tài chính - có sự đóng góp tài chính của Nhà nước hoặc
một chủ thể công; (ii) Yếu tố lợi ích - sự đóng góp tài chính đó phải mang lại một
lợi ích cho người nhận; (iii) Yếu tố riêng biệt - sự đóng góp tài chính đó phải được
thực hiện cho một doanh nghiệp, một nhóm doanh nghiệp hoặc một ngành, một khu
vực cụ thể chứ không phải là trợ cấp chung cho tất cả các đối tượng.[18, tr 142]
Trong quy trình điều tra chống trợ cấp, bên cạnh việc gửi Bảng câu hỏi đến
các bên liên quan, DOC còn bắt buộc phải gửi Bảng câu hỏi điều tra về trợ cấp đến
Chính phủ nước xuất khẩu bị điều tra. Vì vậy, kết quả điều tra không chỉ phụ thuộc
vào nỗ lực của doanh nghiệp trong việc chứng minh mà còn phụ thuộc vào hành
động của Chính phủ nước xuất khẩu cũng như các cơ quan liên quan đến chương
trình trợ cấp bị cáo buộc.
Cũng giống như trường hợp áp dụng biện pháp chống bán phá giá, trong điều
tra chống trợ cấp, DOC sẽ tiến hành tính toán biên độ trợ cấp để từ đó xác định mức
thuế chống trợ cấp tương ứng. DOC sẽ tính toán biên độ trợ cấp theo từng chương
trình trợ cấp cụ thể bằng cách chia giá trị phần lợi ích mà chương trình trợ cấp đó
mang lại trong khoảng thời gian điều tra cho trị giá của các lô hàng được xem là
nhận trợ cấp trong khoảng thời gian đó.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, không phải mọi trợ cấp (ở tất cả các mức độ) đều bị
trừng phạt bằng thuế chống trợ cấp. Thuế chống trợ cấp chỉ được sử dụng để đáp trả
và khắc phục thiệt hại do hành vi trợ cấp ở mức đáng kể, được xác định là từ 1% giá
trị xuất khẩu của sản phẩm được trợ cấp trở lên đối với trường hợp nước xuất khẩu
là nước phát triển (2% nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển). Biên độ trợ cấp
26
dưới 1% được gọi là biên độ trợ cấp không đáng kể và khi đó doanh nghiệp bị đơn
này sẽ không phải nộp thuế. Phương pháp điều tra về thiệt hại và mối quan hệ nhân
quả của ITC trong vụ điều tra chống bán phá giá và điều tra chống trợ cấp là tương
tự nhau. Cụ thể, nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển và có lượng nhập khẩu
sản phẩm liên quan ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng hóa tương tự vào Hoa Kỳ thì vụ
điều tra sẽ chấm dứt đối với nước xuất khẩu đó. Tuy nhiên, quy định này sẽ không
được áp dụng nếu tổng lượng nhập khẩu từ tất cả các nước xuất khẩu có hoàn cảnh
tương tự chiếm trên 9% tổng lượng nhập khẩu hàng hóatương tự vào nước nhập
khẩu (tỷ lệ này trong điều tra chống bán phá giá tương ứng là 3% và 9%). Tương tự
như trong điều tra chống bán phá giá, trong điều tra chống trợ cấp, biện pháp chống
trợ cấp có thể là một "thỏa thuận đình chỉ" thay vì áp dụng thuế chống trợ cấp, và có
thể là: thỏa thuận ngừng xuất khẩu, thỏa thuận loại bỏ trợ cấp, thỏa thuận loại bỏ
thiệt hại từ việc trợ cấp.Việc đề xuất, chấp thuận và kết quả của thỏa thuận đình chỉ
trong điều tra chống trợ cấp cũng tương tự như trong điều tra chống bán phá giá và
chỉ khác ở các thời hạn. [18, tr 150]
Nếu nội dung thỏa thuận đình chỉ là ngừng xuất khẩu hoặc loại bỏ trợ cấp,
DOC sẽ chấm dứt việc đình chỉ thông quan đã thực hiện trước khi có thỏa thuận và
sẽ ra quyết định hoàn trả tất cả các khoản đặt cọc hay ký quỹ đã thu của doanh
nghiệp bị đơn liên quan.
Nếu nội dung của thỏa thuận đình chỉ là điều chỉnh để loại bỏ thiệt hại, DOC
sẽ tiếp tục việc đình chỉ thông quan (nếu trước đó chưa có lệnh đình chỉ thông quan
thì nay DOC sẽ ra lệnh đình chỉ thông quan) cho đến ít nhất 20 ngày (thời hạn để
các bên có liên quan nêu yêu cầu rà soát về thiệt hại với ITC). Nếu ITC quyết định
tiến hành rà soát xem thỏa thuận có thực sự loại trừ được thiệt hại gây ra do việc
bán phá giá không thì lệnh đình chỉ thông quan sẽ còn kéo dài trong suốt quá trình
ITC rà soát (75 ngày). Nếu ITC kết luận rằng thỏa thuận đình chỉ trên thực tế có thể
loại bỏ thiệt hại thì lúc này lệnh đình chỉ thông quan mới hết hiệu lực và các khoản
ký quỹ, đặt cọc sẽ được hoàn trả. [18, tr 152]
27
1.5.2.3. Biện pháp tự vệ
Theo quy định của pháp luật Hoa kỳ, biện pháp tự vệ được áp dụng trong
trường hợp cần bảo vệ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trước hiện tượng hàng hóa
nhập khẩu tăng đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành này. Do đó, nếu điều
tra kết luận hàng nhập khẩu gia tăng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất nội địa, Chính phủ Hoa Kỳ có thể áp dụng rất nhiều các biện pháp
hạn chế khác nhau như thuế quan, quota hay kết hợp các biện pháp này.Về cơ bản,
thủ tục điều tra tự vệ cũng gần tương tự với nhóm các biện pháp chống bán phá giá
và chống trợ cấp, tuy nhiên hệ quả của biện pháp tự vệ hoàn toàn khác biệt. Cụ thể,
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp là "biện pháp trừng phạt" một chiều đối
với nhà xuất khẩu có hành vi thương mại không công bằng (chủ yếu thông qua việc
bị áp dụng các mức thuế bổ sung khi nhập khẩu mặt hàng liên quan vào Hoa Kỳ)
mà Hoa Kỳ có thể thực hiện mà không mất gì thì biện pháp tự vệ lại không phải
biện pháp "miễn phí" như vậy: việc xuất khẩu vào Hoa Kỳ của nhà sản xuất xuất
khẩu nước ngoài bị hạn chế (bằng các biện pháp như cấm nhập khẩu, áp dụng hạn
ngạch, thuế bổ sung... đối với sản phẩm liên quan) đồng thời Hoa Kỳ cũng phải bồi
thường cho nước xuất khẩu (bằng cách giảm thuế cho các mặt hàng khác với trị giá
thương mại tương tự). Ngoài ra, khác biệt về tính chất này cũng tạo ra những khác
nhau trong điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ so với điều kiện áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp (ví dụ thiệt hại phải là nghiêm trọng, việc áp
dụng biện pháp tự vệ phải chịu nhiều hạn chế về thời gian và mức độ...). Thời hạn
áp dụng biện pháp tự vệ cũng khác so với nhóm các biện pháp chống bán phá giá và
chống trợ cấp. Cụ thể, thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ là bốn năm, có thể gia
hạn một lần không quá hai năm và có các yêu cầu bắt buộc về rút ngắn thời gian áp
dụng.
Pháp luật tự vệ của Hoa Kỳ về cơ bản được xây dựng dựa trên các quy định về
tự vệ của WTO (cụ thể là Hiệp định về Tự vệ của WTO -SA). Theo đó, cơ quan có
thẩm quyền trong áp dụng tự vệ tại Hoa Kỳ là Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
(ITC) với nhiệm vụ tiến hành điều tra tự vệ, đề xuất biện pháp áp dụng lên Tổng
thống. Tổng thống là người có quyền quyết định cuối cùng có tiến hành điều tra hay
28
không, quyết định về hình thức và thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ tạm
thời/chính thức.
Thời hạn điều tra biện pháp tự vệ được quy định cụ thể như sau. Khởi xướng
điều tra trong thời hạn 120 kể từ ngày nhận được đơn kiện (180 ngày trong trường
hợp nghiêm trọng), trong trường hợp cực kỳ phức tạp là 150 ngày kể từ ngày nộp
đơn kiện (210 ngày trong trường hợp nghiêm trọng). Thời hạn áp dụng biện pháp tự
vệ tạm thờitrong trường hợp nghiêm trọng là 90 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu, thời hạn báo cáo kết quả điều tra của ITC là 180 ngày (240 ngày trong trường
hợp nghiêm trọng). Hành động thích hợp và khả thi để bảo vệ ngành sản xuất trong
nước là 60 ngày kể từ ngàynhận được báo cáo trên (50 ngày nếu đã áp dụng biện
pháp tự vệ tạm thời). Hành động này sẽ có hiệu lực trong vòng15 ngày kể từ ngày
Tổng thống tuyên bố hành động đó (90 ngày nếu Tổng thống thấy cần phải đàm
phán thêm). Trong thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ, nguyên đơn phải nộp một bản
kế hoạch điều chỉnh lên ITC và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ trong vòng 120 ngày
kể từ ngày nộp đơn kiện.Các thông tin liên quan đến vụ kiện sẽ được đăng trên
Công báo liên bang (Federal Register).[27]
29
Kết luận chương 1
Trào lưu của thương mại quốc tế hiện đại là tự do hóa thương mại, theo đó,
các quốc gia thường phải cam kết gỡ bỏ những rào cản thương mại để hàng hóa có
thể lưu thông một cách tối đa qua biên giới các nước. Các biện pháp bảo hộ thương
mại truyền thống như việc áp dụng thuế nhập khẩu ngày càng bị coi là không hợp
pháp và bị hạn chế áp dụng. Tuy nhiên, song song với tinh thần tự do hóa thương
mại luôn luôn tồn tại một nhu cầu chính đáng được công nhận của các quốc gia, đó
là, nhu cầu bảo hộ ngành sản xuất trong nước trước những rủi ro đe dọa tiềm tàng từ
hàng hóa nhập khẩu. Chính vì vậy, pháp luật thương mại quốc tế đương đại vẫn cho
phép áp dụng một số biện pháp phòng vệ thương mại, được hiểu là những biện pháp
phi thuế quan mà các quốc gia nhập khẩu có thể áp dụng một cách hợp pháp trong
những trường hợp hàng hóa nhập khẩu vào nước mình có những diễn biến bất
thường có thể gây thiệt hại tới ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu đó. Ngoài
biện pháp chống bán phá giá, pháp luật thương mại quốc tế đương đại còn công
nhận và cho phép các quốc gia áp dụng hai biện pháp phòng vệ thương mại khác,
đó là, chống trợ cấp và biện pháp tự vệ thương mại.
Những vấn đề, kiến thức được nghiên cứu trong Chương 1 của khoá luận tốt
nghiệp này sẽ được coi là nền tảng, tiền đề để tác giả tiếp tục nghiên cứu các quy
định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp phòng vệ thương mại tại Chương II,
qua đó đưa ra những đánh giá, so sánh khi đối chiếu với pháp luật WTO và pháp
luật về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT
NAM
2.1 Pháp luật hiện hành về các biện pháp phòng vệ thương mại
2.1.1 . Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá
Ngày 29 tháng 04 năm 2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh
chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu. Văn bản pháp luật này chính thức có
hiệu lực vào ngày 01 tháng 10 năm 2004. Có thể khẳng định, Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng nhập khẩu được coi là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam điều
chỉnh một cách khá toàn diện về vấn đề này. Ngoài Pháp lệnh chống bán phá giá,
trong hệ thống các văn bản pháp luật về vấn đề này còn có Nghị định 90/2005/NĐ-
CP ngày 11 tháng 07 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; Nghị định 04/2005/NĐ-CP
ngày 09 tháng 01 năm 2006 về việc thành lập và quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống
trợ cấp và tự vệ; Nghị định 06/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 1 năm 2006 quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh –Bộ
công thương; Thông tư số 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu nộp thuế chống
bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán
phá giá, thuế chống trợ cấp.
Về nội dung, pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam
quy định về các vấn đề sau:
Một là, đặt ra các căn cứ pháp lý để xác định việc hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam bán phá giá; xác định thiệt hại đáng kể hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước; và mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá
và thiệt hại;
31
Hai là, xây dựng thủ tục điều tra và xử lý vụ việc chống bán phá giá: bao gồm
các quy định về quá trình điều tra, áp dụng thuế chống bán phá giá như: thời hạn
điều tra, nội dung hồ sơ khiếu nại, việc thu thập, xử lý và sử dụng các thông tin,
quyền tố tụng của các bên liên quan, việc áp dụng biện pháp tạm thời, biện pháp
chống bán phá giá chính thức, thủ tục rà soát quyết định áp dụng biện pháp chống
bán phá giá...;
Ba là, tổ chức hệ thống cơ quan thực thi pháp luật chống bán phá giá bao gồm
cơ quan điều tra và Hội đồng xử lý vụ việc. Trong nội dung này, pháp luật tập trung
quy định về việc thành lập , thẩm quyền, chức năng, cơ cấu tổ chức của cơ quan
điều tra vụ việc chống bán phá giá, Hội đồng xử lý vụ việc và các quyết định của
Bộ trưởng Bộ Công thương để xử lý vụ việc.
Theo đó, pháp luật Việt Nam ghi nhận các biện pháp chống bán phá giá bao
gồm : (i) Các biện pháp cam kết điều chỉnh giá bán hoặc cam kết tự nguyện hạn chế
khối lượng, số lượng và giá trị hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam; và (ii) Áp dụng
thuế chống phá giá tạm thời hoặc áp dụng thuế chống phá giá chính thức.
Về hình thức, phần lớn nội dung của pháp luật chống bán phá giá bao gồm các
quy định về trình tự, thủ tục điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá (gọi tắt là thủ
tục điều tra, xử lý vụ việc).
2.1.1.1 Thủ tục điều tra vụ việc chống bán phá giá
Về việc ra quyết định điều tra theo pháp lệnh chống bán phá giá số 20/2004,
được quy định như sau:
Điều 8 Pháp lệnh chống bán phá giá quy định hai trường hợp để cơ quan có
thẩm quyền tiến hành điều tra vụ việc là: (i) điều tra theo yêu cầu của ngành sản
xuất trong nước; và (ii) điều tra theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương.
a. Điều tra theo yêu cầu của ngành sản xuất trong nước
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, khi có yêu cầu áp dụng biện pháp chống
bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền chỉ ra quyết định điều tra nếu thỏa mãn hai điều
kiện sau:
32
Điều kiện 1: người yêu cầu phải là tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản
xuất trong nước, bao gồm các tổ chức, cá nhân trực tiếp sản xuất hàng hóa nội địa
(gọi tắt là DN trong nước) hoặc đại diện của họ [1, Điểm a k1 đ 8]
Có thể nhận thấy, cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam về đối tượng có quyền
nộp hồ sơ yêu cầu tương tự với pháp luật của WTO. Tuy nhiên, ADA còn ghi nhận
khả năng mở rộng đối tượng yêu cầu bằng quy định các nước thành viên nhận thức
được rằng tại lãnh thổ của một số thành viên nhất định, nhân công của các nhà sản
xuất trong nước làm các sản phẩm tương tự hoặc đại diện của các nhân công này
có thể tự nộp đơn yêu cầu hoặc ủng hộ đơn yêu cầu điều tra [13, ghi chú số 14 đ
5.4]. Trong khi đó, pháp lệnh chống bán phá giá chỉ quy định tổ chức công đoàn
hoặc các tổ chức khác đại diện cho quyền lợi của người lao động trong ngành sản
xuất trong nước tham gia vào vụ việc chống bán phá giá với tư cách là người liên
quan mà chưa cho phép họ được quyền nộp hồ sơ yêu cầu. [1 , k 7 đ 11] [2, đ 17].
Theo đó, người nộp hồ sơ yêu cầu phải đại diện cho ngành sản xuất trong
nước. Tư cách đại diện được cấu thành khi đáp ứng đủ hai yêu cầu:
Một là, khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá do người yêu cầu sản xuất
hoặc đại diện chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá
tương tự của ngành sản xuất trong nước (còn gọi là quy tắc 25%). Quy tắc này được
tính toán theo tỷ trọng sản lượng (khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa) của
một DN hoặc tổng sản lượng của nhiều DN tham gia liên danh nộp đơn trên tổng
sản lượng của toàn ngành.
Hai là, khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hoá do họ sản xuất hoặc đại
diện và của các DN trong nước ủng hộ việc nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp
chống bán phá giá phải lớn hơn khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá tương tự
của các DN trong nước phản đối yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá (còn
gọi là quy tắc 50%). Quy tắc 50% được tính toán trên tổng sản lượng của các DN
bày tỏ quan điểm về đơn yêu cầu (bao gồm các DN phản đối và ủng hộ đơn yêu
cầu). Một khi sản lượng của các DN nộp hồ sơ và các DN ủng hộ lớn hơn sản lượng
của các DN phản đối đơn kiện thì quy tắc này được thỏa mãn và ngược lại.
33
Điều kiện 2: Hồ sơ yêu cầu phải hợp lệ. Theo pháp luật Việt Nam và WTO,
một hồ sơ yêu cầu được coi là hợp lệ khi chúng bao gồm các lập luận và các bằng
chứng về sự cần thiết phải điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối
với hàng hóa nhập khẩu bị yêu cầu; các bằng chứng ban đầu về tư cách của người
yêu cầu, đối tượng bị yêu cầu, việc bán phá giá, dự tính về biên độ phá giá, thiệt hại
hoặc nguy cơ đe dọa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, quan hệ nhân quả
giữa việc bán phá giá và thiệt hại vật chất.... Mọi khẳng định mà không có bằng
chứng xác đáng sẽ không được coi là hợp lệ [2, đ 18][13, đ 5.2][1, đ 9].
Trong trường hợp nhận thấy hồ sơ yêu cầu chưa đầy đủ theo quy định của
pháp luật, cơ quan điều tra phải thông báo cho người nộp hồ sơ để bổ sung. Thời
hạn bổ sung là 30 ngày, kể từ ngày người yêu cầu nhận được thông báo [1, k1,2 đ
10].
Về nguyên tắc, pháp luật WTO và các nước yêu cầu cơ quan điều tra không
công bố hồ sơ yêu cầu trước khi có quyết định điều tra trừ việc thông báo cho Chính
phủ của nước thành viên xuất khẩu hàng hóa có liên quan sau khi nhận được hồ sơ
hợp lệ và trước khi bắt đầu điều tra [13, đ 5.5]. PLVN đã tiếp thu không trọn vẹn
quy định trên. Theo đó, Pháp lệnh không đề cập đến trách nhiệm giữ kín thông tin
về hồ sơ yêu cầu mà chỉ quy định trước khi Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết
định điều tra, cơ quan điều tra phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước
xuất khẩu về các quy định chống bán phá giá của Việt Nam [1, k3 đ 10].
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thẩm định hồ sơ trong thời hạn 45 ngày kể từ
ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ. Nội dung thẩm định hồ sơ bao gồm: (1) xác
định tư cách đại diện hợp pháp cho ngành sản xuất trong nước của tổ chức, cá nhân
nộp hồ sơ; (2) xác định bằng chứng về việc bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước [2, đ 19].
Có thể thấy rằng, PLVN quy định khá đơn giản về nội dung thẩm tra mà chưa
đặt ra các yêu cầu cụ thể đối với bằng chứng được cung cấp. Pháp luật của WTO và
các nước có những quy định khá chi tiết về vấn đề này trên nguyên tắc việc điều tra
34
chỉ bắt đầu khi người yêu cầu thuyết phục được cơ quan có thẩm quyền về sự cấp
thiết phải tiến hành vụ việc chống bán phá giá nhằm bảo vệ ngành sản xuất nội địa.
Theo đó, Điều 5.5 ADA quy định các cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra mức độ
xác thực và đầy đủ của các bằng chứng được đưa ra tại đơn yêu cầu để quyết định
liệu đã có được các bằng chứng đầy đủ để bắt đầu quá trình điều tra hay không. Có
thể tìm thấy các quy định tương tự tại Khoản 3 và 7 Điều 5 Luật chống bán phá giá
của EU, theo đó, đơn khiếu nại có thể bị bác bỏ trong trường hợp không có chứng
cứ đầy đủ về việc bán phá giá hay thiệt hại mà chứng tỏ rằng cần thiết phải tiếp tục
tiến hành vụ việc đó.
b. Điều tra theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ Công thương có thể ra quyết
định điều tra khi có bằng chứng rõ ràng về việc bán phá giá hàng hoá gây ra hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước dù không có người yêu
cầu hoặc người yêu cầu không đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước
[2, đ 20] [1, k2 đ 8].
Thẩm quyền ra quyết định điều tra
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ Công thương có thẩm
quyền quyết định điều tra vụ việc. Thời hạn ra quyết định điều tra trong trường hợp
có người yêu cầu là 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ (có thể gia hạn
không quá 30 ngày). Trường hợp Bộ trưởng tự ra quyết định điều tra, pháp luật chỉ
quy định về thời hạn lập hồ sơ mà chưa quy định về thời hạn ra quyết định điều tra.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra để áp dụng biện
pháp chống bán phá giá, cơ quan điều tra thông báo quyết định điều tra cho tổ chức,
cá nhân có yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá, các nhà sản xuất, xuất
khẩu, cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hoá bị
yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá và công bố cho các bên liên quan
khác [1, k5 đ 10].
Quyết định điều tra khởi đầu cho quá trình thu thập, thẩm tra bằng chứng để
xác định có hay không việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam và thiệt
35
hại vật chất mà ngành sản xuất đang hoặc có nguy cơ phải gánh chịu. Vì thế, quyết
định này không phải là cơ sở pháp lý để ngăn trở việc thông quan của hàng hóa bị
điều tra [13, đ 5.9]
Căn cứ Khoản 4, 6 Điều 10 Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ Công
thương không ra quyết định điều tra trong các trường hợp sau: (i) không có bằng
chứng về việc bán phá giá hoặc thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước;
(ii) người yêu cầu không đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước; (iii)
người yêu cầu rút hồ sơ. Pháp luật chưa quy định chi tiết quy trình cho việc không
ra quyết định điều tra. Thực trạng này có thể gây ra những lúng túng cho cơ quan có
thẩm quyền trong việc tổ chức thực thi pháp luật.
Điều tra vụ việc chống bán phá giá
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, nội dung điều tra để áp dụng biện pháp
chống bán phá giá bao gồm: xác định hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam và biên
độ bán phá giá; xác định thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước [1, đ 12]
Về nguyên tắc, cơ quan điều tra phải tiến hành xác định biên độ phá giá riêng
cho từng người bị yêu cầu trong vụ việc chống bán phá giá [2, k1 đ 25]. Như vậy,
việc điều tra được tiến hành đối với toàn bộ DN xuất khẩu hàng hóa thuộc diện bị
điều tra. Cơ quan điều tra sử dụng số liệu của từng DN để tính giá thông thường, giá
xuất khẩu và biên độ phá giá riêng. Tuy nhiên, trường hợp số lượng DN hoặc hàng
hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá quá lớn, cơ quan điều tra có
thể giới hạn phạm vi điều tra để xác định biên độ phá giá riêng đối với một số DN
hoặc một số hàng hóa nhất định. Việc giới hạn phạm vi điều tra được thực hiện
bằng phương pháp chọn mẫu thống kê phù hợp trên cơ sở khối lượng, số lượng
hoặc trị giá hàng hoá bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá được sản
xuất, xuất khẩu vào Việt Nam bởi người bị yêu cầu hoặc các thông tin mà cơ quan
điều tra có được tại thời điểm chọn mẫu; cơ quan điều tra có thể tiến hành các tham
vấn cần thiết với người bị yêu cầu, các nhà nhập khẩu liên quan đến việc chọn mẫu
và phải có sự đồng ý của người bị yêu cầu này về việc chọn mẫu [2, k2 đ 25]. Hệ
36
quả của quy định này là việc điều tra chỉ giới hạn đối với các DN hoặc hàng hóa
được lựa chọn. Việc thu thập, xử lý thông tin và tính toán biên độ phá giá sẽ tập
trung vào các mẫu được chọn. Các DN còn lại có quyền tự nguyện cung cấp thông
tin song việc sử dụng các thông tin đó phụ thuộc vào năng lực thực tế của cơ quan
điều tra.
Để tính giá thông thường, giá xuất khẩu và xác định thiệt hại, cơ quan điều tra
cần ấn định về thời kỳ điều tra (giai đoạn điều tra - period of investigation). Thời kỳ
điều tra được hiểu là khoảng thời gian diễn ra các hoạt động nhập khẩu hàng hóa bị
nghi ngờ là bán phá giá làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tính toán biên độ bán
phá giá, thiệt hại cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này [20, tr 33].
Pháp lệnh chống bán phá giá không trực tiếp quy định về thời kỳ điều tra. Tuy
nhiên Điểm c, d, đ Khoản 1 Điều 9 có đề cập đến vấn đề này khi quy định về hồ sơ
yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo đó, đơn yêu cầu áp dụng biện
pháp chống bán phá giá phải mô tả khối lượng, số lượng và trị giá của hàng hóa
nhập khẩu và hàng hóa tương tự được sản xuất trong nước trong thời hạn 12 tháng
trước khi nộp hồ sơ; thông tin về giá thông thường, giá xuất khẩu của hàng hóa
nhập khẩu tại thời điểm nhập khẩu vào VN trong thời hạn 12 tháng trước khi nộp hồ
sơ. Như vậy, có thể hiểu rằng thời kỳ điều tra theo pháp lệnh chống bán phá giá là 1
năm ngay trước khi nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá. ADA
không quy định cụ thể về thời kỳ điều tra nên pháp luật của các quốc gia được
quyền tùy nghi quy định. Với các quy định hiện hành, PLVN chưa thực sự quan tâm
đến việc lựa chọn thời kỳ điều tra nên chỉ gián tiếp đề cập đến vấn đề này và đồng
nhất thời kỳ điều tra về bán phá giá và thời kỳ điều tra về thiệt hại vật chất.[8, tr
115-116]
Thu thập và cung cấp chứng cứ
Chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc chống bán phá giá là những gì có
thật được Cơ quan điều tra chống bán phá giá, Hội đồng xử lý vụ việc chống bán
phá giá dùng làm căn cứ để xác định tình trạng bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam, tình trạng ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa
37
gây ra thiệt hại đáng kể, mối quan hệ giữa việc bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam với thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản
xuất trong nước cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ việc chống bán phá giá [2, đ 3]. Thu thập và xử lý các thông tin, tài liệu về
vụ việc là công việc quan trọng nhất trong các hoạt động điều tra của cơ quan có
thẩm quyền. Các thông tin, tài liệu được sử dụng làm chứng cứ trong vụ việc phải
được thẩm tra mức độ trung thực và tin cậy và dựa trên một số nguyên tắc nhất
định, ví dụ như: nguyên tắc tôn trọng quyền được tiếp cận thông tin và cung cấp
thông tin của các bên liên quan cho cơ quan điều tra; nguyên tắc sử dụng chứng cứ
sẵn có và nguyên tắc ngôn ngữ sử dụng trong các tài liệu, thông tin cung cấp cho cơ
quan điều tra là tiếng Việt.
Các thông tin được sử dụng có thể được thu thập từ nhiều nguồn với những
cách thức khác nhau. Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, các bên liên quan có trách
nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan điều tra. Các bên liên
quan bao gồm: tổ chức cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước nộp hồ sơ
yêu cầu; tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa bị điều tra; hiệp
hội ngành hàng trong nước; hiệp hội ngành hàng nước ngoài, tổ chức bảo vệ người
tiêu dùng, tổ chức công đoàn hoặc tổ chức khác đại diện cho người lao động trong
ngành sản xuất trong nước, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, cơ quan có thẩm
quyền của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa bị điều tra [1, đ 11].
Các bên liên quan cung cấp thông tin bằng hai phương thức: (i) Phương thức
trả lời bản câu hỏi của cơ quan điều tra; và (ii) Cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của
cơ quan điều tra [1, đ 10, 15-17]. Về vấn đề này, ADA đặt ra các tiêu chuẩn của
chứng cứ, bao gồm (1) chứng cứ được cung cấp theo đúng hình thức mà cơ quan
điều tra yêu cầu, ví dụ: băng từ hay ngôn ngữ máy tính, bằng văn bản hoặc các hình
thức khác; (2) các thông tin được sử dụng làm chứng cứ là những thông tin có thể
kiểm chứng được [13, đoạn 2,3,5 phụ lục II]. Ngoài ra, pháp luật của WTO còn đặt
ra các nguyên tắc xác định trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc hỗ trợ các
bên cung cấp tài liệu, thông tin liên quan như nguyên tắc hỗ trợ các bên trong việc
cung cấp chứng cứ, nguyên tắc không tạo gánh nặng bất hợp lý cho các bên trong
38
việc cung cấp chứng cứ.... Các quy định trên một mặt giúp người tham gia vụ việc
thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, mặt khác ngăn chặn sự tùy tiện của cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình điều tra.
Ngoài ra còn có các quy định về quy chế bảo mật thông tin, thẩm tra thông tin,
tài liệu và chứng cứ được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể trong Pháp lệnh
20/2004 và Nghị định 90/2005.
Các giai đoạn và thời hạn điều tra
Pháp lệnh chống bán phá giá năm 2004 quy định thời hạn điều tra để áp dụng
biện pháp chống bán phá giá là không quá mười hai tháng, kể từ ngày có quyết định
điều tra. Trong trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Công thương có thể quyết định
gia hạn điều tra nhưng không quá 6 tháng [1, đ 16]. Quy định về thời hạn điều tra
trong pháp luật Việt Nam được xem là phù hợp với khung thời hạn được ghi nhận
trong ADA.[13, đ 5.10]
Pháp lệnh chống bán phá giá không trực tiếp phân chia quá trình điều tra thành
những giai đoạn cụ thể mà tập trung vào các vấn đề về việc thu thập và xử lý thông
tin, tài liệu về vụ việc, bảo mật thông tin, cung cấp thông tin cho các bên, công bố
các kết luận điều tra.... Dựa trên quy định về trình tự công bố các loại kết luận điều
tra của cơ quan có thẩm quyền, có thể chia quá trình điều tra thành hai giai đoạn là
điều tra để có kết luận sơ bộ (gọi là điều tra sơ bộ) và điều tra để có quyết định cuối
cùng (điều tra cuối cùng) về vụ việc.
Giai đoạn điều tra sơ bộ: theo Pháp lệnh chống bán phá giá, trong thời hạn 90
ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra, cơ quan điều tra công bố kết luận sơ bộ về
các nội dung liên quan đến quá trình điều tra; trường hợp đặc biệt, thời hạn công bố
kết luận sơ bộ có thể được gia hạn nhưng không quá 60 ngày [1, đ 17]. Nếu kết luận
sơ bộ khẳng định có hiện tượng bán phá giá, số lượng hàng hóa nhập khẩu bán phá
giá và biên độ bán phá giá là đáng kể, có thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước thì việc điều tra được chuyển sang giai
đoạn điều tra cuối cùng. Người có thẩm quyền sẽ xem xét việc áp dụng biện pháp
tạm thời đối với hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Trường hợp kết luận sơ bộ phủ
39
định một trong các nội dung trên, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định chấm
dứt điều tra. Kết luận sơ bộ phải có đủ các nội dung theo quy định của pháp luật và
phải được thông báo bằng phương thức thích hợp cho các bên liên quan đến quá
trình điều tra [2, k2 đ 31] [1, đ 17].
Giai đoạn điều tra cuối cùng được thực hiện khi kết luận sơ bộ khẳng định
hàng hóa nhập khẩu có dấu hiệu bán phá giá, có thiệt hại thực tế hoặc đe dọa gây
thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa, biên độ bán phá giá và số lượng, khối
lượng hàng hóa nhập khẩu là đáng kể. Các quy định của pháp luật về giai đoạn điều
tra này khá đơn giản, chủ yếu chỉ đề cập đến hai vấn đề. Đó là:
Thứ nhất, quy định trách nhiệm công bố kết luận cuối cùng. Theo đó, khi kết
thúc quá trình điều tra, cơ quan điều tra công bố kết luận cuối cùng về các nội dung
liên quan đến quá trình điều tra. Thời hạn công bố quyết định cuối cùng là 30 ngày
kể từ khi kết thúc quá trình điều tra. Kết luận cuối cùng phải được thông báo bằng
phương thức thích hợp cho các bên liên quan đến quá trình điều tra.
Thứ hai, kết luận cuối cùng phải đảm bảo các nội dung theo quy định của pháp
luật. Những nội dung cơ bản cần có là mô tả hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp
chống bán phá giá; xác định danh tính của người bị yêu cầu; các căn cứ để kết luận
về việc bán phá giá, về thiệt hại thực tế; biên độ bán phá giá...[2, đ 33] [1, đ 18].
Chấm dứt điều tra
Pháp lệnh chống bán phá giá quy định hai trường hợp để cơ quan điều tra ra
quyết định chấm dứt điều tra là chấm dứt điều tra theo ý chí của người yêu cầu; và
chấm dứt điều tra dựa trên kết luận sơ bộ [1, đ 19].
2.1.1.2 Thủ tục xử lý vụ việc chống bán phá giá
Quyết định xử lý vụ việc
Xử lý vụ việc chống bán phá giá bao gồm hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền căn cứ vào kết luận cuối cùng của cơ quan điều tra để đưa ra các quyết định
giải quyết vụ việc chống bán phá giá. Quá trình xử lý vụ việc chống bán phá giá
40
được thực hiện qua hai giai đoạn: giai đoạn tại Hội đồng xử lý vụ việc và giai đoạn
ra quyết định cuối cùng.
Giai đoạn thứ nhất, Hội đồng xử lý vụ việc xem xét hồ sơ vụ việc. Về thủ tục,
giai đoạn này bao gồm các bước:
Bước thứ nhất: cơ quan điều tra phải gửi hồ sơ vụ việc cho Hội đồng xử lý
trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày công bố, bao gồm: hồ sơ yêu cầu áp dụng biện
pháp chống bán phá giá; báo cáo điều tra; kết luận sơ bộ; kết luận cuối cùng và các
căn cứ chính để đưa ra kết luận cuối cùng; kiến nghị của cơ quan điều tra.
Bước thứ hai, hội đồng xử lý tổ chức phiên họp trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhận được hồ sơ vụ việc để thảo luận và quyết định các nội dung: có hay
không có tình trạng bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; có hay không
có tình trạng ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra
thiệt hại đáng kể; có hay không có mối quan hệ giữa việc bán phá giá hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam với thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất trong nước. Hội đồng xử lý làm việc theo nguyên tắc tập thể và
quyết định theo đa số, trong trường hợp kết quả biểu quyết ngang nhau, Hội đồng
xử lý quyết định theo phía có ý kiến của Chủ tọa phiên họp. Dựa trên quyết định
của mình, Hội đồng xử lý kiến nghị Bộ trưởng cách thức xử lý vụ việc, hoặc đề
nghị áp dụng hoặc đề nghị không áp dụng biện pháp chống bán phá giá [2, k3 đ 33,
đ 39].
Giai đoạn thứ hai, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định xử lý vụ việc.
Pháp lệnh chống bán phá giá quy định trường hợp không đạt được cam kết theo quy
định của Pháp lệnh, căn cứ vào kết luận cuối cùng và kiến nghị của Hội đồng xử lý,
Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định áp dụng hay không áp dụng thuế chống
bán phá giá. Quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá phải có các nội dung theo
quy định của pháp luật và được công bố công khai. Cơ quan điều tra thông báo bằng
phương thức thích hợp quyết định áp dụng hay không áp dụng thuế chống bán phá
giá cho các bên liên quan đến quá trình điều tra [1, đ 22; 18, đ 40].
41
Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định không áp dụng biện pháp chống bán
phá giá khi kết luận cuối cùng của cơ quan điều tra và quyết định của Hội đồng xử
lý khẳng định một trong những nội dung: (1) không có tình trạng bán phá giá; (2)
không có thiệt hại đáng kể hoặc khả năng gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
trong nước; (3) không có quan hệ giữa việc bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam với thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản
xuất trong nước. Bộ trưởng cũng có thể ra quyết định không áp dụng biện pháp
chống bán phá giá khi nhận thấy việc áp dụng thuế chống bán phá giá gây tổn hại
đến lợi ích kinh tế - xã hội trong nước [2, k2 đ 39]. Về thủ tục ra quyết định xử lý
vụ việc, pháp luật của WTO không quy định cụ thể.
Rà soát việc áp dụng chống bán phá giá
Rà soát là quá trình cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục cần thiết để
xem xét lại quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá theo yêu cầu của các
bên liên quan hoặc theo định kỳ. Việc rà soát lại có thể dẫn đến kết quả chấm dứt
trước thời hạn hoặc tiếp tục hoặc gia hạn việc áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá.
Điều 24 và 25 Pháp lệnh chống bán phá giá quy định hai trường hợp rà soát lại
quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá:
Thứ nhất, rà soát trong thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá được thực
hiện trong thời gian quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá đang còn hiệu
lực nhằm xem xét có nên duy trì hay chấm dứt việc áp dụng hoặc xem xét mức độ
áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Thứ hai, rà soát ngay trước khi hết thời hạn áp dụng chống bán phá giá (rà soát
cuối kỳ - rà soát hoàng hôn). Về bản chất, thủ tục rà soát cuối kỳ được thực hiện để
xác định hiện tượng bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất có tiếp tục tái diễn
sau khi quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá hết hiệu lực. Pháp lệnh
chống bán phá giá quy định thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá là 5 năm kể từ
ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá và một năm trước ngày
quyết định trên hết hiệu lực, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định rà soát việc
42
áp dụng biện pháp chống bán phá giá [1, k2 đ 24]. Như vậy, Pháp lệnh chống bán
phá giá đã áp dụng cơ chế tự động rà soát, có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền phải
tiến hành rà soát cuối kỳ trong mọi trường hợp cho dù các bên không có yêu cầu.
Mặc dù cũng áp dụng cơ chế rà soát tự động, song cách thức áp dụng của Hoa Kỳ
khác với Việt Nam. Theo pháp luật Hoa Kỳ, sau khi ra quyết định rà soát hoàng
hôn, DOC phải thông báo trên Công báo Liên bang để các bên bày tỏ ý kiến ủng hộ
hay không ủng hộ quyết định đó bằng văn bản. Chỉ cần có sự hưởng ứng của một
bên liên quan, DOC và ITC sẽ tiến hành rà soát và đưa ra kết luận trong thời hạn
120 ngày (đối với kết luận của DOC) và 150 ngày (đối với kết luận của ITC).
Trường hợp không nhận được bất kỳ sự ủng hộ nào, DOC sẽ đình chỉ việc rà soát
trong thời hạn 90 ngày kế từ khi bắt đầu thủ tục [20, tr 127-128]. Như vậy, trong
mọi trường hợp, DOC đều ra quyết định rà soát hoàng hôn. Tuy nhiên, thủ tục này
có thể sẽ không được tiến hành nếu không có sự ủng hộ của các bên. Khi đó, việc
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đương nhiên chấm dứt.
Đánh giá pháp luật Việt Nam, một số luật gia cho rằng các quy định hiện hành
về rà soát chỉ xây dựng được khung thủ tục chung mà chưa đặt ra các yêu cầu có
tính nguyên tắc về nội dung của việc rà soát. Vì thế, dù đã tuân thủ khá chặt chẽ
những nội dung cơ bản được ghi nhận trong ADA, song pháp luật Việt Nam khó có
thể được áp dụng hiệu quả khi các bên liên quan và cơ quan có thẩm quyền chưa
xác định được nội dung của các trường hợp rà soát.
2.1.1.3 Các biện pháp chống bán phá giá
Áp dụng biện pháp cam kết
Theo quy định của Pháp lệnh chống bán phá giá, có hai loại cam kết được áp
dụng trong các vụ việc chống bán phá giá là cam kết điều chỉnh giá bán và cam kết
tự nguyện hạn chế khối lượng, số lượng và giá trị giá hàng hóa bán phá giá vào Việt
Nam [1, đ 21]. Pháp luật Việt Nam chỉ gọi tên mà chưa có những quy định chi tiết
về các biện pháp trên.
Nghị định 90/2005/NĐ-CP quy định sau khi có kết luận sơ bộ và chậm nhất
không quá 30 ngày trước khi kết thúc giai đoạn điều tra, đại diện hợp pháp của
43
người bị yêu cầu có thể gửi văn bản cam kết (sau đây gọi là cam kết loại trừ bán phá
giá) trực tiếp đến cơ quan điều tra hoặc đến các nhà sản xuất trong nước để xem xét
trước khi trình lên cơ quan điều tra [2, đ 34]. Quy định này được xây dựng từ quan
niệm cho rằng với tư cách là biện pháp xử lý vụ việc nên việc áp dụng cam kết chỉ
được tiến hành khi đã có kết luận điều tra về vụ việc. Kết luận điều tra không chỉ là
căn cứ pháp lý làm phát sinh quyền xử lý vụ việc của cơ quan nhà nước mà còn là
cơ sở để tính toán mức độ áp dụng của các biện pháp xử lý. Mặt khác, biện pháp
cam kết là giải pháp xử lý dung hòa quyền lợi của các bên và có ý nghĩa chấm dứt
vụ việc nhanh chóng, không áp dụng thuế chống bán phá giá nên pháp luật không
cho phép áp dụng biện pháp này khi đã có kết luận cuối cùng.
Quy trình xem xét và chấp nhận cam kết được chia làm hai giai đoạn như sau:
Thứ nhất, giai đoạn thẩm tra cam kết, trong thời hạn 30 ngày, tính từ ngày
nhận được văn bản cam kết loại trừ bán phá giá, cơ quan điều tra có trách nhiệm
xem xét và đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công thương xem xét, quyết định. Cơ
quan điều tra công bố công khai nội dung cam kết cho các bên liên quan đến quá
trình điều tra được biết [2, k1 đ 35].
Thứ hai, giai đoạn xem xét và ra quyết định: theo Pháp lệnh chống bán phá
giá, Bộ trưởng Bộ Công thương có thể chấp nhận, không chấp nhận hoặc đề nghị
điều chỉnh nội dung cam kết nhưng không được ép buộc các bên phải cam kết.
Trường hợp không chấp nhận cam kết của các bên liên quan, Bộ trưởng phải thông
báo lý do không chấp nhận cam kết đó và cho tiếp tục tiến hành điều tra theo quy
định của pháp luật. Trường hợp bên đưa ra cam kết chấp nhận đề nghị điều chỉnh
nội dung cam kết theo đề nghị của Bộ trưởng, bên đưa ra cam kết phải gửi bản cam
kết mới đến cơ quan điều tra. Bộ trưởng ra quyết định áp dụng biện pháp cam kết
nếu xét thấy việc thực hiện cam kết đó không gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước [2, đ 35] [1, đ 21]. Các quyết định của Bộ
trưởng phải được công bố cho các bên liên quan bằng các phương tiện thích hợp.
Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời
44
Về nguyên tắc, hàng hóa nhập khẩu chỉ bị áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá sau khi cơ quan có thẩm quyền khẳng định chúng bị bán phá giá và gây
thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa. Tuy nhiên, sau thời hạn điều tra kéo
dài từ 12 đến 18 tháng, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá cho dù nghiêm
khắc có thể trở nên vô nghĩa nếu trong thời hạn đó hàng hóa nhập khẩu tiếp tục bán
phá giá và hủy diệt ngành sản xuất trong nước. Pháp luật WTO và các nước đều có
các quy định về việc áp dụng biện pháp tạm thời khi chưa có kết luận điều tra cuối
cùng để ngăn chặn nguy cơ việc bán phá giá gây thêm những thiệt hại mới cho các
DN trong nước.
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, biện pháp tạm thời được áp dụng là thuế
chống bán phá giá tạm thời. Thuế này có thể được bảo đảm thanh toán bằng tiền
mặt đặt cọc hoặc được bảo đảm bằng các biện pháp khác theo quy định của pháp
luật [2, k1,3 đ 20].
Theo Điều 20 Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ Công thương ra
quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sau 60 ngày kể từ ngày có
quyết định điều tra và cơ quan điều tra đã có kết luận sơ bộ về vụ việc;
Thứ hai, kết luận sơ bộ đã khẳng định hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam
và biên độ bán phá giá được xác định cụ thể; việc bán phá giá hàng hoá là nguyên
nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước;
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không được gây thiệt hại
đến lợi ích kinh tế - xã hội trong nước.
Ngoài các quy định về điều kiện áp dụng, pháp luật Việt Nam còn đặt ra hai
giới hạn của việc áp dụng biện pháp tạm thời:
Một là, thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời không được quá 120
ngày, kể từ ngày có quyết định áp dụng. Khi có yêu cầu của các nhà xuất khẩu hàng
hóa tương tự, Bộ trưởng Bộ Công thương có thể gia hạn áp dụng thuế chống bán
phá giá tạm thời nhưng không quá 60 ngày [1, k4,5 đ 20]. Về bản chất, biện pháp
45
tạm thời là biện pháp được áp dụng trong giai đoạn điều tra để ngăn chặn khả năng
làm trầm trọng thêm thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước. Thời hạn áp
dụng cần tương ứng với thời hạn điều tra mà đặc biệt là giai đoạn điều tra cuối
cùng. Theo Pháp lệnh, thời hạn điều tra là 12 tháng và có thể kéo dài thành 18 tháng
(trong đó điều tra sơ bộ từ 3 đến 5 tháng). Việc kéo dài thời hạn điều tra trong các
vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp đòi hỏi việc áp dụng biện pháp tạm thời phải
được mở rộng tương ứng nhằm đảm bảo tác dụng ngăn chặn của biện pháp này.
Hai là, thuế suất thuế chống bán phá giá tạm thời không được vượt quá biên
độ bán phá giá trong kết luận sơ bộ [1, k2 đ 20]. Trong giới hạn của biên độ phá giá,
cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khả năng áp dụng một mức thuế suất thấp hơn
biên độ nếu có thể ngăn ngừa hoặc hạn chế được thiệt hại vất chất cho ngành sản
xuất trong nước.
Áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, việc áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá cần triệt để tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết,
hợp lý nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước. Mức độ cần thiết và hợp lý của biện pháp chống bán phá giá được pháp luật
Việt Nam diễn giải bằng các quy định: (1) thuế suất thuế chống bán phá giá không
được vượt quá biên độ bán phá giá trong kết luận cuối cùng [1, k1 đ 22]. Như vậy,
thuế suất được áp dụng chỉ có thể bằng hoặc thấp hơn biên độ phá giá. (2) Không áp
dụng biện pháp chống bán phá giá khi biên độ phá giá không đáng kể. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam chỉ đặt ra cơ chế chấm dứt điều tra khi kết luận sơ bộ khẳng
định biên độ phá giá không đáng kể [1, điểm b k2 đ 19]. Khi có sự khác nhau trong
kết luận sơ bộ và kết luận cuối cùng về biên độ phá giá (biên độ phá giá trong kết
luận sơ bộ là đáng kể nhưng trong kết luận cuối cùng là không đáng kể), pháp luật
chưa có quy định để giải quyết. (3) Thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không
quá 5 năm, kể từ ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá [1, k2 đ
46
22]. Trong thời hạn này, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá có thể chấm dứt
theo kết quả rà soát thường niên nếu không còn đủ các căn cứ để áp dụng.
Thứ hai, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện khi đã
tiến hành điều tra và phải dựa trên các kết luận điều tra quy định của pháp luật. Áp
dụng biện pháp chống bán phá giá không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của những
người có liên quan như đã phân tích ở nguyên tắc thứ nhất mà còn có ảnh hưởng
lớn đến quan hệ thương mại giữa quốc gia áp dụng đối với quốc gia có hàng hoá bị
áp dụng. Do đó, pháp luật quốc tế cũng như luật pháp các nước trong đó có Việt
Nam luôn đòi hỏi một sự cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá nhằm đảm bảo cho duy trì sự ổn định của thương mại quốc tế bằng cách đặt ra
một nguyên tắc về căn cứ áp dụng các biện pháp chống phá giá. Các căn cứ này
phải là kết quả của một quá trình điều tra đúng thủ tục, trình tự và chính xác dựa
trên những bằng chứng xác thực. Có như thế, thuế chống bán phá giá thực sự là
công cụ bảo vệ sự lành mạnh của thương mại quốc tế.
Thứ ba, biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng trực tiếp đối với hàng
hoá bán phá giá vào Việt Nam theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc này được
hình thành từ quan niệm các biện pháp được áp dụng không là các chế tài dành cho
chủ thể thực hiện hành vi bán phá giá mà chỉ là các giải pháp xử lý tình trạng hàng
hóa nhập khẩu bán phá giá gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản
xuất trong nước.
Thứ tư, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không được gây thiệt hại
đến lợi ích kinh tế - xã hội trong nước. Trong các vụ việc chống bán phá giá, việc
cân nhắc ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của các biện pháp được áp dụng là cần
thiết. Trong bối cảnh nhu cầu hội nhập và hợp tác kinh tế là tất yếu và bức thiết,
Việt Nam cần thận trọng xem xét đến tác động của việc chống bán phá giá đến các
dòng thương mại khu vực và quốc tế mà chúng ta đang nỗ lực gia nhập.
2.1.1.3 Phương thức áp dụng thuế chống bán phá giá
Điều 6 và Khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh chống bán phá giá quy định căn cứ vào
kết luận cuối cùng của cơ quan điều tra và quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc,
47
Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá khi
có hai điều kiện sau đây:
Một là, hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ bán phá giá phải xác
định cụ thể;
Hai là, việc bán phá giá hàng hoá phải là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây
ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá phải ấn định mức thuế chống bán
phá giá chính thức cho khoảng thời gian có hiệu lực của quyết định đó. Như vậy,
Việt Nam sử dụng phương thức ấn định mức thuế cho giai đoạn tương lai. Về vấn
đề này, ADA cho phép các quốc gia thành viên lựa chọn một trong hai phương thức
tính thuế:
Một là, tính thuế chống bán phá giá cho giai đoạn tương lai có nghĩa là thuế
suất được tính toán từ biên độ phá giá của thời kỳ điều tra - là khoảng thời gian
trước khi thuế chính thức được áp dụng. Vấn đề đặt ra là có thể xảy ra tình trạng
biên độ phá giá thực tế trong giai đoạn áp dụng thuế đã thay đổi do có sự thay đổi
của giá xuất khẩu và giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu. Trong tình huống
này, mức thuế chống bán phá giá chưa phản ánh chính xác diễn biến thực tế của
hiện tượng bán phá giá. Để đảm bảo công bằng, ADA đặt ra cơ chế cho phép nhà
sản xuất sản phẩm chịu thuế có quyền yêu cầu xem xét lại biên độ phá giá thực tế
với điều kiện người yêu cầu phải cung cấp đầy đủ bằng chứng. Khi có yêu cầu, cơ
quan có thẩm quyền có trách nhiệm tiến hành rà soát trong thời hạn 12 tháng (có thể
gia hạn thêm 6 tháng). Khi xác định được mức thuế nộp vượt quá biên độ phá giá,
phần chênh lệch phải hoàn trả cho người nộp thuế [13, đ 9.3.2].
Hai là, tính thuế cho khoảng thời gian đã qua (thuế chống bán phá giá được
thu trên cơ sở hồi tố). Theo phương thức này, kết thúc cuộc điều tra chống bán phá
giá, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp đặt thuế chính thức nhưng chỉ đưa ra
một mức thuế chống bán phá giá ước tính tạm thời. Mức thuế chính thức sẽ được
tính toán dựa trên số liệu thực tế trong thời hạn 12 tháng (có thể kéo dài không quá
18 tháng) kể từ ngày có quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá. Với cách thức
48
tính thuế hồi tố, mức thuế được ấn định đã phản ánh chính xác diễn biến của tình
trạng phá giá trong giai đoạn áp dụng. Tuy nhiên, các quốc gia sử dụng phương
thức hồi tố phải xây dựng thêm thủ tục tính thuế chính thức trong quá trình xử lý vụ
việc (pháp luật Hoa Kỳ gọi là thủ tục rà soát hành chính). ADA yêu cầu các nước
thành viên xây dựng cơ chế hoàn thuế cho người nộp khi mức thuế tạm tính cao hơn
mức thuế cuối cùng phải nộp trong thời hạn không quá 90 ngày kể từ ngày ấn định
mức thuế chính thức.
Việc sử dụng phương thức tính thuế cho giai đoạn tương lai là phù hợp với
điều kiện về năng lực điều tra xử lý vụ việc của các cơ quan có thẩm quyền Việt
Nam. Sự phức tạp vốn có trong pháp luật và kỹ thuật điều tra, xử lý vụ việc chống
bán phá giá đang vượt quá khả năng về nhân sự và trình độ hiện nay của các cán bộ
thực thi.
2.1.2 Pháp luật về biện pháp chống trợ cấp
2.1.2.1 Định nghĩa trợ cấp hàng hoá nhập khẩu
Việc nhận diện hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam có ý nghĩa rất
quan trọng trong quá trình điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp. Trong
trường hợp không nhận diện được hoặc nhận diện không đúng hiện tượng trợ cấp,
cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng được các biện pháp chống trợ cấp hoặc
nếu có áp dụng thì không những không ngăn chặn được hành động trợ cấp mà
ngược lại, gây ra thiệt hại cho quyền lợi người tiêu dùng và nhà tiêu thụ sử dụng
hàng nhập khẩu làm nguyên liệu cho sản xuất. Ngoài ra,nó còn có thể làm cho quan
hệ thương mại với quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có hàng hóa được xác định có trợ
cấp trở nên căng thẳng.
Để xác định hành vi trợ cấp hàng hóa nhập khẩu, Pháp lệnh chống trợ cấp
2004 đã đưa ra khái niệm về trợ cấp. Theo đó, trợ cấp được xác định là " sự hỗ trợ
về tài chính của chính phủ hoặc cơ quan của chính phủ dành cho tổ chức, cá nhân
khi sản xuất, xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam và đem lại lợi ích cho tổ chức, cá
nhân đó".[3, k1 đ2] Có thể thấy rằng định nghĩa trợ cấp của Việt Nam có nội dung
khá tương đồng với định nghĩa trợ cấp của WTO. Tuy nhiên, đây là khái niệm mang
49
tính định tính, để xác định được hành động hỗ trợ tài chính mang lại lợi ích cho chủ
thể nhân được sự hỗ trợ tài chính là không dễ dàng.
2.1.2.2 Các hình thức trợ cấp hàng hoá nhập khẩu
Theo Pháp lệnh chống trợ cấp 2004, các hành vi trợ cấp hàng hoá nhập khẩu
bao gồm:
Một là, Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ chuyển vốn cho tổ chức, cá
nhân dưới hình thức cấp vốn, chuyển giao cổphần, cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc
bảo lãnh để được vay với lãi suất thấp hơn khi không có bảo lãnh này;
Hai là, Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ bỏ qua hoặc không thu những
khoản thu mà tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp;
Ba là, Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ cung cấp hàng hoá, dịch vụ
không phải là cơ sở hạ tầng chung hoặc mua hàng hóa, dịch vụ vào với giá cao và
bán ra cho tổ chức, cá nhân với giá thấp hơn giá thị trường;
Bốn là, Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ đóng góp tiền vào một cơ chế
tài trợ, giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều hình thức quy
định tại các điểm nêu trên.[3, Điều 3]
Như vậy, cách phân chia các hình thức trợ cấp của pháp luật Việt Nam cũng
tương tự với quy định về hình thức trợ cấp của WTO tại Điều 1 SCM.
Một điểm khác biệt lớn của pháp luật chống trợ cấp của Việt Nam so với pháp
luật WTO là không phân loại các hình thức trợ cấp theo cấp độ “bóp méo thương
mại”. Các hình thức trợ cấp được quy định tại Điều 3 Pháp lệnh 2004 thực chất là
các dấu hiệu pháp lý dùng để nhận diện sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ nước xuất
khẩu. Như vậy, trong trường hợp có một trong các dấu hiệu pháp lý này đều có thể
được coi là trợ cấp và có thể dẫn đến hành động đối kháng từ Chính phủ Việt Nam
không tùy thuộc đó là loại hình trợ cấp nào như “đèn xanh”, “đèn vàng”, “đèn đỏ”
theo cách tiếp cận của WTO.
50
2.1.2.3 Xác định trợ cấp
Theo Pháp lệnh chống trợ cấp 2004, việc xác định hành vi trợ cấp hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam bao gồm: (i) xác định hình thức trợ cấp;(ii) xác định hàng
hóa nhập khẩu được trợ cấp vào Việt Nam; (iii) xác định trợ cấp có tính chất riêng
biệt và (iv) xác định mức độ trợ cấp mà hàng hóa đó được hưởng. [3, đ 14]
Theo đó, việc xác định hình thức trợ cấp là việc xác định hành vi trợ cấp hàng
hoá nhập khẩu vào Việt Nam thuộc hình thức nào trong các hình thức trợ cấp được
liệt kê ở trên.
Xác định hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp vào Việt Nam là việc xác định
hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp về các yếu tố tên gọi của hàng hóa, các đặc tính
cơ bản và mục đích sử dụng chính, mã số theo biểu thuế nhập khẩu và xuất xứ của
hàng hóa nhập khẩu nhằm xác định chính xác loại hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp
để có thể áp dụng thuế chống trợ cấp lên đúng đối tượng chịu thuế.
Xác định trợ cấp có tính riêng biệt có thể hiểu là:" Trợ cấp chỉ áp dụng cho tổ
chức, cá nhân hoặc ngành sản xuất nhất định hoặc trợ cấp chỉ áp dụng cho các tổ
chức, cá nhân hoặc ngành sản xuất trong khu vực địa lý nhất định của một nước
hoặc vùng lãnh thổ bị điều tra áp dụng biện pháp chống trợ cấp." [3, k8 đ2]
Xác định mức trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu: Theo pháp luật Việt Nam
hiện hành, mức trợ cấp hàng hóa nhập khẩu là giá trị trợ cấp được tính trên một đơn
vị hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp.
2.1.2.4 Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp có thể được tiến hành dựa
trên cơ sở hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp của tổ chức, cá nhân đại
diện cho ngành sản xuất trong nước, hoặc Bộ trưởng Bộ Công thương có thể ra
quyết định điều tra khi có bằng chứng rõ ràng về việc hàng hóa được trợ cấp nhập
khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
trong nước. [3, k1 đ8] Theo đó, tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng
51
biện pháp chống trợ cấp được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước khi có
hai điều kiện sau đây:
Một là, tổ chức hoặc cá nhân đó có khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa
do họ sản xuất hoặc đại diện chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hoặc trị
giá hàng hóa tương tự của ngành sản xuất trong nước;
Hai là, tổ chức hoặc cá nhân có khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hóa
quy định tại điểm a khoản 1 Điều này và của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ
việc nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp phải lớn hơn khối lượng,
số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương tự của các nhà sản xuất trong nước phản đối
yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp.
2.1.2.5 Áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng sau khi cơ quan chức năng của
Chính phủ đã hoàn thành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp theo trình tự,
thủ tục quy định trong Pháp lệnh chống trợ cấp và các văn bản hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh. Các biện pháp chống trợ cấp có thể được áp dụng gồm có: (i) Biện pháp
áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời; (ii) Biện pháp cam kết; hoặc (iii) Biện pháp áp
dụng thuế chống trợ cấp chính thức.
Cụ thể, thuế chống trợ cấp tạm thời sẽ được áp dụng trong trường hợp cần
thiết, sau 60 ngày kể từ ngày có quyết định điều tra, trên cơ sở kết luận sơ bộ, cơ
quan điều tra có thể kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công thương áp dụng thuế chống trợ
cấp tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối cùng nhằm ngăn chặn các hậu quả
xấu gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước.[3, k1 đ 22] Tuy
nhiên, thời hạn áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời không được vượt quá 120 ngày,
kể từ ngày có quyết định áp dụng. [3, k4 đ 22]
Sau khi có kết luận sơ bộ và trước khi kết thúc giai đoạn điều tra, cá nhân, tổ
chức sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hóa thuộc đối tượng điều tra có thể đưa ra cam
kết với Bộ Công thương hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan có
thẩm quyền đồng ý .Cụ thể, các tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hóa
thuộc đối tượng điều tra hoặc Chính phủ nước hoặc vùng lãnh thổ có thể đưa ra cam
52
kết với Bộ Công thương về việc tự nguyện chấm dứt trợ cấp, giảm mức trợ cấp,
cam kết điều chỉnh giá xuất khẩu hoặc áp dụng các biện pháp thích hợp khác chậm
nhất không quá 30 ngày trước khi kết thúc giai đoạn điều tra. [4, Điều 32] Bộ
trưởng Bộ Công thương có thể chấp nhận, không chấp nhận hoặc đề nghị điều chỉnh
nội dung cam kết trên cơ sở tự nguyện. Các bên có cam kết được chấp nhận phải
định kỳ cung cấp cho cơ quan điều tra thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực
hiện cam kết và chứng minh tính chính xác của các thông tin đó theo quyết định của
Bộ trưởng Bộ Công thương. Trường hợp các bên liên quan không thực hiện đúng
theo cam kết, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định tiếp tục tiến hành điều tra để áp
dụng biện pháp chống trợ cấp hoặc ra quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp
theo quy định của Pháp lệnh chống trợ cấp. [3, đ 23]
Trong trường hợp không đạt được cam kết, căn cứ vào kết luận cuối cùng và
kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc chống trợ cấp, Bộ trưởng Bộ Công thương ra
quyết định về việc áp dụng thuế chống trợ cấp. Theo Pháp lệnh hống trợ cấp, thuế
suất thuế chống trợ cấp không được vượt quá mức trợ cấp được xác định trong kết
luận cuối cùng và chỉ được áp dụng trong thời hạn không quá 5 năm kể từ ngày có
quyết định áp dụng.[3, k2 k3 đ24] Thời hạn này có thể được gia hạn trong trường
hợp Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định rà soát việc áp dụng thuế chống trợ
cấp theo trình tự, thủ tục quy định tại Pháp lệnh chống trợ cấp.
2.1.3 Pháp luật về biện pháp tự vệ
Ngày 07/6/2002, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ
trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, Pháp lệnh này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/9/2002. Sau đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số
150/2003/NĐ-CP ngày 08/1202003 quy định chi tiết về việc thực hiện Pháp lệnh về
các biện pháp tự về trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Đây là
một trong những bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp của Việt Nam trong
nhiều nỗ lực để gia nhập WTO. Theo đó, Chính phủ Việt Nam có quyền áp dụng
các biện pháp tự vệ trong trường hợp một lại hàng hoá nhất định được nhập khẩu
53
quá mức vào thị trường Việt Nam. Cụ thể, các biện pháp tự vệ trong nhập khẩu
hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam bao gồm: tăng mức thuế nhập khẩu, áp dụng
hạn ngạch nhập khẩu, áp dụng hạn ngạch thuế quan, áp dụng thuế tuyệt đối, cấp
phép nhập khẩu để kiểm soát nhập khẩu, phụ thu đối với hàng hoá nhập khẩu, và
các biện pháp khác. [ 5, Điều 2]
2.1.3.1 Cơ sở áp dụng biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng khi đủ các yếu tố sau: (i) Khối lượng, số
lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột biến một cách tuyệt đối hoặc
tương đối so với khối lượng, số lượng hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh
trực tiếp được sản xuất trong nước; (ii) Việc gia tăng khối lượng, số lượng hoặc trị
giá hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành
sản xuất hàng hoá tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước; (iii) Nguyên tắc áp
dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức độ cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc
hạn chế thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước và tạo điều kiện cho
ngành sản xuất đó nâng cao năng lực cạnh tranh; (iv) Việc áp dụng các biện pháp tự
vệ phải căn cứ vào kết quả điều tra của Bộ Công thương. Trên cơ sở kết quả điều
tra, Bộ Công thương mà cụ thể là Bộ trưởng Bộ Công thương sẽ ra quyết định áp
dụng hay không áp dụng các biện pháp tự vệ sau khi đã tham khảo ý kiến của các
bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan; (v) Các biện pháp tự vệ được áp dụng trên cơ sở
không phân biệt đối xử và không phụ thuộc vào xuất xứ hàng hoá [6, Điều 6]
2.1.3.1 Áp dụng biện pháp tự vệ
Bộ Công thương có thể ra quyết định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời trước
khi kết thúc điều tra nếu thấy việc chậm thi hành các biện pháp tự vệ gây ra hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước và thiệt hại đó khó
có thể khắc phục về sau. Biện pháp tự vệ tạm thời chỉ được áp dụng dưới hình thức
thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành. Thời
hạn áp dụng biện pháp này kết thúc khi có quyết định của Bộ Công thương về việc
áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ nhưng trong mọi trường hợp không
54
được vượt quá 200 ngày kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời.[ 6,
Điều 20]
Việc áp dụng các biện pháp tự vệ được tiến hành trên cơ sở quyết định của Bộ
trưởng Bộ Công thương. Theo quy định của Pháp lệnh tự vệ, các biện pháp tự vệ có
thể không được áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ các nước kém phát triển. Cụ
thể, các biện pháp tự vệ có thể không được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có
xuất xứ từ một nước kém phát triển nếu lượng hàng hoá nhập khẩu của nước đó vào
Việt Nam chiếm không vượt quá 3% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu bị điều tra để
áp dụng biện pháp tự vệ. Trong trường hợp tổng lượng hàng hoá nhập khẩu của các
nước đó vào Việt Nam vượt quá 9% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu bị điều tra để
áp dụng biện pháp tự vệ thì vẫn sẽ bị áp dụng biện pháp tự vệ. Việc xác định một
quốc gia là nước kém phát triển được sẽ được dựa trên tiêu chuẩn phát triển của các
quốc gia ban hành bởi Liên hợp quốc. [ 5, Điều 13] Thời hạn áp dụng các biện pháp
tự vệ, bao gồm cả thời gian áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời là không quá 04
năm. Thời hạn này có thể được gia hạn một lần không quá 06 năm tiếp theo, với
điều kiện vẫn còn thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng
cho ngành sản xuất trong nước và có các bằng chứng chứng minh rằng ngành sản
xuất hàng hóa tương tự đang thực hiện điều chỉnh nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng hóa sản xuất trong nước.[ 6, Đ 22]
2.2 Thực tiễn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ tại Việt Nam
Kiện PVTM, mà cụ thể là kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ không
hoàn toàn là những công cụ xa lạ đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên,
phần lớn các doanh nghiệp biết về công cụ này như là một rào cản đối với hàng hóa
Việt Nam xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài mà không phải là một công cụ mà
doanh nghiệp có thể sử dụng ngay tại Việt Nam để chống lại hàng hóa nước ngoài
nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
55
Điều này không gây ngạc nhiên bởi số lượng các vụ kiện PVTM ở Việt Nam
đến nay còn quá ít và có rất nhiều các lý do khiến PVTM hầu như là các công cụ bất
khả dụng tại Việt Nam trong thời gian qua.
Tính đến nay, Việt Nam chỉ mới điều tra 6 vụ chống bán phá giá và tự vệ đối
với hàng hóa nhập khẩu từ các nước. Trong khi đó, tại thị trường xuất khẩu, hàng
hóa của Việt Nam có đến 96 vụ bị điều tra phòng vệ thương mại. Thực tế trên cho
thấy, năng lực phòng vệ của DN Việt Nam vẫn còn rất yếu so với các đối thủ nước
ngoài. [27] Có thể kể tới như: Vụ kiện chống bán phá giá thép không gỉ năm 2013;
vụ kiện chống bán phá giá thép mạ (tôn mạ) năm 2016. Bên cạnh đó, còn có các vụ
việc liên quan đến vấn đề áp dụng biện pháp tự vệ thương mại như: Kính nổi
(2009), dầu thực vật (2012), bột ngọt (2015), phôi thép và thép dài (2015), tôn màu
(2016).
Có thể nhận thấy một số đặc điểm lớn khi xem xét tổng hợp các vụ kiện phòng
vệ thương mại như sau:
Thứ nhất, phần lớn vụ việc điều tra là áp dụng biện pháp tự vệ. Điều này
dường như là đi ngược lại thông lệ quốc tế, theo đó, các biện pháp tự vệ là những
biện pháp rất ít được sử dụng so với hai biện pháp còn lại.
Theo lý giải của nhiều chuyên gia, trên bình diện toàn thế giới, công cụ này ít
được sử dụng bởi chúng được áp dụng không phải để chống lại hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nào mà chỉ đơn thuần là biện pháp bảo hộ tạm thời trước tình
trạng gia tăng đột biến của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu gây thiệt hại nghiêm
trọng cho ngành sản xuất nội địa, và cũng chính vì điều này mà trong khi nghĩa vụ
của bên đi kiện tương đối nhẹ nhàng (không phải chứng minh sự tồn tại của hành vi
cạnh tranh không lành mạnh) thì trách nhiệm của Chính phủ lại lớn hơn (phải có sự
đền bù tương ứng cho các nước nhập khẩu bị ảnh hưởng). Nói cách khác, Chính
phủ nước nhập khẩu nếu áp dụng biện pháp này sẽ không thuận lợi như khi áp dụng
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp nên họ có xu hướng ít chấp nhận các
yêu cầu này hơn.[21, tr 19]
56
Một trong những lý giải cho hiện tượng này của Việt Nam là các vụ kiện
phòng vệ thương mại đòi hỏi trách nhiệm chứng minh nhẹ hơn cho các nguyên đơn
(không phải chứng minh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tức là không phải
xuất trình các thông tin về chi phí của hàng hóa nhập khẩu mà thường là rất khó tiếp
cận), vì thế họ dễ đi kiện hơn. Đây là một ưu thế đặc biệt có ý nghĩa của kiện tự vệ
so với các biện pháp PVTM khác đối với các doanh nghiệp nguyên đơn chưa có
nhiều kinh nghiệm kiện tụng.
Từ góc độ Chính phủ, đối với các vụ việc này, mặc dù là các “công cụ phải trả
tiền”, việc điều tra tự vệ cũng có thể là bài toán dễ thực hiện hơn với các cơ quan
điều tra do không phải đầu tư quá lớn nguồn lực vào việc tính toán, xác định các
công thức tính toán chi phí phức tạp như trong kiện chống bán phá giá, chống trợ
cấp. Như vậy, cũng tương tự như với doanh nghiệp, công cụ này lại là một ưu thế
đáng kể so với các công cụ khác đối với các cơ quan điều tra vốn chưa trải qua
nhiều các thử thách thực tế trong lĩnh vực này.
Nói cách khác, trong bối cảnh Việt Nam nơi chưa sử dụng nhiều công cụ
PVTM, nơi năng lực và kinh nghiệm của cả doanh nghiệp đi kiện lẫn cơ quan điều
tra còn hạn chế, các biện pháp tự vệ tỏ ra là một công cụ có ưu thế hơn so với 02
công cụ còn lại.
Việc Việt Nam sử dụng nhiều công cụ tự vệ, vì vậy, có lẽ cũng là cách thức
bắt đầu hợp lý (cũng lưu ý thêm là vụ kiện chống bán phá giá đầu tiên của Việt
Nam được khởi xướng theo sáng kiến và đơn kiện của một doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài từ Hàn Quốc và công ty mẹ của họ đã có rất nhiều kinh nghiệm
trong kháng kiện cũng như khởi kiện chống bán phá giá ở khắp nơi trên thế giới).
Thứ hai, nguyên đơn khởi kiện trong các vụ việc này đa số là đang nắm giữ vị
trí thống lĩnh thị trường đối với loại sản phẩm là đối tượng của vụ kiện.
Thực tế có lẽ không quá khó lý giải bởi thường thì các doanh nghiệp có thị
phần lớn (thống lĩnh) là các doanh nghiệp mạnh, được suy đoán là có đủ năng lực
để thực hiện việc đi kiện theo các thủ tục phức tạp cũng như có đủ nguồn lực để
57
“đầu tư” vào việc đi kiện, coi đó như là một chiến lược kinh doanh của mình (bởi
kết quả của vụ việc).
Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc công cụ PVTM hiện vẫn đang
là “công cụ” của nhà giàu, chưa phải là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích của các
doanh nghiệp nhỏ, vốn là những chủ thể suy đoán là phải chịu tác động mạnh nhất
từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam,
nếu có.
Ngoài ra, ở một chừng mực nào đó, hiện tượng này cũng đòi hỏi các cơ quan
Nhà nước liên quan phải có sự chú ý đặc biệt để tránh việc các doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường lạm dụng công cụ này để bảo vệ vị trí thống lĩnh của mình
cũng như gây thiệt hại tới cạnh tranh nói chung, tới quyền và lợi ích của các chủ thể
sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hoặc người tiêu dùng.
Thứ ba, các sản phẩm bị kiện trong các vụ kiện PVTM của Việt Nam đều
không phải các sản phẩm trong tốp đầu về nhập khẩu vào Việt Nam. Về mặt lý
thuyết thì hàng hóa nhập khẩu càng nhiều thì nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh
càng lớn hơn. Ngoài ra, trong các tính toán điều tra PVTM, luôn có nội dung về sự
gia tăng của hàng hóa nhập khẩu (tức là nhấn mạnh tới lượng nhập khẩu). Tất nhiên
điều này không đồng nghĩa với việc hàng hóa nhập khẩu ít hơn thì nguy cơ cạnh
tranh không lành mạnh ít hơn hay số vụ kiện sẽ ít hơn.
Dù vậy, trong tổng thể, đây cũng là tín hiệu cho thấy nhiều loại hàng hóa khác
của Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu (mà
trong đó có thể có nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh) chưa được bảo vệ bằng
công cụ PVTM.
Từ thực tiễn nêu trên, có thể thấy việc sử dụng công cụ PVTM ở Việt Nam đã
bắt đầu, tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề cần bàn trước khi có thể hy vọng các công
cụ này sẽ được sử dụng phổ biến và hiệu quả ở Việt Nam nhằm bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp sản xuất nội địa trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
58
Chương 3
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT
NAM
3.1 Những hạn chế về mặt pháp lý trong việc sử dụng công cụ phòng vệ
thương mại tại Việt Nam
Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được trong thực hiện biện pháp PVTM
ở Việt Nam còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế như:
Thứ nhất, các văn bản gốc trong hệ thống pháp luật về PVTM của Việt Nam
hầu hết được soạn thảo và ban hành trong thời kỳ Việt Nam đang đàm phán WTO,
khi mà hiểu biết cũng như những va vấp thực tiễn với các vụ kiện PVTM của Việt
Nam còn hạn chế. Hầu hết các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện nay về vấn đề
phòng vệ thương mại mới chỉ là các Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn, chưa có
một hệ thống luật cụ thể nhằm điều chỉnh các quy phạm pháp luật và quan hệ nảy
sinh trong quan hệ thương mại quốc tế, cụ thể là khi áp dụng các biện pháp phòng
vệ thương mại.
Thứ hai, về tư cách khởi kiện:
Theo quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), để đứng đơn khởi
kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp hoặc tự vệ, bên đi kiện phải có đủ tư cách
khởi kiện, tức là phải đáp ứng được ít nhất 02 điều kiện:
Một là, doanh nghiệp khởi kiện phải sản xuất ra ít nhất 25% tổng lượng sản
phẩm liên quan tại Việt Nam;
Hai là, đơn kiện nhận được sự ủng hộ của các doanh nghiệp sản xuất ra ít nhất
50% tổng lượng sản phẩm liên quan đến sản xuất tại Việt Nam.
Do đó, để có thể áp dụng được các biện pháp PVTM, DNcần phải hợp tác với
các DN trong cùng ngành hàng. Từ đó, có thể thấy rõ vai trò của hiệp hội trong việc
liên kết các DN cùng ngành là cực kỳ quan trọng trong các vụ kiện PVTM. Tuy
59
nhiên, các Hiệp hội ngành hàng của Việt Nam hiện nay hoạt động kém hiệu quả
trong việc kết nối lẫn hỗ trợ các DN thành viên. [23, tr 32]
Thứ ba, pháp luật hiện hành Việt Nam không có quy định về nguyên tắc so
sánh giữa giá thông thường với giá xuất khẩu để tính biên độ bán phá giá. Về mặt lý
luận và thực tiễn cho thấy, muốn xác định được hành vi bán phá giá với biên độ bán
phá giá được xác định cụ thể làm căn cứ để áp dụng biện pháp chống bán phá giá
thì cơ quan điều tra chống bán phá giá của nước nhập khẩu phải xác định được giá
thông thường, xác định được giá xuất khẩu, sau đó thực hiện các điều chỉnh cần
thiết đối với giá thông thường và giá xuất khẩu để đưa chúng về mức tại khâu xuất
xưởng. Cuối cùng, tiến hành so sánh giữa giá thông thường với giá xuất khẩu đã
được điều chỉnh, qua đó mới tính toán được biện độ bán phá giá cụ thể. Tuy nhiên,
quy trình tính toán biên độ bán phá giá như trên đã không được PLCBPG năm 2004
quy định đầy đủ. Nghị định số 90/2005 thì có đề cập đến quy trình này tại Điều 25,
Điều 26 và Điều 27 nhưng nguyên tắc trong việc so sanh giá thông thường và giá
xuất khẩu như thế nào thì không được quy định. Hạn chế này có thể dẫn đến sự tùy
tiện trong việc so sanh giá thông thường và giá xuất khẩu khi tính toán biên độ bán
phá giá của cơ quan điều tra chống bán phá giá, dẫn đến kết quả của các cuộc điều
tra chống bán phá giá sẽ có nhiều sai lệch.
Thứ tư, về các thuật ngữ được sử dụng trong Pháp lệnh chống bán phá giá
năm 2004: Pháp lệnh đã đưa ra một số thuật ngữ như " điều kiện thương mại thông
thường", " giá thành hợp lý" , hay vấn đề như " hàng hoá tương tự được bán trên thị
trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu với số lượng, khối lượng
hoặc trị giá của hàng hoá không đáng kể" nhưng lại không giải thích cụ thể ý nghĩa
của các thuật ngữ đó là như thế nào. Ngay cả Nghị định số 90/2005 hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh cũng không có quy định hướng dẫn. Điều này sẽ gây ra khó khăn
cho cơ quan điều tra trong việc xác định hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam nói chung và việc xác định giá thông thường nói riêng.
Thứ năm, về việc xác định mối quan hệ giữa việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu với
thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản
60
xuất trong nước là một điều kiện được quy định trong Pháp lệnh về các biện pháp tự
vệ đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam năm 2002. Tuy nhiên, cách quy định
như vậy là chưa đủ và chưa thật sự chính xác về mặt thuật ngữ theo yêu cầu chung
của việc xác định các căn cứ áp dụng các biện pháp tự vệ để phù hợp với các yêu
cầu của WTO. Mối quan hệ ở đây nên làm rõ là mối quan hệ nhân quả, mà nguyên
nhân là sự gia tăng hàng hoá nhập khẩu là nguyên nhân chính, nguyên nhân trực
tiếp và chủ yếu gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra các thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, sản xuất hàng hoá tương tự hoặc
ngành sản xuất cạnh tranh trực tiếp. Do vậy, việc quy định như Pháp lệnh là chưa
đầy đủ, dễ làm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra chưa hết, đánh giá
chưa đầy đủ về các nguyên nhân khác cũng có thể là nguyên nhân gây thiệt hại cho
ngành sản xuất trong nước đó.
Thứ sáu, các pháp lệnh và văn bản hướng dẫn được ban hành thiếu một số
những quy chuẩn cụ thể khiến các chủ thể ( đặc biệt là cơ quan điều tra) có hành
động tuỳ nghi và kết quả là gây ra tác động hoặc làm phương hại đến việc thực hiện
các quy định có liên quan của WTO. Cụ thể, trong Nghị định 90/2005 hay Pháp
lệnh chống bán phá giá 2004, nhà làm luật lại không quy định cụ thể về bảng câu
hỏi, về quy trình phân tích đánh giá các yếu tố liên quan, việc điều tra có thể bị kéo
dài gây mất thời gian của các bên, qua đó gián tiếp vi phạm quy định về thời hạn
của WTO.
3.2 Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện pháp phòng vệ
thương mại đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam
Xuất phát từ thực trạng các quy phạm pháp luật về PVTM của Việt Nam còn
khá sơ sài, với nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, gây khó khăn cho cả cơ quan
điều tra lẫn các doanh nghiệp khởi kiện. Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiện
PVTM vào thời điểm này là cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động điều tra, áp dụng biện pháp PVTM cũng như đảm bảo tính an toàn pháp lý của
61
các hoạt động này (trước nguy cơ bị các nước thành viên WTO kiện do vi phạm
cam kết WTO).
Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiện PVTM cần những nghiên cứu sâu, kỹ
càng cả về lý thuyết cũng như thực tiễn kiện PVTM của thế giới và Việt Nam. Tuy
nhiên, rà soát về những vấn đề vướng mắc thực tiễn của kiện PVTM ở Việt Nam
cần xem xét những vấn đề sau:
Thứ nhất, cần phải nêu chi tiết, tuần tự, với các quy định rõ ràng về quyền và
nghĩa vụ của từng bên trong từng trình tự, thủ tục kiện PVTM cụ thể.
Thứ hai, cần nêu chi tiết, ít nhất là đề cập đến những quy định về điều kiện áp
dụng biện pháp PVTM đã được quy định trong các Hiệp định liên quan của WTO
(hiện nhiều quy định đã có trong các Hiệp định WTO nhưng chưa có trong pháp
luật Việt Nam).
Thứ ba, cần rà soát toàn bộ các quy định khác và điều chỉnh để đảm bảo rằng
(i) tất cả các quy định của WTO được đưa vào pháp luật Việt Nam; (ii) quy định chi
tiết về các những nội dung mà WTO cho các nước thành viên quyền tự do quy định
(ví dụ hiện pháp luật Việt Nam có quy định về việc xem xét “lợi ích kinh tế - xã
hội” nhưng không có bất kỳ hướng dẫn/quy định nào về cách thức xem xét, chủ thể
xem xét hay các tiêu chí/yếu tố bắt buộc cần tính tới trong quá trình xem xét).
Xét về tổng thể và lâu dài, các chuyên gia nhận định và khuyến cáo, mục tiêu
trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam là cần xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về phòng vệ thương mại nói chung và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng
để vừa đảm bảo ngăn chặn và xử lý các hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu
nước ngoài nhằm bảo vệ thị trường nội địa, vừa đấu tranh chống lại sự lạm dụng các
biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Để tạo điều kiện hơn nữa cho các Doanh nghiệp trong việc khuyến khích sử
dụng các công cụ PVTM một cách hợp lý, nhà làm luật cần soạn thảo và ban hành
sớm một số mẫu văn bản ( ví dụ như: mẫu hồ sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá, chống trợ cấp, biện pháp tự vệ) nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng
trong thực tế của doanh nghiệp Việt Nam.
62
Ngoài ra, các nhà làm luật Việt Nam cần tiếp tục soạn thảo và thông qua các
văn bản pháp lý để hướng dẫn chi tiết (cả về thủ tục và nội dung) việc thực hiện các
hoạt động trong khuôn khổ các vụ điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá
giá/chống trợ cấp đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam. Việc soạn
thảo cần đi theo hướng:
Thứ nhất là, nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan của các nước thành
viên WTO và chuyển hóa một cách hợp lý vào điều kiện của Việt Nam;
Thứ hai là, xây dựng các Bảng câu hỏi điều tra mẫu,các Bản hướng dẫn về thủ
tục hành chính cụ thể áp dụng cho cơ quan có thẩm quyền điều tra và các chủ thể
liên quan. Các Bảng câu hỏi hay Bản hướng dẫn như thế này có thể không ở dưới
dạng một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể mà chỉ là hướng dẫn thực tiễnnhưng
sẽ có ý nghĩa với việc triển khai các vụ điều tra trên thực tế. Việc xây dựng các văn
bản hướng dẫn này có thể được thực hiện trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các
nước có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và thực tiễn phong phú về vấn đề
này. Những kinh nghiệm thực tế của các vụ việc ở Việt Nam có thể sẽ là nguồn rất
tốt để điều chỉnh các văn bản này.
Cụ thể, đối với pháp luật chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam, tác giả có một số đề xuất như sau:
Thứ nhất, cần làm rõ và tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về chống bán
phá giá để xác định được rõ những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về chống
bán phá giá của Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra biện pháp cụ thể để hoàn thiện. Trong
quá trình tổng kết cần lưu ý hai tiêu chí là sự phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
luật lệ của WTO.
Thứ hai, cần chuẩn bị các thiết chế đủ mạnh về cả nhân lực, tài lực và vật
lực, để thụ lý và giải quyết một cách thuyết phục các vụ kiện chống bán phá giá ở
Việt Nam. Cơ quan chống bán phá giá bao gồm Cơ quan điều tra chống bán phá giá
và Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá phải có năng lực, được đào tạo bài
bản, nắm vững pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng như luật lệ
chống bán phá giá của WTO. Cơ quan này cũng phải có được đội ngũ cán bộ,
63
chuyên gia có năng lực cũng như nguồn lực đầy đủ để tiến hành điều tra, chống bán
phá giá một cách hiệu quả và thỏa đáng. Cơ quan này cần phải vừa bảo hộ được các
ngành sản xuất trong nước một cách hợp lý vừa tuân thủ luật lệ của WTO. Hệ thống
Tòa án cúng cần phải được kiện toàn, nhất là về năng lực, để có thể giải quyết các
đơn kiện đối với quyết định chống bán phá giá một cách khách quan, chính xác.
Thứ ba, cần tiến hành tuyên truyền phổ biến pháp luật về chống bán phá giá
rộng rãi một cách hợp lý với những hình thức đa dạng để cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam nhận thức rõ bản chất của pháp luật về chống bán phá giá Việt Nam và sử
dụng nó như công cụ bảo vệ lợi ích của mình trong bối cảnh kinh tế hội nhập.
Doanh nghiệp Việt Nam vẫn thường quá chú trọng tới thị trường bên ngoài mà bỏ
quên thị trường trong nước và điều này là một bất cập lớn. Nghiên cứu về các vụ
việc chống bán phá giá ở Hoa Kỳ trên đây cho thấy, thực tế các doanh nghiệp nước
ngoài rất chú trọng tới việc sử dụng pháp luật về chống bán phá giá như một công
cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của mình ở thị trường nội địa của họ. Các ngành sản
xuất nội địa của Hoa Kỳ rất chịu khó tìm hiểu và áp dụng luật về chống bán phá giá
mọi lúc có thể. Nhìn rộng ra thế giới thì thấy, không chỉ có các nước phát triển,
đang mới nổi lên về mặt kinh tế cũng ngày càng áp dụng nhiều hơn biện pháp này,
ví dụ: Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, v.v.. Thật ra, đây là xu hướng khá hợp lý
vì các nước đang phát triển thường có các ngành sản xuất phong phú, thường có lợi
thế chính về giá chứ chưa phải chất lượng, nhất là khi tình trạng kinh tế thế giới rơi
vào tình trạng khủng hoảng, thì các mặt hàng đến từ các quốc gia khác đang phát
triển càng được quan tâm nhiều hơn. Các ngành sản xuất nội địa của các nước phát
triển vì vậy rất dễ bị cạnh tranh từ các hàng hóa giá rẻ đến từ rất nhều các nước
đang phát triển khác. Chống bán phá giá, vì vậy nhìn từ các nước xuất khẩu, là công
cụ bảo hộ ngành sản xuất trong nước đáng bị phê phán, nhưng nhìn từ góc độ nước
nhập khẩu lại là công cụ hữu hiệu và hợp pháp để bảo vệ quyền lợi của ngành sản
xuất nội địa. ở nước nào cũng vậy, tiền thu được từ thuế chống bán phá giá sẽ được
điều tiết trở lại cho doanh nghiệp nội địa để bù đắp thiệt hại mà sản phẩm bán phá
giá đã gây cho doanh nghiệp nội địa. Nhà nước cần phải tuyên truyền cho các doanh
nghiệp nội địa biết điều đó để họ ý thức hơn về những cơ hội có thể giúp họ vượt
64
qua khó khăn. Lấy đó là một trong những động lực để họ quan tâm hơn nữa tới vấn
đề chống bán phá giá trong nước.
Thứ tư, cần khuyến khích các doanh nghiệp tập hợp với nhau thành các cộng
đồng, hiệp hội để đại diện và bảo vệ lợi ích của ngành sản xuất của mình trên thị
trường trong nước. Để kiện chống bán phá giá một sản phẩm nhập khẩu đòi hỏi
phải có hành động của tập thể. Một hay một số doanh nghiệp đơn lẻ không khi nào
có thể kiện chống bán phá giá thành công. Hơn nữa, quan tâm trước tiên và thường
xuyên của các doanh nghiệp luôn là làm thế nào để tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường chứ không phải thường xuyên rà
soát xem có doanh nghiệp nào bán phá giá ở thị trường Việt Nam và gây hại cho
ngành sản xuất của mình không. Công việc rà soát đó sẽ và chỉ có thể được thực
hiện một cách hiệu quả bởi các hiệp hội của các doanh nghiệp.
Đối với pháp luật chống trợ cấp đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam,
dựa trên thực trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này, tác giả đề xuất một số kiến
nghị như sau:
Thứ nhất, ban hành quy định có hiệu lực pháp lý cao (ví dụ Luật) ghi nhận
và đưa ra đảm bảo đối với nguyên tắc bãi bỏ, không duy trì, không ban hành mới
không thực thi và không tổ chức thực hiện các chính sách hay quy định pháp luật về
trợ cấp diện bị WTO cấm.
Thứ hai, Ban hành quy định về cơ chế kiểm soát các văn bản pháp luật ban
hành mới để đảm bảo các văn bản này không chứa các quy định về trợ cấp bị WTO
cấm (có thể dưới hình thức một tiêu chí về nội dung để thẩm tra các văn bản pháp
luật trong quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật chung).
Đối với pháp luật về các biện pháp tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam, xin được đưa ra một số kiến nghị:
Thứ nhất, Pháp lệnh và cụ thể là Nghị định 150/2003/NĐ-CP cần phải bổ
sung các quy định chi tiết hơn về các yêu cầu xác định mối quan hệ nhân quả giữa
sự gia tăng hàng nhập khẩu vào Việt Nam với thiệt hại nghiêm trọng hoặc sự đe doạ
65
nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước hoặc mặt hàng tương tự hoặc cạnh
tranh trực tiếp.
Thứ hai, trình tự, thủ tục điều tra sẽ đầy đủ hơn nếu Pháp lệnh hay các Nghị
định hướng dẫn quy định cụ thể thời hạn mà Hội đồng xử lý bắt đầu nghiên cứu,
xem xét các hồ sơ, các kết luận của Cục quản lý cạnh tranh về vụ việc sau khi có
các kết luận điều tra từ Cục Quản lý cạnh tranh; thời hạn thảo luận và quyết định về
việc không có hoặc có việc gia tăng khối lượng số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập
khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá
tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước; thời hạn kiến nghị Bộ trưởng Bộ
Công Thương ra quyết định áp dụng biện pháp tự vệ.Vì vậy, nếu quy định cụ thể
thời hạn sẽ hạn chế được tình trạng kéo dài thời hạn của một vụ kiện phòng vệ
thương mại tại Việt Nam, từ đó hạn chế được các thiệt hại có tiềm năng xảy ra đối
với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
66
KẾT LUẬN
Các biện pháp phòng vệ thương mại của tổ chức thương mại thế giới - WTO
là một trong những chế định quan trọng trong số nhiều các quy định của WTO. Quy
định về các biện pháp phòng vệ thương mại kể từ thời điểm hình thành cho đến nay
được áp dụng bởi không chỉ các quốc gia phát triển mà cả các quốc gia đang phát
triển là thành viên của WTO. Việt Nam với tư cách là một nước đang phát triển, đã
và đang tìm thấy ở các biện pháp phòng vệ thương mại của WTO và các hiệp định
thương mại quốc tế khác, một công cụ có hiệu quả, như một van an toàn để đảm bảo
sự phát triển lành mạnh của ngành sản xuất trong nước trước những cạnh tranh từ
hàng nhập khẩu nước ngoài. Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ thực
trạng pháp luật hiện hành về các biện pháp phòng vệ thương mại của Việt Nam
cũng như pháp luật WTO và của Hoa Kỳ, khoá luận tốt nghiệp đã đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
Với những đề xuất trên, tác giả hi vọng khoá luận tốt nghiệp sẽ góp phần hoàn
thiện pháp luật về các biện pháp phòng vệ tại Việt Nam. Với trình độ và thời gian
nghiên cứu còn hạn hẹp, chắc chắn còn nhiều vấn đề cần trao đổi thêm. Hy vọng
rằng trong thời gian tới, cùng với quá trình sửa đổi, bổ sung một cách hợp lý thì
khung pháp lý các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ thực sự phát huy hết được tác
dụng điều chỉnh của mình trong việc tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh cho
các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 về
Chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, Hà Nội.
2. Chính phủ (2005), Nghị định số 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam, Hà Nội.
3. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11
ngày 20/08/2004 về Chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam,
Hà Nội.
4. Chính phủ (2005), Nghị định số 89/2005/NĐ-CP ngày 11/7 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam, Hà Nội.
5. Chính phủ (2003), Nghị định số 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12 quy định chi tiết
thi hành Pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam,
Hà Nội.
6. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về
về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Thu Nguyệt (2013), Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế
giới và các giải pháp pháp lý ngăn ngừa sự tác động đến việc xuất khẩu của
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật- ĐHQGHN, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Sơn (2011), Pháp luật về chống bán phá giá hàng hoá nhập
khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Ths. Lữ Thị Thu Trang, 2016, Tăng cường áp dụng các biện pháp phòng vệ
thương mại tại Việt Nam, Tạp chí tài chính kỳ II tháng 12/2016
68
10. David W. Pearce (1999),Từ điển kinh tế học hiện đại (tái bản lần thứ 4), NXB
Chính trị Quốc gia
11. Walter Goode, Từ điển chính sách thương mại quốc tế,NXB Thống Kê, Hà
Nội
12. Black's Law dictionary, Nineth Edition, 2009
13. Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
1994 ( ADA)
14. Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT 1947
15. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Thương Mại Quốc tế
16. VCCI, Trợ cấp và thuế chống trợ cấp, Các biện pháp khắc phục thương mại
17. VCCI, Biện pháp tự vệ
18. VCCI, Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá và Chống trợ cấp tại Hoa Kỳ
19. VCCI, Hỏi đáp pháp luật về chống bán phá giá WTO-US-EU
20. Luật chống bán phá giá của Liên Minh châu âu, 1995
21. VCCI, 2004, Pháp luật về chống bán phá giá - những điều cần biết
22. VCCI, Báo cáo nghiên cứu - Giải pháp tăng cường sử dụng các công cụ phòng
vệ thương mại nhằm chuẩn bị cho doanh nghiệp trong nước sẵn sàng cho việc
mở cửa thị trường thực thi các FTA và cộng đồng kinh tế ASEAN
23. Ban Quan hệ quốc tế - VCCI, Hồ sơ thị trường - Tổ chức thương mại quốc tế
WTO
24. Trung tâm WTO (2015), Báo cáo “Sử dụng các công cụ PVTM trong bối cảnh
Việt Nam thực thi các FTAs và Cộng đồng kinh tế ASEAN
TIẾNG ANH
25. Bryan Johnson, A guide to antidumping laws: America's unfair trade pratice,
1992
26. United States International Trade Commission, 2015, Antidumping and
Countervailing Duty Handbook (Fourteenth Edition, page. I-7
27. Committee on Safeguards,1995, Notification of Laws, Regulations and
Administrative Procedures relating to Safeguard Measures of United States
69
MẠNG INTERNET
28. Doanh nghiệp còn yếu trong phòng vệ thương mại, 2016, Chongbanphagia.vn
29. www.tapchitaichinh.vn
30. www.mot.gov.vn
31. www.vcci.com.vn
70