ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HÀ XUYÊN
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
HÀ NỘI-2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HÀ XUYÊN
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh doanh
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn : ThS.NCS.Trần Anh Tú
Hà Nội-2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Hà Xuyên
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại. ......................................................... 6
1.2 Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại .............................. 10
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ........................................................................ 6
1.2.1 Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại .... 10
1.3 Phân biệt thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm quyền của tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại ................................ 17
1.2.2 Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại ................................ 12
CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
2.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền của
trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật trọng tài thương mại năm 2010. ......... 22
THI HÀNH. .................................................................................................... 22
2.1.1 Giai đoạn sơ khai (Trước năm 2003) ............................................... 22
2.2 Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương
thương mại theo Luât trọng tài thương mại 2010 .................................................. 33
2.1.2 Giai đoạn chuyển tiếp ( 2003-2010) ................................................ 29
2.2.1 Các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp lệ và có thể thực
hiện được trên thực tế. .............................................................................. 33
2.2.2 Quy định tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài thương
2.3 Phân định thẩm quyền của Trọng tài thương mại và Toà án theo pháp luật
Việt Nam hiện nay. ................................................................................................ 47
2.4 Thực tiễn thi hành các quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại tại
Việt Nam trong thời gian qua: ............................................................................... 51
mại.............................................................................................................40
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
3.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền trọng
tài thương mại ........................................................................................................ 56
HIỆN NAY. .................................................................................................... 56
3.1.1 Cơ sở lý luận ................................................................................... 56
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương
mại.........................................................................................................................60
3.3 Những giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. ................................ 66
3.1.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................. 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT
STT Viết tắt Nội dung từ
Luật Trọng tài thương Luật Trọng tài thương mại ngày 17 tháng 1.
mại 2010 06 năm 2010 của Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Pháp lệnh Trọng tài Pháp lệnh trọng tài thương mại số 2.
thương mại 2003 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02
năm 2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hôi
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
VIAC Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam 3.
(Vietnam International Arbitration Centre)
UNCITRAL Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương 4.
mại quốc tế(United Nations Commission
on International Trade Law)
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu bảng,biểu đồ Tên bảng, biểu đồ Trang
Biểu đồ 1 Thống kê Trọng tài viên 54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,Việt
Nam ghi nhận ngày càng nhiều những mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là với các
nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác nhau với tính chất và quy mô phức tạp
hơn. Cơ hội mới đồng thời cũng mang đến cho doanh nghiệp những rủi ro
mới. Chính vì vậy, hiện nay phương thức giải quyết tranh chấp được thừa
nhận là một bộ phận quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro liên quan đến quá
trình hoạt động. Bên cạnh rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp, trọng
tài với lợi thế là thủ tục tố tụng nhanh gọn, kín đáo tiết kiệm hơn về thời gian,
chi phí đã trở thành một trong những phương thức giải quyết tranh chấp hấp
dẫn. Rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển đã tạo mọi điều kiện cho
hoạt động của trọng tài thương mại phát triển nhằm đa dạng hóa việc giải
quyết tranh chấp, tăng cơ hội lựa chọn cho các bên và giảm áp lực lên cơ quan
tư pháp.
Việt Nam vì vậy ngày càng quan tâm hơn đến giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật trọng tài thương mại
để thay thế Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, với nhiều quy định mới về
cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế trong đó có quy định về mở
rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại đã thu hút
được rất nhiều sự quan tâm của các chuyên gia pháp lý, các nhà hoạt động
thực tiễn và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thực tế
trọng tài chưa trở thành một hình thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án được
ưu chuộng. Trọng tài Việt Nam rất ít được sử dụng để giải quyết các tranh
chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài nhất là các
hợp đồng có giá trị lớn hầu như không lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải
quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải
1
quyết thông qua hệ thống tòa án hoặc trọng tài nước ngoài. Việc chậm phát
triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thực tiễn cuộc
sống do nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần lớn xuất phát từ hệ thống
quy phạm pháp luật hiện hành về trọng tài thương mại chung và đặc biệt là
các quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại nói riêng.Với mong
muốn được luận bàn chuyên sâu, góp phần hoàn thiện pháp luật trọng tài ở
Việt Nam, tác giả chọn đề tài: “ Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Các vấn đề lý luận và thực tiễn về Trọng tài thương mại trong khoa học
pháp lý nói chung và khoa học pháp lý ở Việt Nam nói riêng đã được nghiên
cứu, phân tích khá kỹ lưỡng bởi nhiều công trình nghiên cứu khoa học của
các tác giả khác nhau. Các sách chuyên khảo, luận văn, xã luận, bài viết được
công bố tính đến thời điểm hiện nay đều đã đề cập được phần nào những vấn
đề cốt lõi của phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng
tài thương mại. Cụ thể ở cấp độ luận văn thạc sỹ có thể kể đến các công trình
như: Luận văn “Pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại” của Tống Thị
Lan Hương- do PGS.TS Nguyễn Văn Tý hướng dẫn; Luận văn “Về pháp luật
trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy – do
PGS.TS Dương Đăng Huệ hướng dẫn; Luận văn “Thẩm quền của hội đồng
trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Đặng Minh
Phương do TS.Phan Thị Thanh Thủy hướng dẫn; Luận văn “So sánh pháp
luật về trọng tài thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” của Nguyễn Thị Liên
do GS.TSKH Đào Trí Úc hướng dẫn.
Ở cấp độ bài báo khoa học có thể kể đến các tác phẩm như: Tác giả
Nguyễn Vũ Hoàng với bài viết “Luật áp dụng trong lĩnh vực trọng tài thương
mại quốc tế” đăng trên Tạp chí Luật học, Số đặc san về giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế năm 2012; Tác giả Trần Quỳnh Anh với bài viết “Một số
vướng mắc và hoàn thiện Luật trọng tài thương mại” đăng trên Tạp chí Luật
2
học số 7/2012.
Các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập một cách khái quát về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa có công
trình nào đề cập một cách chuyên sâu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài. Vì vậy, trên cơ sở tham khảo một số tài liệu có liên quan, tác giả
sẽ tiếp cận nghiêm túc và tìm hiểu một cách toàn diện nhất về vấn đề này,
đồng thời đưa ra một số giải pháp,kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật
trong nước.
3. Mục tiêu của Luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật
trọng tài thương mại trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Việt Nam. Đồng thời,
phân tích các quy định hiện hành của pháp luật trọng tài thương mại về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; đánh giá thực trạng áp dụng các
quy định đó trong thực tiễn từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc đang và sẽ
gặp phải liên quan đến việc áp dụng quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài thương mại. Từ đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cần thiết cho việc đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của trọng tài thương mại trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chủ yếu nghiên cứu những vấn đề lý
luận và tiễn về thẩm quyền của trọng tài thương mại được trong Luật Trọng
tài thương mại năm 2010.
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt nội dung:
Nội dung nghiên cứu của đề tài tiếp cận vấn đề thẩm quyền của trọng
3
tài thương mại trên hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên
cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền của hội đồng trọng tài và thực
tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương
mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, tác giả đưa ra những
đánh giá khách quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền của trọng tài tại Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Về mặt thời gian:
Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn, luận
văn lấy mốc nghiên cứu từ năm 2010- năm Luật trọng tài thương mại ban
hành cho đến nay. Nội dung luận văn cũng có sự nghiên cứu đối với các quy
định pháp luật trước năm 2010, đặc biệt là các quy định trong Pháp lệnh về
Trọng tài thương mại năm 2003. Khi đề xuất giải pháp, luận văn nêu ra những
kiến nghị, đề xuất thực hiện trong thời gian 5-10 năm tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề phát triển kinh tế, tìm ra các phương hướng giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài ra, còn sử dụng các thành tựu của
các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà
nước và pháp luật, xã hội học pháp luật.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề
như: phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,…Đồng
thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước
và giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương với kết cấu như sau:
4
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của trọng tài thương mại
Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của trọng tài
thương mại và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại tại Việt Nam
5
hiện nay.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp xuất hiện từ lâu trên thế giới.Phương thức này ngày càng được giới kinh
doanh ưu tiên lựa chọn để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy
ra tranh chấp vì những ưu thế vượt trội của nó so với các hình thức tài phán
khác.
Hiểu rõ khái niệm trọng tài thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc làm sáng tỏ thẩm quyền của trọng tài. Trong khoa học pháp lý, trọng tài
thương mại được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện
nay có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài thương mại được ghi nhận.
Khái niệm trọng tài
Một trong những định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu trong Công
ước La Hay năm 1988, theo đó: “Trọng tài là nhằm giải quyết những bất
đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn
trên cơ sở tôn trọng pháp luật”
Tiếp đó, Hiệp định La-Hay 1907 quy định: “Trọng tài quốc tế có đối
tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của
những trọng tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở tôn
trọng pháp luật”
Tuy nhiên, hai cách định nghĩa này chỉ mới đưa ra một cách diễn giải
về hoạt động của trọng tài mà chưa thấy được bản chất của sự việc.
Ở một góc nhìn khác Luật sư tòa thượng thẩm Paris, Didier Skonicki
định nghĩa ngắn gọn: “Trọng tài là tòa án tự, do ý chí của đôi bên tranh chấp.
Nó cũng xét xử như tòa án nhà nước”.
Một định nghĩa phổ biến hơn và thường được các quốc gia sử dụng như
một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng pháp luật nước mình là trong cuốn
6
sách trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL cho rằng: “Trọng tài là
những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được
xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng
buộc đối với hai bên”.
Theo hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) – một tổ chức trọng tài đã có về dày
lịch sử hoạt động thì: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách
đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ
sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải
thi hành”.
Theo cuốn “Đại từ điển kinh tế thị trường” thì: “Trọng tài là một
phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên
đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho
bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người
này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”
Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 quy
định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại”
Về mặt học thuật, trên thế giới cũng có nhiều học giả quan tâm và
nghiên cứu từ nhiều năm qua.
Theo Okezie Chukwumerije: “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các
bên lựa chọn hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất
định được lựa chọn bởi chính các bên”
Với một quan điểm tương tự James anh Nicolas cho rằng: “Trọng tài
được coi là một tiến trình tư được mở ra theo sự thoả thuận của các bên
nhằm giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một
hội đồng trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên”.
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài được nhìn từ
những góc độ khác nhau, song nhìn chung có thể thấy tất cả các định nghĩa
7
trên đều hiểu trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài
phán phi nhà nước. Trọng tài là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp
chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ
sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên.
Khái niệm trọng tài thương mại.
Khái niệm trọng tài thương mại là không giống nhau tùy thuộc vào quy
định của pháp luật mỗi quốc gia, trong đó khái niệm “thương mại” có ảnh
hưởng rất lớn.
Cho đến nay không tồn tại khái niệm thương mại nào được chấp nhận
chung bởi tất các quốc gia trên thế giới. Pháp luật của mỗi quốc gia đều có
cách tiếp cận đặc thù về vấn đề này. Tuy nhiên sự không thống nhất này được
quốc tế công nhận và tôn trọng, trong công ước New York 1958 về Công
nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài dù đã nỗ lực ghi nhận một
sự giải thích về thuật ngữ “thương mại” nhưng lại dành cho các nước thành
viên quyền bảo lưu đối với khái niệm này: “Quốc gia đó cũng có thể tuyên bố
chỉ áp dụng công ước đối với các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng mà theo pháp luật quốc gia đó quy
định là quan hệ thương mại”(Điều 1 Khoản 3). Hay như trong công ước
Giơnevơ 1972 cũng quy định: “Mỗi nước tham gia hợp đồng có thể giới hạn
nghĩa vụ của mình đối với hợp đồng được coi là thương mại do luật quốc gia
quy định”
Một trong những định nghĩa khá đầy đủ và được biết đến rộng rãi nhất
phải kể đến là quy định tại phần chú thích tại Luật Mẫu trọng tài thương mại
quốc tế Liên hợp quốc (1985), tuy nhiên nó cũng chỉ được các quốc gia sử
dụng như một tài liệu tham khảo cho việc xây dựng khái niệm thương mại
trong pháp luật nước mình. Khái niệm thương mại ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương
mại, dù là có hợp đồng hay không có hợp đồng. Theo đó những quan hệ được
cho là có bản chất thương mại bao gồm: “ Bất kỳ giao dịch buôn bán nào
8
nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại
diện thương mại hoặc đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị,
xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li- xăng (mua bán sáng chế phát minh), đầu
tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển
nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh, vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển,
đường sắt đường bộ” [40, Điều 1].
Dưới góc độ của mỗi quốc gia, ở các quốc gia phát triển cao, thường
sử dụng khái niệm thương mại và quy định phạm vi của nó khá rõ ràng trong
các văn bản pháp luật với phạm vi rộng. Các quan hệ thương mại được phân
biệt với các quan hệ dân sự ở mục đích của chúng: các quan hệ thương mại là
các quan hệ nhằm mục đích thu lợi nhuận còn các quan hệ dân sự chỉ nhằm
mục đích tiêu dùng cá nhân.
Bộ luật Thương mại cộng hòa Pháp hiện hành bao gồm các quy định về
thương nhân, về chứng từ lưu thông, về thương mại hàng hải…Luật Thương
mại Philipin định nghĩa thương mại là hoạt động của con người nhằm thúc
đẩy sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận và bao gồm
các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận chuyển
hành khách và hàng hóa. Bộ luật Thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều
chỉnh khá rộng, bao gồm mua bán hàng hóa, thuê tài sản thuê mua tài sản, tín
dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty hợp danh…
Tại Việt Nam theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2010
quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Quy định này có nghĩa khái niệm
thương mại được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ là các hoạt động mua bán hàng hoá
và những hoạt động gắn liền việc mua bán hàng hoá.
Qua việc phân tích các nội dung cơ bản của trọng tài thương mại, có thể
kết luận rằng: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp mà
9
sự bắt đầu của nó dựa trên thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp nhằm
giải quyết các tranh chấp có yếu tố thương mại bởi một hội đồng bao gồm
một hoặc nhiều trọng tài viên.
Với bối cảnh kinh tế xã hội phát triển như hiện nay, những tranh chấp
trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thường xuyên xảy ra. Để giải quyết
tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn một hay nhiều phương thức phù hợp
với nhu cầu của mỗi bên. Trọng tài thương mại chính là một phương thức giải
quyết tranh chấp bên cạnh các phương thức khác là thương lương, hòa giải
hay giải quyết bằng tòa án. So với các phương thức còn lại, Trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp kết hợp nhiều ưu điểm của của các phương
thức này, như: Đảm bảo sự tự do thỏa thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các
bên, giữ được quan hệ giữa các bên sau khi giải quyết như phương thức
thương lượng, hòa giải; đảm bảo sự chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài
phán như hình thức tòa án. Ở các nước phát triển, trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phổ biến và được các thương nhân cũng như các nhà
kinh doanh lựa chọn tối ưu để giải quyết tranh chấp.
1.2 Khái quát chung về thẩm quyền của trọng tài thương mại
1.2.1 Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại
Thứ nhất, Trọng tài thương mại là thiết chế “tài phán tư”
Thẩm quyền của trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận trao
cho.Thẩm quyền này không mang tính chất đương nhiên và không mang tính
quyền lực nhà nước. Tính chất phi chính phủ của phương thức này được thể
hiện:
Về tổ chức: Hội đồng trọng tài, tổ chức trọng tài được thành lập
theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép. Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, hoạt
động theo quy định của pháp luật và quy tắc tố tụng riêng. Mỗi trung tâm
trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng với các trung tâm
trọng tài khác. Các tổ này hoạt động theo nguyên tắc tự hoạch toán, tự trang
10
trải, lấy thu bù chi mà không được cấp kinh phí hoạt động trong ngân sách
nhà nước. Chính vì vậy, Hội đồng trọng tài, các tổ chức trọng tài không nằm
trong thiết chế nào của bộ máy nhà nước và không phải là cơ quan xét xử của
Nhà nước.
Về trọng tài viên: Trọng tài viên là những người hành nghề tự
do, không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh cá nhân hoặc trung
tâm trọng tài. Họ không phải là công chức nhà nước, không được hưởng
lương từ ngân sách nhà nước mà hưởng thù lao theo từng vụ việc tranh chấp.
Đặc điểm này đảm bảo cho trọng tài thương mại thuần túy mang tính xã hội,
không chịu áp lực của các cơ quan nhà nước, tăng tính độc lập và khách quan
cho các quyết định của trọng tài. Đồng thời cũng tránh được sự cồng kềnh,
quá tải cho bộ máy nhà nước.
Về hiệu lực các phán quyết: Các phán quyết trọng tài không có
bộ máy cưỡng chế riêng để đảm bảo thi hành. Để phán quyết này được thực
thi, các bên phải sử dụng thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài theo công ước NewYork 1958 hoặc được pháp luật quy định.
Thứ hai, trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp
gắn với hoạt động thương mại
Toà trọng tài là một trong những hình thức cổ xưa nhất để giải quyết
bất hoà giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Hình thái đấu tiên
về trọng tài có thể bắt nguồn từ các quốc gia thành bang cổ Hy Lạp, cổ La Mã
và thời Xuân Thu Chiến Quốc cũng có ghi chép lại hình thức trọng tài này.
Quy định sơ khai về trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái
buôn được tự phân xử bất hòa của mình không cần có sự can thiệp của nhà
nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ
trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa,
có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu. Nhìn chung, chế độ trọng
tài thời xưa chủ yếu dùng để giải quyết tranh chấp giữa các thương nhân.
Ngày nay mặc dù thẩm quyền của trọng tài thương mại đã được mở
11
rộng, nhưng hầu hết các tranh chấp được giải quyết bằng hình thức trọng tài
vẫn là các tranh chấp thương mại mà chủ yếu là tranh chấp từ hợp đồng
thương mại. Đới với các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác như : Hôn nhân
gia đình, sở hữu trí tuệ, tranh chấp liên quan đến quyền của người thứ ba
trong vụ phá sản, tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh, tranh chấp lao động ,
nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc giải quyết tại toà án
hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất định.
Thứ ba, Trọng tài thương mại đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương
sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến lợi ích tư
Xét về bản chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên
sự lựa chọn tự nguyện của các bên tranh chấp. Để được giải quyết bằng
phương thức trọng tài, các bên cần phải có thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau
khi xảy ra các tranh chấp thương mại. Bằng một điều khoản trọng tài (trong
hợp đồng kinh tế thương mại) hay bằng một thoả thuận trọng tài (lập ra sau
khi sau khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp ra giải
quyết bằng một cơ quan trọng tài (uỷ ban trọng tài hoặc trọng tài viên) do các
bên lựa chọn. Thỏa thuận giữa các bên về tranh chấp là điều kiện tiên quyết
để làm phát sinh thẩm quyền trọng tài. Như vậy, thẩm quyền của cơ quan
trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện”
do các bên tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm. Tuy nhiên một khi đã được thoả
thuận thì phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên
tuân thủ.
Hơn thế nữa, về nguyên tắc thẩm quyền của quyết trọng tài không bị giới
hạn bởi pháp luật, phương thức trọng tài tôn trọng quyền tự định đoạt của các
bên: từ việc xác định phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được giải quyết, lựa
chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp
dụng đối với tranh chấp đến việc phán quyết của trọng tài được thực hiện ra
sao ... tất cả đều do các bên trong tranh chấp tự thoả thuận.
1.2.2 Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại
12
Trọng tài là một loại hình cơ quan tài phán, do đó vấn đề đầu tiên mà nhà
nước nào cũng phải quan tâm là vấn đề về thẩm quyền của trọng tài. Dựa trên
các cơ sở lý luận đã nêu trên có thể thấy phạm vi thẩm quyền của trọng tài
thương mại được xác định dựa trên các yêu tố sau:
Thứ nhất, dựa trên sự thỏa thuận của các bên trước hoặc sau khi xảy ra
tranh chấp bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
Như đã phân tích ở trên, thẩm quyền của trọng tài không phải là thẩm
quyền đương nhiên mà là thẩm quyền theo sự lựa chọn, nghĩa là trọng tài chỉ
có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được các bên lựa chọn bằng một
thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.Vì vậy, ý định sử dụng trọng tài phải được
hiện thực hóa bằng một thỏa thuận trọng tài và được đàm phán giữa các bên
liên quan. Một tranh chấp chỉ được giải quyết bằng hình thức trọng tài nếu các
bên có thoả thuận trọng tài.
Quy định này khác với tố tụng toà án, theo đó khi xảy ra tranh chấp thì bất
cứ bên nào cũng có quyền yêu cầu toà án xem xét giải quyết mà không cần
được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của Toà án là đương nhiên. Nhưng trọng
tài thì không như vậy, nếu các bên không có thoả thuận giải quyết bằng trọng
tài thì trọng tài tuyệt nhiên không có thẩm quyền gì. Thoả thuận giữa các bên
tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm quyền của trọng tài.
Thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên tranh chấp thống nhất giao cho trọng
tài quyền thay mặt họ trong việc xem xét nội dung tranh chấp và đưa ra phán
quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.Vai trò của một thỏa thuận
trọng tài được thể hiện ở những phương diện:
Một là, do thỏa thuận trọng tài được xác lập trên cơ sở tự nguyện và
bình đẳng của chính các bên nên một khi đã xác lập thỏa thuận trọng tài thì
không bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
Hai là, một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cho phép khẳng định tòa án
không có thẩm quyền và phải từ chối thụ lý vụ án khi một bên khởi kiện ra
tòa, trừ trường hợp thoả thuân trọng tài vô hiệu hoặc không thực hiệu được.
13
Điều 5 luật Mẫu thể hiện rất rõ vấn đề này: “những vấn đề chi phối bởi luật
này, không một toà án nào được phép can thiệp ngoại trừ Toà án được luật
này cho phép”. Luật Mẫu yêu cầu toà án tư pháp của các quốc gia phải từ chối
thụ lý vụ tranh chấp nếu đã và sẽ có một thỏa ước trọng tài giữa các bên tranh
chấp, hoặc phải thông báo cho các bên tranh chấp biết được tinh thần của luật
Mẫu về sự từ chối thụ lý của toà án. Toà án tư pháp chỉ can thiệp trong trường
hợp một thoả ước trọng tài bị vô hiệu tuyệt đối (tức là trường hợp một thoả
ước trọng tài vi phạm những quy định về nội dung và những quy phạm về
hình thức) hoặc không có khả năng thi hành.
Ba là, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác định thẩm quyền trọng
tài.Trọng tài chỉ được giải quyết một số loại tranh chấp nhất định và theo cách
thức nhất định do các bên lựa chọn và thoả thuận trong điều khoản trọng tài
hoặc thoả thuận trọng tài. Nếu trọng tài vượt quá thẩm quyền được uỷ quyền
hoặc không tuân thủ các nguyên tắc tố tụng trọng thoả thuận trọng tài, không
thực hiện đầy đủ, đúng đắn, khách quan, vô tư, công bằng trách nhiệm được
các bên giao phó thì theo nguyên tắc đại diện, các quyết định của trọng tài sẽ
bị chính các bên tranh chấp yêu cầu huỷ bỏ, không công nhận và không cho
thi hành để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hộ và để thưc thi công lý.
Bốn là, thỏa thuận trọng tài cho phép lựa chọn nơi tiến hành tố
tụng trọng tài, luật áp dụng, ngôn ngữ trọng tài trong những điều kiện phù hợp
nhất.
Tuy nhiên một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi nó đáp ứng được
yêu cầu của pháp luật về nội dung và hình thức. Pháp luật các nước khác nhau
quy định không giống nhau về nội dung thỏa thuận của trọng tài thương
mại.Tuy nhiên, về cơ bản điểm chung của các nước thường đặt ra những yêu
cầu về tính rõ ràng, sự chính xác của thỏa thuận trọng tài theo đó có thể dễ
dàng xác định thẩm quyền xét xử của một Hội đồng trọng tài cụ thể, theo một
quy tắc tố tụng nhất định.
Thứ hai, dựa trên các quy định của pháp luật về những loại việc thuộc
14
thẩm quyền của trọng tài.
Nếu như tố tụng tòa án sử dụng các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo
lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ của bị đơn và sự thỏa thuận của nguyên đơn thì
thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc nếu được các bên có vụ
việc lựa chọn đích danh. Trong lịch sử, trọng tài đã được sử dụng để giải
quyết nhiều loại tranh chấp khác nhau: tranh chấp giữa các quốc gia, tranh
chấp kinh doanh thương mại, tranh chấp lao động…Tuy nhiên, theo xu hướng
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì trọng tài được thành lập chủ
yếu để giải quyết các tranh chấp phát sinh hoạt động thương mại. Phạm vi các
vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại rộng hay hẹp vì
vậy chịu ảnh hưởng rất lớn vào quy định của mỗi quốc về khái niệm “thương
mại”.
Nghiên cứu pháp luật của các quốc gia trên thế giới cho thấy trọng tài có
một quyền năng rất rộng. Tùy theo quan điểm của mỗi nước mà thẩm quyền
của trọng tài có các quy định khác nhau nhưng nhìn chung các quy định này
thường được thiết lập dựa trên hai phương pháp chính là phương pháp loại trừ
và phương pháp liệt kê:
- Theo phương pháp loại trừ:
Đối với nhiều nước, để mở rộng thẩm quyền trọng tài, pháp luật trọng
tài không liệt kê những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài mà
chỉ liệt kê những loại việc mà trọng tài không được giải quyết. Ví dụ như:
Luật trọng tài Đức 1998 có nêu ra bất kỳ khiếu nại nào liên quan đến một lợi
ích kinh tế đều có thể là đối tượng của thỏa thuận trọng tài, trọng tài có quyền
giải quyết ngoại trừ tranh chấp về hợp đồng thuê nhà trên lãnh thổ Đức thì
trọng tài không có quyền giải quyết. Tương tư, Luật trọng tài Nhật Bản 2003
tại khoản 1 Điều 13 cũng quy định thẩm quyền theo phương pháp loại trừ,
theo đó: “trừ khi được quy định bởi pháp luật, một thỏa thuận trọng tài sẽ có
hiệu lực chỉ khi nội dung của nó là một tranh chấp dân sự mà có thể được
giải quyết bằng cách giàn xếp giữa hai bên (trừ việc ly dị hay ly thân)”. Như
15
vậy tất cả các tranh chấp dân sự đều thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
tài, nếu hai bên có thỏa thuận ngoại trừ trường hợp ly dị hoặc ly thân. Bộ luật
tố tụng dân sự Indonexia cũng quy định thẩm quyền trọng tài cụ thể tại Điều
615 và Điều 616 cho phép các bên có thể đưa thỏa thuận đưa ra trọng tài giải
quyết mọi vấn đề mà họ quan tâm trừ vấn đề liên quan đến tài sản tặng cho và
thừa kế để cấp dưỡng, nuôi ăn, mặc, ở; hôn nhân gia đình, về hộ tịch và một
số vấn đề khác theo luật định.
- Theo phương pháp liệt kê:
Phương pháp này được một số nước áp dụng để quy định thẩm quyền
trọng tài như: Braxin, Nga, Việt Nam…Theo phương pháp này, pháp luật
trọng tài chỉ giải quyết các loại tranh chấp được quy định cụ thể trong văn bản
pháp luật. Ví dụ, theo Điều 1 Luật trọng tài Braxin 1996 thì “những người có
khả năng kí kết hợp đồng có thể đưa ra trọng tài để giải quyết tranh chấp liên
quan đến các quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định”. Hay tại khoản 2
Điều 1 Luật trọng tài quốc tế Liên bang Nga 1993 quy định: “theo thỏa thuận
trọng tài, các bên có thể đưa ra xét xử tại trọng tài thương mại quốc tế: các
tranh chấp từ các quan hệ hợp đồng và các quan hệ pháp luật dân sự khác
phát sinh trong khi thực hiện thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương và
các mối quan hệ kinh tế quốc tế khác nếu một trong các bên ở nước ngoài và
của các liên hiệp và các tổ chức quốc tế thành lập trên lãnh thổ Liên bang
Nga với nhau, tranh chấp giữa các thành viên của họ cũng như tranh chấp
giữa họ với các chủ thể luật pháp khác của Nga”
Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 cũng đi theo xu hướng quy định
thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp liệt kê. Theo đó, Điều 2 Luật
trọng tài thương mại 2010 quy định ba nhóm việc thuộc phạm vi thẩm quyền
giải quyết tranh chấp trọng tài bao gồm: nhóm tranh chấp giữa các bên phát
sinh từ hoạt động thương mại, nhóm các tranh chấp giữa các bên trong đó có
ít nhất một bên có hoạt động thương mại và nhóm tranh chấp giữa các bên mà
16
pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.
1.3 Phân biệt thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm
quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan
của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần
phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong
hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Trong rất
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, nổi bật lên là phương
thức giải quyết bằng trọng tài thương mại và phương thức giải quyết bằng toà
án. Sự khác nhau cơ bản về thẩm quyền của trọng tài với thẩm quyền của toà
án cũng chính là điểm khác biệt giữa hai hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại này.
Thứ nhất, thẩm quyền của toà án là thẩm quyền đương nhiên trong
việc giải quyết tranh chấp. Nếu các bên có tranh chấp thương mại như hợp
đồng, và các tranh chấp khác bên bị vi phạm có quyền sử dụng quyền khởi
kiện dân sự của mình để thực hiện việc khởi kiện ra toà án mà không cần bất
kỳ sự cảnh cáo, sự thoả thuận hay đồng ý của bên đối phương. Ngược lại, xét
về bản chất, trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự
nguyện của các bên. Các bên tự thoả thuận về phạm vi các tranh chấp mà
trọng tài được quyền giải quyết, thoả thuận về luật áp dụng, về tính chung
thẩm và hiệu lực bắt buộc của phán quyết trọng tài đối với các bên tranh chấp.
Như vậy thẩm quyền của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp
đồng” hay “quyền lực đại diện” do các bên tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm.
Thẩm quyền này tạo cho các bên đương sự linh hoạt trong việc lựa chọn cơ quan
giải quyết tranh chấp là trọng tài mà không mang tính chất đóng như toà án.
Thứ hai, giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất
pháp lý.
Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp.
17
Trong quá trình tố tụng, tòa án nhân danh nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm
pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên. Các bản án quyết định của toà án được có hiệu lực bắt buộc
đối với mọi công dân, tổ chức có liên quan và đảm bảo thi hành bằng sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ngược lại, trọng tài mang đậm tính chất phi
chính phủ. Tính phi chính phủ này thể hiện ở chỗ, các trung tâm trọng tài
không do nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận
xin phép nhà nước để được thành lập. Trung tâm trọng tài là tổ chức xã hội
nghề nghiệp và không nằm trong cơ cấu thiết chế của bộ máy nhà nước. Đối
với trọng tài vụ việc, trọng tài cũng hoàn toàn do các bên tự thành lập và
không phải là cơ quan nhà nước. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa tòa án và
trọng tài đã quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng tòa án và
tố tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
Thứ ba,về thủ tục tố tụng.
Thủ tục tố tụng toà án áp dụng cho các tranh chấp trong thương mại do
toà án thực hiện được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một
số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như:
về hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng. Thủ tục tố tụng của
toà án bắt buộc tuân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự cho nên đặc
trưng của tố tụng toà án là các quy tắc thủ tục nghiêm ngặt, thường khá cứng
nhắc. Còn thủ tục tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thoả thuận và
tài phán. Cụ thể, thoả thuận làm tiền đề cho phán quyết . Thủ tục tố tụng trọng
tài vì vậy mang tính linh hoạt cao. Các bên tuỳ ý tổ chức tố tụng bằng cách
dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc soạn thảo quy tắc riêng.
Thứ tư, thẩm quyền theo vụ việc:
Dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, tòa án có thẩm quyền rộng hơn
so với trọng tài. Tòa án có thẩm quyền giải quyết hầu như tất cả các loại tranh
chấp phát sinh trong cuộc sống như kinh doanh thương mại, thừa kế, hôn
nhân gia đình, trách nhiệm ngoài hợp đồng, v.v. Tòa án cũng có thể giải quyết
18
những việc dân sự không phải là tranh chấp. Trong khi đó, trọng tài chỉ có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại và một số các tranh chấp
khác theo quy định của pháp luật.
Thứ năm , Thẩm quyền theo lãnh thổ:
Đối với tòa án, không phải vụ tranh chấp trong kinh doanh nào cũng
được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý giải quyết khi
được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trái lai, trong tố tụng trọng
tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các bên tranh chấp có
quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết cho mình theo ý
muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa
ra trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh
chấp. Như vậy, về thẩm quyền lãnh thổ thì trọng tài linh động hơn tòa án.
Thứ sáu, thẩm quyền ban hành phán quyết:
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại và theo thông lệ quốc tế
phán quyết của trọng tài đã được ban hành mang tính chất chung thẩm bởi
xuất phát từ đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp này là hình thức
giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu nhanh, và phù hợp với thực tế tranh chấp
thương mại của các bên. Trong khi đó, nhằm đảm bảo tính chính xác và để
khắc phục những sai sót của Hội đồng xét xử, những phán quyết của toà án sẽ
không có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể được xem xét lại bằng thủ tục xét
xử phúc thẩm.
Về cơ bản có thể thấy đây là hai hình thức giải quyết tranh chấp hoàn
toàn khác nhau và hoạt động độc lập với nhau. Như đã phân tích ở trên, tổ
chức trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, hoạt động theo điều
lệ quy tắc riêng. Tuy nhiên sự ra đời, tồn tại, hoạt động của trọng tài luôn chịu
sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật.
Sự can thiệp và hỗ trợ của nhà nước trong quá trình trọng tài là một
vấn đề đã được đề cập đến rất nhiều trong khoa học pháp lý. Xung quanh
vấn đề này cũng có nhiều ý kiến tranh cãi và tiếp cận dưới nhiều cách khác
19
nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng thống nhất với nhau ở khía cạnh: trọng tài
không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Điều này xuất phát từ
chính bản chất của hình thức trọng tài thương mại: Trọng tài là cơ quan quan
phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên
tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm. Trong quá trình tố tụng trọng tài, theo sự
thoả thuận của các bên tranh chấp trọng tài có quyền ra các quyết định có
hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp, nhưng lại không có quyền ra
lệnh bắt buộc đối với bên thứ ba nào khác có liên quan đến tranh chấp.
Chính sự hạn chế về quyền lực này nên không phải lúc nào trọng tài cũng có
khả năng đảm bảo cho quá trình trọng tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả. Hơn
thế nữa, sau khi có phán quyết trọng tài về vụ tranh chấp, cho dù các bên có
thoả thuận rằng phán quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc
nhưng nếu một trong hai bên không tự nguyện thi hành thì trọng tài cũng
không có quyền và nghĩa vụ cưỡng chế thi hành phán quyết hay quyết định
do chính mình ban hành. Trong những trường hợp như vậy, hiệu quả thi
hành phán quyết sẽ phụ thuộc vào vai trò của và sự hỗ trợ của toà án. Nhà
nước cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình tố tụng trọng
tài.Tuy vậy, vấn đề là nhà nước sẽ tác động trọng tài đến mức độ nào để vừa
đảm bảo tính công bằng hiệu quả vừa đảm bảo sự độc lập vô tư khi giải
quyết các tranh chấp. Sự can thiệp của nhà nước có thể tích cực nhưng cũng
có thể tác động không tốt đến trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là tích cực nếu
nhà nước quan tâm đến kết quả trọng tài và can thiệp khi cần thiết nhằm
giúp các bên tham gia trọng tài đạt được mục đích trọng tài trên cơ sở công
lý, công bằng. Sự can thiệp đó có thể là không tích cực nếu nó nhằm chỉ để
bảo vệ quyền lợi của một bên tham gia mà không công bằng đối với tất cả
các bên. Vai trò của nhà nước là bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi chung
và quyền lợi riêng của các bên tham gia trọng tài. .
Thực tế ở các nước cho thấy, sự hỗ trợ, can thiệp của nhà nước trong quá
trình tố tụng trọng tài được thể hiện thông qua tòa án, thông qua vai trò của
20
tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài. Nội dung của mối quan hệ này luôn
được công nhận và quy định ở trong luật về trọng tài ở tất cả các nước trên
thế giới, mặc dù có thể khác nhau ở góc độ này hoặc góc độ khác. Bên cạnh
đó, trong khi xử lý mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài cần phải đảm bảo
hai yêu cầu đặt ra là vừa phòng ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết
của tòa án vào quá trình trọng tài, vừa bảo đảm được vai trò hỗ trợ và kiểm
tra giám sát cần thiết của tòa án để nâng cao hiệu quả của tố tụng trọng tài.
Tùy theo điều kiện, truyền thống pháp luật, các học thuyết và quan điểm
pháp lý về tố tụng trọng tài ở từng quốc gia mà quan hệ giữa tòa án và trọng
tài được thể chế hóa ở những mức độ khác nhau tại những văn bản khác
nhau nhưng thông thường là trong luật trọng tài, luật tố tụng dân sự hoặc tố
21
tụng thương mại của từng nước và trong các điều ước quốc tế về trọng tài.
CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH.
2.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của các quy định về thẩm
quyền của trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật trọng tài thương
mại năm 2010.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, để điều chỉnh hoạt động của trọng tài
thương mại nói chung và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài nói
riêng ban đều ban hành một đạo luật khá sớm. Ví dụ, Trung Quốc có Luật
Trọng tài 1994, Singapore có Luật trọng tài 2001, ở Nhật có Luật trọng tài
2003, Malaysia có Luật trọng tài 1952 (sửa đổi năm 1972 và 1980), ở Đức có
Luật trọng tài năm 1998, ở Anh có Luật trọng tài năm 1996…Các đạo luật
này là cơ sở pháp lý nền tảng cho hoạt động trọng tài.
Còn ở Việt Nam, với lịch sử hình hành và phát triển hơn 50 năm, pháp luật
về trọng tài thương mại cũng đánh dấu sự tiến bộ và hoàn thiện hơn của pháp
luật về trọng tài nói chung cũng như pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp trọng tài nói riêng. Qua các giai đoạn khác nhau, chịu sự ảnh hưởng của
chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì chế định thẩm quyền của trọng
tài thương mại cũng có những bước phát triển theo hướng hoàn thiện cho
tương thích với pháp luật quốc tế nhưng đặt trong bối cảnh phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị trong nước.
2.1.1 Giai đoạn sơ khai (Trước năm 2003)
Giai đoạn trước 1954
Chế định trọng tài du nhập vào hệ thống pháp luât nước ta từ cuối thế kỉ
XIX, trong một tranh chấp đất đai năm 1897, toà thượng thẩm Sài Gòn xét
rằng: “trọng tài được thừa nhận trong pháp luật An Nam”. Trong thời gian
này, các bộ luật dân sự rồi Toà án thương mại lần lượt ra đời. Như vậy cuối
22
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chế định trọng tài là một phần trong pháp luật tố
tụng dân sự. Tuy nhiên bối cảnh xã hội đương thời không thuận lợi cho sự
phát triển của mô hình trên. Do đó, về cơ bản trọng tài không có tác động
đáng kể đến xã hội Việt Nam trong giai đoạn này.
Giai đoạn 1954- 1994:
Bước vào thời kì hội nhập, diện mạo pháp luật nước ta có sự thay đổi.
Lúc này tồn tại song song hai hệ thống cùng có chức năng giải quyết tranh
chấp kinh tế các cơ quan trọng tài kinh tế và trọng tài phi nhà nước:
- Trọng tài kinh tế Nhà nước:
Đầu năm 1960, khi công cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế (1955- 1960)
sắp hoàn thành, miền Bắc chuẩn bị bước vào thời kỳ quá độ tiến lên Chủ
nghĩa xã hội bằng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất
(1961- 1965), để đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế theo kế hoạch, nhà
nước ban hành “Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh tế”( Ban hành kèm theo
Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 ). Ngày 14/11/1960, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 20/TTg về Tổ chức Trọng tài kinh tế Nhà nước.
Theo nghị định này, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài
kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế với chức năng chủ
yếu là xử lý các tranh chấp hợp đồng kinh tế. Có thể thấy trọng tài kinh tế nhà
nước vừa là cơ quan xét xử vừa là cơ quan quản lý nhà nước. Là cơ quan quản
lý nhà nước đương nhiên trọng tài kinh tế nhà nước phải thi hành mệnh lệnh
của nhà nước, tuy vậy bản thân trọng tài kinh tế nhà nước cũng có quyền ra
mệnh lệnh hành chính đối với các đối tượng có liên quan trong phạm vi điều
chỉnh của pháp lênh hợp đồng kinh tế.
Thành viên Hội đồng trọng tài làm việc theo tính chất kiêm nhiệm
(chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng trọng tài các cấp đều do các đồng chí
lãnh đạo chính quyền kiêm nhiệm). Hoạt động của Hội đồng trọng tài chủ yếu
là giải quyết các vụ tranh chấp trên cơ sở hoà giải và dựa trên các đơn khiếu
nại của các bên. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng trọng tài là đề ra những
23
biện pháp kịp thời ngăn ngừa, hạn chế những tổn thất có thể xảy ra vì không
chấp hành đúng hợp đồng xử lý những vụ tranh chấp về từ chối kí kết hợp
đồng hoặc vi phạm hợp đồng đã kí kết theo kế hoạch nhà nước. Nếu không
đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài Bộ, địa phương thì các bên có
quyền khiếu nại tới Hội đồng trọng tài trung ương. Hội đồng trọng tài Trung
ương là cơ quan xử lý tối cao, các bên sau khi có quyết định của Hội đồng
trọng tài Trung ương không còn khiếu nại dến cơ quan chín quyền nào khác.
Để phân định thẩm quyền giữa toà án và hội đồng trọng tài tại Thông
tư số 244-DS ngày 10/02/1960 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Từ
nay, toà án các cấp không nên thụ lý giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh
tế giữa các cơ quan nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh với nhau, vì loại việc
này thuộc về phạm vi quyền hạn của Hội đồng trọng tài các cấp”
Tiếp theo, sau khi thay thế Nghị định số 04-TTg bằng Nghị định số 54-
CP ngày 10/03/1975 về chế độ hợp đồng kinh tế thì ngày 14/04/1975, Chính
phủ đã ra Nghị định số 75-CP để ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của
Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo bản điều lệ này, trọng tài kinh tế được
thành lập như một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý công tác hợp đồng
kinh tế. Đó là chức năng giữ vững tính kỷ luật nhà nước về hợp đồng kinh tế,
giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế và xử lý vi phạm hợp đồng kinh
tế.
Cùng với sự chuyển đổi cơ chế, hoạt động của hoạt động của ngành
trọng tài cũng phải chuyển đổi để phù hợp với cơ chế mới, cơ chế kinh tế
nhiều thành phần. Sau khi pháp lệnh hội đồng kinh tế ban hành 25/09/1989,
ngày 10/01/1990 pháp lệnh trọng tài kinh tế đã xác định rõ vai trò, vị trí chức
năng nhiệm vụ quyền hạn của trọng tài kinh tế.Điều 2 Pháp lệnh quy định
trọng tài kinh tê có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
Kiểm tra, kết luận và xử lý các Hợp đồng kinh tế trái pháp luật
Tuyên truyền hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và
24
trọng tài kinh tế
Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh
tế.
Trọng tài kinh tế có thể được giao nhiệm vụ quyền và hạn khác khi cần
thiết
Như vậy cùng một lúc, trọng tài kinh tế nhà nước vừa thực hiện chức
năng quản lý các doanh nghiệp nhà nước, vừa giải quyết tranh chấp phát sinh
giữa họ với nhau. Do đó, dù với tư cách là một tổ chức trọng tài hay với tư
cách là một cơ quan hành chính, trọng tài kinh tế nhà nước khó có thể hoạt
động hiệu quả vì nó phải đảm đương cùng một lúc hai trọng trách.
- Trọng tài phi nhà nước:
Đối với trọng tài phi nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình
thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của
Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp
sau đó, ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP
về việc thành lập Hội đồng Trọng tài Hàng hải. Tuy nhiên hai tổ chức trên chỉ
thực sự hoạt động từ năm 1989 khi quan hệ ngoại thương bắt đầu phát triển.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài ngoại thương
được quy định tại Điều 2- Điều lệ tổ chức Hội đồng trọng tài ngoại thương
ngày 30 tháng 4 năm 1963: “Hội đồng trọng tài ngoại thương xét xử các vụ
tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế Viêt Nam và tổ chức kinh tế nước ngoài
trong khi giao dịch giao dịch về ngoại thương hay phạm vi thi hành các hiệp
định, hợp đồng ký kết giữa các đương sự”.
Như vậy, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ngoại thương được xác
lập trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất: hội đồng trọng tài ngoại thương xét xử các tranh chấp giữa
các tổ chức kinh tế Việt Nam và các tổ chức kinh tế nước ngoài trong phạm vi
thi hành các hiệp định.
Thứ hai: Khi giữa Việt Nam và các nước không có điều ước quốc tế
25
ràng buộc về thẩm quyền của trọng tài thì việc tiến hành trọng tài hoàn toàn
dựa trên nguyên tắc ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp. Hội đồng trọng
tài ngoại thương chỉ có thẩm quyền xét xử khi giữa các bên đương sự đã thỏa
thuận với nhau đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại Hội đồng trọng tài ngoại
thương.
Trong điều lệ tổ chức của Hội đồng trọng tài hàng hải không có điều
khoản quy định thẩm quyền xét xử của Hội đồng trọng tài hàng hải bắt nguồn
từ các điều ước quốc tế mà điều này được quy định trong quy tắc tố tụng của
hội đồng trọng tài hàng hải. Hội đồng trọng tài hàng hải có thẩm quyền xét xử
ngay cả khi hai bên đương sự là tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.
Với quy định này, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hàng hải được mở rộng
hơn nếu so sánh với thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ngoại thương.
Giai đoạn từ sau năm 1993 đến năm 2003:
Từ năm 1986 nhà nước Việt Nam chủ trương chuyển nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó đáng chú ý là chủ trương bình đẳng giữa các thành phần
trong nền kinh tế, khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân; phát triển đầu tư
trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển đa dạng hoá các
quan hệ kinh tế quốc tế... Như vậy, bên cạnh số lượng lớn các doanh nghiệp
nhà nước, số lượng các công ty tư nhân cũng ngày càng gia tăng. Vấn đề đặt
ra là phải cải tạo môi trường dân chủ và công bằng cho các thành phần kinh
tế. Điều đó có nghĩa là cần phải có một cơ chế pháp lý thích hợp để bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp
nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu của thực tế của hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng
Chính phủ quyết định hợp nhất Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng
trọng tài hàng hải để thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) theo Quyết định số
26
204g/TTg ngày 28/03/1993. Khi mới thành lập, VIAC chỉ có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế như hợp đồng mua bán ngoại thương,
hợp đồng liên quan đến đầu tư, vận tải quốc tế nhưng sau đó thẩm quyền của
VIAC đã được mở rộng bằng quyết định 114/TTg ngày 16/2/1996, theo đó
VIAC có quyền giải cả các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh
trong nước.
Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu cải tổ hệ thống trọng tài kinh tế nhà
nước, ngày 05/09/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116-CP về tổ
chức và hoạt động của các Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo các quy định
của nghị định này, Trọng tài kinh tế thực sự được xác định là một tổ chức xã
hội – nghề nghiệp, tức là tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết một
số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời với chức năng quản lý nhà
nước như trước. Tuy nhiên trên thực tế, các trung tâm trọng tài vẫn chịu sự
quản lý trực tiêp của nhà nước về vấn đề xét đơn xin thành lập trung tấm, chỉ
định Hội đồng tuyển chọn trọng tài viên, cấp và thu hồi thẻ trọng tài viên .Về
thẩm quyền, trọng tài kinh tế có thẩm quyền tương tự tòa án kinh tế trừ quyền
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Theo đó trọng tài kinh tế chỉ được giải quyết
ba loại tranh chấp sau đây: (1) Tran chấp hợp đồng kinh tế;(2) Tranh chấp
trong nội bộ công ty; (3) Tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu,trái
phiếu. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy:
Nhóm tranh chấp thứ nhất: số lượng các tranh chấp liên quan đến việc
ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế có thể đưa ra giải quyết tại trọng tài kinh
tế so với tổng thể các tranh chấp phát sinh trong lưu thông hàng hàng hóa là
không đáng kể vì hợp đồng kinh tế theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
năm 1989 chỉ được ký kết giữa các chủ thể rất hạn chế đó là giữa pháp nhân
với pháp nhân; hoặc giữa pháp nhân với cá nhân đăng ký kinh doanh (được
hiểu là doanh nghiệp tư nhân). Như vậy tuyệt đại đa số các hợp đồng ký kết
không giữa các chủ thể trên đều không được coi là hợp đồng kinh tế do đó các
tranh chấp phát sinh giữa chúng cũng không thuộc phạm trù tranh chấp hợp
27
đồng kinh tế. Khi đã không được coi là tranh chấp hợp đồng kinh tế thì các
tranh chấp này dù có được các bên thỏa thuận đưa ra trọng tài cũng không
được quyền thụ lý và giải quyết.
Nhóm tranh chấp thứ hai thuộc thẩm quyền của trọng tài kinh tế đều là
các tranh chấp trong nội bộ công ty, phát sinh giữa thành viên của công ty với
nhau trong quá trình thành lập, hoạt động công ty. Số lượng những tranh chấp
này không nhiều và thường được giải quyết bằng con đường thương lượng
giữa bên có liên quan theo các phương thức đã được quy định trong điều lệ
công ty. Thực tiễn vừa qua chứng minh cho điều này vì trong suốt những năm
hoạt động, chưa có trung tâm trọng tài kinh tế nào thụ lý và giải quyết dạng
tranh chấp này.
Nhóm tranh chấp thứ ba lại càng hiếm trong điều kiện chúng ta chưa có
thị trường chứng khoán hoạt động sôi nổi, có hiệu quả. Cũng chính vì vậy, các
tranh chấp này chỉ mới được gọi tên trong văn bản pháp luật mà chưa hề được
đưa ra giải quyết ở bất cứ cơ quan tài phán kinh tế nào ở nước ta, kể cả tòa
kinh tế.
Ngoài việc thành lập mới các trung tâm trọng tài như trên, năm 1995,
Việt Nam còn gia nhập Công ước New york về việc công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài. Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kì phán quyết
trọng tài nào tại bất kỳ nước nào là thành viên công ước mà có một bên của
phán quyết ở Việt Nam hoặc hoặc tài sản ở Việt Nam thì đều được Nhà nước
Việt Nam công nhận và bảo hộ thi hành. Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào
của trọng tài Việt Nam cũng có thể được công nhận và cho thi hành ở bất kỳ
nước thành viên nào của công ước.
Trong thời kỳ này, không có một luật về trọng tài thống nhất điều chỉnh
hệ thống trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế. Thêm vào đó, quyết định
giải quyết tranh chấp của trọng tài không được đảm bảo thi hành. Vì thế, mô
hình trọng tài thương mại trong giai đoạn này chưa thật sự đạt được những
thành tựu đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực của trọng tài
28
thương mại hiện đại.
2.1.2 Giai đoạn chuyển tiếp ( 2003-2010)
Nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật thời kì trước, sau sáu
năm chuẩn bị, ngày 25/2/ 2003, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh Trọng tài thương mại gồm 8 chương và 37 điều, thể hiện nỗ lực to
lớn của Việt Nam hoà cùng xu thế hội nhập.
Pháp lệnh thương mại đã mở rộng thẩm quyền đáng kể cho trọng tài so
với Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của Trung
tâm trọng tài kinh tế.Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền: “giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy
định” (Khoản 1, Điều 2, Pháp lệnh trọng tài 2003).
Như đã phân tích ở trên, theo Nghị định 116/CP , do thẩm quyền của
trọng tài kinh tế trong nước khá hẹp nên có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cho dù có muốn chăng nữa thì các bên
cũng không thể đưa ra trọng tài giải quyết như quan hệ bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, tranh chấp sở hữu trí tuệ …Để khắc phục nhược điểm này
đảm bảo sự tương thích về vấn đề thẩm quyền của trọng tài Việt Nam với
trọng tài của nhiều nước trên thế giới, Pháp lệnh đã đưa ra khái niệm mới về
“hoạt đông thương mại” cho phép trọng tài giải quyết mọi tranh chấp phát
sinh từ khái niệm thương mại này. Theo đó, hoạt động thương mại được hiểu
theo nghĩa rộng phù hợp với khái niệm “kinh doanh” trong luật doanh nghiệp
và được hiểu là: “là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá
nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây
dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng bảo hiểm; thăm
dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không,
đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy
định của pháp luật”.
29
Trong bối cảnh Pháp lệnh đã được ban hành vào thời điểm Luật thương
mại 1997 vẫn đang có hiệu lực nhưng các nhà lập pháp đã mạnh dạn đưa khái
niệm thương mại theo hướng mở, tương thích với Luật mẫu về trọng tài
thương mại quốc tế của Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp
quốc, mà không bó buộc trong 14 hành vi quy định trong Luật thương mại
1997. Đây được coi là bước “đột phá” trong công tác lập pháp vào thời điểm
đó. Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động thương mại quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh
trọng tài thương mại mà các bên tranh chấp là cá nhân, tổ chức kinh doanh
(Điều 2 Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 2004 hướng dẫn
thi hành pháp lệnh trọng tài thương mại)
Như vậy, các tranh chấp được giải quyết tại trọng tài phải thỏa mãn ba điều
kiện:
Thứ nhất, tranh chấp đó phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động
thương mại theo quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại.
Thứ hai: giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài có hiệu
lực.
Thứ ba: các bên tranh chấp ở đây là tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thi hành, quy định trên của Pháp lệnh cũng
bộc lộ một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, đã có cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “thương mại” trong
Pháp lệnh. Điều này dẫn đến tranh cãi trong việc xác định phạm vi thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2005, mỗi năm có thêm hàng
nghìn doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập điều đó
cũng có nghĩa là sẽ có rất nhiều tranh chấp phát sinh liên quan đến việc góp
vốn, quản lý và điều hành các doanh nghiệp này. Vấn đề đặt ra là những tranh
chấp phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp, tranh chấp liên quan đến việc mua
bán cổ phiếu có được giải quyết bằng trọng tài không?
30
Có ý kiến cho rằng các loại tranh chấp này đương nhiên thuộc thẩm
quyền của trọng tài bởi vì việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu cũng như việc
góp vốn chính là hoat động đầu tư, tài chính vì có bản chất kinh doanh thu lợi
nhuận. Hơn nữa, cần phải hiểu tính “mở” của khái niệm thuật ngữ thương mại
trong pháp lệnh. Theo đó, ngoài việc liệt kê các hành vi thương mại, pháp
lệnh còn quy định các hành vi khác theo quy định của pháp luật. Do vậy, bất
kỳ quy định nào của pháp luật xác định lĩnh vực hoạt động là thương mại thì
trọng tài đều có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng trọng tài không có thẩm quyền giải
quyết các loại tranh chấp này không được liệt kê cụ thể tại khoản 3 Điều 2 của
pháp lệnh. Do đó, chỉ có tòa án mới có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
này.
Như vậy, quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo Pháp
lệnh trọng tài thương mại 2003 đã dẫn đến việc hiểu và áp dụng khác nhau và
sẽ tạo ra hậu quả pháp lý không giống nhau. Cụ thể, dựa theo quan điểm
“mở” trọng tài có thể thụ lý giải quyết tranh chấp nêu trên. Tuy nhiên, nếu áp
dụng một cách “máy móc” và dựa theo nguyên tắc “chỉ được làm những gì
pháp luật cho phép”, tòa án sẽ cho rằng trọng tài vượt quá thẩm quyền. Điều
này dẫn đến hậu quả là các quyết định trọng tài có nguy cơ không được tòa
công nhận và cho thi hành.
Thứ hai, về phạm vi chủ thể của vụ tranh chấp được giải quyết bằng
trọng tài.
Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh quy định: “Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy
định” . Theo quy định trên, thuật ngữ “các bên” sẽ có hàm ý rất rộng. Các bên
có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong khi đó, Nghị định số 25/2004/NĐ-CP
của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh lại giới
hạn phạm vi chủ thể chỉ bao gồm: “cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh
31
doanh”. Cụ thể Điều 2 của Nghị định quy định “Trọng tài thương mại có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quy
định tại Khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá nhân
kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”. Như vậy, trong khi tinh thần pháp lệnh
thì “mở” nhưng văn bản hướng dẫn thi hành,tuy có hiệu lực thấp hơn lại đưa
ra quy định đóng. Điều này khiến các trung tâm trọng tài đã phải từ chối rất
nhiều vụ tranh chấp do chủ thể ký thỏa thuận trọng tài không phải là “tổ chức,
cá nhân kinh doanh”.
Thứ ba, việc quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi nó “không xác
định rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp” là không hợp
lý. Điều này mâu thuẫn với chính Pháp lệnh khi nó quy định công nhận sự tồn
tại của hai hình thức trọng tài: trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Trên
thực tế, sẽ không bao giờ có tên tổ chức trọng tài nếu cụ thể nếu các bên lựa
chọn hình thức trọng tài vụ việc.
Thứ tư, ngoài ra, Pháp lệnh đã bỏ sót một chế định rất cơ bản đó là vấn
đề thỏa thuận trọng tài “không thực hiện được hoặc không thể thực hiện
được”. Trong thực tế áp dụng pháp luật trọng tài cho thấy có những trường
hợp thoa thuận trọng tài có hiệu lực nhưng không thể thực hiện được. Ví dụ
đơn giản như, khi tranh chấp xảy ra thì trung tâm trọng tài mà các bên lựa
chọn đã giải thể hoặc trọng tài viên duy nhất được các bên lựa chọn không có
khả năng làm trọng tài viên để hòa giải vụ việc (ví dụ như: người đó đã chết,
mất năng lực hành vi dân sự hay rơi vào các trường hợp không được làm
trọng tài viên ..) khi đó vụ việc cần được giải quyết như thế nào? Vì giữa các
bên đã có một thỏa thuận đã có hiệu lực pháp luật nên tòa án sẽ không thụ lý
giải quyết tranh chấp nếu một bên khởi kiện. Điều này dẫn đến nhiều vụ tranh
chấp phát sinh nhưng không được cơ quan nào giải quyết, các bên phải tự
gánh chịu.
Nhìn một cách tổng quát, mặc dù đã có những quy định khá tiến bộ so với
trước đây, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vẫn chưa đủ khả năng
32
tạo ra những cơ sở pháp lý thực hiện chủ trương của nhà nước ta khuyến
khích các bên sử dụng trọng tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại và
các tranh chấp khác.
2.2 Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương thương mại theo Luât trọng tài thương mại 2010
Mặc dù Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã thể hiện sự thành công đáng kể
trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của trọng tài, song qua sáu năm thực
hiện, Pháp lệnh cũng bộc lộ không ít bất cập. Do đó thực hiện chiến lược cải
cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luật trọng tài thương mại được ban hành với mục tiêu ghi nhận chủ
trương mở rộng các hình thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương
mại và một số quan hệ dân sự khác, đáp ứng nhu cầu và khuyến khích các bên
tranh chấp sử dụng hình thức trọng tài, góp phần giảm tải hoạt động xét xử
của hệ thống toà án hiện nay.
Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội thông qua ngày
17/06/2010 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2011, đã có quy định rõ về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại. Theo đó, tranh
chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài nếu thỏa mãn đồng thời hai điều kiện
sau:
2.2.1 Các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp lệ và có thể thực
hiện được trên thực tế.
Khoản 1 Điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định rõ tranh
chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Như
vậy, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát
sinh thẩm quyền của trọng tài. Quy định này khác với tố tụng tòa án, theo đó
khi xảy ra tranh chấp thì bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu tòa án xem xét
giải quyết mà không cần được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của tòa án là
đương nhiên. Nhưng với trọng tài thì không phải như vậy, nếu các bên không
có thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài tuyệt nhiên không có thẩm
33
quyền gì. Có thể thấy các loại việc quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương
mại chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ để tranh chấp đó thuộc thẩm quyền
của trọng tài là phải có thỏa thuận trọng tài hay nói cách khác là các bên trong
quan hệ tranh chấp đã thỏa thuận lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp.
Thoả thuận trọng tài:
Trước hết, có thể hiểu thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về
việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh trong hoạt động thương mại. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
đòi hỏi phải có sự thoả thuận của các bên. Về nguyên tắc “Không có thoả
thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, khôn có tố tụng trọng tài”
Về thời điểm lập thỏa thuận trọng tài: Thỏa thuận trọng tài có thể
được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Khi giao dịch với nhau các bên
có thể thỏa thuận trong hợp đồng là trường hợp xảy ra tranh chấp sẽ đưa ra
trọng tài giải quyết. Tuy nhiên, điều này không phải là bắt buộc. Có thể lúc
đầu các bên thỏa thuận tòa án giải quyết tranh chấp hoặc không thỏa thuận
nhưng khi xảy ra tranh chấp, các bên thỏa thuận lại trọng tài là cơ quan giải
quyết tranh chấp thì trọng tài vẫn có thẩm quyền. Ngoài ra, nếu các bên đã có
thỏa thuận trọng tài thì một bên không thể đơn phương hủy bỏ thỏa thuận đó.
Ví dụ, bên đó không thể nói rằng mình không muốn thực hiện theo thỏa thuận
trọng tài nữa và khởi kiện ra tòa. Tòa án sẽ phải từ chối thụ lý một yêu cầu
như vậy.
Về hình thức của thoả thuận trọng tài: Theo quy định của Luật trọng
tài thương mại 2010 thì thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn
bản. Đây là một điều kiện rất quan trọng về mặt hình thức cua thỏa thuận
trọng tài. Nếu các bên có trao đổi, thỏa thuận thống nhất với nhau về thỏa
thuận trọng tài nhưng mới chỉ dừng lại ở lời nói mà chưa hình thành một dạng
văn bản phù hợp với quy định của pháp luật thì sẽ không được coi là có thỏa
thuận trọng tài. Việc các bên có thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới dạng
văn bản là rất đa dạng. Khoản 2 Điều 16 Luật trọng tài thương mại 2010 đã
34
liệt kê một số hình thức thỏa thuận trọng tài bằng văn bản:
Các thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng
telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy
định của pháp luật;
Các thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn
bản giữa các bên;
Các thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có
thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
Một số văn bản thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng
từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác mà các bên dẫn
ciêu đến trong giao dịch.
Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự
tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ
nhận
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ:
Như đã phân tích ở trên, một tranh chấp muốn giải quyết bằng trọng tài
thương mại, trước hay sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên phải tồn tại một
thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi
được xác lập trên cơ sở tự nguyện theo ý chí của các bên đương sự và không
nằm trong các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay thỏa thuận trọng
tài không thể thực hiện được.
Trong các trường hợp sau đây, thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
Tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài: là trường hợp thỏa
thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực
quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật: là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người
đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp
hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy
35
quyền.Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác
lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do
người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện
thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác
lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa
thuận trọng tài không vô hiệu.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự:
là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu
thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có
năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng
năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa
án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của
pháp luật;
Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và có yêu cầu tuyên bố
thỏa thuận trọng tài vô hiệu; là trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép theo quy định tại Điều 4, Điều 132 của Bộ luật dân sự.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật: là thỏa thuận
thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự.
Ngoài ra, cần lưu ý điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010
về các trường hợp thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, bao gồm:
Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng
tài cụ thể nhưng trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có
tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn
trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng
36
tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan mà trọng tài viên không thể tham gia giải quyết
tranh chấp, hoặc trung tâm trọng tài, tòa án không thể tìm được trọng tài viên
như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trọng
tài viên khác để thay thế.
Đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên, nhưng vì sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể tham gia giải
quyết, hoặc trung tâm trọng tài, tòa án không thể tìm được trọng tài viên như
các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trọng tài
viên khác để thay thế;
Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng
tài vụ việc nhưng trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc trung tâm
trọng tài từ chối việc chỉ định trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được
việc lựa chọn trọng tài viên khác để thay thế;
Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài
nhưng lại thỏa thuận áp dụng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài khác với
quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của
trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho
phép áp dụng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài khác và các bên không
thỏa thuận được về việc lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
Doanh nghiệp và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng
tài được ghi nhận trong các điều kiện chung do doanh nghiệp soạn sẵn nhưng
khi tranh chấp phát sinh, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài
giải quyết tranh chấp.
Thông thường nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận đó là
hoàn toàn hợp pháp, phù hợp với quy định của pháp luật thì các bên phải tôn
trọng thỏa thuận đó. Khi có tranh chấp, nếu một bên khởi kiện yêu cầu tòa án
giải quyết, tòa án sẽ từ chối đơn và không thụ lý.Tuy nhiên, trong mối quan
hệ giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dung thì dù trong giao
37
dịch hợp đồng đã ghi nhận về thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận này không
trái pháp luật, nhưng khi có tranh chấp thì pháp luật dành quyền quyết định
cho người tiêu dùng lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là tòa án hay
trọng tài. Sở dĩ pháp luât dành quyền ưu tiên cho người tiêu dùng trong việc
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là vì người tiêu dùng thường ở vị
thế yếu hơn so với nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ về cả phương tiện kinh tế,
xã hội lẫn điều kiện cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình; dù về địa vị pháp lý, sự bình đẳng trước pháp luật là như nhau. Do đó,
việc quy định dành quyền lựa chọn phương thức giải quyết khi có tranh chấp
là nhằm tạo thuận lợi cho người tiêu dùng bảo vệ lợi ích của mình một cách
tốt nhất. Pháp luật của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới luôn chọn
phương án bảo vệ người yếu thế.
Trường hợp nội dung thỏa thuận trọng tài không rõ ràng hoặc các bên
có nhiều tỏa thuận trọng tài,hoặc nội dung thỏa thuận trọng tài không
rõ ràng
Trường hợp các bên có nhiều thỏa thuận trọng tài ở các thời điểm
khác nhau;hoặc có sự chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong giao dịch; nội
dung tỏa thuận không rõ ràng…là những trường hợp gây khó khắn lung túng
trong quá trình xử lý trên thực tế. Dự liệu được điều này điều 7 Nghị quyết
01/2014/NĐ-HĐCP đã có hướng dẫn chính xác xử lý như sau:
- Trường hợp các bên có nhiều thỏa thuận trọng tài:
Trên thực tế không phải lúc nào các bên trong tranh chấp cũng
chỉ có một thỏa thuận trọng tài mà có có nhiều thỏa thuận được lập ở các thời
điểm khác nhau trước khi kí hợp đồng, trong quá trình thực hiện hợp đồng,
hoặc sau khi thực hiện hợp đồng. Có những thỏa thuận có nội dung giống
nhau hoặc bổ sung cho nhau nhưng cũng có những trường hợp thỏa thuận
trọng tài có nội dung hoàn toàn khác nhau.
Trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài xác lập đối với cùng một
nội dung tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng
38
theo thời gian sẽ là thỏa thuận có giá trị áp dụng.
- Trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng:
Trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có
thể theo nhiều nghĩa khác nhau thì áp dụng quy định để Bộ luật dân sự để giải
thích:
Việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau
đây(Điều 121 Bộ luật dân sự 2015):
Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.
Việc giải thích hợp đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 404 của
Bộ luật Dân sự 2015 theo đó:
Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều
khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn
cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước,
tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng.
Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục
đích, tính chất của hợp đồng.
Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được
giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên
hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn
bộ nội dung hợp đồng.
Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn
từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để
giải thích hợp đồng.
Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên
kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia.
39
Tùy theo từng thỏa thuận trọng tài và điều khoản, nội dung được coi là
không rõ ràng trong thỏa thuận trọng tài đó mà áp dụng quy định nói trên
trong Bộ luật dân sự để lựa chọn phướng án giải thích hợp lý, được coi là phù
hợp nhất.
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong trường hợp chuyển giao quyền,
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch.
Như đã nói ở trên, thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với nội dung
mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng, trong giao dịch kinh tế, thương mại.
Do đó trường hợp có sự quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà
trong giao dịch, hợp đồng đó các bên có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp
thì thỏa thuận trọng tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với bên
được chuyển giao và bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác.
Kế thừa thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực kể cả khi một trong các bên của
thỏa thuận không còn tồn tại hoặc không còn khả năng tham gia giao dịch.
Nếu một bên là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài
vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của
người đó. Tương tự, nếu một bên là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá
sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ
chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức nào tiếp nhận quyền
và nghĩa vụ của tổ chức đó. Quy định này áp dụng trừ khi các bên có thỏa
thuận khác.
2.2.2 Quy định tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài
thương mại.
Việc xác định những trường hợp tranh chấp nào sẽ thuộc thẩm quyền giải
quyết của trọng tài có ý nghĩa hết sức to lớn. Nhận thức đúng đắn về thẩm
quyền của của trọng tài sẽ giúp cho thẩm phán, trọng tài viên hạn chế được sự
nhầm lẫn với thẩm quyền của tòa án trong quá trình thụ lý, giải quyết, sẽ giúp
cho hoạt động trọng tài ngày càng tốt hơn, vừa đem lại niềm tin cho thương
40
nhân vùa góp phần giảm tải cho tòa án.
Theo quy định tại Điều 2 Luât trọng tài thương mại thì trọng tài thương
mại có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp sau:
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại:
Đối với loại “tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại ” thì các bên tranh chấp đó đều phải là các chủ thể tiến hành hoạt động
thương mại. Trái với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 quy định cụ
thể các loại “hoạt động thương mại” theo hình thức liệt kê. Luật trọng tài
thương mại 2010 không định nghĩa khái niệm hoạt động thương mại, mà sử
dụng khái niệm hoạt động thương mại tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại
2005: “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Theo Luật thương mại 2005, các hoạt động thương mại bao gồm:
- Hoạt động mua bán hàng hóa: ở đây được hiểu là hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
- Hoạt động cung ứng dịch vụ: Là hoạt động thương mại, theo đó
một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ
cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là
khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng
dịch vụ theo thỏa thuận.
- Hoạt động xúc tiến thương mại: là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm
cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến
mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa,dịch vụ và hội
chợ,triển lãm thương mại.
- Các hoạt động trung gian thương mại: là hoạt động của thương
nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân
41
được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương
mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại.
Một số hoạt động thương mại cụ thể khác: -
Gia công thương mại: là hoạt động thương mại, theo đó bên
nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên
đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất
theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao ( Điều 178 Luật thương
mại 2005)
Đấu giá hàng hóa,dịch vụ: là hoạt động thương mại, theo đó
người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán
hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất (Khoản 1 Điều 185
Luật thương mại năm 2005)
Đấu thầu hàng hóa dịch vụ:“ là hoạt động thương mại, theo đó
một bên mua hàng hoá, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu)
nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự
thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và
được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)” (Điều
214 Luật Thương mại 2005)
Dịch vụ logistics: “là hoạt động thương mại, theo đó thương
nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư
vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ
khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù
lao.” (Điều 233 Luật thương mại 2005)
Quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh
hàng hóa:
Quá cảnh hàng hóa là việc vận chuyển hàng hóa thuộc sở hữu của tổ
chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, kể cả việc lưu kho, chia
tách lô hàng thay đổi phương thức vận tải hoặc các công việc khác được thực
42
hiện trong thời gian quá cảnh (Điều 241 Luật Thương mại 2005)
Còn dịch vụ quá cảnh hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó
thương nhân thực hiện việc quá cảnh cho hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức,
cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam để hưởng thù lao (Điều 249 Luật
thương mại 2005)
Dịch vụ giám định hàng hóa và kết quả cung ứng dịch vụ : “Dịch
vụ giám định là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện
những công việc cần thiết để xác định tình trạng thực tế của hàng hoá, kết
quả cung ứng dịch vụ và những nội dung khác theo yêu cầu của khách hàng”
(Điều 254 Luật thương mại 2005)
`Cho thuê hàng hóa: “Cho thuê hàng hoá là hoạt động thương
mại, theo đó một bên chuyển quyền chiếm hữu và sử dụng hàng hoá (gọi là
bên cho thuê) cho bên khác (gọi là bên thuê) trong một thời hạn nhất định để
nhận tiền cho thuê” (Điều 269 Luật thương mại 2005)
Nhượng quyền thương mại: là hoạt động thương mại, theo đó
bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành
việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau do pháp luật
quy định. ( Điều 284 Luật thương mại 2005)
Như vậy, có thể thấy phạm vi của hoạt động thương mại rất rộng. Bên
cạnh những hoạt động đã được liệt kê cụ thể trong luật thì bất kỳ hoạt động
nào khác chỉ cần thỏa mãn điều kiện nhằm “mục đích sinh lợi” cũng được coi
là hoạt động thương mại và tranh chấp phát sinh từ các hoạt động này có thể
được trọng tài giải quyết.
Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại:
- Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại trước hết là thương nhân, bao
gồm thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Thương nhân Việt
Nam là các chủ thể như được quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại
2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
43
kinh doanh.” Còn thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập,
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp
luật nước ngoài công nhận ( Khoản 1 Điều 16 Luật thương mại 2005 ).
- Bên cạnh đó hoạt động của các cá nhân dưới hình thức tự mình hàng
ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho
phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân”
cũng được xem là hoạt động thương mại.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại;
Quy định này mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Nếu như trước
đây , theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, trọng tài chỉ có
thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương
mại giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh thì Luật trọng tài thương mại 2010
đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài.
Quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật trọng tài thương mại chủ yếu đề cập đến
yếu tố chủ thể, đó là đòi hỏi ít nhất phải có một chủ thể trong quan hệ tranh
chấp có hoạt động thương mại, còn các chủ thể khác không đòi hỏi phải có
hoạt động thương mại vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Có thể
hiểu quy định này theo hai hướng:
Cách hiểu thứ nhất, chỉ căn cứ vào yếu tố chủ thể, chỉ cần trong vụ tranh
chấp có một chủ thể đang hoạt động thương mại bất kể quan hệ tranh chấp
thuộc loại quan hệ gì (quan hệ dân sự, hành chính,hôn nhân gia đình, lao
động..) không liên quan đến hoạt động thương mại cũng vẫn thuộc thẩm
quyền của trọng tài. Đây là hướng giải thích rất rộng, mở ra cho trọng tài
thẩm quyền trong nhiều loại việc không chỉ còn gói gọn trong các hoạt động
thương mại mà còn ở rất nhiều lĩnh vực khác, đây cũng là xu thế phát triển
chung của toàn thế giới. Tuy nhiên nếu chỉ xem xét trong phạm vi tên gọi của
44
luật và hệ thống các quy định trong Luật trọng tài thương mại của Việt Nam
thì cách hiểu này lại chưa hoàn toàn phù hợp, vì mới chỉ dựa vào yếu tố chủ
thể, yếu tố hàm chứa hình thức trong quan hệ chứ chưa đi vào bản chất vấn đề
đó là nội dung quan hệ hoạt động của các chủ thể trong quan hệ tranh chấp
đó.
Hướng giải thích thứ hai, dù quan hệ tranh chấp không phát sinh từ hoạt
động thương mại của cả hai bên, nhưng trong quan hệ tranh chấp đó có một
bên hoạt động thương mại và hành vi trong giao dịch của chủ thể này là hành
vi thương mại hoặc tranh chấp đó có liên quan đến hoạt động thương mại của
họ thì thuộc thẩm quyền của trọng tài. Cách hiểu như trên khá hợp lý vừa
không làm cho thẩm quyền trọng tài bị thu hẹp nhưng cũng không quá rộng
như hướng giải thích thứ nhất.
Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp
mà trong đó chỉ cần một bên tranh chấp đó là thương nhân ( thực hiện hoạt
động thương mại ) còn các bên còn lại có thể tham gia quan hệ với các mục
đích phi lợi nhuận như tiêu dùng, nhu cầu cá nhân. Như vậy, tranh chấp giữa
một thương nhân và các cá nhân, tổ chức không kinh doanh (có thể bao gồm
cả các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước) cũng có thể
được giải quyết bởi trọng tài thương mại. Trong quan hệ với các bên có hoạt
động thương mại thì các bên này có thể đóng vai trò là người tiêu dùng.
Người tiêu dùng ở đây được hiểu là “ người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
có mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức”. Các giao dịch
này có thể được giải quyết bởi trọng tài thương mại nếu giữa các bên có một
thỏa thuận trọng tài hợp pháp. Đây là trường hợp trong quan hệ tranh chấp có
một bên hoạt động thương mại ngay trong quan hệ tranh chấp đó.
Trọng tài cũng có quyền giải quyết đối với quan hệ tranh chấp mà hai bên
không có hoạt động thương mại nào trong quan hệ tranh chấp nhưng nó có
liên quan đến hoạt động thương mại của một trong hai bên tranh chấp đó, như
tranh chấp ngoài hợp đồng. Khi một bên tranh chấp có hoạt động thương mại
45
và hoạt động đó có liên quan đến quan hệ tranh chấp. Ví dụ A là doanh nhân
đang trên đường vận chuyển hàng hóa thì bị xe ô tô của B ( không hoạt động
thương mại) đâm và làm hỏng xe cũng như hàng hóa vận chuyển làm ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của A.Thì theo cách hiểu thứ hai tranh chấp
đòi bồi thường thiệt hại này trọng tài hoàn toàn có quyền giải quyết.
Tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết tại trọng tài.
Trong trường hợp này, tiêu chí hoạt động thương mại thậm chí còn không
được đặt ra, đây là những loại việc mà tranh chấp giữa các bên không phát
sinh từ hoạt động thương mại, hoặc giữa các bên tranh chấp không có bên nào
có hoạt động thương mại, không liên quan đến hoạt động thương mại, nhưng
luật chuyên ngành có quy định tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài
thương mại. Đây là quy định mở nhằm bảo đảm các luật ban hành sau này có
thể quy định các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thuộc phạm vi
điều chỉnh của luật đó có thể được giải quyết bằng trọng tài mà không cần
phải sữa đổi Luật trọng tài thương mại 2010.
Từ năm 2000 trở về trước rất hiếm luật chuyên ngành quy định trọng tài có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên bước vào thời kì hội nhập kinh
tế, cũng những đòi hỏi khách quan về sự đa dạng phương thức giải quyết
tranh chấp cho phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới do đó ngày
càng nhiều luật chuyên ngành quy định khi có tranh chấp các bên có thể chọn
phương án giải quyết tranh chấp bằng tòa án hoặc trọng tài. Khi có sự ghi
nhận nhận thẩm quyền của trọng tài trong một số luật chuyên ngành, trọng tài
sẽ có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ như:
- Luật Doanh nghiệp (2014) Điều 147 quy định: Cổ đông, thành viên công
ty có quyền yêu cầu trọng tài xem xét hủy bỏ quyết định hoặc một phần nội
dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông công ty.
- Bộ luật Hàng hải (2005) quy định: trong hợp đồng liên quan đến hoạt
động hàng hải, các bên có quyền yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp (
khoản 1 Điều 159 Bộ luật Hàng hải ). Trong trường hợp một trong hai bên
46
tham gia hợp đồng là người nước ngoài, có thể chọn trọng tài một trong hai
nước mà các bên mang quốc tịch hoặc trọng tài nước thứ ba ( Khoản 1Điều 5)
- Luật đầu tư ( 2005) cũng quy định cho phép giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài những tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam theo
Điều 12.
Ngoài ra Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 được sửa đổi bổ sung
năm 2014 (Điều 172, Điều 173); Luật các công cụ chuyển nhượng ( Điều 79)
; Luật chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung 2010 ( Điều 131); Luật chuyển
giao công nghệ 2005 (Điều 55); Luật xây dựng 2014 (điểm b khoản 8 Điều
146); Luật sở hữu trí tuệ ( Điều 198); Luật bảo vệ môi trường 2014( Điều
161)… đều quy định cho phép sử giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Khi gặp các trường hợp này nếu xác định đúng là thuộc thẩm quyền
trọng tài thì cơ quan có thẩm quyền vừa phải viện dẫn quy định trong các văn
bản pháp luật khác, hoặc các điều ước quốc tế… vừa viện dẫn Khoản 3 Điều
2 Luật trọng tài thương mại để xác định thẩm quyền của trọng tài.
Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. Theo đó, các tranh chấp hợp
đồng trong kinh doanh được giải quyết tại trọng tài thương mại không chỉ giới
hạn giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh với nhau như Pháp lệnh Trọng tài
thương mại năm 2003.Với phạm vi thẩm quyền rộng hơn, trọng tài có thể tập
trung giải quyết hầu hết các tranh chấp thương mại thực tế. Cách tiếp cận này
của Luật Trọng tài thương mại cũng đã tương thích với quy định của pháp
luật nội dung về hợp đồng trong kinh doanh (hợp đồng thương mại)
2.3 Phân định thẩm quyền của Trọng tài thương mại và Toà án theo
pháp luật Việt Nam hiện nay.
Việc xác định đúng thẩm quyền của tòa án và thẩm quyền của trọng tài sẽ
không chỉ tránh được việc hai tổ chức tài phán dẫm chân lên nhau, mà còn
giúp cho tòa án vừa phối hợp hỗ trợ, vừa giám sát hoạt động của trọng tài
thông qua việc thực hiện thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và xem xét
47
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Theo tinh thần của Luật trọng tài thương mại và Nghị quyết số
01/2014/NQ-HĐTP thì khi đã có thỏa thuận trọng tài và thuộc các trường hợp
quy định tại Điều 2 của Luật trọng tài thương mại thì luôn luôn dành quyền
quyền ưu tiên cho trọng tài có thẩm quyền giải quyết, thể hiện sự tôn trọng tự
do thỏa thuận của các bên trong tranh chấp. Điều 6 Luật Trọng tài Thương
mại 2010 quy định, một khi các bên đã thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại thông qua một thỏa thuận trọng tài có
hiệu lực, thì khi đó tòa án phải từ chối thụ lý đơn khởi kiện khi một trong các
bên khởi kiện tại tòa án để giải quyết tranh chấp. Lúc này, dù không trực tiếp
giải quyết, nhưng tòa án có vai trò hỗ trợ và giám sát hoạt động giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại khi một trong các bên hoặc Hội đồng
trọng tài có yêu cầu.
Tuy nhiên, Tòa án vẫn có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp
quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại trong các trường hợp sau:
- Có quyết định của Tòa án huỷ phán quyết trọng tài/quyết định của
Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên;
- Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng/Trung
tâm trọng tài trong các trường hợp pháp luật quy định sau:
Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ
của họ không được thừa kế;
Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt
động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình
thức tổ chức mà không có cơ quan, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của
cơ quan, tổ chức đó;
Các bên thoả thuận chấm dứt việc giải quyết tranh chấp;
Tòa án đã quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu
hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, trong trường hợp này Hội
đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Nếu không có thỏa
48
thuận khác, các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Tòa án.
Ngoài các trường hợp nêu trên, các tranh chấp thuộc trường hợp “thỏa
thuận trọng tài không thực hiện được” và “thỏa thuận trọng tài vô hiệu” quy
định tại Điều 6 và Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng sẽ do Tòa án
giải quyết.
Như đã nói ở trên khi đã có đủ căn cứ xác định thỏa thuận trọng tài
không thuộc thẩm quyền giải quyết, không thể thực hiện được hoặc vô hiệu
thì tranh chấp đó sẽ do Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, không
phải khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự trong các trường hợp nêu trên
là Tòa án được thụ lý ngay. Các thẩm phán cần hết sức lưu ý về thời điểm tòa
án thụ lý các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thẩm quyền Hội đồng
trọng tài, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được… nhằm bảo đảm
quyền lựa chọn của đương sự và thực hiện thẩm quyền của Trọng tài.
Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại thì tòa án yêu cầu một hoặc các
bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án
phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ
tranh chấp đó có thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này hay
không. Tùy từng trường hợp cụ thể mà tòa án xử lý như sau:
- Trường hợp tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc quyết định, phán quyết có
hiệu lực pháp luật của trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận
trọng tài thì tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
- Trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng
tài không thuộc trường hợp phán quyết trọng tài bị tòa án hủy, hoặc hội đồng
trọng tài, Trung tâm trọng tài đình chỉ giải quyết, không thuộc trường hợp
thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được...( tức là vụ tranh chấp đó thuộc
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài) nếu tòa chưa thụ lý thì căn cứ quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) để trả lại đơn khởi
49
kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện,
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có
thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài hoàn toàn phù hợp với pháp luật,
oàn toàn có thể thực hiện được thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm g khoản 1
Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ra quyết định đình chỉ việc giải quyết
vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho
người khởi kiện.
- Trường hợp đã có yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng
trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù tòa án nhận thấy tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy
đã có thoả thuận trọng tài nhưng thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3
Điều này mà người khởi kiện có yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp thì tòa
án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp tòa án đã thụ lý thì ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp tòa án thụ lý vụ
tranh chấp trước khi có yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp.
Trường hợp Tòa án xác định đã thụ lý vụ tranh chấp trước khi đương
sự có yêu cầu” trọng tài giải quyết thì phải đưa ra được các tài liệu,chứng cứ
rõ ràng thì mới không bị coi là đã vi phạm thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Sau khi tòa án trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết đối với
trường hợp vừa được nêu ở trên mà có quyết định, phán quyết của Hội đồng
trọng tài theo quy định tại Điều 43,58.59 và 61 Luật trọng tài thương mại và
người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì lúc này Tòa án nơi có thẩm
quyền mới được xem xét thụ lý, và giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp vừa có thỏa thuận trọng tài, vừa có thỏa thuận tòa án là cơ
quan giải quyết tranh chấp mà các bên không có thỏa thuận lại hoặc thỏa
thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc
trường hợp tòa án có thẩm quyền giải quyết khi có thỏa thuận trọng tài mà
phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau:
- Trường hợp người khởi kiện yêu cầu trọng tài giải quyết trước khi yêu
cầu tòa giải quyết hoặc trước khi tòa thụ lý thì tòa phải từ chối thụ lý, giải
50
quyết. Khi nhận được đơn khởi kiện, tòa phải trả lại đơn khởi kiện. Trường
hợp đã thụ lý, tòa phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không
thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm
theo đơn khởi kiện;
- Trường hợp người khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết tranh chấp trước,
trong khi tòa án chưa thụ lý thì đương sự lại gửi đơn yêu cầu trọng tài giải
quyết tranh chấp.Trên tinh thần của Luật trọng tài thương mại và Nghị quyết
số 01/2014/NQ-HĐTP thì phải ưu tiên thẩm quyền giải quyết cho trọng tài.
Do đó, ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện, tòa án phải hỏi rõ, kiểm tra,
xác định một trong các bên đã yêu cầu trọng tài giải quyết hay chưa.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện nếu
tòa xác định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết thì
tòa án không được thụ lý vụ án và trả lại đơn cho người khởi kiện. Trường
hợp người bị kiện, người khởi kiện chưa yêu cầu trọng tài giải quyết thì tòa
xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Nếu tòa đã thụ lý mà phát hiện đã có yêu cầu trọng tài giải quyết trước
thời điểm tòa thụ lý thì tòa ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì
không thuộc thẩm quyền của tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi
kèm theo đơn khởi kiện.
2.4 Thực tiễn thi hành các quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương
mại tại Việt Nam trong thời gian qua:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và khá
thông dụng trên thế giới. Song ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế, chính
trị, xã hội nên hình thức này phát triển muộn hơn.
Thứ nhất, về hoạt động trọng tài thương mại.
Trước khi Luật trọng tài thương mại Việt Nam có hiệu lực, theo thống kê
của VIAC, Tòa Kinh tế Hà Nội hằng năm phải xử gần 9000 vụ án, trong đó
có khoảng 300 vụ án kinh tế và Tòa Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phải xử
gần 42.000 vụ án các loại, trong đó có 1000 vụ án kinh tế; trong khi đó VIAC
51
chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ. VIAC có 140 Trọng tài viên; như vậy trung bình
mỗi mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0,5 vụ một năm; trong khi mỗi một
thẩm phán Tòa kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ mỗi năm và mỗi thẩm phán
tại Tòa kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên 50 vụ một năm. Theo thống
kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương
mại và lao động thì tòa án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử được 80.773
vụ; ngoài ra còn có 1.280 vụ được kháng cáo lên Tòa án nhân dân tối cao.
Những con số này cho thấy tòa án vẫn là phương thức giải quyết tranh chấp
được sử dụng phổ biến.
Sau khi Luật trọng tài thương mại Việt Nam ra đời, hoạt động trọng tài đã
có những chuyển biến tích cực cả về lượng và chất. Trong những năm gần
đây việc sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại ngày càng
phổ biến tại Việt Nam, thể hiện không chỉ qua số lượng các vụ tranh chấp
được giải quyết mà còn qua sự đa dạng của các lĩnh vực tranh chấp. Thật vậy,
tính từ sau luật Trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực đến năm 6/2015 tổng
số vụ tranh chấp được giải quyết tại các trung tâm trọng tài Việt Nam là 879
vụ và ban hành 586 phán quyết trọng tài trong đó 180 phán quyết đã được thi
hành xong với số tiền là 3,612 triệu USD và 300 tỷ đồng. Riêng với trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, từ năm 2011 đến tháng 6/2015, các trung tâm
trọng tài đã thụ lý 879 vụ việc và ban hành 586 phán quyết trọng tài, trong đó
180 phán quyết đã được thi hành xong với số tiền là 3,612 triệu USD và 300
tỷ đồng.
Đặc biệt theo thống kê mới nhất trong năm 2016 vừa qua, VIAC đã tiếp
nhận 155 vụ tranh chấp, tiếp tục giữ vững đà tăng trưởng của 5 năm trở lại
đây, trong số đó, 34% là tranh chấp trong lĩnh vực mua bán, xuất nhập khẩu;
15% là tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, 11% là các tranh chấp trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng, các tranh chấp lĩnh vực bảo hiểm, thuê,vv.vv Cơ cấu
các lĩnh vực tranh chấp tại VIAC tiếp tục cho thấy VIAC là tổ chức trọng tài
tiếp nhận và giải quyết tranh chấp từ đa dạng các lĩnh vực hoạt động kinh
52
doanh thương mại
Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật
sự khởi sắc . Hiệu quả hoạt động của các trung tâm trọng tà i vẫn chưa
thực sự đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay của
các doanh nghiệp. Có thể dễ dàng nhận thấy, phần lớn các vụ tranh chấp chỉ
được giải quyết tại VIAC. Các trung tâm trọng tài khác tiếp nhận rất ít vụ
việc. Hơn thế nữa các con số thống kê trên khá khiêm tốn so với hàng trăm
nghìn vụ việc mà tòa án các cấp đang thụ lý, xét xử. Cá biệt, có trung tâm
trọng tài được thành lập từ lâu, nhưng chưa ban hành một phán quyết nào. Ở
một số nước có hoạt động trọng tài phát triển như Singapore, Hồng
Kông…chỉ có một hoặc hai trung tâm trọng tài, tuy nhiên mỗi năm xử lý hàng
nghìn vụ việc.
Nguyên nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều
thiếu sót, chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm
2010 mặc dù đáp ứng phần nào yêu cầu thực tế song sau một thời gian đi vào
hoạt động đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất hợp lý. Chưa kể, thói quen, tập quán
của thương nhân Việt Nam tin tưởng tòa án hơn trọng tài. Hơn nữa, trình độ
trọng tài viên ở Việt Nam đều là những người kiêm nhiệm trong lĩnh vực
thương mại. Cho nên, một số trọng tài viên còn chưa chuyên nghiệp. Trong
khi đó, các tranh chấp thương mại ngày càng phức tạp, nhất là tranh chấp có
yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, đội ngũ trọng tài viên:
Tính đến 31/ 07/2015, trong cả nước có 350 Trọng tài viên, trong đó,
VIAC có 14 trọng tài viên, chiếm gần 50% tổng số trọng tài viên trong cả
nước; số lượng trọng tài viên có trình độ tiến sỹ chiếm 30,7% số lượng trọng
tài viên có trình độ thạc sỹ chiếm 17,3%. Về trình độ chuyên môn, hầu hết các
trọng tài viên đều có bằng tốt nghiệp đại học thuộc nhiều chuyên ngành khác
nhau. Phần lớn số trọng tài viên là giáo sư, tiến sĩ vừa kiêm nhiệm công việc
trong cơ quan nhà nước vừa thực hiện hoạt động Trọng tài ở các Trung tâm
53
trọng tài, đặc biệt VIAC có đội ngũ trọng tài viên là người nước ngoài đang
hành nghề tại trung tâm hiện nay.
Biều đồ thống kê trọng tài viên của VIAC 20/10/2014.
Biểu đồ 1:
Từ bảng thống kê trên có thể thấy, nhìn chung đội ngũ trọng tài viên đều
có kiến thức pháp luật và có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực đực biệt là các
lĩnh vực sôi động trong bôi cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như thương mại
quốc tế, bảo hiểm, tài chính ngân hàng, kỹ thuật xây dựng.
Thứ ba, Về trung tâm trọng tài:
Theo số liệu thống kê tính đến 31/7/2016, cả nước có 15 Trung tâm trọng
tài, trong đó tại Hà Nội 04 có Trung tâm, tại Thành phố Hồ Chí Minh 10 có
trung tâm và 02 chi nhánh Trung tâm, tại Cần Thơ có 01 trung tâm, tại Đà
Nẵng có 01 chi nhánh Trung tâm Trọng tài quôc tế Việt Nam .
Thứ tư, Về việc thi hành phán quyết Trọng tài:
Theo số liệu thống kê, tính đến thời điểm năm 2011 đến ngày
30/06/2015 các cơ quan thi hành án dân sự đã thụ lý 325 đơn yêu cầu thi hành
phán quyết trọng tài trên tổng số 586 phán quyết trọng tài được ban hành với
số tiền thi hàn gần 8.880.000 USD và 592.000.000 đồng. Số lượng phán quyết
trọng tài đã được thi hành xong là 180 phán quyết với số tiền gần 3.612.000
USD và 300.000.000 đồng. Như vậy, trong thời gian qua, số lượng phán
54
quyết trọng tài được thi hành chiếm hơn 60% số lượng phán quyết cần được
thi hành.Việc phán quyết trọng tài được thi hành trên thực tê có ý nghĩa quan
trọng, góp phần nâng cao sự tin tưởng cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đối với
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, qua đó thu hút khuyến
khích việc lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết.
Thực tế trên cho thấy một điều tổ chức và hoạt động của trọng tài đã và
đang được các chủ thể tranh chấp lựa chọn và xem xét là một phương thức
hữu hiệu để giải quyết tranh chấp lựa chọn và xem là một phương thức hữu
hiệu để giải quyết tranh chấp; tòa án với vai trò là thiết chế tài phán công cũng
đã có vai trò không nhỏ để góp phần thi hành hiệu quả các phán quyết trọng
55
tài.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY.
3.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm
quyền trọng tài thương mại
3.1.1 Cơ sở lý luận
Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập quốc tế trong mọi lĩnh vực
của đời sống kinh tế, xã hội, điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng để đảm bảo tương thích với pháp
luật quốc tế. Việc Luật trọng tài thương mại được Quốc hội khóa XII, kỳ hop
thứ 7 thông qua ngày 17/06/2010 thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại số
08/2003/PL-UBTVQH đã tạo ra khuôn khổ pháp lý đồng bộ để giải quyết các
tranh chấp, khiếu kiện thương mại cũng như một số vấn đề liên quan khác.
Tuy nhiên, qua thời gian thi hành từ 2011 đến nay, Luật Trọng tài thương mại
đã bộc lộ không ít những bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và uy tín
của trọng tài thương mại ở Việt Nam. Mặt khác, còn gây khó khăn cho việc
áp dụng pháp luật trọng tài thương mại trên thực tế để giải quyết các tranh
chấp. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các doanh nghiệp
chưa “mặn mà” việc lựa chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài thương
mại theo quy định của pháp luật hiện hành.
3.1.2 Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, So với các nước trong khu vực và trên thế giới, số lượng
trung tâm trọng tài ở nước ta được thành lập tương đối nhiều. Trong khi đó,
cơ sở vật chất của các trung tâm trọng tài chưa đáp ứng đầy đủ để phục vụ
cho hoạt động của các trọng tài viên, trình độ của các trọng tài viên chưa đồng
đều, gây tâm lý thiếu tin cậy của khách hàng, hạn chế sự tiếp cận của khách
hàng đối với dịch vụ trọng tài. Mặt khác, các trung tâm trọng tài thương mại
56
hiện nay chưa quảng bá được hình ảnh, vai trò của hoạt động trọng tài nói
chung và những thế mạnh của trung tâm mình nói riêng, chưa có cơ chế
khuyến khích, thu hút được các chuyên gia hàng đầu Việt Nam và nước ngoài
tham gia hoạt động trọng tài của các Trung tâm trọng tài.
Thứ hai, Các nhà kinh doanh chưa thật sự tin tưởng khi lựa chọn trọng
tài, bởi họ chưa tin tưởng vào tính độc lập, vô tư, khách quan của Trọng tài
viên. Đội ngũ trọng tài viên tuy có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức
pháp luật nhưng chưa có nhiều cơ hội cọ xát, thực hành nghề nghiệp đặc biệt
là những vụ tranh chấp có pháp luật nhưng ít có yếu tố nước ngoài, vụ tranh
chấp quốc tế nên chưa thành thạo ngoại ngữ, kỹ năng hành nghề, tính chuyên
nghiệp còn chưa cao. Một số trọng tài viên còn chưa nắm vững về trình độ
chuyên môn, kỹ năng hành nghề cũng như việc trau dồi phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp.
Thứ ba, do không phải là cơ quan nhà nước nên hoạt động của trọng tài
thương mại không mang tính quyền lực, điều này gây không ít khó khăn cho
Trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho các thương
nhân khi yêu cầu việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài.
Hơn nữa, số lượng Trọng tài viên còn quá khiêm tốn, cơ sở vật chất trang bị
đầu tư chưa tương xứng, kỹ năng giải quyết các tranh chấp chưa mang tính
chuyên nghiệp,… Mặt khác, đa số các doanh nhân nước ta chưa thật sự hiểu
đầy đủ về pháp luật trọng tài, chưa thấy hết tính ưu việt của phương thức giải
quyết này. Bên cạnh đó còn tồn tại những nguyên nhân khác từ phía các cơ
quan tiến hành tố tụng, thay vì nhận thức trọng tài là phương thức hỗ trợ đắc
lực giúp giảm tải việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại tòa án, thì
ngược lại cho rằng đường nào cũng nhờ tòa án giải quyết nên không ít tòa án
lại động viên việc khởi kiện và “ôm” luôn việc xét xử!
Trong thời gian hơn 4 năm kể từ ngày Luật Trọng tài thương mại Việt Nam
có hiệu lực đến thời điểm tháng 8 năm 2015 riêng Tòa án Thành phố Hà Nội
đã thụ lý 15 vụ việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án chấp nhận hủy
57
yêu cầu 6 việc và bác yêu cầu hủy 9 vụ việc.
Mặc dù Nghị quyết 01 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao cũng đã có hướng dẫn cụ thể các căn cứ hủy Phán quyết trọng tài quy
định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại. Tuy nhiên việc hủy phán quyết
Trọng tài trong thời gian qua vẫn còn nhiều, nguyên nhân chủ yếu là do
những quy định của Luật Trọng tài thương mại Việt Nam có khá nhiều quan
điểm chưa cụ thể, chưa rõ ràng dẫn đến cách hiểu khác nhau, cũng như cách
tiếp cận về tố tụng trọng tài giữa cơ quan tòa án với trung tâm trọng tài cũng
khác nhau. Thực tế tình trạng các phán quyết trọng tài bị hủy, không được tòa
án công nhận và thi hành còn khá nhiều; điều này dẫn đến tình trạng ý thức
chấp hành các phán quyết trọng tài của đương sự không cao, do đó đã khiến
không ít tổ chức, cá nhân lo ngại khi lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua
trọng tài.
Kết quả hủy phán quyết trọng tài trong nước còn cao và tỉ lệ công nhận
quyết định của trọng tài nước ngoài còn thấp đã có ảnh hưởng không nhỏ đến
độ tin cậy của người dân và doanh nghiệp vào phương thức giải quyết bằng
trọng tài trong nước. Có thể thấy rằng hệ quả của việc hủy phán quyết trọng
tài trong nước và việc không công nhận cho thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài sẽ có tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Trước hết, việc
hủy phán quyết trọng tài trong nước và việc tòa án không công nhận quyêt
định của trọng tài nước ngoài với tỷ lệ cao mà không có sơ sở thuyết phục có
thể gián tiếp khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vi phạm hợp
đồng, vi phạm thỏa thuận ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp, tổ chức cá
nhân của Việt Nam trong hoạt động kinh doanh. Việc Tòa án không công
nhấn quyết định của trọng tài nước ngoài dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ mất đi niềm tin khi tiến hành kinh doanh tại Việt Nam, ảnh
hưởng đến thu hút đầu tư, kinh doanh quốc tế. Các bên tranh chấp sẽ ngần
ngại khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do tính
khả thi của phán quyết trọng tài chưa cao. Điều này ảnh hưởng đến sự phát
58
triển của hoạt động trọng tài.
Thứ tư, theo quy định của pháp luật Việt Nam, với phán quyết của
trọng tài trong nước được thi hành ngay nhưng phán quyết của trọng tài nước
ngoài phải thông qua thủ tục công nhận tại Tòa án thì cơ quan thi hành án mới
tổ chức thi hành. Như vậy, theo quy định này thì giữa phán quyết trọng tài
trong nước với phán quyết trọng tài nước ngoài chưa thật sự “bình đẳng”.
Mặc dù, Việt Nam đã gia nhập Công ước New York năm 1958, nhưng thực tế
cho thấy các cấp tòa án vẫn chưa xem xét theo hướng thuận lợi việc công
nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Điều này khiến các
nhà đầu tư nước ngoài không thiện chí hợp tác với doanh nghiệp của Việt
Nam, bởi họ lo sợ nếu xảy ra tranh chấp, dù phán quyết của trọng tài nước
ngoài được tuyên nhưng vẫn khó thực thi tại Việt Nam do vấp phải quy định
này. Phần lớn các tranh chấp được giải quyết bằng phương pháp trọng tài ở
Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại chủ yếu có yếu tố nước ngoài. Các nhà
đầu tư nước ngoài phải bỏ ra chi phí khá lớn để thuê luật sư, chuyên gia am
hiểu về lĩnh vực tranh chấp và pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, kết quả giải
quyết tranh chấp căn cứ pháp luật Việt Nam cũng khó để các bên công nhận,
dẫn đến hệ quả họ có thể kiện các cơ quan tài phán quốc tế, điều này sẽ ảnh
hưởng đến điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam và quan hệ giao thương
của các doanh nhân nước ta nói riêng.
Thứ năm, Một số cơ quan quản lý nhà nước về trọng tài chưa phát huy
hết trách nhiệm trong viêc thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa
phương; công tác kiểm tra, thanh tra tổ chức, hoạt động của các trung tâm
Trọng tài đôi khi còn buông lỏng. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý về
lĩnh vực trọng tài thương mại còn mỏng, chưa được đào tạo bồi dưỡng thường
xuyên về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực còn mới mẻ
này nên công tác quản lý nhà nước còn bộc lộ hạn chế, bất cập.
Thực trạng trên đã đặt ra những đòi hỏi cần có sự thay đổi trong pháp
luật và thực tiễn nhận thức, hay nói cách khác cần có phương có sự thay đổi
59
trong cả chính sách, pháp luật và thực tiễn nhận thức, hay nói cách khác cần
có phương án thay đổi, điều chỉnh đồng bộ để hoạt động trọng tài có thể tiếp
tục phát triển, hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại bên cạnh cơ quan Tòa
án một cách hiệu quả hơn.
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài
thương mại
Thứ nhất, Quy định rõ hơn phạm vi điều chỉnh của Luật Trọng tài
thương mại
Tại Điều 1 Luật Trọng tài thương mại quy định về phạm vi điều chỉnh
như sau: “Luật này quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các
hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng
tài; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm
quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của
Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài”. Quy định
này dẫn tới có hai quan điểm khác nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật gây
khó khăn cho việc xác định thẩm quyền của trọng tài. Quan điểm thứ nhất cho
rằng Luật Trọng tài thương mại chỉ áp dụng đối với các quyết định của trọng
tài trong nước. Quan điểm thứ hai, Luật này cũng có thể được áp dụng cả đối
với các quyết định của Trọng tài nước ngoài trong quá trình giải quyết tranh
chấp nếu quyết định được tuyên tại Việt Nam hoặc địa điểm giải quyết vụ
tranh chấp là tại Việt Nam (ngoại trừ việc công nhận, cho thi hành phán quyết
cuối cùng của Trọng tài giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp).Hơn thế nữa, quy
định này chưa thật sự phù hợp với Công ước New York năm 1958 và thực
tiễn trọng tài thương mại quốc tế. Theo thông lệ quốc tế, tiêu chí cơ bản để
xác định một quyết định của trọng tài nước ngoài hay không là nơi ra quyết
định trọng tài. Khoản 1 Điều I Công ước New York quy định: “Công ước này
sẽ áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài
được tuyên ở một quốc gia không phải là quốc gia nơi quyết định trọng tài
được xin công nhận và cho thi hành”. Thông lệ này bắt nguồn từ một nguyên
60
tắc được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại
quốc tế, đó là, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (bao gồm cả các quy định pháp
luật liên quan đến hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài) là luật pháp
của quốc gia sở tại (lex arbitri), bất kể quốc tịch của trọng tài viên và Hội
đồng trọng tài, trừ phi luật pháp của quốc gia đó cho phép việc áp dụng pháp
luật của quốc gia khác.
Chính vì vậy Pháp luật trọng tài thương mại cần quy định rõ hơn về phạm
vi điều chỉnh của Luật trọng tài thương mại hiện nay nhằm đảm bảo điều kiện
thuận lợi cho các bên tranh chấp và các chủ thể có liên quan xác định đúng
đắn thẩm quyền của Trọng tài thương mại một các thống nhất, tránh tìn trạng
có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền trọng tài như hiện nay thì đồng
thời xem xét mở rộng thẩm quyền của trọng tài. Vì xét theo thông lệ quốc tế
cũng như tham khảo pháp luật về trọng tài của một số quốc gia khác, Trọng
tài không chỉ có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp thương mại ma còn
có thể giải quyết một số tranh chấp khác trong lĩnh vực dân sự, lao động theo
yêu cầu của các bên và các bên tranh chấp không chỉ là tổ chức, cá nhân kinh
doanh. Với đặc thù là hình thức tài phán tư, trọng tài cần được tạo điều kiện
để có thể giải quyết tất cả các tranh chấp tư, bao gồm cả các tranh chấp hợp
đồng và ngoài hợp đồng.
Thứ hai, Sửa đổi và bổ sung quy định về thẩm quyền của trọng tài.
Nghiên cứu pháp luật thế giới cũng cho thấy, bên cạnh một số nước
quy định về thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp liệt kê giống Việt
Nam như Braxin, Liên bang Nga thì đại bộ phận các quốc gia quy định thẩm
quyền của Trọng tài theo phương pháp loại trừ. Do đó, trọng tài của họ có
thẩm quyền xét xử rất rộng. Quy định như hiện hành vừa khiến điều luật
vướng vào nhược điểm của phương pháp liệt kê: càng liệt kê càng thiếu, vừa
ngược với thông lệ pháp luật quốc tế, khiến trọng tài ở nước ta khó hội nhập
với các nước. Song điều quan trọng nhất là cách quy định vẫn hạn chế thẩm
quyền của Trọng tài thương mại, không đáp ứng được nhu cầu giải quyết
61
tranh chấp trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập.Vì vậy, để có thể quy định bao
quát được phạm vi thẩm quyền của trọng tài thì nên sử dụng phương pháp loại
trừ.
Nếu trước đây trong pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 quy định
quyền lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp chỉ dành cho
tổ chức kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh thì tại Luật Trọng tài thương
mại 2010 phạm vi thẩm quyền trọng tài đã được mở rộng, mà theo đó, thì
trọng tài thương mại được giải quyết các loại việc sau: tranh chấp giữa các
bên có hoạt động thương mại, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít
nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp
luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên những “tranh chấp
khác” mà luật Trọng tài thương mại quy định giải quyết theo thủ tục trọng tài
rất khó xác định theo pháp Luật Việt Nam hiện hành. Với quy định mở về
thẩm quyền của trọng tài như vậy, cần thiết sự bổ sung văn bản hướng dẫn chi
tiết các loại tranh chấp được giải quyết thông qua hình thức trọng tài thương
mại để tăng hiệu quả khi áp dụng các quy định này trên thực tiễn
Luật cũng nên tính đến các trường hợp khó xác định thẩm quyền của
trọng tài như:
Trường hợp các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng tài cụ thể để giải
quyết tranh chấp nhưng lĩnh vực tranh chấp lại không thuộc phạm vi giải
quyết theo quy chế của trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài từ chối thụ lý vì những lý do chủ quan của trung
tâm như không có trọng tài viên, khó giải quyết được khi áp dụng luật nước
ngoài, ngôn ngữ nước ngoài hay quy tắc tố tụng khác.
Các bên lựa chọn cách thức giải quyết bằng cả trọng tài lẫn tòa án hay
chọn nhiều trung tâm cùng một thỏa thuận.
Thứ ba, Các quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại.
- Bổ sung quy định về nội dung thỏa thuận trọng tài trong Luật Trọng tài.
Luật trọng tài thương mại 2010 chỉ mới đề cập đến hình thức của thỏa
62
thuận trọng tài mà lại thiếu đi những quy định nội dung. Điều này đã gây khó
khăn cho các chủ thể khi soạn thảo một thỏa thuận trọng tài. Thực tế, có rất
nhiều thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu, dẫn đến các bên tranh chấp không thể
lựa chọn trọng tài để giải quyết. Để khắc phục tình trạng này, Luật Trọng tài
thương mại cần có quy định cụ thể về nội dung của thỏa thuận trọng tài như:
Trung tâm trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ sử dụng
trong tố tụng trọng tài; chi phí, lệ phí trọng tài; quy tắc tố tụng của thỏa thuận
trọng tài; cam kết thực hiện quyết định của Trọng tài. Việc quy định cụ thể về
nội dung cơ bản của các loại hợp đồng sẽ giúp cho các bên lựa chọn giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài dễ dàng áp dụng hơn và cũng tránh được
những sai sót không cần thiết làm mất thời gian và kéo dài quy trình giải
quyết dẫn đến những hậu quả không tố đối với mối quan hệ giữa các bên.
- Làm rõ khái niệm thỏa thuận trọng tài vô hiệu: “vi phạm điều cấm của
pháp luật” (khoản 6 Điều 18 Luật trọng tài thương mại)
So với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, luật trọng tài thương mại
còn có quy định là thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi: “vi phạm điều cấm của
pháp luật” (khoản 6 Điều 18).Tuy nhiên, Luật lại không cho biết điều cấm của
Pháp luật là gì? Bộ luật dân sự có quy định về điều cấm của pháp luật nhưng
vẫn còn rất chung chung. Trong tương lai đây có thể là một quy định sẽ được
khai thác nhiều, nhất là đối với thỏa thuận trọng tài liên quan đến pháp luật
cạnh tranh, phá sản vì đây là những vấn đề mà nhiều ý kiến cho rằng không
được giải quyết băng trọng tài.
- Nên quy định về việc xác định pháp luật áp dụng theo hướng hạn chế việc
dẫn đến phán quyết trọng tài vô hiệu.
Một bất cập nữa là về quy định áp dụng luật tại thời điểm ký thỏa thuận
trọng tài.Khoản 3 Điều 81 Luật trọng tài thương mại quy định: các thỏa thuận
trọng tài được ký kết trước ngày luật này có hiệu lực được thực hiện theo quy
định của pháp luật tại thời điểm ký thỏa thuận trọng tài”. Nếu áp dụng quy
63
định này sẽ có nhiều trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện
được. Ví dụ như thỏa thuận trọng tài không nêu rõ tên tổ chức trọng tài giải
quyết tranh chấp được ký kết năm 2010 nhưng đến năm 2011 mới phát sinh
tranh chấp, nếu áp dụng Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 thì thỏa thuận
này vô hiệu, nhưng nếu áp dụng luật thương mại 2010 thì thỏa thuận đó vẫn
có giá trị pháp lý
Thứ tư, quy định cụ thể về sự hỗ trợ của Tòa án trong giải quyết tranh
chấp.
Luật Trọng tài thương mại chưa quy định biện pháp chế tài xử lý đối
với cá nhân không chấp hành quyết định của Tòa án trong việc thu thập chứng
cứ và triệu tập người làm chứng. Hai hoạt động này là sự hỗ trợ đáng kể của
tòa án đối với Hội đồng trọng tài, vì nếu không có sực giúp sức của cơ quan
công quyền này, Hội đồng trọng tài khó có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là văn bản gửi
các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa có chế tài rõ ràng đối với cá nhân,
tổ chức không thực hiện yêu cầu của Tòa án. Trong Bộ luật tố tụng dân sự
cũng không quy định về vấn đề này, mà chỉ quy định “Thủ tục giải quyết yêu
cầu liên quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam”. Đây thật sự là
bất cập khiến cho việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài gặp khó
khăn do bị trì hoãn.
Thứ năm, Bổ sung các quy định về kết quả giải quyết tranh chấp.
để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp thực hiện phán quyết
của Trọng tài, thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức trọng tài và phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, tránh tình trạng hủy hoặc không công
nhận phán quyết trọng tài tùy tiện, làm mất lòng tin của doanh nghiệp vào các
tổ chức trọng tài, làm ảnh hưởng đến uy tín của Trọng tài Việt Nam trên
trường quốc tế, cần bổ sung các quy định trong kết quả giải quyết tranh chấp
trong Luật Trọng tài thương mại. Kết quả giải quyết tranh chấp cần ghi rõ
64
quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, thời hạn thực hiện quyền và nghĩa
vụ của các bên… có như vậy các bên liên quan mới có thể dễ dàng thực thi
phán quyết của Trọng tài.
Thứ sáu, Về việc hủy phán quyết trọng tài:
Về quy định tại khoản 8 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại:“Trường
hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên
có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc
một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu
không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.” . Như
vậy theo quy định trên, chẳng khác nào doanh nghiệp lựa chọn đi con đường
vòng giải quyết vụ tranh chấp từ trọng tài thương mại nhưng cuối cùng vẫn
phải đến tòa án. Để tránh tình huống vừa nêu xảy ra, các bên lựa chọn phương
án đưa vụ kiện thẳng đến tòa án ngay từ đầu, do phán quyết của tòa án luôn
được bảo đảm hơn việc thi hành bởi sự cưỡng chế của Nhà nước. Điều này
dẫn đến một thực tế là thông thường các bên lựa chọn tòa án để giải quyết
tranh chấp, bởi sau khi phán quyết của trọng tài bị hủy, các bên rất khó cùng
nhau xây dựng một thỏa thuận khác. Lúc này, các doanh nghiệp phải xem xét
tính toán lại chi phí, thời gian theo đuổi vụ kiện. Sau khi phán quyết trọng tài
bị tuyên hủy, giả sử các bên thỏa thuận đưa vụ việc tiếp tục giải quyết bằng
trọng tài lần thứ hai, thì vẫn không khác gì việc giải quyết tranh chấp theo
trình tự lặp đi lặp lại làm tốn kém thời gian, chi phí gấp hai lần so với đưa vụ
việc đến tòa án để giải quyết ngay từ đầu.
Trường hợp hủy vì lý do “phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam” (Điểm đ, khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương
mại): đây là một căn cứ mà việc hiểu và giải thích như thế nào cho đúng với
tinh thần của nhà làm luật là rất khó. Bởi như thế nào thì được xem là “ những
nguyên tắc cơ bản”? Hệ thống pháp luật Việt Nam cần có một định nghĩa
chính thức cho khái niệm này, để tránh việc cac tòa án hiểu và áp dụng không
65
thống nhất quy định này trên thực tế.
3.3 Những giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam chưa mặn mà với việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại không chỉ do bất cập trong các
quy định quy định của pháp luật mà còn do bất cập trong nhận thức của hầu
hết các chủ thể liên quan đến trọng tài. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương
mại cần có các giải pháp về tổ chức, quản lý nhà nước và các giải pháp bổ trợ
khác.
Giải pháp từ phía các trọng tài viên và Trung tâm trọng tài
Thứ nhất, các Trung tâm trọng tài cần chủ động tích cực hơn trong
việc mở rộng danh sách trọng tài viên, đặc biệt chú trọng tới các chuyên gia
có uy tín và trình độ chuyên môn cao. Cần có các chương trình, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ trọng tài viên hàng năm. Thực hiện việc đào tạo, bồi
dưỡng chuyên sâu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kỹ
năng giải quyết tranh chấp cho đội ngũ trọng tài viên trong lĩnh vực chuyên
môn chuyên sâu như đầu tư, thương mại quốc tế, tài chính, ngân hàng… Hiện
nay có khá nhiều khóa học đào tạo ngắn hạn kĩ năng và kiến thức cần thiết
cho các trọng tài viên, luật sư và các chuyên gia về trọng tài của các tổ chức
trọng tài quốc tế hàng đầu như các khóa học của Viện trọng tài London,Học
viện trọng tài Paris, Phòng thương mại quốc tế, hội đồng quốc tế về trọng tài
thương mại. Các trung tâm trọng tài, phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam hay Liên đoàn luật sư hoàn toàn có thể chủ động liên lạc với cá trung
tâm này để tổ chức các khóa học ngắn hạn đó tại Việt Nam hoặc cử người
tham gia một số khóa học này.
Việc đào tạo đội ngũ những trọng tài hiện có và thu hút trọng tài viên
cần được thực hiện song hành để giúp bổ trợ lẫn nhau. Các trung tâm trọng tài
cần hợp tác để tổ chức những hội nghị, hội thỏa để các trọng tài viên có cơ hội
66
gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh ngiệm thực tế giúp bổ trợ kiến hiện có tạo mối
quan hệ để có thể giải quyết hiệu quả những vụ việc phát sinh sau này.Việc cọ
xát, học hỏi từ chính những trọng tài viên có năng lực sẽ làm rút ngắn thời
gian đào tạo đội ngũ trọng tài và mang lại hiệu quả vô cùng to lớn.
Thứ hai, Tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các trọng tài
viên nước ngoài và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọng tài:
Hiện nay phần lớn các vụ tranh chấp được giải quyết bằng phương thức
trọng tài đều có yếu tố nước ngoài hay phải phải sử dụng pháp luật nước
ngoài , chính vì vậy sự tham gia của trọng tài viên và luật sự nước ngoài là
đều vô cùng thiết yếu. Để hiện thực hóa điều này Bộ Tư pháp nên có các
chính sách như: ban hành văn bản chính thức cho phép luật sư nước ngoài
được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và
lợi ích của đương sự tại trọng tài để tạo điều kiện và khuyến khích sự tham
gia của các trọng tài viên và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọng tài.
Các trung tâm trọng tài cũng cần tích cực hơn nữa tuyên truyền và
quảng bá hình ảnh trung tâm của mình, tích cực tham gia các diễn đàn chuyên
môn quốc tế, chủ động liên lạc với các trọng tài viên nước ngoài có danh
tiếng để mời họ tham gia danh sách trọng tài viên của trung tâm. Đây là điều
cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của trọng tài trong nước, tạo môi trường
cạnh tranh và giúp cho các trọng tài viên và luật sư học hỏi kinh nghiệm của
các đồng nghiệp nước ngoài.
Thứ ba, cần thành lập Hiệp hội trọng tài quốc gia.Hiệp hội trọng tài
sẽ đóng vai trò quyết định trong việc xâ dựng nên quy tắc đạo đức nghề
nghiệp của Trọng tài viên, quy tắc xung đột lợi ích để đảm bảo tính độc lập và
khách quan của Trọng tài viên, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ tố tụng
trọng tài cũng như là chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn tố tụng trọng tài trong
nước và quốc tế. Hiệp hội trọng tài có thể là đầu mối kết hợp các tổ chức đào
tạo ( Học viện tư pháp, các trường đào tạo luật,vv.) và các trung tâm trọng tài
để nâng cao trình độ đội ngũ trọng tài viên đáp ứng tiêu chuẩn, chuẩn mực
67
quốc tế.
Thứ tư, tăng cường hợp tác với các tổ chức trọng tài trong và ngoài
nước nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng như nhận được những sự hỗ trợ cần
thiết. Việc mở rộng các mối quan hệ hợp tác và tạo cầu nối phát triển ra quốc
tế thực sự sẽ là một trong những yếu tố làm bền vững hơn vai trò của trọng tài
trong nước.
Các giải pháp về phía tòa án và cơ quan thi hành án:
Thứ nhất, cần có những quy định cụ thể về quá trình hỗ trợ của các cơ
quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài. Trong khi xử lý mối quan hệ
giữa cơ quan tư pháp và trong tài cần phải đảm bảo hai yêu cầu đặt ra là vừa
phòng ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết của cơ quan tư pháp vào
quá trình tố tụng trọng tài, vừa đảm bảo được vai trò hỗ trợ và kiểm tra giám
sát cần thiêt của cơ quan tư pháp để nâng cao hiệu của của tố tụng trọng tài.
Thứ hai,Tăng cường cơ chế quản lý và giám sát nội bộ việc xét xử tại
các Tòa án thông qua báo cáo thường xuyên. Các tòa án địa phương gửi báo
cáo nội bộ mỗi 06 tháng hoặc mỗi quý sẽ giúp cho việc giám sát, quản lý của
Tòa án nhân dân tối diễn ra một cách liên tục và thường xuyên. Nhờ vậy Tòa
án nhân dân tối cao dễ dàng nắm bắt được những khó khăn và bất cập trong
hoạt động xét xử tại các tòa án địa phương. Từ đó kịp thời đưa ra những
hướng dẫn phù hợp và đúng đắn. Hơn thế nữa, cũng cần có tòa chuyên trách
với đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về lĩnh vực trọng tài.
Thứ ba, Tòa án cần tiết chế việc tuyên hủy phán quyết trọng tài hoặc
tuyên bố không có thỏa thuận trọng tài, trọng tài không có thẩm quyền trừ khi
có căn cứ rõ ràng và hợp pháp. Để thực hiện giải pháp này cần liên tục đòa
tạo, nâng cao chất lượng và kiến thức của cán bộ ngành Tòa án, việc nắm bắt
các quy định pháp luật trọng tài sẽ giúp quá trình xem xét lại phán quyết trọng
tài được chính xác,đúng đắn hơn. Từ đó cũng giúp giảm thiểu được các quyết
định hủy phán quyết trọng tài hoặc đưa ra căn cứ hủy chính xác, rõ ràng hơn.
Thứ tư, Cho phép công bố một phần phán quyết của trọng tài nếu các
68
bên tranh chấp không phản đối.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế thi hành quyết định trọng tài. Để thực
hiện được giải pháp này cần thực hiện đồng bộ nhóm giải phap bao gồm
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài
thương mại, đồng thời nâng cao trình độ năng lực, phẩm chất chính trị, đạo
đức của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành phán quyết trọng tài
thương mại đồng thời hướng đến việc xã hội hóa hoạt động thi hành phán
quyết của trọng tài thương mại
Nhóm các giải pháp về phía doanh nghiệp:
Hiệu quả hoạt động của trọng tài còn phụ thuộc vào thái độ của các chủ
thể kinh doanh. Do đó, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng
tài cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp hiểu hơn về
bản chất và ưu thế của trọng tài thương mại, từ đó tạo điều kiện cho cơ chế
này ngày càng phát triển.
Khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đẩy mạnh thì hơn bao
giờ hết các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh chóng tiếp cận với hình
thức trọng tài như là điều kiện cần có trong luật chơi trong nước và quốc tế.
Nắm bắt được cụ thể và hiểu rõ ràng luật chơi được coi là một trong những
điều kiện cần để có thể đảm bảo cho lợi ích và thắng lợi của mình trong mỗi
cuộc chơi.Doanh nghiệp Việt Nam cần biết rõ mình phải làm gì, nên làm gì và
sẽ phải lựa chọn ra sao trong trường hợp nảy sinh các tranh chấp thương mại.
Khi các doanh nghiệp nước ngoài đã quá quen với phương thức trọng tài để
đòi hỏi lợi ích của mình thì các doan nghiệp Việt Nam chỉ mới được tiếp cận,
thậm chí mới được nghe đến tên của nó, Đây chính là sự hạn chế, yếu tố bất
lợi rất lớn cản trở đến hướng phát triển của doan nghiệp Việt Nam.
Các doanh nghiệp cần nhận thức lại phương thức giải quyết tranh chấp
hợp đồng thương mại bằng trọng tài và trên hết cần nhận thức một cách đầy
đủ những ưu thế khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài,
thời gian giải quyết tranh chấp nhanh, ít tốn kém chi phí, hiệu lực quyết định
69
trọng tài là chung thẩm rút ngắn được trình tự giải quyết hai cấp, giữu được bí
mật kinh doanh… đồng thời cùng với quá trình hội nhập, các doanh nghiệp
Việt Nam đối mặt với nhiều vụ tranh chấp thương mại đầu tư, nội dung tranh
chấp ngày càng phức tạp mà các nước trên thế giới đều chọn phương thức giải
70
quyết bằng trọng tài là hiệu quả và hợp lý nhất.
KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy nền kinh tế của nước ta càng ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới diễn ra nhanh
chóng. Hàng năm các doanh nghiệp trong nước xin thành lập gia tăng với số
lượng lớn, các giao dịch thương mại với các doanh nghiệp trong nước xin
thành lập mới gia tăng với số lượng lớn, các giao dịch thương mại với các
doanh nghiệp trên thế giới cũng gia tăng đáng kể, trong quá trình hợp tác kinh
doanh sẽ không tránh khỏi những tranh chấp về lợi ích. Các bên tham gia
vào quan hệ thương mại không mong muốn tranh chấp phát sinh và luôn
muốn tránh phát sinh tranh chấp nên rất chú tâm vào việc phòng ngừa và tìm
biện pháp thích hợp để loại bỏ tranh chấp.
Với tính chất nhanh chóng, mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả cũng như những
ưu thế khác trong việc giải quyết tranh chấp thương mại vốn cần nhanh
chóng, chính xác và ít tốn kém, nên trọng tài ngày càng được các doan nghiệp
ưu tiên và sử dụng trong việc giải quyết tranh chấp. Nhìn chung những ưu
điểm của phương thức trọng tài so với các biện pháp tranh chấp khác ngày
càng đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp trong mọi lĩnh
vực, đặc biệt là trong quan hệ thương mại quốc tế.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chưa phát triển
lâu đời ở Việt Nam.Tuy nhiên Nhà nước Việt Nam đã và đang ra sức tiến
hành cải cách pháp luật nhằm xây dựng một hành lag pháp lý an toàn cho hoạt
động thương mại trong nước cũng như có yếu tố nước ngoài. Khi Việt Nam
đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào quan hệ kinh tế quốc tế thì việc tìm
hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện những quy định pháp lý về trọng tài là một vấn
đề cần được ưu tiên bởi Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung của thế
giới- xu thế sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp trong quan hệ quốc tế.
Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 rồi sau đó là Luật
Trọng tài thương mại 2010, những văn bản pháp lý khá hoàn chỉnh tạo cơ sở
71
cho trọng tài thương mại Việt Nam hoạt động có hiệu quả trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại trong nước cũng chư tranh chấp có yếu tố
nước ngoài.
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại có ý nghĩa quan trọng trong các quy định của Luật trọng tài. Tính
linh hoạt trong việc áp dụng vấn đề thẩm quyền của trọng tài góp phần quan
trọng trong việc giải quyết tranh chấp về thương mại trên thực tế. Những quy
địn mang tín đột phá về thẩm quyền của Trọng tài trong luật Trọng tài thương
mại năm 2010 về cơ bản đã phù hợp pháp luật thế giới. Tuy nhiên các quy
định này trong qua quá trình thực hiện đã bộc lộ những vướng mắc nhất định
72
cần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt
1. Đặng Minh Phương (2014),Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương
mại theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật
Học, Khoa Luật (Đại học quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Liên (2015), So sánh pháp luật về trọng tài thương mại
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Luận văn Thạc sĩ Luật Học, Khoa Luật
(Đại học quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
3. Nguyễn Mạnh Thọ(2015), Vai trò của Tòa án trong tố tụng trọng tài
thương mại quốc tế.Thực tiễn ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật (Đại học quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
4. Từ điển Kinh tế thị trường từ A-Z
5. Công ước La Hay 1988
6. Hiệp định La Hay 1907
7. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1985), Luật Mẫu của.UNCITRAL về
trọng tài thương mại quốc tế thông qua ngày 11/12/1985.
8. Liên Hợp Quốc( 1858) Công ước New York về Công nhận và thi hành
phán quyết trọng tài nước ngoài.
9. Liên Hợp Quốc (1927) Công ước Giơnevơ về thi hành phán quyết của
trọng tài
10. Quốc hội (2015) Bộ luật dân sự, Hà Nôi
11. Quốc hội (2005) Luật thương mại, Hà Nội
12. Quốc hội(2014) Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
13. Quốc hội(2005) Bộ luật Hàng hải, Hà Nội.
14. Quốc hội (2005) Luật đầu tư, Hà Nội.
15. Quốc hội (2010) Luật trọng tài thương mại Việt Nam, Hà Nội
16. Bộ luật Thương mại cộng hòa Pháp
17. Luật thương mại Philipin
73
18. Bộ luật Thương mại Thái Lan
19. Luật trọng tài Braxin 1996
20. Luật Trọng tài Đức 1998
21. Bộ luật tố tụng dân sự Indonexia
22. Luật trọng tài Nhật Bản 2003
23. Luật trọng tài thương mại quôc tế Liên bang Nga 1993
24. Luật trọng tài thương mại Trung Quốc 1994
25. Chính phủ(1994),Nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 về tổ chức và
hoạt động của Trọng tài kinh tế, Hà Nội.
26. Chính phủ(2004) Nghị định 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004 quy
định chi tiết và thi hành một số điều của Pháp lệnh trọng tài thương
mại, Hà Nội.
27. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989
28. Quốc hội(2003) Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Hà Nội.
29. Lược sử phát triển của trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài
thương mại trên thế giới
30. Chính phủ( 1960) Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 Ban hành
điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc
doanh và các cơ quan nhà nước
31. Chính phủ (1960) Nghị định số 20/TTg ngày 14/11/1960 về Tổ chức
Trọng tài kinh tế Nhà nước.
32. Toà án nhân dân tối cao(1960) Thông tư số 244-DS ngày 10/02/1960
Về việc giải quyết những tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa các xí
nghiệp quốc doanh, các cơ quan nhà nước với nhau.
33. Hội đồng chính phủ (1975) Nghị định số 54-CP ngày10/03/1975 Ban
hành điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế.
34. Hội đồng Chính phủ (1963) Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 về
việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương.
35. Hội đồng Chính phủ(1964) Nghị định số 153/CP ngày 05/10/1964 ban
74
hành về việc thành lập Hội đồng Trọng tài Hàng hải.
36. Chính phủ (1996) Quyết định 114/TTg ngày 16/2/1996 về việc mở
rộng thẩm quyền giải quyết của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam,
Hà Nội.
37. Chính phủ (1994) Nghị định 116/CP ngày 05/9/1994 về tổ chức và
hoạt động của Trọng tài Kinh tế, Hà Nội
38. Chính phủ (2004) Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004
quy định chi tiết và thi hành một số điều của Pháp lệnh trọng tài
thương mại, Hà Nội
39. Tòa án nhân dân tối cao (2014) Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐCP ngày
20/03/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định luật trọng tài thương
mại, Hà Nội.
40. Bộ tư pháp(2015),”Sơ kết 04 năm thi hành Luật trọng tài thương mại”,
http://moj.gov.vn, ngày 09/09/2015.
41. Trần Minh Ngọc(2005) “ Về khái niệm trọng tài thương mại quốc tế”
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 7(207), [tr.68-72]
42. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2015): “Tố tụng trọng tài Tòa
án phải hỗ trợ đắc lực”, địa chỉ truy cập http://viac.vn ( cập nhật 15:51
ngày 15/09/2015)
43. Luật sư Lương Mạnh Dũng và Nguyễn Thị Thu Trang : “Thực trạng
sử dụng trọng tài thương mại tại Việt Nam. Một số giải pháp nâng cao
sức hấp dẫn trọng tài”
44. PGS.TS Trần Thị Lan Hương (2014): “ Giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài: Thực tiễn tại Việt Nam”, địa chỉ truy cập
http://tapchitaichinh.vn (cập nhật 14:23 ngày 27/05/2014)
45. Trịnh Thị Thu Hiền (2014); “So sánh pháp luật về Trung tâm trọng tài
Việt Nam và Singapore” Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật (Đại
học quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
46. Trần Thị Tường Vân, Hồ Đức Thảo, Nguyễn Thế Đức Tâm, Ngô
75
Nguyễn Thảo Vy (2012): “Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương
mại trên hành trình hội nhập và phát triển” tại Hội nghị khoa học trẻ
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
47. TS.Nguyễn Vũ Hoàng, “Luật trọng tài thương mại Việt Nam – Bối
cảnh ra đời, tinh thần cơ bản và những điều cần lưu ý khi nhìn nhận
mối quan hệ trọng tài và tòa án”
48. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương (2013), “
Trọng tài thương mại và pháp luật về trọng tài thương mại” – Đặc san
tuyên truyền pháp luật Số 07/2013.
49. ThS Bạch Thị Lệ Thoa, Giảng viên Khoa đào tạo Thẩm phán, Học
viện Tư pháp: “Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ
của tòa án”
50. Bộ tư pháp (2015),“Một số bất cập quy định của Luật Trọng tài
thương mại năm 2010, kiến nghị hoàn thiện” truy cập
http://moj.gov.vn (cập nhật ngày 07/12/2015)
51. THS.LS Phan Thông Anh (2009) “Tại sao các doan ngiệp Việt Nam
không “mặn mà” với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại
bằng Trọng tài”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Bộ Tư Pháp), Số
7/2009,[tr25-31]
52. Ths. Nguyễn Thị Diễm Anh(2014) “Hoàn thiện Luật Trọng tài thương
mại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay” truy cập
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/862-hoan-
thien-luat-trong-tai-thuong-mai-dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap-quoc-te-
hien-nay.html (cập nhật 11:32 ngày 11/12/2014)
53. Tưởng Duy Lượng (2017),Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật
Trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử, Nhà xuất bản Tư Pháp,
[tr.157-194]
54. Lê Thị Nhàn(2011): Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền
76
giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội
55. Vũ Thị Hương (2015): “Hoàn thiện pháp luật Trọng tài thương mại
Việt Nam trong việc phân định thẩm quyền của Tòa án và trọng tài
thương mại khi các bên có thỏa thuận trọng tài”,Tạp chí Nghề luật,Số
1/2015 [tr.51-53]
56. Bùi Thành Trung (2014): “Xác định thẩm quyền giữa tòa án và trọng
tài trong quá trình thụ lý vụ án dân sự giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại tòa án và một số kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Luật
học, Số 12/2014 [tr.52-58]
57. GS-TSKH Đào Trí Úc (2010): “Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng
tài”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 1(216),[tr.7-17]
58. Vũ Ánh Dương(2010): “ Thực trạng giải quyết tranh chấp tại Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo: Thực tiễn giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế thi hành phán quyết trọng
tài.
59. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam(2014), Thống kê số vụ tranh
chấp tại VIAC trong 17 năm từ 1993 đến 2015, địa chỉ truy cập :
http://viac.vn (cập nhật 10:47 ngày 20/10/2014)
60. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2014), Thống kê giải quyết
tranh chấp tại VIAC qua các năm - Các bên liên quan, địa chỉ truy cập
: http://viac.vn (cập nhật 10:44 ngày 20/10/2014)
61. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2014), Thống kê tình hình giải
quyết tranh chấp tại VIAC năm 2016, địa chỉ truy cập : http://viac.vn
(cập nhật 15:11 ngày 27/03/2017)
62. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2014),Thống kê trọng tài viên,
địa chỉ truy cập : http://viac.vn (cập nhật 10:40 ngày 20/10/2014)
II. Tài liệu nước ngoài
63. Okezie Chukwumerije(1994),Choice of Law in international
77
commercial arbitration. Quorum Books westport,conecticut law,Tr.2
64. Markhuleatt- James and Nicholas Gouldv (1996), International
commercial arbitration: A hand book,LLP London-Newyork-
HongKong,[Tr3]
III. Tài liệu trang Web
65. http://phaply24h.net/
66. https://luatduonggia.vn/
67. http://www.moj.gov.vn/
78
68. http://viac.vn/