ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

---------

NGUYỄN ANH THƯ

DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM:

TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khoá học: QH-2013-L

HÀ NỘI, 2017

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

---------

NGUYỄN ANH THƯ

DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM:

TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khoá học: QH-2013-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN

TS. Phan Thị Thanh Thủy

HÀ NỘI, 2017

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu

trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ

và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Nếu không

đúng như trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về Khóa luận của mình.

Người cam đoan

3

Nguyễn Anh Thư

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CSIP Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng

CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

DNXH Doanh nghiệp xã hội

DNhXH Doanh nhân xã hội

NGO Tổ chức phi chính phủ

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

4

QLNN Quản lý Nhà nước

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Danh mục các từ viết tắt

Mục lục

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3

1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................. 3

2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................................. 5

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 7

6. Tính mới và những đóng góp của Khóa luận .............................................................. 8

7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................................ 8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI ..................................... 9

1.1. Vài nét về lịch sử ra đời và phát triển của DNXH trên thế giới .............................. 9

1.2. Khái niệm và đặc điểm của DNXH ....................................................................... 11

1.3. DNXH trong mối tương quan với các tổ chức và phong trào xã hội khác ............ 19

1.3.1. DNXH trong mối tương quan với Doanh nghiệp truyền thống và NGO ........ 19

1.3.2. DNXH và Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp ........................................... 24

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ

TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO ....................................... 27

2.1. Vài nét về quá trình phát triển của DNXH ở Việt Nam ........................................ 27

2.1.1. Trước Đổi mới (1986) ...................................................................................... 27

2.1.2. Giai đoạn từ 1986 – 2010 ............................................................................ ….28

5

2.1.3. Từ 2010 – nay .................................................................................................. 31

2.2. Pháp luật Việt Nam về DNXH ............................................................................... 32

2.2.1. Định nghĩa DNXH theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 .................................. 32

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của DNXH ................................................................... ….36

2.2.3. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với DNXH ............................................ 39

2.3. Trường hợp của DNXH KOTO ............................................................................. 44

2.3.1. Vài nét về DNXH KOTO ................................................................................ 44

2.3.2. Phân tích trường hợp của DNXH KOTO ................................................... ….46

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 53

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG CỦA DNXH TẠI VIỆT NAM ............................................................. 54

3.1. Thực trạng DNXH tại Việt Nam hiện nay ............................................................. 54

3.1.1. Nhận thức của xã hội về hoạt động và vai trò của DNXH còn hạn chế .......... 55

3.1.2. Chưa có khung pháp lý đầy đủ cho DNXH hoạt động ................................ …56

3.1.3. Thiếu vốn và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính còn hạn chế ................... 58

3.1.4. Hạn chế trong năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp ........................... ….61

3.1.5. Những khó khăn liên quan tới nguồn nhân lực ................................................ 63

3.2. Phương hướng và động lực phát triển của DNXH tại Việt Nam ........................... 65

3.3. Một số đề xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách nhằm phát triển DNXH tại Việt

Nam ............................................................................................................................... 66

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 71

KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 72

6

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 74

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta trong

30 năm qua, nhiều vấn đề xã hội và môi trường mới nổi lên cả về số lượng và quy mô, trở

thành một mối lo ngại lớn với toàn Đảng và xã hội. Có thể kể đến các vấn đề nổi cộm như:

tình trạng thất nghiệp; tội phạm thanh, thiếu niên; bất bình đẳng giới; HIV/AIDS; người

cao tuổi; trẻ em đường phố; người khuyết tật; nạn buôn người... Cơ hội tiếp cận với các

dịch vụ xã hội của những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn còn thấp do đại đa số các

doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa đủ để đáp ứng, mang lại ích lợi cho tất cả những

người khó khăn và yếu thế trong xã hội. Đặc biệt, do sự hạn chế về nguồn lực, Nhà nước

cũng không thể tự giải quyết tất cả những vấn đề này. Trong bối cảnh ấy, Doanh nghiệp

xã hội (DNXH) xuất hiện như một giải pháp bổ sung và ngày càng hiệu quả cho Nhà nước

trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường một cách hiệu quả và bền vững. Có

thể nói mô hình DNXH chứa đựng sự linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với cộng đồng; góp

phần chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng xã hội với Nhà nước bằng các con đường riêng

đầy sáng tạo, tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù đắp được một khiếm

khuyết khó khắc phục của cơ chế thị trường là vận hành bởi động cơ lợi nhuận.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc tiếp tục cải thiện môi trường

pháp lý cho hoạt động kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, Luật

Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc Hội thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu

lực kể từ ngày 01/7/2015. Đây là đạo luật có nhiều quy định mới mang tính đột phá,

khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy tính sáng tạo, bình

đẳng, cạnh tranh lành mạnh, và phát triển bền vững. Một trong những điểm mới nổi bật

của Luật Doanh nghiệp năm 2014 là lần đầu tiên ghi nhận khái niệm DNXH trong hệ

7

thống pháp lý. Theo đó, DNXH được định nghĩa là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế

thị trường với triết lý kinh doanh gắn liền với xây dựng cuộc sống bền vững, giải quyết

các vấn đề xã hội thay vì lợi nhuận thuần túy. Việc luật hóa DNXH trong Luật Doanh

nghiệp năm 2014 đã tạo tiền đề quan trọng cho việc hình thành môi trường pháp lý và

những chính sách phù hợp khuyến khích cho sự phát triển của DNXH.

Ở Việt Nam, mặc dù chưa bao giờ được công nhận chính thức, nhưng các hoạt

động sử dụng kinh doanh như một công cụ để phục vụ cho lợi ích cộng đồng, đặc biệt là

các cộng đồng yếu thế đã xuất hiện từ khá lâu. Hiện nay, DNXH ở nước ta đang trong giai

đoạn phát triển sơ khai với các cơ sở pháp lý ban đầu đã có và đang tiếp tục được xây

dựng và hoàn thiện. Đặc biệt, có một số DNXH đã tạo dựng được thương hiệu, điển hình

như: Trường đào tạo nghề nhân đạo Koto với chuỗi nhà hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh. Trong hơn một thập kỷ phát triển, Koto đã nhận đào tạo nghề nấu ăn, dịch vụ

khách sạn, nhà hàng cho rất nhiều trẻ em lang thang, có hoàn cảnh khó khăn. Năm 2016,

KOTO trở thành DNXH được công nhận đầu tiên tại Việt Nam, theo tinh thần của Điều

10 Luật Doanh nghiệp và Nghị định 96 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sự kiện KOTO chính

thức được cấp giấy phép công nhận là DNXH đầu tiên theo Luật Doanh nghiệp 2014

không chỉ đối với KOTO mà còn đánh dấu một chặng đường mới trong lịch sử phát triển

của phong trào DNXH tại Việt Nam. Sự phát triển của những DNXH như KOTO sẽ thúc

đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng

XHCN ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết

ở Việt Nam.

Mặc dù có những điều kiện thuận lợi nhất định, nhưng vẫn còn không ít khó khăn,

rào cản cho sự phát triển DNXH ở Việt Nam như: thiếu một khung khổ pháp lý thống nhất

cho DNXH, các chính sách về hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước còn hạn chế, các vấn đề về

nguồn nhân lực, sức ép từ cạnh tranh thị trường với các doanh nghiệp truyền thống,...

Trước tình hình đó, việc tìm kiếm những giải pháp để hỗ trợ DNXH phát triển là một việc

làm cần thiết. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng vai trò của Nhà nước với hệ thống pháp

8

luật và chính sách là những điều kiện thiết yếu để các DNXH phát triển. Vì vậy, yêu cầu

đặt ra là cần sớm hoàn thiện pháp luật và chính sách để gia tăng tác động xã hội của các

DNXH ở Việt Nam.

Với những lý do trên, sinh viên quyết định lựa chọn đề tài “Doanh nghiệp xã hội

theo pháp luật Việt Nam: Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO” làm đề tài khóa

luận cử nhân Luật kinh doanh.

2. Tình hình nghiên cứu

DNXH là mô hình doanh nghiệp đã được hình thành từ lâu, và cũng đã phát triển ở

Việt Nam trong một thời gian nhất định. Những đóng góp cho xã hội của DNXH là không

thể phủ nhận, chính vì vậy nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của DNXH đã được rất

nhiều người đề cập đến. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau:

 Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP) với nghiên cứu về “Khái niệm Doanh

nghiệp xã hội”;

 Khảo sát về DNXH đăng trong “Báo cáo kết quả khảo sát doanh nghiệp xã hội Việt

Nam” năm 2011 của Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP) và Hội đồng

Anh Việt Nam;

 Công trình “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái niệm, Bối cảnh và Chính

sách” năm 2012 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hội đồng Anh

tại Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP);

 Công trình “Điển hình Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam” năm 2016 của Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hội đồng Anh tại Việt Nam và Trung tâm

hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP).

Nghiên cứu về khía cạnh pháp lý của DNXH, đặc biệt là pháp luật về tổ chức, hoạt

động của DNXH ở Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế, mới chỉ có một số ít công trình

nghiên cứu các vấn đề pháp lý về DNXH. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu đầu

9

tiên như:

 TS. Phan Thị Thanh Thủy với bài viết “Những vấn đề pháp lý về Doanh nghiệp xã

hội theo Luật Doanh nghiệp 2014” đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số

6/2015 và bài viết “Hình thức pháp lý của Doanh nghiệp xã hội: Kinh nghiệm nước

Anh và một số gợi mở cho Việt Nam” đăng trên tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN số 4 năm 2015.

 ThS. Vũ Thị Hòa Như với bài viết “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về

Doanh nghiệp xã hội” đăng trên Tạp chí Luật học, số 3/2015.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số khía cạnh nhất định của mô

hình phát triển DNXH dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên, cho đến hiện nay chưa có một

công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn cử nhân Luật kinh doanh nghiên cứu một cách

toàn diện, đầy đủ về vấn đề pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Chính

vì vậy, việc tác giả chọn đề tài “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam: Trường

hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO” với mong muốn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về pháp luật về DNXH ở Việt Nam thông qua việc phân tích trường hợp thành

công của KOTO và đóng góp những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DNXH.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về doanh

nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay cùng với việc phân tích trường hợp của DNXH KOTO.

Từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

hoạt động của mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu như

sau:

10

 Nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của mô hình DNXH, về lịch sử hình thành và

phát triển của DNXH trên thế giới và đặc biệt ở Việt Nam từ trước tới nay. Nghiên

cứu về sự cần thiết của việc ban hành khung pháp luật về DNXH, khái niệm của

pháp luật về DNXH.

 Nghiên cứu về các nội dung chủ yếu của pháp luật về DNXH, thực trạng DNXH ở

Việt Nam hiện nay. Từ đó rút ra được những ưu điểm và những tồn tại, hạn chế của

pháp luật về DNXH, chỉ ra được những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.

 Nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển, bộ máy quản lý, cơ cấu tổ chức

và các vấn đề liên quan đến tài chính, nguồn vốn, tác động đối với xã hội... của

DNXH KOTO để từ đó có thể lí giải thích được sự phát triển mạnh mẽ của KOTO

trong suốt thời gian qua.

 Nghiên cứu đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về DNXH và giải pháp nâng

cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của DNXH ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và

hoạt động của DNXH được quy định trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn

thi hành. Về thực tiễn đề tài nghiên cứu về thực trạng hoạt động của các DNXH ở Việt

Nam hiện nay, cụ thể là trường hợp của DNXH KOTO.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề là các quy định của pháp luật về DNXH được quy định

trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, về địa bàn nghiên cứu đề tài nghiên cứu trên địa bàn

cả nước, thời gian nghiên cứu từ năm tháng 2 năm 2017 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy

11

vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hệ

thống, lịch sử, logic, phân tích, so sánh, tổng hợp. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu,

tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia liên quan đến đề tài.

6. Tính mới và những đóng góp của khóa luận

Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một khóa luận cử nhân Luật kinh

doanh về các vấn đề liên quan đến pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Đề tài giải quyết những nội dung cơ bản thuộc về lý luận và thực tiễn của pháp luật về

doanh nghiệp xã hội là: các định nghĩa, đặc điểm của DNXH và pháp luật về DNXH và

thực trạng pháp luật về DNXH Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014

và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, thông qua việc phân tích trường hợp cụ

thể của DNXH KOTO, đề tài cũng đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về

DNXH và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động đối với loại hình doanh nghiệp này.

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và học

tập của các nhà nghiên cứu, giảng dạy luật học, việc học tập của sinh viên, học viên chuyên

ngành luật kinh tế...

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được

kết cấu gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan về Doanh nghiệp xã hội

Chương 2: Thực trạng pháp luật về Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam và trường

hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO

Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp để nâng cao hoạt động của Doanh nghiệp xã hội

12

tại Việt Nam

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI

1.1. Vài nét về lịch sử ra đời và phát triển của Doanh nghiệp xã hội trên

thế giới

DNXH đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển từ rất lâu đời. Theo nghiên

cứu của MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình DNXH đầu tiên xuất hiện tại

London vào năm 1665, khi Đại dịch (Great Plague) hoành hành đã khiến nhiều gia đình

giàu có, vốn là các chủ xưởng công nghiệp và cơ sở thương mại rút khỏi thành phố, để lại

tình trạng thất nghiệp tăng nhanh trong nhóm dân nghèo lao động. Trong bối cảnh đó,

Thomas Firmin đã đứng ra thành lập một xí nghiệp sản xuất và sử dụng nguồn tài chính

cá nhân cung cấp nguyên liệu cho nhà máy để tạo và duy trì việc làm cho 1.700 công

nhân. Ngay từ khi thành lập, ông tuyên bố xí nghiệp không theo đuổi mục tiêu tối đa hóa

lợi nhuận và số lợi nhuận sẽ được chuyển cho các quỹ từ thiện [7, tr.1].

Như vậy, DNXH lần đầu tiên xuất hiện tại Anh do những nhu cầu nhất định về thực

hiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đối với người nghèo, người khuyết tật.

Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, các DNXH ở Anh đã phát triển một cách tương đối và

có thể phân thành hai nhóm như sau [7, tr.1]:

(i) Nhóm thứ nhất, là một số người giàu có thay đổi quan điểm của họ trong hoạt

động từ thiện. Theo quan điểm của họ, việc đóng góp, hỗ trợ một khoản vật chất nhất định

cho tầng lớp dân nghèo có thể gây ra tâm lý ỷ lại, lười biếng và “nhàn cư vi bất thiện” ở

họ. Chính vì vậy, họ xây dựng các chương trình cung cấp việc làm để nhóm này học việc

và có thể duy trì công việc cũng như thu nhập của mình, trở thành “những thành viên hữu

ích của quốc gia”. Với quan điểm và phương pháp tiếp cận như vậy, một số mô hình doanh

13

nghiệp hỗ trợ hoạt động của các quỹ, các chương trình dành cho người nghèo, người

khuyết tật đã được ra đời, có thể kể đến như: Quỹ tín dụng vi mô (chủ yếu là cho vay công

cụ sản xuất) ở Bath; trường dạy xe sợi, dệt vải và tạo việc làm cho những người mù nghèo

khổ ở Liverpool năm 1790; trường giáo dưỡng, tái hòa nhập trẻ phạm tội của tư nhân…

Những chương trình hỗ trợ như vậy, được sự ủng hộ của các nhà hảo tâm, của các nhà tư

sản lớn. Từ đó tạo nên những DNXH đầu tiên trên thế giới.

(ii) Nhóm thứ hai, đối với một số đối tượng khác có quan điểm khác về phúc lợi xã

hội và hỗ trợ cộng đồng. Theo đó, trong giai đoạn này ở Anh, xuất hiện các mô hình cho

phép người lao động có nhiều quyền hơn trong ký kết hợp đồng lao động và lần đầu tiên

họ có khả năng làm chủ kế hoạch kinh doanh cũng như phân phối lợi nhuận. Sự phát triển

của mô hình này dẫn đến việc ra đời của các Hợp tác xã (Co-op), hội ái hữu (Provident

Society), làng nghề (Industrial Society) đã thực hiện phân phối lợi nhuận và cung cấp

phúc lợi cho toàn bộ cộng đồng, cũng như trao quyền biểu quyết về quản lý tổ chức và

kinh doanh cho tất cả thành viên.

Sang thế kỷ 20, hoạt động của các DNXH có phần giảm sút khi chủ thuyết kinh tế

Keynes lên ngôi từ sau cuộc Đại suy thoái (1929-1933), cổ vũ cho vai trò can thiệp của

Nhà nước đối với nền kinh tế; và cũng nhờ đó, một loạt mô hình Nhà nước phúc lợi đã ra

đời ở Tây Âu và Bắc Mỹ sau Thế chiến II [7, tr.2].

Bước vào thời kỳ hiện đại, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi và phát triển

mạnh mẽ kể từ sau Chiến tranh thế giới, cùng với sự tác động của Chiến tranh lạnh và đối

đầu Đông – Tây, ở các quốc gia Phương Tây, chính sách xã hội đặc biệt được quan tâm

và được coi là mũi nhọn trong việc đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa phát triển kinh tế

và phát triển xã hội. Trong giai đoạn này, các DNXH chỉ thực sự phát triển mạnh để hình

thành nên một phong trào rộng khắp có diện mạo như ngày nay sau những chính sách kinh

tế của nước Anh vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Cụ thể là chủ trương thu hẹp lại vai trò

của Nhà nước và cho rằng Nhà nước không nên trực tiếp tham gia cung cấp phúc lợi xã

14

hội. Nhà nước tư sản phương Tây trong giai đoạn này đã rút dần ảnh hưởng trong lĩnh vực

công, xã hội hóa nhiều hoạt động phúc lợi, từ thiện. Từ đó dẫn đến sự phát triển của các

DNXH trong giai đoạn này.

Về cơ bản có thể thấy, các vấn đề về dịch vụ công và phúc lợi xã hội vốn luôn được

thừa nhận rộng rãi như một trong các chức năng cơ bản của Nhà nước, Nhà nước khi được

ra đời cần phải thực hiện hai chức năng cơ bản là bảo vệ và quản lý xã hội, trong đó quản

lý xã hội bao gồm thực hiện cả những yếu tố phúc lợi xã hội và dịch vụ công như hỗ trợ

người nghèo, người khuyết tật, người yếu thế trong xã hội khác. Tuy nhiên, trong giai

đoạn từ sau thập niên 80 của thế kỷ XX Chính phủ của nhiều nước Phương Tây đều thực

hiện chức năng này thông qua các tổ chức dân sự và tư nhân bằng hình thức đấu thầu và

thuê ngoài. Hoạt động xã hội hóa các hình thức dịch vụ công và phúc lợi xã hội khác cho

thấy hiệu quả cao hơn hẳn so với việc nhà nước trực tiếp thực hiện hoạt động này.

Trong ba thập niên trở lại đây, phong trào DNXH đã phát triển mạnh ra khỏi biên

giới các quốc gia và trở thành một vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng toàn cầu.

Hiện tại không có số liệu chính xác bao nhiêu DNXH đang hoạt động tại bao nhiêu quốc

gia bởi mô hình khái quát về DNXH tuy đã được công nhận thức một cách rộng rãi, nhưng

đi vào nội dung, tiêu chí cụ thể để định nghĩa, phân loại DNXH lại có nhiều quan điểm

khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển, đặc điểm kinh tế-xã hội của từng nước, và

thậm chí là mục tiêu chính sách của từng chính phủ. Mặc dù vậy, qua các tài liệu nghiên

cứu, có thể nói DNXH đang hoạt động mạnh mẽ ở tất cả các khu vực trên thế giới từ Tây

Âu, Bắc Mỹ, Úc đến Mỹ La-tinh, Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á. Không ít

quốc gia đã ban hành văn bản pháp lý riêng về DNXH và tạo lập được các mạng lưới có

tổ chức để tập hợp, chia sẻ và kết nối lên tới hàng nghìn DNXH ở phạm vi trong nước

15

cũng như quốc tế [7, tr.2].

1.2. Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội

Mặc dù DHXH có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu đời, tuy nhiên, cho đến

nay, khái niệm DNXH vẫn chưa có sự thống nhất, dẫn đến việc hiện nay có nhiều quan

điểm khác nhau về khái niệm DNXH.

Trong Chiến lược phát triển DNXH năm 2002, Chính phủ Anh định nghĩa:

“DNXH là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu

xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì

tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu” [7]

Đây có thể được là một định nghĩa toàn diện, nêu bật lên được những đặc điểm cơ

bản của DNXH. Đó là DNXH cần được hiểu như là một mô hình, phương án, giải pháp

thông qua hoạt động kinh doanh hơn là ràng buộc DNXH vào một hình thức công ty nhất

định. Bên cạnh đó, mục tiêu xã hội được xem là ưu tiên hàng đầu và cốt lõi của DNXH.

Và cuối cùng, lợi nhuận được tái phân phối lại cho tổ chức hoặc cộng đồng, không phải

cho cá nhân.

Ngoài ra, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD cũng đưa ra định nghĩa:

“DNXH là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận

dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế.

DNXH thường cung cấp các dịch vụ xã hội và việc làm cho các nhóm yếu thế ở cả thành

thị và nông thôn. Ngòai ra, DNXH còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng, trên các lĩnh vực

giáo dục, văn hóa, môi trường.” [33]

Ngoài hai định nghĩa nêu trên là những định nghĩa được nhiều nghiên cứu và tổ

chức tham khảo, trích dẫn, còn có một số định nghĩa khác về DNXH. Ví dụ như Tổ chức

hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng – CSIP của Việt Nam đưa ra quan điểm:

“DNXH là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân xã hội dưới

16

nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể. DNXH

lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt

được cả mục tiêu xã hội/ môi trường và mục tiêu kinh tế.” [25]

Như được đề cập ở trên, cách định nghĩa về DNXH rất phong phú, tùy thuộc trình

độ phát triển của mỗi nước và khu vực, cũng như đặc thù và ưu tiên của từng tổ chức.

Nhưng nhìn chung, DNXH đều có những đặc điểm nổi bật sau đây:

 Sử dụng hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng như một công cụ để thực

hiện được mục tiêu xã hội đề ra ngay từ khi thành lập doanh nghiệp

Trước hết, so với những tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, các quỹ từ thiện chỉ

đơn thuần nhận tài trợ từ các tổ chức, nhà hảo tâm để thực hiện các dự án hoặc chương

trình xã hội thì DNXH có thể thực hiện hoạt động kinh doanh riêng của mình. Đây cũng

là một nét đặc thù của DNXH và nó cũng tạo ra thế mạnh cho loại hình doanh nghiệp này.

Bởi lẽ nếu như mối quan hệ giữa các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, tổ chức từ thiện

với những nhà tài trợ khác thường là quan hệ một chiều (cho đi) và mang tính thụ động

thì DNXH có thể có vị thế độc lập, chủ động hơn thông qua việc tự mình thực hiện các

hoạt động kinh doanh, tạo ra những nguồn lực nhất định để vừa đảm bảo việc giải quyết

các vấn đề xã hội đang tồn tại, vừa có thể vận hành doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nói

cách khác, DNXH phải là người trực tiếp cung cấp các sản phẩm hàng hóa dịch vụ với

chất lượng tốt ở mức giá cạnh tranh so với thị trường [7, tr.6]. Song đây cũng là một thách

thức đối với các DNXH bởi nguồn lực về tài chính và nhân lực của họ còn có hạn trong

khi thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp rất phức tạp. Chính điều này phần nào lý

giải tại sao DNXH luôn gắn liền với các sáng kiến xã hội, bởi giải pháp kinh doanh của

DNXH phải có tính mới lạ thì mới có thể đem đến mục tiêu xã hội dưới hình thức kinh

doanh [14].

Hơn nữa, DNXH còn phải trực tiếp cạnh tranh với các doanh nghiệp truyền thống

trong cùng một lĩnh vực. Việc cạnh tranh bình đẳng và công bằng, tuy là một thách thức

lớn, nhưng nó có thể đem lại cho DNXH vị thể độc lập và tự chủ trong tổ chức và hoạt

động của mình mà không phải phụ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hoặc cá nhân khác. Doanh 17

thu từ hoạt động kinh doanh có thể không bù đắp tất cả chi phí cho mục tiêu xã hội, nhưng

ít nhất việc bù đắp một phần, thường là từ 50-70% nguồn vốn (phần còn lại các DNXH

vẫn có thể dựa vào nguồn tài trợ), sẽ giúp DNXH độc lập hơn trong quan hệ với các nhà

tài trợ để theo đuổi sứ mệnh xã hội của riêng mình và quan trọng hơn là tạo điều kiện để

DNXH mở rộng được quy mô các hoạt động xã hội của họ [7, tr.6]

Do vậy, xây dựng một chiến lược kinh doanh tốt, có lợi nhuận, bền vững là một yêu

cầu thiết yếu để đảm bảo DNXH thực hiện hiệu quả mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội.

Thực tế đã cho thấy có rất nhiều DNXH hiện đang phát huy được thế mạnh của mình và

có những sản phẩm, dịch vụ có thể cạnh tranh binh đẳng với các doanh nghiệp truyền

thống trên thị trường. Ví dụ như Nhà hàng KOTO có chất lượng tốt cả về đồ ăn và phục

vụ, được giới thiệu trên Lonely Planet, Time-Out; sản phẩm của Mai Handicrafts và

Mekong Quilts đều được thiết kế rất độc đáo và bán chạy với giá cao…[7, tr.6]

 Đặt mục tiêu vì xã hội và cộng đồng lên hàng đầu kể từ khi thành lập doanh

nghiệp

Một trong những điểm tạo ra sự khác biệt giữa DNXH và doanh nghiệp truyền

thống chính là mục tiêu được đề ra khi thành lập doanh nghiệp.

Cụ thể, ở doanh nghiệp thông thường, các nhà đầu tư dựa vào thị trường để tìm ra

nhu cầu của khách hàng, từ đó lên kế hoạch, chiến lược đầu tư, sản xuất, kinh doanh hàng

hóa, cung ứng dịch vụ và thông qua hàng loạt các hoạt động kinh doanh được điều tiết bởi

các quy luật của nền kinh tế thị trường để đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Nói

cách khác, chính lợi nhuận trở thành động lực để nhà đầu tư quyết định tìm giải pháp kinh

doanh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận cho mình, có

được lợi nhuận, tức nhà đầu tư đã thành công [11]. Mặc dù ngày càng có nhiều doanh

nghiệp chú trọng đến việc đảm bảo thực hiện các trách nhiệm với xã hội như bảo vệ môi

18

trường hoặc các vấn đề liên quan đến người lao động…, nhưng xét cho cùng, đây vẫn

không phải là ưu tiên hàng đầu của họ khi thành lập doanh nghiệp. Nói cách khác, nó chỉ

thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng và góp phần nâng cao vị thế của

doanh nghiệp trong xã hội.

Trong khi đó, đối với DNXH thì yếu tố lợi nhuận không phải là yếu tố quyết định

đến sự ra đời của doanh nghiệp, mà chính từ các vấn đề đang tồn tại trong xã hội. Các vấn

đề xã hội trở thành động lực để doanh nhân xã hội tìm kiếm và quyết định mô hình kinh

doanh phù hợp, suy cho cùng thì doanh nhân xã hội sử dụng phương thức kinh doanh để

giải quyết vấn đề xã hội mà họ đã phát hiện ra. Khi vấn đề xã hội được giải quyết thì mục

đích của DNXH đã đạt được, dù có thể chính DNXH không thu về được lợi nhuận, thậm

chí bị thua lỗ [11; 14].

Như vậy, DNXH phải lấy mục tiêu xã hội làm sứ mệnh hoạt động tối thượng

ngay từ khi thành lập, và điều này phải được tuyên bố một cách công khai, rõ ràng, minh

bạch. Mỗi DNXH được thành lập đều vì một mục tiêu xã hội cụ thể, hoạt động vì cộng

đồng chứ không phải vì một cá nhân đơn lẻ [7, tr.7].

 Tái phân phối lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh lại cho tổ chức, cộng đồng và

mục tiêu xã hội

Một trong những yêu cầu của mô hình DNXH chính là DNXH khi thực hiện hoạt

động kinh doanh phát sinh lợi nhuận không phân phối như các doanh nghiệp thông thường.

Lợi nhuận mà doanh nghiệp có được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh được dùng để tái

đầu tư vào doanh nghiệp với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội mà DNXH đang theo

đuổi [12]. Thực chất, hai đặc điểm ở trên về hoạt động kinh doanh và mục tiêu xã hội là

những nét cơ bản nhất về DNXH. Còn tiêu chí sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư phục vụ

các mục tiêu xã hội là tiêu chí để giúp phân định rõ đặc điểm ‘vì- lợi nhuận’ hay ‘vì- xã

19

hội’ mà thôi.

Ngoài những đặc điểm nổi bật nêu trên, hầu hết các DNXH còn có những đặc điểm

khác như sau:

 Cơ cấu sở hữu mang tính xã hội

Một đặc điểm khác tuy không phổ biến nhưng được một số cách định nghĩa DNXH

đề cập là cấu trúc sở hữu và quản lý của DNXH có sự tham gia của cộng đồng hoặc các

bên liên quan, các bên hưởng lợi... Điều này cho phép DNXH có tính tự chủ cao. Đây là

trường hợp của các Hợp tác xã hoạt động theo mô hình DNXH rất hiệu quả ở một số nước

[7, tr.8].

Trên thực tế, hầu hết các DNXH đều có cấu trúc quản lý cởi mở và dân chủ. Yêu

cầu gắn kết với cộng đồng, các bên hưởng lợi và một số lượng đối tác đông đảo, trong khi

mục đích xã hội được đặt ở vị trí tối cao, khiến các DNXH sẵn sàng chia sẻ ‘quyền lực’

của mình với tất cả các bên liên quan. Đáng chú ý, ở nhiều DNXH khái niệm đối nhân –

đối vốn không được áp dụng như tại các công ty cổ phần hay TNHH truyền thống. Tại

không ít DNXH, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng sáng lập viên đã áp dụng nguyên tắc

‘mỗi thành viên - một phiếu bầu/ quyền biểu quyết như nhau’ trong mọi quyết định của tổ

chức, mà không dựa vào tỷ lệ góp vốn của họ [7, tr.8].

 Phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy tháp xã hội

Một trong những sứ mệnh đặc thù của DNXH là phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy

tháp xã hội. Đây là đối tượng những người nghèo và yếu thế nhất trong xã hội, họ tạo nên

một nhóm gồm 2 tỷ người với thu nhập dưới 2 USD/ngày [31]. Và vì chiếm số đông nhất

nhưng ở dưới đáy cùng của xã hội nên được gọi là ‘Nhóm đáy’ của Kim tự tháp (Bottom

of Pyramid- BoP). Đáng chú ý, nhóm đối tượng bị lề hóa, bao gồm người dân ở vùng sâu

vùng xa, người khuyết tật, người bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em đường phố, thất học, phạm

nhân mãn hạn tù... tuy không hoàn toàn nằm trong Nhóm đáy nhưng có tỷ lệ và nguy cơ

20

cao rơi vào Nhóm đáy, do đó cũng là một địa bàn trọng yếu của các DNXH [7, tr.9].

Trong khi khu vực nhà nước thường không có đủ nguồn lực để có thể giải quyết

gánh nặng phúc lợi xã hội của Nhóm đáy, khu vực doanh nghiệp tư nhân lại bỏ qua nhóm

này, thay vào đó họ thường lấy các nhóm có khả năng chi trả cao hơn làm khách hàng

mục tiêu. Chính vì vậy, DNXH xuất hiện như một giải pháp bổ sung, hỗ trợ Nhà nước

trong việc cung cấp những sản phẩm, dịch vụ cho đối tượng Nhóm đáy ở mức giá rẻ [7,

tr.9].

 Sáng kiến kinh doanh từ cơ sở

Hầu hết các DNXH đều được khởi sự từ khi DNhXH phát hiện ra vấn đề xã hội và

tìm được mô hình kinh doanh phù hợp để giải quyết các vấn đề đó [32, tr.52]. Nói cách

khác, DNXH được hình thành từ những nhu cầu của cuộc sống. Bản thân các DNhXH

thường là những người sống gắn bó với cộng đồng nhóm người yếu thế, hoặc thậm chí

chính họ cũng thuộc nhóm đối tượng này. Do vậy, trong hoàn cảnh đó, họ có thể phát hiện

và thấu hiểu một vấn đề xã hội cụ thể.

Ví dụ như chị Dương Phương Hạnh là người khiếm thính nên sáng lập Trung tâm

nghiên cứu giáo dục, đào tạo ngôn ngữ ký hiệu cho người khiếm thính; anh Nguyễn Công

Hùng là người khuyết tật vận động nhưng tự học thành thạo các kỹ năng tin học nên sáng

lập Trung tâm Nghị lực sống đào tạo tin học cho người khuyết tật theo cách tiếp cận hòa

nhập toàn diện (từ đào tạo đến tìm việc làm); anh Tạ Minh Tuấn xuất phát từ bệnh tình

của bố để thành lập Help Corporation thực hiện mô hình bác sĩ gia đình, điều chỉnh lối

sống [7, tr.10].

Đó là những con người thực tế, năng động và linh hoạt. Do có mối quan hệ gắn bó

và khăng khít với cộng đồng nhóm người yếu thế nên họ có thể phát hiện ra những vấn đề

cần giải quyết, để từ đó có hướng tiếp cận nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp [32,

tr.54]. Và chính cách tiếp cận từ dưới lên xuất phát trên nền tảng cộng đồng và cơ sở, đã

21

đem lại tính bền vững cho giải pháp xã hội của các DNXH. Không ai có thể hiểu rõ vấn

đề bằng các DNhXH và do đó không có giải pháp nào phù hợp với cộng đồng và được

cộng đồng chấp nhận khi được phát triển từ chính cộng đồng đồng đó [7, tr.10].

 Tính cởi mở và liên kết

Trong môi trường hoạt động xã hội, các DNXH đều rất cởi mở và luôn sẵn sàng

cho các khả năng liên kết. Nguồn lực hạn chế và sự thôi thúc đưa ra những sáng kiến xã

hội có tính khả thi hình thành nếp tư duy cởi mở trước những thay đổi, ý kiến phản biện

và đặc biệt cơ hội tiếp cận vốn tài trợ, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm cũng như hợp tác

giữa các DNXH với nhau và giữa DNXH với các đối tác liên quan [7, tr.10].

 Vai trò của DNhXH đối với DNXH

Có thể nói sự phát triển của hầu như tất cả DNXH đều gắn chặt với vai trò của

người sáng lập là DNhXH. DNhXH được hiểu là những người tạo nên đột phá, hoặc có

những ý tưởng giải quyết các vấn đề của xã hội và tạo nên những thay đổi làm cho xã hội

tốt hơn, vốn lâu nay vẫn được cho là thuộc trách nhiệm của nhà nước, hoặc các doanh

nghiệp thương mại “có tâm” [7, tr.10].

Cũng như doanh nhân thương mại, để thành công, một DNhXH là người kiên định

với ý tưởng của mình, cam kết dành cả cuộc đời để tạo nên sự thay đổi. Họ vừa là những

người có tầm nhìn xa trông rộng lại vừa là những người rất thực tế, và luôn suy nghĩ về

cách thức thực hiện tầm nhìn của mình một cách rất thực tế. Họ cần phải đưa ra những ý

tưởng dễ áp dụng, dễ hiểu, có đạo đức, và kêu gọi sự ủng hộ của nhiều người để có thể tối

đa hóa số lượng những người dân địa phương cùng đứng lên, nắm bắt ý tưởng, và thực

hiện. Đây là điểm rất khác biệt giữa DNhXH và doanh nhân thương mại. Nếu như doanh

nhân thương mại chỉ tập trung phát triển doanh nghiệp, lấy mục tiêu lợi nhuận làm trọng,

thì mục tiêu của DNhXH là làm thế nào để giải quyết triệt để một vấn đề xã hội cụ thể;

22

hơn nữa, họ không làm một mình, mà tính hiệu quả của doanh nghiệp được tính bằng số

người hưởng lợi từ các hoạt động đó. Tốt hơn nữa là giúp chính những người dân địa

phương có được nguồn tài chính và kĩ năng để tự họ làm cải thiện môi trường sống của

mình tốt hơn.

Ví dụ như trường hợp của Jimmy Phạm, sinh ra tại Việt Nam và lớn lên ở Sydney,

Australia. Năm 1996, trong chuyến trở về Sài Gòn, một cơ duyên đã dẫn anh đến với sứ

mệnh giúp đỡ trẻ em. DNXH KOTO được thành lập từ năm 1999, bắt đầu từ một tiệm

bánh mì kẹp với mục đích tạo công ăn việc làm cho chín trẻ em lang thang cơ nhỡ. Từ đó,

KOTO lớn mạnh dần, trở thành một DNXH phi lợi nhuận được trao tặng nhiều giải

thưởng, cung cấp cho trẻ khuyết tật, trẻ em đường phố từ độ tuổi 16 đến 22 một chương

trình đào tạo dạy nghề liên tục kéo dài trong 24 tháng trong lĩnh vực nhà hàng, khách sạn,

các kỹ năng sống cơ bản và Tiếng Anh [8, tr.28].

Nếu chúng ta thấy các doanh nhân truyền thống đã gặp nhiều khó khăn từ môi

trường bên ngòai để có thể tồn tại và phát triển, thì các DNhXH còn gặp nhiều thử thách

hơn nữa, bởi họ thường phải cạnh tranh bình đẳng trong điều kiện thiếu thốn về vốn, cơ

sở vật chất, nhân lực, trình độ, sức khỏe, nhận thức của xã hội, quan hệ với chính quyền

[25, tr.9].

Mặt khác, sự phụ thuộc quá nhiều vào DNhXH cũng có thể được coi là một trong

những điểm yếu của DNXH. Vấn đề kế thừa của DNXH là một trong những vấn đề nan

giải mà DNhXH phải tính đến. Liệu cơ cấu tổ chức, văn hóa làm việc, tâm huyết của đội

ngũ nhân sự có đủ sức mạnh, sự cố kết để giữ vững được sứ mệnh xã hội, tinh thần doanh

nhân xã hội mà DNXH có được từ buổi ban đầu? [7, tr.10].

1.3. Doanh nghiệp xã hội trong mối tương quan với các tổ chức và phong

trào xã hội khác

DNXH là một mô hình có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố xã hội và yếu tố kinh

tế, trong đó yếu tố xã hội được ưu tiên hàng đầu. Trên thực tế, DNXH thường hay bị nhầm 23

lần với các tổ chức lợi nhuận, phi lợi nhuận và các trào lưu xã hội khác. Do đó, quá trình

nâng cao nhận thức cũng như làm chính sách liên quan đến DNXH đều đòi hỏi phải phân

biệt rõ ràng mô hình này với các tổ chức và phong trào xã hội khác.

1.3.1. DNXH trong mối tương quan với Doanh nghiệp truyền thống và NGO

Như trên đã trình bày, do DNXH là mô hình kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố xã hội

và yếu tố kinh tế. Như vậy, có thể xem DNXH mang đặc tính “lai” giữa doanh nghiệp

thông thường và tổ chức NGO truyền thống [7, tr.11]. Nếu ở một cực là các doanh nghiệp

truyền thống, hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, thì ở cực còn lại là các NGO

được thành lập nhằm theo đuổi lợi ích xã hội thuần túy. Tuy nhiên trên thực tế, ngày càng

có nhiều doanh nghiệp và tổ chức NGO thực hiện nhiều hoạt động đa dạng và vượt ra khỏi

ranh giới hay quan niệm truyền thống. Chẳng hạn như hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp

cam kết thực hiện CSR (Chú trọng các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, bảo vệ môi trường

đóng góp cho cộng đồng là các nhiệm vụ đi kèm với hoạt động kinh doanh) nhưng thực

tế mục tiêu hàng đầu của họ vẫn là tìm kiếm cơ hội kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận.

Đối với trường hợp của một số NGO, họ cũng triển khai nhiều dự án cụ thể nhằm thực

hiện hoạt động kinh doanh nhằm giảm sự thụ động vào mối quan hệ với các nhà tài trợ,

nâng cao vị thế của mình và có thể dùng lợi nhuận thu được đó để phục vụ cho các chương

trình mà họ muốn hướng đến [7, tr.11].

Bên cạnh đó, để đánh giá mức độ thành công của một doanh nghiệp truyền thống

trong một năm thường căn cứ vào các thước đo kinh tế. Cụ thể là ở số lượng lợi nhuận

luôn được tiền tệ hóa chính xác ở dòng cuối cùng của bản Cân đối tài chính cuối năm đó.

Ngược lại, thước đo hiệu quả đối với một tổ chức NGO lại thường dựa vào những tác

động và giá trị xã hội mà tổ chức đo cam kết thực hiện và mang lại. Ví dụ như số lượng

học sinh nghèo được đến trường, số làng bản ở vùng sâu vùng xa được tiếp cận nước sạch

hay số lượng người được tuyên truyền về biến đổi khí hậu... Tuy nhiên việc đánh giá tính

hiệu quả của một DNXH lại phải dựa trên cả hai hệ tiêu chí về giá trị xã hội và kinh tế 24

[14]. Nếu đánh giá một DNXH đào tạo nghề cho trẻ em có hòan cảnh đặc biệt như KOTO,

dạy vi tính cho người khuyết tật như TT Nghị lực sống, tạo sân chơi cho trẻ tự kỷ như Tò

he, hoặc một DNXH nào đó tạo việc làm cho người nhiễm HIV/AIDS và người mãn hạn

tù... mà chỉ nhìn nhận trên khía cạnh kinh tế (cụ thể là nhìn ở doanh thu và loại nhuận) thì

hẳn sẽ là một thiếu sót lớn [7, tr.12]. Những DNXH như Bloom Microventures, Ecolife,

Marine Gifts, PT Tây Bắc, Mai Handicrafts và Mekong Quilt... có thể không đem lại hiệu

quả tài chính như các doanh nghiệp khác trên thị trường, nhưng hiệu quả xã hội mà các

DNXH này mang lại (chẳng hạn như giúp hàng trăm hộ nông dân thoát nghèo với các sinh

kế bền vững) thì không dễ lượng hóa đơn thuần bằng tiền tệ [7, tr.12]. Đây là điều mà hơn

ai hết, các DNhXH sáng lập và nhà đầu tư xã hội luôn thấu hiểu đối với DNXH của mình,

tuy nhiên lại là đặc điểm mà công chúng và người làm chính sách cần nâng cao nhận thức

về mô hình mới này.

Như vậy, ở vị trí ‘trung tâm’, DNXH là mô hình kết hợp hài hòa cả hình thức và

nội dung của hai loại hình tổ chức để lấy kinh doanh làm lĩnh vực hoạt động chính, nhưng

không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể.

Dưới đây là bảng so sánh giữa mô hình DNXH và hai loại hình tổ chức thiện nguyện

(NGO) và các doanh nghiệp truyền thống, xét trên những phương diện quan trọng nhất về

cả hình thức và nội dung của một tổ chức kinh tế- xã hội [7, tr.11].

Tiêu chí Tổ chức DNXH Doanh nghiệp

25

truyền thống thiện nguyện

Hình thức pháp lý NGO, NPO, Quỹ từ Các tổ chức hoặc Công ty TNHH, CP,

thiện doanh nghiệp Hợp danh, DNTN

Động cơ Tối đa hóa lợi nhuận Lợi ích xã hội thuần Mục tiêu xã hội là

túy chủ đạo

Giải pháp/công cụ Các chương trình Hoạt động kinh Chiến lược kinh

thiện nguyện doanh doanh

Hiệu quả Tạo giá trị xã hội Tạo giá trị kinh tế Tạo ra cả giá trị xã

hội và kinh tế

Nguồn vốn Tài trợ Doanh thu Cả tài trợ lẫn doanh

thu từ hoạt động

kinh doanh

Trách nhiệm giải Nhà tài trợ, đối tượng Nhà đầu tư xã hội, Cổ đông, chủ sở hữu,

trình hưởng lợi, công khách hàng, đối khách hàng, cộng

chúng đồng tượng hưởng lợi,

cộng đồng

Sử dụng lợi Phục vụ trực tiếp cho Tái đầu tư trở lại tổ Lợi nhuận và cổ tức

nhuận/nguồn thu các hoạt động xã hội chức, mở rộng quy chia cho chủ sở hữu

và cổ đông mô hoạt động, phân

phối cho cộng đồng

 Ưu thế của DNXH so với NGO

Ở Việt Nam, DNXH thường được so sánh với tổ chức NGO do loại hình tổ chức

này được sử dụng phổ biến trong cả văn bản pháp lý và chính sách của nhà nước, đại diện

26

cho toàn bộ khu vực xã hội dân sự và phi lợi nhuận. So sánh DNXH trong mối tương quan

với tổ chức NGO, dễ dàng nhận thấy DNXH có nhiều ưu thế hơn loại hình tổ chức này.

Dưới đây là những phân tích cụ thể:

Đầu tiên, xét ở khía cạnh tính độc lập và tự chủ, hầu hết các tổ chức NGO đều phụ

thuộc rất lớn vào nhà tài trợ (cá nhân và tổ chức) về cả sứ mệnh, phương hướng và địa

bàn hoạt động bởi bản thân các NGO là những tổ chức hoạt động vì mục tiêu xã hội là

chủ yếu; do vậy, họ cần một nguồn lực nhất định để giúp họ triển khai và thực hiện những

hoạt động đó. Tuy nhiên, cũng có nhiều tổ chức NGO đã xây dựng được “thương hiệu”

của riêng mình (chẳng hạn như những đặc trưng về mục tiêu và cách tiếp cận riêng của tổ

chức mình), nhưng sự độc lập đó đòi hỏi NGO phải có quy mô hoạt động rộng lớn và số

lượng các nhà tài trợ phong phú (ví dụ như World Vision, WWF, Plan International,

Oxfam...) [7, tr.13]. Khi đó, việc đóng góp của các nhà tài trợ đồng nghĩa với việc chấp

thuận lý tưởng và hướng đi đặc thù của mỗi tổ chức NGO này. Ngược lại, đa số các tổ

chức NGO ở quy mô nhỏ phụ thuộc mọi mặt vào nhà tài trợ, từ mục tiêu, cách thức hoạt

động đến lựa chọn dự án, đối tương hưởng lợi... Thiếu tính tự chủ, các NGO trở nên bị

động và gò bó trong các hoạt động cũng như sáng kiến của mình. Việc mở rộng quy mô

dự án không thể thực hiện được nếu nguồn tài trợ không cho phép.

So với NGO, mô hình DNXH lại có thể bù đắp điểm yếu nói trên. DNXH giúp cải

thiện một cách căn bản sự độc lập, tự chủ và tính bền vững cho tổ chức cũng như giải

pháp xã hội mà tổ chức đưa ra. Do DNXH không chỉ đơn thuần thực hiện việc giải quyết

các vấn đề xã hội, mà họ còn phải tìm kiếm những giải pháp kinh doanh hiệu quả, bền

vững để có thể đảm bảo thực hiện mục tiêu xã hội đã đề ra. Nguồn thu nhập từ hoạt động

kinh doanh không những giúp DNXH có thể tái đầu tư, góp phần hỗ trợ những dự án mình

đang thực hiện, mà còn cho phép DNXH có vị thế tốt hơn trong quan hệ với các nhà tài

trợ. Các DNXH có thể theo đuổi các mục tiêu riêng của mình, thực hiện các sáng kiến

theo cách của mình. Và quan trọng hơn cả, họ có thể mở rộng quy mô đối tượng hưởng

27

lợi, tạo ra nhiều tác động và giá trị xã hội hơn nữa [7, tr.15]

Thứ hai, xét ở khía cạnh tính bền vững, các dự án của NGO thường thiếu tính bền

vững ngay trong cách tiếp cận cũng như khả năng có hạn của nguồn lực tài trợ. Do các dự

án đều được xây dựng trên một số lượng nguồn lực nhất định, cho một số mục tiêu nhất

định và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định nên hiệu quả xã hội mà các giải

pháp xã hội của NGO đem lại thường không vượt quá phạm vi và thời hạn của dự án.

Chẳng hạn như khi dự án LMPA của Đan Mạch hỗ trợ dân nghèo trong khu bảo tồn biển

ở Vịnh Nha Trang hết thời hạn (2006-2011), các đối tượng hưởng lợi đứng trước nguy cơ

bị bỏ lại mà không có trong tay một sinh kế bền vững [7, tr.13]. Quan trọng hơn, cách tiếp

cận của các NGO thường mang tính “một chiều”, tức là chỉ hỗ trợ đơn thuần chứ không

mang đến những công cụ hay phương tiện lao động để khuyến khích sự độc lập, tạo ra

sinh kế lâu dài cho những đối tượng hưởng lợi. Chính vì vậy, điều này về lâu dài có thể

tạo ra thói quen và tâm lý ỷ lại và phụ thuộc vào sự hỗ trợ của nhóm người này [7, tr.13].

Ngược lại, cách tiếp cận của DNXH là luôn hướng đến một giải pháp xã hội bền

vững. Đối tượng hưởng lợi được đào tạo thành nghề, có được việc làm và một sinh kế bền

vững để có thể tự lập [7, tr.15]. Các học viên của KOTO nếu tốt nghiệp sau hai năm đào

tạo, sẽ được tổ chức Box Hill của Úc cấp bằng, vốn là một chứng chỉ có giá trị đối với các

khách sạn, nhà hàng 5 sao trên toàn thế giới (bởi Box Hill là một trong 40 trường dạy nghề

TAFE hàng đầu của Úc). Sau khi được đào tạo trong một môi trường nghiêm túc, họ được

trang bị những bị những kỹ năng cần thiết để sau này có thể vận dụng những kỹ năng đó

vào thực tiễn, tìm kiếm việc làm ổn định [8, tr. 28]

Thứ ba, ở khía cạnh tính hiệu quả, như phân tích ở trên, không những đối tượng

hưởng lợi không có động cơ để tự lập, mà ngay cả các NGO trong nhiều trường hợp cũng

không có động lực để hướng tới những giải pháp xã hội bền vững. Không ít NGO trở

thành công cụ giải ngân một cách bị động cho các nguồn tài trợ [7, tr.13]. Trên thực tế,

các nhóm đối tượng hưởng lợi cũng hiếm khi có cơ hội phản ánh trực tiếp tâm tư nguyện

vọng, lợi ích của mình với nhà tài trợ. Chính các NGO biến thành một rào cản vô hình

28

giữa nhà tài trợ và đối tượng hưởng lợi. Trong những trường hợp này, việc giữ nhóm hay

cộng đồng hưởng lợi ở vị trí nguyên trạng (nghèo, khó khăn, cần được hỗ trợ) lại song

hành cùng lợi ích của NGO nhằm duy trì các chương trình tài trợ. Trong khi đó, không

phải nhà tài trợ nào cũng quan tâm sâu sát tới đối tượng hưởng lợi. Áp lực giải ngân khiến

hiệu quả xã hội nhiều khi bị đẩy xuống hàng thứ hai trong thứ tự ưu tiên của các nhà tài

trợ và NGO [7, tr.13].

Xét về hiệu quả hoạt động, là một mô hình kinh doanh nên DNXH luôn tìm cách

tối ưu hóa hiệu quả kinh tế ở mức có thể, như các doanh nghiệp truyền thống. Đối tượng

hưởng lợi đồng thời là người lao động hoặc khách hàng của DNXH, do đó luôn có mối

liên hệ trực tiếp và mật thiết giữa họ với sáng lập viên là DNhXH. Ngoài ra, thông thường

DNXH tự triển khai ý tưởng cũng như tự chịu trách nhiệm trong việc theo dõi và đánh giá

do đó các chi phí trung gian đều được giảm thiểu [7, tr.15].

Cuối cùng, về xu hướng vốn tài trợ dành cho Việt Nam, khi nền kinh tế tăng trưởng

tốt, đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình (năm 2010), cũng là lúc

nguồn vốn tài trợ chính thức ODA và tư nhân đều bắt đầu xu hướng giảm [23]. Một số

quốc gia và tổ chức đã công bố lộ trình rút dần các chương trình tài trợ ra khỏi Việt Nam

để dành cho các khu vực khác có nhu cầu hơn.

Ngược lại, với những ưu thế kể trên, trong bối cảnh nguồn tài trợ ngày càng giảm

đi, DNXH hoàn toàn có thể trở thành mô hình lựa chọn chuyển đổi cho các dự án NGO ở

Việt Nam. Đáng chú ý, sự phát triển DNXH rất phù hợp với xu hướng dịch chuyển mối

quan tâm hiện nay của các nhà tài trợ đối với Việt Nam theo hướng áp dụng nguyên tắc

thị trường phục vụ phát triển bền vững: ADB với dự án thị trường cho người nghèo (M4P)

và dự kiến quỹ đầu tư cùng người nghèo (IBIF), SNV với mô hình kinh doanh bền vững

cùng người nghèo đối với các doanh nghiệp nông nghiệp (inclusive agrifood business),

WB với Ngày sáng tạo Việt Nam (VID), một số nhà tài trợ khác với mô hình tài trợ một

29

phần các sáng kiến/đề xuất dự án vì cộng đồng và có tiềm năng xuất khẩu v.v...[7, tr.15].

1.3.2. DNXH và Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR)

DNXH cũng hay bị nhầm lẫn với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Coperate

Social Responsibilities) [24, tr.26]. Trên thực tế, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt,

một là mô hình hoạt động, một là trào lưu, vận động xã hội.

Bản chất của trách nhiệm xã hội là ghi nhận sự cam kết tự nguyện của doanh nghiệp

thực hiện những chuẩn mực đạo đức và xã hội vì mục tiêu con người và phát triển bền

vững, mang tính chất là hoạt động bổ sung của doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện

trách nhiệm xã hội vẫn là các doanh nghiệp thông thường vẫn với mục tiêu và bản chất

tìm kiếm lợi nhuận [33, tr.18]. Trong khi đó, tôn chỉ, mục đích và toàn bộ hoạt động của

DNXH là để giải quyết vấn đề xã hội hay môi trường đã xác định ngay từ khi thành lậpvà

được duy trì trong suốt quá trình hoạt động, được thể hiện cụ thể, rõ ràng thông qua cam

kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường, nếu DNXH có sự thay đổi hoặc chấm dứt mục

tiêu xã hội thì DNXH phải thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, có thể thấy CSR và DNXH là hai khái niệm hoàn toàn độc lập. Các doanh

nghiệp cam kết CSR vẫn là các doanh nghiệp truyền thống, nói cách khác CSR chỉ làm

cho các doanh nghiệp ‘tốt’ lên mà không thay đổi bản chất và mô hình của doanh nghiệp.

Trong khi đó, DNXH lại là một mô hình hoạt động khác các doanh nghiệp truyền thống

30

về bản chất [7, tr.16].

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

DNXH đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Ra đời sớm nhất

tại Anh rồi lan rộng sang các quốc gia khác trên thế giới, DNXH đang chứng tỏ là một

trong các phương thức giải quyết các vấn đề xã hội một cách bền vững, nhất là trong bối

cảnh nguồn lực của Nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội hạn hẹp [23].

Xuất phát từ mục tiêu vì cộng đồng ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, DNXH sử

dụng hoạt động kinh doanh như một phương pháp, công cụ để thực hiện được mục tiêu

đó. DNXH đồng thời cũng phải sử dụng phần lớn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh để

đầu tư trở lại tổ chức, cộng đồng và cho mục tiêu xã hội.

Từ những phân tích trên có thể thấy DNXH mang trên mình hai gánh nặng: Một là

phải thực hiện mục tiêu xã hội đã được đề ra; Hai là phải tạo ra lợi nhuận để góp phần

hiện thực hóa mục tiêu đó và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp truyền thống.

Đây là một thách thức lớn đối với DNXH khi đồng thời phải cân bằng cả hai mục tiêu

trên. Chính vì vậy, việc xác định rõ vấn đề xã hội cần giải quyết; xây dựng được một đội

ngũ quản trị tốt và có được một chiến lược kinh doanh có lợi nhuận và bền vững là một

yêu cầu thiết yếu để đảm bảo DNXH thực hiện hiệu quả mục tiêu giải quyết các vấn đề

31

xã hội. Thực tế đã cho thấy có rất nhiều DNXH hiện không chỉ thực hiện tốt các mục tiêu

vì cộng đồng, mà còn có sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cạnh tranh bình đẳng với các doanh

nghiệp truyền thống; và những DNXH này càng ngày chứng minh được vị thế độc lập của

32

mình trên thị trường.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI

VÀ TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO

2.1. Vài nét về quá trình phát triển của Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam

Ở Việt Nam, mặc dù chưa bao giờ được công nhận chính thức, nhưng các hoạt động

sử dụng kinh doanh như một công cụ để phục vụ cho lợi ích cộng đồng, đặc biệt là các

cộng đồng yếu thế đã xuất hiện từ khá lâu. Một nghiên cứu gần đây của CSIP, Hội đồng

Anh và Spark đã phát hiện trong số 167 tổ chức được nhận diện với đầy đủ các đặc điểm

của DNXH, tổ chức có lịch sử lâu đời nhất là HTX Nhân Đạo thuộc Hội Người khuyết tật

Hà Nội, thành lập năm 1973 [9, tr.15]

Có thể chia quá trình phát triển của các DNXH ở Việt Nam thành ba giai đoạn chính

như sau [7, tr.19]:

 Trước Đổi mới (1986), DNXH gắn với sở hữu tập thể, hoạt động dưới hình thức

các HTX phục vụ nhu cầu của nhóm cộng đồng yếu thế;

 Từ 1986-2010, DNXH gắn với các NGO và nguồn vốn tài trợ chủ yếu từ các tổ

chức nước ngoài;

 Hiện nay, từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. DNXH hoạt

động theo nguyên tắc thị trường; nguồn vốn chuyển dịch từ tài trợ bên ngoài sang

nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh.

2.1.1. Trước Đổi mới (1986)

Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước là chủ thể duy nhất có trách

nhiệm đảm bảo các dịch vụ xã hội được phân phối tới người dân. Sự hình thành và hoạt

động của các tổ chức chính trị xã hội như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... luôn đặt dưới 33

sự lãnh đạo của Đảng, gắn chặt với hệ thống quản lý nhà nước (QLNN) và là nơi duy nhất

qua đó cá nhân có thể tham gia vào hoạt động cộng đồng. Trong thời kỳ này, các loại hình

tổ chức xã hội độc lập với nhà nước như các tổ chức NGO không được phép hoạt động ở

Việt Nam. Bên cạnh đó, chỉ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể được công nhận là hai

thành phần kinh tế chủ đạo của đất nước [7, tr.19].

Trong bối cảnh ấy, hợp tác xã (HTX) là hình thức tổ chức kinh tế-xã hội phù hợp

duy nhất được thành lập để đáp ứng một số nhu cầu đặc biệt của xã viên theo tinh thần

cộng đồng: hợp tác, chia sẻ và cùng hưởng lợi. HTX được coi là một tổ chức thuộc sở hữu

cộng đồng, đồng thời là một đơn vị kinh tế độc lập [7, tr.19]. Chính vì vậy, HTX có thể

được coi là mô hình doanh nghiệp xã hội sớm nhất ở Việt Nam. Về mặt chính sách, nhà

nước cũng có nhiều chính sách khuyến khích sự phát triển của HTX ngay từ những năm

đầu xây dựng CNXH ở Miền Bắc. Đến năm 1987, số lượng các HTX trên cả nước lên tới

gần 74,000, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, góp phần đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cộng

đồng.

Trong số các HTX ra đời trong giai đoạn này, một số không nhỏ được thành lập để

tạo việc làm, hỗ trợ cuộc sống cho những đối tượng yếu thế của xã hội, chủ yếu là người

khuyết tật. Hầu hết các HTX của người khuyết tật hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công

nghiệp, như mây tre, đan thêu, may mặc... bởi đây được coi là những việc làm phù hợp

với sức khỏe và điều kiện lao động của họ [7, tr.19].

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 – 2010

Mặc dù DNXH đã manh nha xuất hiện dưới hình thức HTX từ lâu, nhưng các hoat

động kinh doanh vì mục tiêu xã hội với đầy đủ các đặc điểm cơ bản của mô hình DNXH

chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi chính sách Đổi Mới được thực hiện vào năm 1986. Đây là

cột mốc đánh dấu sự thừa nhận các thành phần kinh tế mới là kinh tế tư bản nhà nước,

34

kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ. Nhờ đó, vai trò chủ động của cá nhân và

cộng đồng trong việc cung cấp và trao đổi các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người dân đã

được công nhận và phát triển [7, tr.20].

Chính sách mở cửa cũng dẫn đến sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) và trợ giúp phát triển quốc tế (ODA) [23]. Các hoạt động này không

những đem lại nguồn vốn lớn phục vụ cho công cuộc phát triển, mà việc giao lưu và chia

sẻ kinh nghiệm và tri thức phát triển xã hội cũng đã mang lại những mô hình và cách làm

mới mà Việt Nam có thể tiếp thu. Sau khi lệnh cấm vận của Mỹ được dỡ bỏ vào năm

1994, hàng trăm các tổ chức nhân đạo phát triển quốc tế đã vào Việt Nam, mang theo một

nguồn viện trợ nhân đạo không hoàn lại và vốn ODA rất lớn. Chỉ tính riêng giai đoạn

2005-2010, tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam là 31 tỷ đô la Mỹ [10].

Đây là giai đoạn nhà nước có nhiều chính sách cởi mở, tạo lập khung khổ pháp lý

cho sự phát triển các tổ chức kinh tế và xã hội ngoài nhà nước. Nghị định số 71/1998/NĐ-

CP về quy chế dân chủ ở cơ sở và các văn bản pháp qui ra đời năm 1998 lần đầu tiên chính

thức khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội và công dân trong quá trình xây

dựng, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách tại cộng đồng. Để thúc đẩy sự tham gia

của người dân vào quá trình xây dựng và phát triển cộng đồng, nhà nước đã có những

bước đi tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các tổ chức khác nhau, đặc biệt thông qua

việc tăng cường sức mạnh các tổ chức chính trị xã hội [7, tr.20]. Nghị định 35-HĐBT

(1992) đã đưa ra một số giải pháp thúc đẩy việc cá nhân thành lập các tổ chức khoa học

và công nghệ. Nghị định 177/1999/NĐ-CP và sau đó là Nghị định 148/2007/NĐ-CP đã

đưa ra các cơ sở cho việc thành lập các quĩ xã hội, quỹ từ thiện... Vai trò của các tổ chức

cộng đồng được đặc biệt chú trọng trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản cho cộng đồng

như quản lý tài nguyên nước, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y tế ban đầu, giáo dục phổ

cập, bảo vệ môi trường. Nhà nước đặc biệt chú trọng và khuyến khích sự hợp tác giữa các

tổ chức NGO trong nước, nước ngoài và chính quyền địa phương [10].

Các chính sách trên đã giúp các tổ chức và doanh nghiệp phát triển cộng đồng thực

sự nở rộ. Số liệu thống kê cho thấy có tới hơn 1,000 tổ chức NGO, 320 hiệp hội hoạt động 35

cấp quốc gia và 2,150 hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và tự chủ ở trung ương và

địa phương. Hầu hết tất cả các tổ chức này nhận hỗ trợ tài chính từ các tổ chức NGO quốc

tế và nhà tài trợ để duy trì hoạt động và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng. Ngoài ra, ở Việt

Nam còn có hàng nghìn tổ chức có tính cộng đồng như nhà văn hóa, câu lạc bộ và mảng

phụ trách hoạt động kinh doanh thuộc các tổ chức chính trị - xã hội quần chúng (ví dụ:

hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội người tàn tật, v.v.) và hàng nghìn đơn vị sự nghiệp

đang thực hiện chức năng cung cấp phúc lợi xã hội của nhà nước (mang lại các dịch vụ

công cộng như quản lý chất thải, nguồn nước, v.v.). Các tổ chức này đều có một số đặc

điểm của DNXH và có khả năng chuyển thành DNXH trong tương lai [7, tr.20].

Cùng với quá trình mở cửa và đổi mới toàn diện, nhà nước cũng thực hiện cải cách

trong lĩnh vực dịch vụ công theo hướng xã hội hóa, kêu gọi sự đầu tư và tham gia của các

thành phần kinh tế, các cá nhân và tập thể vào việc chia sẻ gánh nặng cung cấp các dịch

vụ công, đặc biệt trong lĩnh vực giảm nghèo, giáo dục và chăm sóc y tế. Số lượng lớn các

cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật ngoài công lập ra đời theo định hướng chính sách

này đã phần nào giải quyết các vấn đề xã hội và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân.

Nhìn chung, giai đoạn đổi mới là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của các doanh

nghiệp và tổ chức xã hội ngoài nhà nước, trong đó có DNXH. Tuy nhiên, sự tách biệt hai

lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội cả trong tư duy lẫn hoạt động thực tế đã hạn chế sự

ra đời của mô hình hỗn hợp như DNXH. Khi nói đến doanh nghiệp người ta chỉ nói đến

lợi nhuận tài chính thuần túy, còn các hoạt động cộng đồng của doanh nghiệp thường chỉ

mang dấu ấn cá nhân và được hiểu với ý nghĩa từ thiện đơn thuần. Trong khi đó, các tổ

chức xã hội thường được xếp cùng loại với các tổ chức từ thiện nhân đạo, dựa vào nguồn

lực huy động từ các nhà hảo tâm bên ngoài. điều này không những kìm hãm nãng lực sáng

kiến xã hội mà khiến cho các DNhXH có rất ít sự lựa chọn: hoặc hoạt động như tổ chức

xã hội từ thiện, hoặc như một doanh nghiệp thông thường. Trong bối cảnh nguồn tài trợ

bên ngoài cho các hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam khá

36

dồi dào, đa phần các tổ chức lựa chọn hình thức hoạt động là các tổ chức NGO. Chỉ có

một số không lớn các tổ chức, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, đã dũng cảm quyết định

đi lên bằng chính nguồn lực của mình. Họ tin tưởng vào sự bền vững và hiệu quả của việc

áp dụng mô hình kinh doanh để giải quyết vấn đề xã hội và giúp đỡ cộng đồng [7, tr.21].

Giai đoạn này đã xuất hiện những DNXH khá điển hình, hoạt động dưới nhiều hình

thức đa dạng như Trường Hoa Sữa, Nhà hàng KOTO tại Hà Nội, Công ty TNHH Mai

Handicrafts tại TP. Hồ Chí Minh...

Tuy chưa nở rộ về số lượng và chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, sự tồn

tại và phát triển của các DNXH tiêu biểu này trong hơn 10 năm qua đã minh chứng cho

khả năng kết hợp thành công mô hình kinh doanh vì mục tiêu phát triển xã hội, xóa bỏ hố

sâu ngăn cách giữa hai khu vực kinh tế và xã hội, mở ra một khu vực thứ ba cho các

DNXH.

2.1.3. Từ 2010 – nay

Việc Việt Nam bắt đầu bước vào ngưỡng nước có thu nhập trung bình thấp là một

cơ hội phát triển mới cho dân tộc. Điều đó có nghĩa nguồn vốn trong nền kinh tế Việt Nam

đã dồi dào và chủ động hơn trước, tình trạng nghèo đói đã được cải thiện đáng kể trong

số đông dân cư. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc thay đổi chính sách hỗ trợ nhân

đạo và phát triển xã hội của các quốc gia và tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Chúng ta đã

chứng kiến sự ra đi của một số tổ chức phát triển song phương như SIDA, Ford

Foundation; hoặc việc giảm dần nguồn tài trợ ODA từ Việt Nam để chuyển sang các nước

nghèo hơn [7, tr.20]. Nếu chúng ta tiếp tục phụ thuộc vào các nguồn vốn viện trợ bên

ngoài, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt vốn nghiêm trọng cho các hoạt

động phát triển cộng đồng trong thời gian tới. Trong khi đó, việc huy động tài trợ và vốn

từ cộng đồng ở Việt Nam còn khá hạn chế. Một nghiên cứu gần đây của Quĩ Châu Á

(2011) về đóng góp từ thiện ở Việt Nam cho thấy tiềm lực đóng góp của người dân và

37

doanh nghiệp khá lớn, tuy nhiên do thiếu những kênh từ thiện chính thức và thiếu những

chính sách phù hợp, đa phần hoạt động từ thiện có tính tự phát, qui mô nhỏ và phạm vi

hạn chế trong cộng đồng nhỏ [7, tr.21].Thiếu nguồn vốn cho hoạt động là một áp lực lớn

tới hàng ngàn tổ chức NGO Việt Nam và các dự án phát triển cộng đồng trong thời gian

không xa.

Trong bối cảnh đó, Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP) cùng

các đối tác như Hội đồng Anh (British Council), Trung tâm Spark đã tích cực tuyên truyền,

giới thiệu DNXH như một hướng giải quyết mới, một mô hình tổ chức thay thế phù hợp

với bối cảnh chuyển đổi hiện nay [8, tr.18]. Thế mạnh của DNXH là áp dụng mô hình

kinh doanh dựa trên những nguyên tắc và động lực của thị trường để giải quyết chính

những thất bại của thị trường và các vấn đề xã hội. Nói cách khác, DNXH giải quyết được

cả hai mục đích xã hội và kinh tế, trong đó mục tiêu xã hội là mục tiêu chủ đạo, đạt được

mục tiêu kinh tế là phương tiện để đạt được mục tiêu xã hội ở qui mô lớn hơn một cách

bền vững [7, tr.21].

Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp sửa đổi ban hành tháng 11/2014 đã mở ra một chương

mới cho cộng đồng doanh nghiệp Việt khi lần đầu tiên khai sinh khái niệm DNXH trong

hệ thống pháp lý.

2.2. Pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp xã hội

DNXH là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện ở Việt Nam và trong thời gian gần

đây thì DNXH đang nhận được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, cũng như

các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý. Hiện nay, địa vị pháp lý của DNXH được quy định

tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP. Nhìn chung

hành lang pháp lý về DNXH ở nước ta còn rất sơ khai và cần được tiếp tục hoàn thiện.

38

2.2.1. Định nghĩa Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014

Luật Doanh nghiệp năm 2014 không đưa ra định nghĩa về DNXH nhưng có các tiêu

chí để xác định DNXH tại Điều 10.

“1. Doanh nghiệp xã hội phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:

a) Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này;

b) Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng

đồng;

c) Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư

nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.”

Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu, DNXH phải đảm bảo các tiêu chí sau:

 DNXH là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật Doanh

nghiệp năm 2014

Thông qua quy định này, có thể thấy Luật Doanh nghiệp năm 2014 không coi

DNXH là một loại hình doanh nghiệp đặc thù mà cũng giống như doanh nghiệp thông

thường. DNXH vẫn tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp: Công

ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.

Vì cũng là một doanh nghiệp nên để thành lập DNXH, DNhXH phải thực hiện các

thủ tục pháp lý thông thường để thành lập một doanh nghiệp trong số các loại hình doanh

nghiệp đã được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định. Tiêu chí này thể hiện một trong

những đặc điểm cơ bản của DNXH, tương tự doanh nghiệp thông thường, đó là có hoạt

động kinh doanh. Theo đó, kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả

các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch

vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Từ định nghĩa doanh nghiệp, kinh doanh của

pháp luật doanh nghiệp và theo quan niệm truyền thống trong khoa học pháp lý ở nước ta,

chính yếu tố “nhằm mục đích sinh lợi” là yếu tố căn bản, quyết định đến sự ra đời và hoạt

động của doanh nghiệp, “một thuộc tính không thể tách rời của doanh nghiệp” [27, tr.26]

và là “đích cuối cùng của các nhà kinh doanh [26, tr.29]. Từ đó có thể hiểu, mục đích

chính khi thành lập doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, 39

còn việc giải quyết các vấn đề xã hội vì lợi ích của cộng đồng không phải là mục tiêu chủ

yếu của kinh doanh. Vì thế mà có quan điểm cho rằng, định nghĩa kinh doanh ở nước ta

quá nhấn mạnh chủ nghĩa duy lợi, người soạn luật đã không khái quát được những doanh

nghiệp không vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận [4, tr.29].

Hiện nay, thủ tục thành lập DNXH được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014

và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số

điều của Luật Doanh nghiệp (Nghị định số 96/2015/NĐ-CP). Giống như mọi doanh

nghiệp khác, DNXH cũng có tên riêng của mình. Dựa trên các chuẩn mực về tên doanh

nghiệp được pháp luật quy định, doanh nhân xã hội sẽ chủ động quyết định đặt tên cho

DNXH. Theo các quy định từ Điều 38 đến Điều 42 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì

không có quy định riêng trong việc đặt tên cho DNXH. Theo khoản 2 Điều 4 Nghị định

số 96/2015/NĐ-CP thì có thể bổ sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của DNXH

[29]. Quy định có thể bổ sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của DNXH là một quy

phạm tùy nghi, do người thành lập DNXH tự quyết định. Tuy nhiên, cả Luật Doanh nghiệp

năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định cấm hay hạn chế các nhà

đầu tư sử dụng cụm từ “doanh nghiệp xã hội” hay từ viết tắt “DNXH” trong tên của doanh

nghiệp thông thường. Hệ quả là thực tế có thể sẽ tồn tại những nhà đầu tư lợi dụng các

cụm từ này trong việc đặt tên cho doanh nghiệp của mình để Nhà nước, công chúng và

đối tác nhầm lẫn về chủ thể nhằm kinh doanh không lành mạnh [16].

 DNXH có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì

lợi ích cộng đồng

Các vấn đề xã hội, môi trường và cộng đồng có thể kế đến như bảo vệ môi trường,

bảo vệ và đáp ứng các quyền cơ bản của con người thông qua các hoạt động tạo công ăn

việc làm cho những nhóm người khó hòa nhập, dễ bị tổn thương, cung cấp các dịch vụ y

tế, giáo dục, cung cấp nước sạch, xử lý rác thải, ô nhiễm… Chính các mục tiêu xã hội này

trở thành động lực thôi thúc các DNhXH thành lập DNXH và sử dụng phương án kinh 40

doanh để giải quyết các vấn đề xã hội [7, tr.9]. Về mặt pháp lý, khoản 1 Điều 5 Nghị định

số 96/2015/NĐ-CP quy định DNXH phải thông báo cam kết thực hiện mục tiêu xã hội,

môi trường cho cơ quan đăng ký kinh doanh, để công khai trên Cổng thông tin quốc gia

về đăng ký doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp hoặc trong quá trình hoạt động [16].

Thông qua hành vi pháp lý này, một doanh nghiệp thông thường sẽ khoác lên mình chiếc

áo DNXH, từ đó Nhà nước và xã hội có thể nhận biết được địa vị pháp lý của DNXH,

kèm theo đó là các quyền và nghĩa vụ của DNXH.

Tiêu chí này góp phần giúp chúng ta có cơ sở để phân biệt DNXH với các doanh

nghiệp thông thường khác. Nếu các doanh nghiệp truyền thống sử dụng việc đáp ứng nhu

cầu của khách hàng hay tìm đến các giải pháp xã hội như một công cụ nhằm đạt được lợi

nhuận cho chủ sở hữu của doanh nghiệp, thì ngược lại DNXH sử dụng hình thức kinh

doanh như một công cụ để đạt được các mục tiêu xã hội của mình [22]. Như vậy, doanh

nghiệp thông thường và DNXH là các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường,

nghĩa là phải có doanh thu và lợi nhuận, tuy nhiên chúng khác nhau về bản chất và đích

đến, cho nên có quan điểm cho rằng: “DNXH có thể có lợi nhuận, thậm chí cần lợi nhuận

để phục vụ mục tiêu xã hội nhưng không “vì lợi nhuận” mà “vì xã hội”” [13, tr.50].

 DNXH sử dụng phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã

hội, môi trường

DNXH khi hoạt động kinh doanh phát sinh lợi nhuận không phân phối như các

doanh nghiệp thông thường. Lợi nhuận mà doanh nghiệp có được từ hoạt động sản xuất,

kinh doanh được dùng để tái đầu tư vào doanh nghiệp với mục tiêu giải quyết các vấn đề

xã hội mà DNXH đang theo đuổi. Tiêu chí sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư phục vụ các

mục tiêu xã hội là điểm phân biệt DNXH với các doanh nghiệp thông thường, thể hiện rõ

nét tiêu chí “vì xã hội” [7, tr.10]. Theo điểm c khoản 1 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm

2014, thì DNXH phải sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm để tái đầu tư nhằm

thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Con số 51% là nhằm mục đích tạo 41

điều kiện, cơ hội cho DNXH huy động vốn kinh doanh từ các nhà đầu tư, thành viên, cổ

đông khác bằng việc bảo đảm có phần cổ tức nhất định cho các nhà đầu tư này, qua đó

góp phần phát triển bền vững cho DNXH [29]. Tiêu chí này góp phần định lượng rõ ràng,

cụ thể mục tiêu vì xã hội của DNXH.

Mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường và đem lại lợi ích cho cộng đồng

là sứ mệnh cao cả của DNXH, đã làm cho DNXH khác hẳn với các doanh nghiệp thông

thường và cũng không giống với các tổ chức từ thiện. DNXH mang đặc tính “lai” giữa

doanh nghiệp thông thường và các tổ chức từ thiện [3, tr.10]. Một bên là các doanh nghiệp

hoạt động vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận tài chính, còn một bên là các tổ chức phi Chính

phủ được thành lập nhằm theo đuổi lợi ích xã hội thuần túy. Vì vậy, DNXH là mô hình

kết hợp hài hòa cả hình thức và nội dung của hai chủ thể này để lấy kinh doanh làm lĩnh

vực hoạt động chính, nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm giải quyết các vấn đề

xã hội cụ thể, vì thế mà phần lớn lợi nhuận được dùng để phục vụ cho xã hội, môi trường.

Ngoài ra, DNXH cũng có một số nét tương đồng với các doanh nghiệp công ích, cả

hai đều hướng tới mục tiêu phục vụ nhu cầu của xã hội, có thể đều cung cấp sản phẩm là

các dịch vụ mang tính chất phục vụ lợi ích chung của xã hội như cung cấp nước sạch, dọn

rác thải, bảo vệ môi trường... [24, tr.26]. Ở một chừng mực nhất định, các doanh nghiệp

này có thể được xếp chung vào nhóm doanh nghiệp có cùng mục đích hoạt động chủ yếu

[27, tr.31]. Tuy nhiên, về bản chất DNXH được thành lập tự nguyện bởi các doanh nhân

xã hội, DNXH mang tính ổn định, nhất quán, được quyết định bởi mục tiêu xã hội, không

phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Trong khi đó,

doanh nghiệp công ích được Nhà nước thành lập nên để sản xuất, cung ứng các sản phẩm,

dịch vụ công ích theo phương thức giao nhiệm vụ và được hưởng các ưu đãi đặc biệt [24,

tr.26].

42

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội

DNXH khác với các doanh nghiệp thông thường trước hết ở việc lựa chọn giải

quyết các vấn đề xã hội thông qua hoạt động kinh doanh; tiếp theo là ở mục đích phân

phối và sử dụng lợi nhuận có được sau quá trình kinh doanh. Vì vậy, ngoài các quyền và

nghĩa của doanh nghiệp nói chung, DNXH còn các quyền và nghĩa vụ đặc thù tương ứng

với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội theo khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm

2014 [19].

“a) Duy trì mục tiêu và điều kiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này

trong suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển

thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi

trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ

quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật;

b) Chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã hội được xem xét, tạo

thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan

theo quy định của pháp luật;

c) Được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân,

doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để

bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp;

d) Không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài

bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà

doanh nghiệp đã đăng ký;

đ) Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, doanh nghiệp xã hội phải định kỳ

hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.”

Như vậy, có thể tóm gọn các quyền và nghĩa cụ quan trọng của DNXH bao gồm:

 DNXH phải duy trì mục tiêu và điều kiện phân phối lợi nhuận trong suốt quá

trình hoạt động.

Như đã phân tích ở trên, một trong những đặc trưng pháp lý để phân biệt DNXH

43

với các doanh nghiệp thông thường là ở mục tiêu và điều kiện phân phối lợi nhuận, vì vậy

DNXH phải duy trì các tiêu chí này trong suốt quá trình hoạt động của mình. Pháp luật

doanh nghiệp quy định các cơ chế để đảm bảo việc tuân thủ mục tiêu xã hội, môi trường

của DNXH [23].

 DNXH được huy động và nhận tài trợ.

Theo tìm hiểu và đánh giá của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, các

DNXH ở Việt Nam còn khá non trẻ, được thành lập chủ yếu từ những ý tưởng mang tính

cá nhân, có vốn đầu tư ban đầu đa phần là vốn tự đóng góp của các thành viên sáng lập

với quy mô nhỏ. DNXH có đặc thù là không vì mục tiêu lợi nhuận, lại kinh doanh trên

các thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư

thương mại, cùng với đó là chi phí đầu tư cho nhân sự, quản lý của DNXH lại lớn hơn so

với mức trung bình [3, tr.53-60]. Vì vậy, DNXH đang gặp nhiều khó khăn trong vấn đề

tài chính, vì vậy những khoản đóng góp, tài trợ từ các tổ chức, cá nhân khác để phần nào

bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của DNXH là rất cần thiết [16].

 DNXH không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác

ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội,

môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký.

Trên cơ sở mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích của cộng

đồng mà các DNXH mới có thể huy động được các nguồn tài trợ, còn các nhà tài trợ khi

tài trợ vào DNXH thì mong muốn khoản tài trợ ấy được sử dụng đúng mục đích và hiệu

quả. Xét về bản chất, khoản tài trợ do DNXH huy động được không phải là tài sản thuộc

sở hữu của DNXH, nên việc quyết định sử dụng khoản tài trợ ấy như thế nào bị giới hạn.

Do đó, điểm d khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định DNXH chỉ được

sử dụng các khoản tài trợ để trang trải chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết

44

vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký. Trường hợp DNXH vi phạm

nghĩa vụ này thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 50/2016/NĐ-CP

ngày 01/6/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế

hoạch và đầu tư [16].

 Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển doanh

nghiệp xã hội.

Với khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề về nhu cầu an sinh xã hội, phục vụ

nhu cầu của những người nghèo, yếu thế nhất và đông nhất trong xã hội. Đây là nhóm

người lâu nay vẫn được bảo trợ từ các chính sách của nhà nước, hay nói cách khác, đây là

“gánh nặng” của ngân sách nhà nước [30, tr.73]. DNXH chia sẻ trách nhiệm với Nhà

nước, góp phần rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm, thu nhập và cơ hội để nhóm tầng

lớp này tự tin, hòa nhập, từ đó giúp họ có cuộc sống ổn định hơn [20]. DNXH đang ra sức

giải quyết những vấn đề trong xã hội mà Nhà nước không làm xuể, giá trị mà các DNXH

mang lại cho xã hội là rất lớn. Do đó, Nhà nước cần xem DNXH là người bạn đồng hành

cùng với mình trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và xây dựng các chính sách tạo điều

kiện để DNXH phát triển [23].

2.2.3. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với Doanh nghiệp xã hội

Theo quy định tại Điều 2 về chính sách phát triển đối với DNXH được ghi nhận tại

Nghị định số 96/2015/NĐ-CP:

“1.Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập

doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường

vì lợi ích cộng đồng.

2. Doanh nghiệp xã hội được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định của

45

pháp luật;

3. Doanh nghiệp xã hội thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương ứng đối với từng

loại hình doanh nghiệp và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp

và Nghị định này.”

Nhìn chung, mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2014 phân công Chính phủ quy định

cụ thể Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, trong đó có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ

dành cho DNXH, nhưng Nghị định số 96/2015/NĐ-CP chưa có các quy định cụ thể về

vấn đề này. Điều này có thể được lý giải vì Nghị định số 96/2015/NĐ-CP là văn bản

hướng dẫn thi hành của Luật Doanh nghiệp năm 2014 nên những vấn đề về ưu đãi dành

cho DNXH cần được quy định ở pháp luật chuyên ngành (như pháp luật về đầu tư, thuế,

giáo dục, y tế…), qua đó góp phần tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh một điều DNXH hiện đã, đang và sẽ nhận được nhiều

sự quan tâm, đầu tư, khuyến khích của nhà nước bởi lẽ: Sự tồn tại của DNXH gắn liền với

các vấn đề xã hội và mục tiêu cơ bản của nó không phải là lợi nhuận mà là để bảo vệ và

phát triển những giá trị xã hội, làm sâu sắc thêm hệ số giá trị xã hội cũng như giải quyết

các vấn đề phức tạp về mặt xã hội.

Song cũng do lợi ích kinh tế không phải mục tiêu hàng đầu, do đó DNXH gặp nhiều

khó khăn trong quá trình thành lập, hoạt động và phát triển. Hiện nay, Nhà nước đã có

nhiều ưu đãi cho DNXH, cụ thể:

Thứ nhất, chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý DNXH được xem xét, tạo thuận

lợi và hỗ trỡ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan theo

quy định pháp luật (điểm b Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014).

Thứ hai, DNXH được tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực hiện

mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật về tiếp nhận

viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Ngoài khoản viện trợ này, doanh nghiệp xã hội được

tiếp nhận bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức

46

trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục

tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường (điểm c Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp

2014; Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 Nghị định 96/2015/NĐ-CP). Trình tự, thủ tục tiếp nhận

các khoản tài trợ này được quy định cụ thể tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định 96/2015/NĐ-

CP).

Thứ ba, Bộ tài chính nói riêng và Nhà nước nói chung đã đưa ra nhiều chính sách:

Miễn thuế cho DNXH hoặc giảm thuế cho DNXH [1].

1. Hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn mười lăm năm (15 năm) áp dụng đối

với:

 Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại: địa bàn có điều kiện

kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

 Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực bảo vệ

môi trường, bao gồm: sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc

và phân tích môi trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom, xử lý nước

thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải.

 Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc các lĩnh vực:

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh

mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công

nghệ cao; đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước;

cầu,… và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng Chính

phủ quyết định.

 Dự án đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu,

đường bộ, đường sắt; … phải phát sinh doanh thu, thu nhập từ quá trình hoạt động

của các dự án đầu tư nêu trên thì mới thuộc diện được hưởng ưu đãi thuế.

 Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

47

theo quy định của Luật công nghệ cao được hưởng ưu đãi về thuế suất.

 Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất

(trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dự án khai thác khoáng

sản) đáp ứng một trong hai tiêu chí của quy định pháp luật.

 Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, trừ

dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và dự án khai thác khoáng sản,

có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12 (mười hai) nghìn tỷ đồng, sử dụng công nghệ

phải được thẩm định theo quy định của Luậtcông nghệ cao, Luật khoa học và công

nghệ, thực hiện giải ngân tổng vốn đầu tư đăng ký không quá 5 năm kể từ thời ngày

được phép đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư .

 Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc

Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển đáp ứng một trong các

tiêu chí được quy định pháp luật.

2. Hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động áp dụng đối với thu

nhập của doanh nghiệp từ:

 Hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa,

thể thao và môi trường.

 Thực hiện dự án đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua

đối với các đối tượng quy định pháp luật.

 Thực hiện trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn

kinh tế – xã hội khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản

xuất, khai thác và tinh chế muối trừ sản xuất muối, đầu tư bảo quản nông sản sau

thu hoạch, bảo quản nông, thủy sản và thực phẩm.

 Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm

nghiệp không thuộc địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn và địa bàn kinh tế – xã hội

48

đặc biệt khó khăn.

3. Được kéo dài thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi thêm không quá 15 năm đối với

dự án đầu tư có quy mô lớn và công nghệ cao hoặc mới cần đặc biệt thu hút đầu tư.

4. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9

năm tiếp theo và được giảm thuế trong một số trường hợp như: Doanh nghiệp sử dụng

lao động là người dân tộc thiểu số, doanh nghiệp thực hiện linh vực ưu tiên chuyển giao

cho các tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn có điều kiện inh tế khó khăn, doanh nghiệp có lao

động nữ.

5. Các doanh nghiệp cam kết thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường phù hợp

quy định của pháp luật về khuyến khích xã hội hóa thì cũng có khả năng nhận được các

ưu đãi đặc biệt về thuế như:

 Thu nhập từ hoạt động xã hội hóa được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh

nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động. Nếu thành lập mới trước 06/2008 thì

được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế

và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm tiếp theo.

 Trường hợp thànhlập mới kể từ 06/2008 tại các địa bàn ưu đãi đầu tư thì được miễn

thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50%

thuế thu nhập doanh nghiệp trong 9 năm tiếp theo và được áp dụng thuế suất thuế

thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động.

Thứ tư, các DNXH hoạt động trong lĩnh vực xã hội và môi trường, có thể được

hưởng các chính sách ưu đãi về xã hội hóa theo quy định của pháp luật, cụ thể:

 Chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng và đất đai:

- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được thuê dài hạn với giá ưu đãi (không bao gồm tiền

thuê đất, tiền đền bù giải phóng mặt bằng và tiền lãi của cơ sở kinh doanh nhà, cơ

sở hạ tầng).

- Được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng theo

các hình thức: (a) Giao đất không thu tiền sử dụng đất; (b) Cho thuê đất và miễn

49

tiền thuê đất; (c) Giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất.

- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng

đất, quyền sở hữu tài sản gắn với đất; được miễn các khoản phí, lệ phí khác liên

quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

 Chính sách ưu đãi về tín dụng: Được vay vốn tín dụng đầu tư hoặc hỗ trợ sau đầu

tư theo quy định về tín dụng đầu tư của Nhà nước.

Có thể khẳng định DNXH theo pháp luật Việt Nam là một chủ thể đặc biệt, một

doanh nghiệp hoạt động nhưng không vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận cho các nhà đầu tư

mà phần lớn lợi nhuận của DNXH được phục vụ cho cộng đồng. Như vậy, việc điều chỉnh

pháp luật đối với DNXH cần xét đến các yếu tố đặc thù của mô hình này, để góp phần tạo

nên “hệ sinh thái” tốt, tạo điều kiện cho DNXH phát triển như nhiều quốc gia trên thế

giới.

2.3. Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO

KOTO được thành lập vào năm 1999, bắt đầu từ một tiệm bánh mỳ kẹp, tạo công

ăn việc làm cho chín trẻ lang thang cơ nhỡ. Từ đó, KOTO lớn mạnh dần, trở thành một

DNXH phi lợi nhuận được trao tặng nhiều giải thưởng, không chỉ góp phần thay đổi cuộc

sống của hàng trăm bạn trẻ thiệt thòi, dễ bị tổn thương, mà còn góp phần thay đổi nhận

thức của Việt Nam về DNXH. KOTO được xem là “người anh cả của DNXH Việt Nam”

và là một dẫn chứng sinh động về những DNXH thành công [8, tr.28].

2.3.1. Vài nét về Doanh nghiệp xã hội KOTO

Thành lập năm 1999 bởi Jimmy Phạm, một Việt kiều Úc, KOTO (viết tắt từ Know

50

One, Teach One) là một DNXH hoạt động dưới mô hình một nhà hàng kinh doanh và

trung tâm dạy nghề với hi vọng làm thay đổi cuộc sống của những trẻ em có hoàn cảnh

khó khăn tại Việt Nam. Phương châm của KOTO là “Know one, Teach one – Biết một,

dạy một”, được bắt nguồn từ ý tưởng học viên đã tốt nghiệp tại KOTO sẽ không chỉ dìu

dắt những học viên mới của KOTO, mà còn có trách nhiệm giúp đỡ những bạn trẻ có hoàn

cảnh khó khăn khác ngoài cộng đồng [8, tr.29].

Mặc dù số liệu thống kê cho thầy tỉ lệ thất nghiệp của Việt Nam ở mức thấp, chỉ

hai đến bốn phần trăm, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khẳng định thanh niên là độ tuổi

rất dễ rơi vào tình trạng không có việc làm, với một nửa lượng người thất nghiệp nằm ở

độ tuổi từ 15 đến 24 [22]. Hơn nữa, có khoảng bốn triệu thanh niên nằm trong diện “có

việc làm không ổn định”, có nghĩa họ tự làm chủ hay tham gia các công việc có năng suất

không cao, lương thấp, điều kiện làm việc không tốt hoặc không có bảo hiểm xã hội.

Trong khi đó, ngành du lịch và nhà hàng – khách sạn là hai lĩnh vực hết sức phát triển trên

thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, lại đang đối diện với tình trạng thiếu nhân lực

bởi thiếu các hoạt động đào tạo nghề cho giới trẻ. Chính thực tế này đã hối thúc Jimmy

Phạm bắt tay vào xây dựng mô hình đào tạo, mà sau này trở thành KOTO, đạt được vị thế

là một DNXH bền vững và đi đầu tại Việt Nam [8, tr.29].

Trung tâm dạy nghề KOTO là trung tâm phi lợi nhuận (NGO) được thành lập để

hỗ trợ dạy nghề cho trẻ em lang thang và trẻ có hoàn cảnh khó khăn. Trong 24 tháng, học

viên sẽ được học các kỹ năng để phục vụ trong lĩnh vực nhà hàng - khách sạn (bếp, phục

vụ bàn - bar), tiếng Anh chuyên ngành và các kỹ năng sống. Ngoài ra, các em cũng được

kiểm tra sức khỏe định kỳ, được tiêm chủng, được cung cấp đồng phục, giặt giũ, ăn trưa,

nhà ở, dịch vụ y tế và tiền trợ cấp huấn luyện hằng tháng tại nhà hàng đào tạo. Cho đến

nay, KOTO đã đào tạo được 20 khóa (mỗi năm tuyển sinh 2 khóa), với số học viên tốt

nghiệp có bằng đạt gần 350 em [8, tr.28].

Nhà hàng KOTO là nhà hàng đào tạo (training restaurant), tại đó các em được thực

hành nghề trong một môi trường kinh doanh thực sự. Hiện tại, hơn một nửa chi phí hoạt

động của Trung tâm đã được tài trợ từ lợi nhuận của nhà hàng. Phục vụ mục tiêu xã hội 51

của Trung tâm, tuy nhiên, nhà hàng KOTO vẫn phải cạnh tranh bình đẳng với các nhà

hàng khác cùng dãy phố, thậm chí nộp thuế nhiều hơn, bởi việc quản lý sổ sách kế toán

của tổ chức phải minh bạch công khai, trước yêu cầu của nhà tài trợ.

Trong suốt quá trình thành lập và phát triển, KOTO đã đạt những thành tựu lớn và

có nhiều dấu mốc quan trọng, cụ thể [8, tr.35]:

 Cửa hàng bánh kẹp KOTO được mở ra tại Hà Nội với nhân lực là chín trẻ em đường

phố và một kế toán vào năm 1999. Thành lập trung tâm đào tạo KOTO đầu tiên vào

năm 2001.

 Hợp tác với Học viện Box Hill để phát triển chương trình đào tạo năm 2011; Cùng

với Học viện Box Hill nâng cấp chương trình dạy nghề của KOTO lên thành Chứng

chỉ cấp ba về đào tạo nhà hàng khách sạn năm 2013.

 Nhà hàng đầu tiên được mở tại Hà Nội ngay đối diện Văn Miếu – Quốc Tử Giám

năm 2007; kỷ niệm khách hàng thứ 100.000 vào năm 2008; khánh thành trung tâm

đào tạo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và một nhà hàng ở thành phố Hồ Chí

Minh năm 2011.

 Năm 2012, thành lập nhà hàng cao cấp và DNXH tại HÀ Nội, Pots 'n Pans, cùng

sự giúp sức của Hội Cựu học viên KOTO (KAA) và Small Giants, một doanh

nghiệp đầu tư xã hội năm 2012.

 Năm 2014, khai trương Dịch vụ ăn uống văn phòng KOTO tại Hà Nội và thành phố

Hồ Chí Minh, do cựu học viên thực hiện, trong quan hệ hợp tác với Quỹ đầu tư xã

hội Lotus Impact.

Năm 2002, KOTO đăng ký kinh doanh là công ty TNHH tại Sở Kế hoạch và Đầu

tư Hà Nội. Năm 2016, KOTO trở thành DNXH được công nhận đầu tiên tại Việt Nam,

theo tinh thần của Điều 10 Luật Doanh nghiệp và Nghị định 96 của Bộ Kế hoạch và Đầu

tư. Sự kiện KOTO chính thức được cấp giấy phép công nhận là DNXH đầu tiên theo Luật

Doanh nghiệp 2014 không chỉ đối với KOTO mà còn đánh dấu một chặng đường mới

52

trong lịch sử phát triển của phong trào DNXH tại Việt Nam.

2.3.2. Phân tích trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO

Trước khi loại hình DNXH được thừa nhận chính danh trong điều 10 của Luật

Doanh nghiệp năm 2014, đã có những doanh nhân dấn thân vào con đường kinh doanh

đầy chông gai thử thách này, mà một trong những điển hình là Jimmy Phạm với DNXH

KOTO. KOTO có thể được xem là một trong những DNXH tiên phong tại Việt Nam.

Trước hết, cần phải khẳng định việc áp dụng mô hình DNXH hiện nay ở Việt Nam

vẫn còn là điều mới mẻ và gặp khá nhiều khó khăn khi thực hiện. So sánh với doanh

nghiệp thông thường, DNXH là những doanh nghiệp thực hiện mục tiêu tối cao là phát

triển xã hội hay bảo vệ môi trường thông qua việc sử dụng phương thức hoạt động như

một doanh nghiệp. Các DNXH hướng đến ba mục đích: cung cấp các sản phẩm, dịch vụ

mang tình sáng tạo phù hợp với nhu cầu của cộng đồng có hoàn cảnh đặc biệt; tạo cơ hội

hòa nhập xã hội cho các cá nhân và cộng đồng yếu thế thông qua các chương trình đào

tạo phù hợp, tạo cơ hội việc làm; đưa ra các giải pháp mới cho những vấn đề xã hội chưa

được đầu tư rộng rãi như biến đổi khí hậu, năng lượng thay thế, tái chế... Như vậy, có thể

thấy DNXH phải mang trên mình hai gánh nặng lớn: gánh nặng xã hội và gánh nặng lợi

nhuận. Gánh nặng xã hội chính là việc phải giải quyết được các vấn đề xã hội mà doanh

nghiệp đã xác định ngay từ khi thành lập. Song để giải quyết vấn đề đó, DNXH cần phải

có đầy đủ các nguồn lực cần thiết. Điều này đã đặt ra một yêu cầu đối với các DNXH là

phải xây dựng được một mô hình doanh nghiệp linh hoạt, sáng tạo, phù hợp cộng đồng,

chủ động, đa dạng và kiểm soát được nguồn thu giúp tăng khả năng đảm bảo tính bền

vững.

Tuy có nhiều thách thức và khó khăn, nhưng Jimmy Phạm đã lựa chọn và áp dụng

mô hình DNXH cho KOTO ngay từ những ngày đầu hoạt động. Mục đích ban đầu khi

thành lập KOTO là trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để những trẻ em kém

may mắn có thể tự tin bước vào đời. Đây là một mục tiêu xã hội cao cả và đáng ghi nhận.

53

Nhưng trên thực tế, nếu như chỉ phụ thuộc vào nguồn tài trợ thì hoạt động của KOTO sẽ

luôn rơi vào thế bị động. Tài chính và nguồn nhân lực ổn định là bài toán khó mà KOTO

cần lời giải, chính vì vậy, người sáng lập KOTO phải tự tìm cách tạo ra nguồn vốn để chủ

động trong mọi hoạt động của mình.

Hơn nữa, cần nhấn mạnh tại thời điểm thành lập, nhận thức xã hội vẫn in đậm về

hai loại hình: hoặc doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, hoặc tổ chức phi chính phủ

(NGO). Do vậy, một DNXH hoạt động phi lợi nhuận như KOTO còn lạ lẫm, bị nhìn nhận

một cách dè dặt. Đặc biệt, vào thời điểm đó, DNXH vẫn còn là một khái niệm mới, chưa

được pháp luật thừa nhận. Chính vì vậy, KOTO đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài

và phải chịu rất nhiều thiệt thòi.

Thành lập vào thời điểm DNXH chưa được ghi nhận trong các quy định của pháp

luật, KOTO vẫn phải thực hiện và gánh vác các trách nhiệm của một doanh nghiệp thông

thường theo quy định của Luật Doanh nghiệp như các quy định về thuế doanh nghiệp và

trách nhiệm xã hội khác. Ngoài ra, đối với một doanh nghiệp xác định mục tiêu giúp đỡ

những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như KOTO, việc nhận hỗ trợ và ưu đãi từ các chính

sách của Nhà nước là một điều rất đáng hoan nghênh. Song trao đổi với TBKTSG, Jimmy

Phạm cho biết, suốt 15 qua, KOTO hoạt động trong “cô đơn”, không nhận được sự hỗ trợ

từ các quỹ đầu tư xã hội cũng như cơ quan Nhà nước [20].

Đối với một DNXH như KOTO, một trong những khó khăn lớn nhất chính là thiếu

vốn hoạt động và yếu kém trong khả năng tiếp cận các nguồn tài chính. Bởi lẽ đa phần

các DNXH chủ yếu hoạt động ở quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính chưa mạnh, không có tài

sản, nhà xưởng thế chấp nên khó tiếp cận vốn tín dụng, nếu có vay được thì lãi suất vay

thường cao hơn khả năng sinh lời của DNXH. Hơn nữa, DNXH lại kinh doanh trên các

thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư thương

mại. Do đó, khả năng tiếp cận, huy động các nguồn vốn đầu tư thương mại rất hạn chế.

Trong suốt những ngày đầu thành lập, KOTO cũng đã gặp nhiều khó khăn trong việc kêu

gọi vốn đầu tư.

Để thu hút vốn đầu tư, KOTO tổ chức hai sự kiện gây quỹ hàng năm: KOTO Dream

Ride, được tổ chức tại Hà Nội từ năm 2002 và Gala KOTO ONE tại thành phố Hồ Chí 54

Minh từ năm 2014. Các cá nhân, gia đình và tổ chức hảo tâm có thể tham gia một cách

liên tục vào chương trình Dream Makers (những người tạo ra giấc mơ) bằng cách tài trợ

cho mỗi thực tập sinh 150 đô la Mỹ/tháng trong suốt 24 tháng đào tạo và học tập tại KOTO

[8, tr.29].

Đặc biệt, ngày 4-12-2014, Quỹ Đầu tư Lotus Impact đã tuyên bố rót vốn vào KOTO

để thành lập KOTO Catering, một công ty chuyên cung cấp dịch vụ suất ăn công nghiệp

tại TPHCM và Hà Nội. Đây là lần đầu tiên KOTO được đầu tư sau 15 năm độc hành. Dẫu

biết các DNXH vẫn rất khó thu hút các quỹ đầu tư xã hội nhưng sự thành công của KOTO

là một tín hiệu lạc quan, giúp các DNXH củng cố niềm tin có thể hoàn thành sứ mệnh xã

hội của mình. Ông James Điền Bùi, Giám đốc điều hành của Lotus Impact, đơn vị vừa

đầu tư vào KOTO: Quỹ đầu tư xã hội, trước hết cũng là một quỹ đầu tư. Do vậy, dù mục

đích chính là tạo tác động đến xã hội và môi trường, chúng tôi vẫn có những yêu cầu cơ

bản về lợi nhuận. Lịch sử của công ty, năng lực của doanh nghiệp và tính khả thi của mô

hình kinh doanh là những yếu tố cơ bản mà Lotus Impact xem xét khi quyết định đầu tư

[22].

Về mặt doanh thu, doanh thu của KOTO được giữ ở mức ổn định trong vài năm

qua. Việc chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh và cải tạo nhà hàng đào tạo tại tòa nhà

Kumho Asiana Plaza vào năm 2015 đã giúp mở rộng gấp đôi không gian cho khách hàng

và cho các sự kiện đặc biệt. Chính điều này đã có tác động không nhỏ tới doanh thu quý

II và quý III năm 2015 của KOTO. Tuy nhiên, doanh thu của KOTO vẫn đang trong đà

tăng trưởng trong năm 2016 và dự đoán sẽ tăng khoảng 80% từ nay (tháng 10 năm 2016)

cho tới cuối năm ngân sách. KOTO mỗi năm đều sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập của

các tổ chức lớn như KPMG hoặc Công ty Kiểm toán quốc tế và Tư vấn tài chính (IFC) [8,

tr.29].

Đây chính là cách một DNXH như KOTO ứng dụng các giải pháp kinh doanh giải

quyết các vấn đề xã hội. Mục tiêu cao nhất là đạt được sự phát triển bền vững bằng các

giải pháp đột phá, giúp cho tổ chức phi lợi nhuận KOTO độc lập về tài chính, chứ không

phụ thuộc vào trợ cấp hay các khoản đóng góp để bù đắp các khoảng trống ngân quỹ. 55

KOTO không có cổ đông, lợi nhuận trích ra từ doanh thu của các hoạt động DNXH được

tái đầu tư vào chương trình đào tạo. Có thể thấy mô hình kinh doanh của KOTO chính là

phân chia và chuyển hóa đầu vào (các khóa đào tạo bài bản, đồ ăn ngon) thành đầu ra

bằng cách phát huy cả giá trị kinh tế (doanh thu từ chuỗi nhà hàng) và giá trị xã hội (ảnh

hưởng to lớn tới xã hội từ việc thay đổi cuộc đời của trẻ em yếu thế và dễ tổn thương) [8,

tr.28].

Đối với một DNXH như KOTO, để có thể đồng thời hoàn thành được cả hai mục

tiêu xã hội và mục tiêu lợi nhuận, ngoài việc xác định cụ thể vấn đề xã hội cần giải quyết

và tìm được một giải pháp kinh doanh phù hợp, hiệu quả, bền vững, thì việc có được một

cơ cấu quản trị vững vàng được xem là một yếu tố quan trọng. Tầm nhìn, sứ mệnh và giá

trị của KOTO luôn hiện hữu trong cách KOTO tiếp cận và tổ chức. Vì là một doanh nghiệp

phi lợi nhuận, KOTO sử dụng doanh thu trực tiếp đầu tư trở lại chương trình đào tạo thay

vì trả cổ tức cho cổ đông như hình thức kinh doanh truyền thống [8, tr.30]. Hoạt động kinh

doanh của KOTO bao gồm các lĩnh vực:

 Dịch vụ nhà hàng;

 Du lịch;

 Nhà hàng (bao gồm chuỗi các cửa hàng café, cửa hàng bánh, cung cấp thực phẩm

và dịch vụ canteen);

 Dịch vụ quản lý hoạt động ẩm thực;

 Cung cấp các dịch vụ đào tạo hướng nghiệp.

Định hướng hoạt động được phản ánh trong cơ cấu tổ chức của KOTO, gồm hai bộ

phận. Thứ nhât là DNXH KOTO, chịu trách nhiệm quản lý mảng dịch vụ ẩm thực và đào

tạo tại nhà hàng. Thứ hai là Quỹ KOTO, quản lý hoạt động đào tạo, trung tâm đào tạo và

khu ký túc xá trên toàn quốc (bao gồm tất cả các khu ký túc xá của thực tập sinh). Trong

đó, doanh thu tạo ra từ hoạt động của DNXH KOTO sẽ bù đắp cho chi phí vận hành của

56

Quỹ KOTO [8, tr.29].

Hoạt động của KOTO tại Việt Nam được giám sát bởi Hội đồng quản trị (không

nhận lương) tại Úc và được yêu cầu báo cáo tới Cục thuế của Úc. Chín thành viên trong

Hội đồng quản trị được phân chia thành các tiểu ban, trong đó có tiểu ban quản lý quỹ

cộng đồng, nhằm đảm bảo các yêu cầu về thuế, có thể phát hành được hóa đơn thuế. Đây

chính là vị trí pháp lí của KOTO tại Úc, tạo điều kiện cho KOTO gây quỹ hỗ trợ hoạt động

tại Việt Nam. Trong khi Jimmy là Chủ tịch Hội đồng quản trị, có văn phòng tại thành phố

Hồ Chí Minh, các thành viên khác của Hội đồng quản trị ở Sydney, Melbourne và

Canberra.

Bên cạnh đó, đối với một DNXH như KOTO, nguồn nhân lực cũng được xem là

một vấn đề nan giải. Để vận hành KOTO theo đúng kế hoạch đặt ra đòi hỏi phải có một

đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và phải có tâm yêu thương các em học viên. Điều này

không dễ và buộc KOTO phải xây dựng một chính sách quản lý nguồn nhân lực như một

công ty thực thụ. KOTO phải nhờ vả khá nhiều vào sự đóng góp của lực lượng tình nguyện

viên bên cạnh việc đầu tư cho một số vị trí chủ chốt.

Về cơ cấu tổ chức, KOTO có 109 nhân viên đang làm tại Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh, và một nhân viên đang làm việc tại Úc. Trong tất cả các nhân viên được trả

lương, có hai người nước ngoài: Chủ tịch Hội đồng quản trị KOTO và Tổng giám đốc

Quỹ KOTO. 2/3 nhân viên là là phụ nữ. Chính sách trao quyền của KOTO được nhận thấy

rất rõ nét ở con số 36% nhân viên là học viên đã tốt nghiệp KOTO [8, tr.32].

Việt Nam và Úc có các chương trình khuyến khích các tình nguyện viên ở nhiều

nước, bao gồm cả Hội đồng quản trị phi lợi nhuận của KOTO tại Úc. Tình nguyện viên

của KOTO được lựa chọn để đi lại cả hai lục địa, làm việc bán hoặc toàn thời gian, đúng

như sứ mệnh và tầm nhìn đã đề ra. Hơn nữa, hai lần một năm, KOTO đón các nhóm sinh

viên từ Đại học Macquarie (Sydney, Úc) đến làm tình nguyện viên tại Việt Nam trong

vòng ba tuần vào mùa xuân và mùa hè. KOTO hợp tác với các tình nguyện viên Việt Nam

thực hiện các hoạt động ngoại khóa cho thực tập sinh, như các khóa học âm nhạc, nghệ

57

thuật, khiêu vũ hoặc tham gia hoạt động hậu cần cho các sự kiện gây quỹ [8, tr.32].

Như vậy, có thể thấy trải qua 17 năm thành lập và phát triển với nhiều thăng trầm,

KOTO đã đạt được nhiều thành tựu nhất định, khẳng định vị trí của mình là người tiên

phong cho phong trào DNXH tại Việt Nam. Mô hình của KOTO, với cách tiếp cận tham

gia, hành động và dựa trên quyền lợi thực tế, đã cung cấp chương trình đào tạo nghề cho

các học viên trong ngành dịch vụ nhà hàng – khách sạn, ở Việt Nam và quốc tế. Chương

trình liên kết này cũng đảm bảo sự thay đổi hành vi bằng cách xây dựng sự tự tin và nhân

cách cho người học, giúp người học thay đổi bản thân, gia đình và cộng đồng. Mô hình

của KOTO đã tiếp sức cho các bạn trẻ thành lập các doanh nghiệp trong cộng đồng, như

mở ra các chuỗi nhà hàng hoặc dịch vụ, và xã hơn là đóng góp cho phát triển kinh tế - xã

hội của Việt Nam. ILO cũng đã công nhận “giá trị tái tạo to lớn” của mô hình giáo dục,

đào tạo và phát triển kỹ năng sống tại KOTO [18]. DNXH chính là con đường tạo ra cơ

hội tốt hơn cho tất cả mọi người.

Sự lớn mạnh của KOTO trong suốt thời gian qua cũng cho thấy tiềm năng phát triển

của DNXH tại Việt Nam. Đặc biệt, cùng với việc DNXH đã được pháp luật ghi nhận trong

Luật Doanh nghiệp năm 2014 càng tạo điều kiện thuận lợi để các DNhXH lựa chọn đi

theo mô hình này. Tuy nhiên ngoài sự nỗ lực của chính bản thân các DNXH, cần có sự hỗ

trợ của Nhà nước thông qua các chính sách khởi nghiệp cho DNXH. Trở lại với trường

hợp của KOTO, mặc dù được công nhận là DNXH đầu tiên, nhưng đến nay KOTO vẫn

chưa được hưởng những ưu đãi về chính sách, thuế, pháp luật. Thuế vẫn đóng như doanh

nghiệp bình thường, thuê mặt bằng kinh doanh cũng không được ưu đãi giảm giá [17].

Hoạt động từ kinh doanh của KOTO hiện tại vẫn chưa bù đắp được chi phí cho trung tâm

huấn luyện. Họ vẫn phải dựa vào một số nguồn tài trợ, trong đó có nguồn tài trợ từ chính

các cá nhân thực khách đến nhà hàng. Mỗi người đến ăn tại nhà hàng KOTO, ủng hộ 150

đô la Mỹ sẽ được một huy hiệu tròn ghi tên gắn ở tiền sảnh nhà hàng. Hiện nay pháp luật

đã có nhiều quy định về những ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích về đầu tư, thuế, quỹ đất; hỗ

trợ về tài chính, nhân lực; phát triển quỹ tài chính hoặc nguồn tài chính để giúp cho DNXH

phát triển. Nhưng trên thực tế, các DNXH vẫn chưa được hưởng những ưu đãi trên [17].

Điều này cũng đặt ra yêu cầu đối với Nhà nước chính là việc phải triển khai đồng bộ và 58

kịp thời những chính sách ưu đãi, hỗ trợ các DNXH để họ có thêm nhiều điều kiện hoạt

động và phát triển.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Luật Doanh nghiệp sửa đổi ban hành tháng 11/2014 đã mở ra một chương mới cho

cộng đồng doanh nghiệp Việt khi lần đầu tiên ghi nhận khái niệm DNXH trong hệ thống

pháp lý. Việc luật hóa DNXH trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo tiền đề quan

trọng cho việc hình thành môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp khuyến khích

59

cho sự phát triển của DNXH.

Theo quy định của pháp luật, DNXH được định nghĩa là doanh nghiệp hoạt động

theo cơ chế thị trường với triết lý kinh doanh gắn liền với xây dựng cuộc sống bền vững,

giải quyết các vấn đề xã hội thay vì lợi nhuận thuần túy. DNXH góp phần chia sẻ trách

nhiệm và gánh nặng xã hội với Nhà nước bằng các con đường riêng đầy sáng tạo, tiết

kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù đắp được một khiếm khuyết khó khắc phục

của cơ chế thị trường là vận hành bởi động cơ lợi nhuận.

Hiện nay có một số DNXH đã tạo dựng được thương hiệu, điển hình như: Trường

đào tạo nghề nhân đạo KOTO với chuỗi nhà hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Trong hơn một thập kỷ phát triển, KOTO đã nhận đào tạo nghề nấu ăn, dịch vụ khách sạn,

nhà hàng cho rất nhiều trẻ em lang thang, có hoàn cảnh khó khăn. Không ít học viên của

Koto sau này đã tự mở được nhà hàng hoặc tìm được việc làm ổn định tại các khách sạn,

nhà hàng có tiếng. Năm 2016, KOTO trở thành DNXH được công nhận đầu tiên tại Việt

Nam, theo tinh thần của Điều 10 Luật Doanh nghiệp và Nghị định 96 của Bộ Kế hoạch và

Đầu tư. Sự kiện KOTO chính thức được cấp giấy phép công nhận là DNXH đầu tiên theo

Luật Doanh nghiệp 2014 không chỉ đối với KOTO mà còn đánh dấu một chặng đường

60

mới trong lịch sử phát triển của phong trào DNXH tại Việt Nam [22].

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI

TẠI VIỆT NAM

3.1. Thực trạng Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hiện nay

Ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 18 triệu người khuyết tật, người già neo

đơn, trẻ em cơ nhỡ và những người yếu thế khác cần sự trợ giúp của xã hội. Đây là đối

tượng phục vụ, là sứ mệnh đặc thù của các DNXH [22].

Khảo sát sơ bộ tại ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh năm

2011 cho thấy DNXH hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý khác nhau

như: Trung tâm (hình thức hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ), Công ty cổ phần,

Công ty TNHH, Hội, Câu lạc bộ, Hợp tác xã... DNXH tại Việt Nam cũng hoạt động da

đạng trên các lĩnh vực như giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, thủ công mỹ nghệ, truyền

thông cộng đồng, nông nghiệp, bảo vệ môi trường,... [23] Hình thức tổ chức kinh tế mới

– DNXH được coi như một giải pháp tích cực trong việc hạn chế, giải quyết và xử lý các

vấn đề xã hội hiện nay như: việc làm, thu nhập, bất bình đẳng, nghèo đói, các đối tượng

khó khăn trong xã hội (người tàn tật, dân tộc, vùng sâu, vùng xa)... [9, tr.11]

Hiện nay, việc phát triển mô hình DNXH ở Việt Nam đang có rất nhiều thuận lợi.

Việt Nam là nước phát triển nhanh, do đó có một khối doanh nhân ngày một trưởng thành,

cung cấp nguồn lực vật chất và kinh nghiệm quý báu cho các DNXH [11]. Bản thân các

doanh nghiệp này được dẫn dắt bởi những người có uy tín, có tầm nhìn, luôn đưa ra những

61

giải pháp sáng tạo. Tuy nhiên, việc phát triển các DNXH vẫn gặp khá nhiều khó khăn,

thách thức. Phần dưới đây sẽ phân tích một số khó khăn cơ bản từ cả nội tại và khách quan

của các DNXH ở Việt Nam hiện nay.

3.1.1. Nhận thức của xã hội về hoạt động và vai trò của DNXH còn hạn chế

Hiện nay, mặc dù đã có được sự thừa nhận chính thức của Nhà nước, nhưng mô

hình DNXH vẫn là một khái niệm mới. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu quản lý kinh

tế Trung ương, cả nước có gần 300 doanh nghiệp đang hoạt động theo đúng mô hình

DNXH, chưa kể, còn có hàng ngàn tổ chức, trung tâm có những đặc điểm có thể phát triển

thành DNXH. Tuy nhiên, nhận thức của xã hội về loại hình doanh nghiệp này còn hạn

chế, dẫn đến sự hoài nghi của các bên về bản chất và mục đích của các doanh nghiệp này.

Từ lâu trong nhận thức của cộng đồng luôn tồn tại sự phân biệt rạch ròi giữa các hoạt động

thương mại, vì mục đích lợi nhuận và các hoạt động xã hội, phi lợi nhuận. Nói cách khác,

quan niệm hai loại hình hoạt động này không thể cùng tồn tại thống nhất trong cùng một

tổ chức hoặc doanh nghiệp đã đi sâu vào trong nhận thức của xã hội [14]. Thậm chí, ngay

cả các cơ quan quản lý cũng chưa ban hành, phổ biến những thông tin pháp luật một cách

thấu đáo đến người dân.

Chia sẻ về vấn đề này, GS-TS. Trương Thị Nam Thắng cho biết: “Việt Nam hiện

có hơn 1.000 DNXH nhưng chính các doanh nghiệp này cũng không biết tổ chức doanh

nghiệp của mình là DNXH. Kể từ năm 2014, khi Luật Doanh nghiệp ra đời, đến nay mới

có khoảng 10 DNXH đăng ký theo luật này” [23].

Việc cộng đồng chưa thật sự trao niềm tin đối với loại hình doanh nghiệp này đã vô

tình tạo ra những trở ngại và rào cản nhất định cho DNXH khi phải làm việc với các bên

liên quan, làm gia tăng các chi phí về thời gian, nguồn lực và chi phí cơ hội và hạn chế

khả năng tạo tác động tích cực, bền vững [7, tr.50]. Tình trạng gặp khó khăn, thái độ thiếu

nhiệt tình trong quá trình hợp tác với các cơ quan chính quyền địa phương là rất phổ biến

đối với các DNXH. Bởi lẽ khi DNXH đặt vấn đề hợp tác (ví dụ như việc đào tạo và tuyển

lao động là những người khuyết tật) với chính quyền địa phương thì chính quyền chủ yếu

quan tâm đến khía cạnh kinh tế nhiều hơn là khía cạnh xã hội. Bởi lẽ trong quan niệm của 62

họ, doanh nghiệp khi hoạt động tại địa phương thì mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận và

đem lại nguồn lợi ích vật chất nhất định cho địa phương đó. Nhưng trên thực tế, để đánh

giá hiệu quả và tác động của một DNXH thì phải căn cứ trên cả tác động kinh tế và tác

động xã hội.

Một trường hợp nữa có thể xảy ra với DNXH chính là nhiều DNXH, sau khi đăng

ký dưới hình thức công ty (chuyển đổi từ quỹ, trung tâm) thấy nguồn tài trợ sụt giảm, vì

các nhà tài trợ cho rằng tổ chức lập công ty là đã có đủ tiền và bắt đầu chuyển hướng

thương mại hóa, do đó không tài trợ nữa [11]. Nhưng trên thực tế, bên cạnh nguồn vốn

sẵn có của DNXH và lợi nhuận thu được từ mô hình kinh doanh, hầu hết các DNXH đều

gặp khó khăn trong vấn đề tài chính. Chính vì vậy, nguồn vốn tài trợ dù ít hay nhiều cũng

sẽ phần nào giúp các DNXH giảm gánh nặng kinh tế để vừa có thể tập trung thực hiện

mục tiêu xã hội, vừa tìm kiếm những giải pháp kinh doanh để đạt hiệu quả cao [7, tr.50].

Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, việc thiếu một định nghĩa chính thức với các qui

định cụ thể về tiêu chí xem xét và công nhận các tổ chức, doanh nghiệp là DNXH đã ảnh

hưởng đến sự phát triển của lĩnh vực này. Việc chưa có nhận thức đầy đủ cũng là một

trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt khung khổ pháp lý cho DNXH, tạo ra rào

cản cho các DNXH trong việc thu hút và tiếp cận các nguồn đầu tư tài chính và hỗ trợ

khác, các ưu đãi chính sách, thiếu hụt nguồn nhân lực phù hợp... [7, tr.50]

3.1.2. Chưa có khung pháp lý đầy đủ cho DNXH hoạt động

Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi, trong đó lần

đầu tiên đưa ra quy định về DNXH. Theo đó, DNXH là doanh nghiệp được đăng ký thành

lập theo quy định của luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi

trường vì lợi ích cộng đồng, và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm của doanh

nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký [19]. Khi

63

có Luật, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội sẽ tự động chuyển đổi và vận hành theo Luật

mới nhưng yếu tố cốt lõi là DNXH phải được kiểm soát và điều chỉnh với mục tiêu phân

phối lợi nhuận phải được đặt trong mục tiêu bao trùm là lợi ích xã hội.

Ở Việt Nam, dù chưa chính thức xác nhận sự hiện hữu của DNXH nhưng trên thực

tế đã tồn tại rất nhiều mô hình doanh nghiệp tương tự như DNXH bởi mục đích tồn tại

của nó nghiêng về lợi ích kinh tế hơn [7, tr.22]. Tuy nhiên, nếu xét trong mối quan hệ với

cộng đồng thì mục tiêu xã hội vẫn bao trùm lên mục tiêu kinh tế bởi nó góp phần tạo việc

làm, bảo đảm ổn định an sinh xã hội.

Theo đánh giá của một số chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế và pháp luật, trong một

thời gian dài, Việt Nam vẫn chưa có một khung khổ pháp lý dành riêng cho các DNXH

nên các doanh nghiệp này được thành lập, hoạt động và chịu sự điều chỉnh bởi các khung

khổ pháp luật tương ứng [23]. Một bộ phận không ít các DNXH khác được thành lập tự

phát, thông qua chuyển đổi... bởi các tổ chức phi chính phủ. Vì vậy, định danh, xây dựng

hành lang pháp lý, môi trường hoạt động cùng những giải pháp hỗ trợ là việc làm cần thiết

để mô hình kinh tế này phát triển tương xứng với tiềm năng, đồng thời hạn chế được

những mặt tiêu cực [15].

Dẫn chứng cho sự thiếu vắng khung khổ pháp luật và môi trường cho DNXH hoạt

động đó là mặc dù DNXH ở nước ta được thành lập dưới nhiều hình thức như công ty

trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hộ kinh doanh

hay các hội, hiệp hội..., nhưng bản thân các DNXH rất lúng túng và gặp nhiều vướng mắc

trong việc vận hành một mô hình kết hợp giữa mục tiêu xã hội và hoạt động kinh doanh

[16]. Điều này được thể hiện rõ nhất là ở các vấn đề liên quan tới tài chính: quy định nhận

viện trợ, tài trợ, các chính sách quy định về thuế và quản lý tài chính, khả năng tiếp cận

các ưu đãi và các quy định QLNN đối với các đối tượng đặc biệt trong xã hội [25, tr.15].

Hiện nay Nhà nước không có quy định nào hạn chế việc các doanh nghiệp nhận các

khoản tài trợ, viện trợ không hoàn lại nhưng những quy định của Nhà nước lại chỉ cho

64

phép doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp khi sử dụng khoản tài trợ để

thực hiện các hoạt động từ thiện, nhân đạo trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, nghiên cứu

khoa học, nghệ thuật tại một số cơ sở nhân đạo, trường học... [6] được nhà nước cho phép.

Điều này hạn chế tính linh hoạt và chủ động của doanh nghiệp khi sử dụng khoản viện trợ

này để hợp tác với các cơ sở ngoài công lập, hoặc tự thực hiện các hoạt động phát triển

cộng đồng. Nếu việc nhận tài trợ được ghi nhận là một khoản thu thông thường thì doanh

nghiệp có thể phải chịu thuế, nhưng việc chịu thuế này là bất hợp lý cho doanh nghiệp vì

đây không phải là một nguồn thu nhập từ hoạt động kinh doanh, mà xét về bản chất là một

khoản đầu tư xã hội, phi lợi nhuận.

Cơ chế quản lý tài chính là một vấn đề phức tạp gây nhiều khó khăn. Tuy nhiên

hiện nay, chưa có một khung pháp lý rõ ràng và nhất quán cho các loại hình tổ chức xã

hội khác nhau [7, tr.51].

Nhận xét về điểm mới liên quan đến DNXH trong Luật Doanh nghiệp 2014, bà Cao

Thị Ngọc Bảo, Giám đốc Chương trình phát triển giáo dục và xã hội, Hội đồng Anh tại

Việt Nam, nhấn mạnh: đó là tiền đề quan trọng đặt nền tảng cho việc hình thành môi

trường pháp lý cùng những chính sách phù hợp nhằm khuyến khích hoạt động và sự phát

triển của DNXH như một thành phần kinh tế mới bên cạnh các khối kinh tế công và tư

[14].

Các DNXH được chính thức công nhận cho thấy sự nhìn nhận của Nhà nước, các

nhà làm luật với vai trò thúc đẩy các tác động xã hội tích cực dựa trên các mô hình kinh

doanh bền vững của doanh nghiệp xã hội. Và khi “danh đã chính”, các DNXH mong muốn

có thêm các quy định cụ thể, rõ ràng giúp họ có thể mở rộng quy mô hoạt động, tiếp cận

đa dạng nguồn vốn đầu tư và nhiều chính sách ưu đãi để có thể đồng thời thực thiện được

cả hai mục tiêu xã hội và cộng đồng một cách hiệu quả.

65

3.1.3. Thiếu vốn và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính còn hạn chế

Đối với mỗi doanh nghiệp, vốn là yếu tố quan trọng đầu tiên để có thể giúp doanh

nghiệp triển khai, thực hiện và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh. Vốn được đề cập

trong trường hợp này bao gồm cả nguồn vốn khởi sự doanh nghiệp và cả nguồn vốn phát

triển doanh nghiệp. Đối với một số DNXH nhu cầu về vốn càng cấp thiết hơn nữa. Bởi họ

không những cần nguồn vốn để tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, mà nguồn vốn còn

được sử dụng để ‘giáo dục’ khách hàng, ‘xây dựng’ thói quen, thị hiếu mới do DNXH

thường là người đi tiên phong, khai mở thị trường trong một lĩnh vực hoàn toàn mới đối

với xã hội [7, tr.53].

Các DNXH ở Việt Nam còn khá non trẻ, được thành lập chủ yếu từ những ý tưởng

mang tính cá nhân có sứ mệnh phục vụ xã hội nên vốn đầu tư ban đầu đa phần là vốn tự

đóng góp của các thành viên sáng lập với quy mô nhỏ [12]. DNXH có đặc thù là không vì

mục tiêu lợi nhuận, lại kinh doanh trên các thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính thấp

nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thương mại, do đó khả năng tiếp cận huy động

các nguồn vốn đầu tư thương mại kể cả nguồn vốn khởi sự hoặc vốn cho phát triển kinh

doanh là rất hạn chế [20]. Nhận xét về vấn đề này, PGS.TS Dương Thị Liễu (ĐH Kinh tế

Quốc dân Hà Nội) cho biết: “Hầu hết các doanh nghiệp và tổ chức xã hội phải tự thân

vận động để tìm kiếm nguồn thu duy trì hoạt động. Huy động vốn cho DNXH thậm chí còn

khó khăn hơn cả gây quỹ cho doanh nghiệp truyền thống” [20].

Các DNXH rất khó huy động nguồn vốn vay ngân hàng vì một số lý do như [7,

tr.53]:

- Không có tài sản, nhà xưởng thế chấp do phần lớn DNXH hoạt động ở quy mô

nhỏ;

- Lãi suất cho vay của ngân hàng cao hơn nhiều khả năng sinh lời của DNXH;

- Thời gian hoàn vốn kéo dài hơn các dự án thông thường.

- Kết quả điều tra cấu trúc tài sản của DNXH đã cho thấy phần lớn nguồn vốn của

DNXH là vốn tự có (chiếm 20.3%) và vốn tích lũy từ các hoạt động sản xuất kinh doanh 66

(45.5%), một phần nhỏ tới từ tài trợ (5.3%). Vốn vay thương mại chỉ là một phần trong số

các nguồn vốn khác (vốn vay ngân hàng, vốn vay gia đình bạn bè) với tổng số chiếm

28.8% [9, tr.16]. Trong khi đối với các doanh nghiệp thương mại, vốn vay thương mại lại

là nguồn vốn lưu động quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh thì thực tế đối

với DNXH, nguồn tài chính này lại không chiếm tỉ trọng chi phối [7, tr.54].

Kym Viet, một trong những DNXH dành cho người khiếm thính gặp khó khăn trong

việc kêu gọi vốn đầu tư. Vốn của Kym Viet rất nhỏ, nên không sản xuất được nhiều sản

phẩm, hơn nữa thời gian quay vòng vốn rất lâu, doanh thu thường không đủ bù vốn [23].

Bên cạnh đó, thị trường vốn cho DNXH Việt Nam còn non trẻ, chưa đáp ứng nhu

cầu của DNXH, thể hiện ở việc thiếu vốn và thiếu các hình thức và kênh cấp vốn phù hợp

với DNXH phát triển ở các giai đoạn khác nhau và trong các lĩnh vực khác nhau. Cho đến

năm 2012 mới chỉ có hai tổ chức NGO là Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến phục vụ cộng đồng

(CSIP) và Trung tâm phát triển DNXH Tia Sáng là hai nơi có chương trình đầu tư vốn

cho DNXH với tổng vốn đầu tư bằng tiền mặt vào khoảng 200,000 USD/năm. Đây là

khoản vốn quá nhỏ bé so với nhu cầu của các DNXH hiện nay và mới chỉ là những đầu tư

mang tính chất tạo vốn hạt giống, nhằm kích hoạt các ý tưởng và nâng cao năng lực chứ

không phải vốn đầu tư đủ đáp ứng cho phát triển kinh doanh [7, tr.54].

Một số bên liên quan hoặc tiềm năng có thể tham gia thị trường tài chính cho DNXH

ở Việt Nam có thể kể tới là các cơ quan chính phủ, các nhà tài trợ quốc tế, các doanh

nghiệp (chủ yếu thông qua hoạt động CSR) cũng chưa cho thấy mối quan tâm rõ ràng

hoặc chương trình hành động cụ thể dài hạn nhằm hỗ trợ tài chính hoặc đầu tư cho các

DNXH. Có nhiều lý do giải thích tình trạng này, trong đó có một thực tế là Việt nam chưa

có sự thừa nhận và không có văn bản pháp lý nào quy định và hỗ trợ cho hoạt động đầu

tư xã hội. Đầu tư cho các DNXH hiện không được hưởng ưu đãi thuế của nhà nước1. Quy

1 http://www.lgtvp.com/ivap

67

định về việc doanh nghiệp nhận tài trợ phi thương mại không rõ ràng, gây khúc mắc như

phân tích ở phần trên. Các nhà tài trợ do đó thường tìm kiếm giải pháp đi qua một đơn vị

trung gian, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả vốn đầu tư [7, tr.54].

Khi thiếu vốn, DNXH không biết đi đến đâu, tìm kiếm nguồn đầu tư từ đâu cho phù

hợp với đặc thù hoạt động của mình. Còn nhà đầu tư thì cũng mất nhiều thời gian để tìm

kiếm những DNXH có nhu cầu và tiềm năng cho khoản đầu tư của mình. Bên cạnh đó,

một vấn đề quan trọng là năng lực của DNXH trong nước hiện nay chưa đủ vững mạnh

để tiếp nhận đầu tư từ các nhà đầu tư xã hội chuyên nghiệp [12]. Trên thực tế, có nhiều

yếu tố để các quỹ đầu tư xem xét trước khi quyết định đầu tư, trong đó yêu cầu mức doanh

thu tối thiểu mà doanh nghiệp phải đạtđược hàng năm. Đây là một yêu cầu không dễ đối

với các DNXH nhỏ và vừa. Ngoài ra, có doanh nghiệp có doanh thu tương đối cao nhưng

tỷ suất sinh lợi lại rất thấp [10]. Đó là lý do cho đến nay, nhiều quỹ đầu tư nước ngoài vẫn

chưa quyết định đầu tư vào DNXH nào tại Việt Nam. Hậu quả là nhiều DNXH, sau nhiều

năm, vẫn phát triển ở mức độ trung bình, quy mô nhỏ với tầm tác động xã hội hạn chế

trước rất nhiều biến động và khó khăn của thị trường và sức ép từ các vấn đề xã hội ngày

một gia tăng [23].

3.1.4. Hạn chế trong năng lực quản lý điều hành doanh nghệp

Thực tế cho thấy hầu hết các DNXH Việt Nam là các tổ chức, doanh nghiệp trẻ; do

đó, họ thiếu kinh nghiệm và năng lực tổ chức và quản lý để đáp ứng nhu cầu kết hợp giữa

kỹ năng quản lý kinh doanh với kỹ năng quản lý sứ mệnh xã hội để tạo các tác động xã

hội bền vững. Năng lực cạnh tranh đặc thù của DNXH xuất phát từ các mối quan hệ mật

thiết của họ với cộng đồng nhóm người yếu thế tại các địa phương, từ động cơ phi lợi

nhuận và cơ hội từ những thị trường còn đang bị bỏ ngỏ. Để tận dụng được tất cả những

thế mạnh này thì DNXH cần có khả năng quản trị chiến lược, tầm nhìn dài hạn, năng lực

nhận biết và khai thác cơ hội từ thị trường, những chiến lược marketing sáng tạo, năng

68

lực tổ chức làm việc hiệu quả với cộng đồng và khả năng quản lý tài chính xuất sắc. Kinh

doanh xã hội do đó thậm chí đòi hỏi năng lực quản lý kinh doanh phải tốt hơn so với điều

hành kinh doanh thông thường [7, tr.55].

Đối với các DNXH được xây dừng từ những người làm công tác xã hội, hoặc từ

các chương trình dự án xã hội chuyển đổi thì rào cản cơ bản là họ còn thiếu năng lực quản

lý và chưa được trang bị đầy đù những kỹ năng cần thiết liên quan đến phát triển kinh

doanh, thể hiện cụ thể ở các mặt như: phát triển sản phẩm dịch vụ xã hội có định hướng

thị trường, năng lực marketing, năng lực quản lý tài chính, tổ chức và quản lý sản xuất

kinh doanh... [12] Khó khăn dễ nhận thấy là việc phải chuyển đổi từ hệ tư duy quản lý các

dự án xã hội truyền thống sang tư duy quản trị kinh doanh chiến lược, chấp nhận cạnh

tranh và các rủi ro liên quan đến hoạt động kinh doanh [25]. Quá trình chuyển đổi này cần

thời gian dài, sự cọ xát về kinh nghiệm, thậm chí là thất bại thực tiễn cũng như cần có

những hỗ trợ và các dịch vụ nâng cao năng lực phù hợp. Ngoài ra, cơ hội được đào tạo và

nâng cao năng lực, cơ hội được thử nghiệm và phát triển đối với họ là rất ít vì các DNXH

nhỏ này không có đủ nguồn lực đầu tư cho hoạt động nâng cao năng lực [7, tr.55].

Đối với nhóm các DNXH mới, do những người trẻ tuổi với khao khát xã hội và

năng lực quản lý điều hành được đào tạo bài bản hoặc kinh nghiệm thực tiễn, thì vấn đề

lại là khả năng thấu hiểu và kết nối với cộng đồng để thiết kế ra những hệ thống tổ chức,

tương tác và làm việc với cộng đồng một cách hiệu quả, gắn chặt với thực tiễn nhu cầu

của nhóm cộng đồng hưởng lợi, có chiến lược dài hạn trong việc đạt được mục tiêu bền

vững cả về kinh tế và tác động xã hội [7, tr.55].

Hơn nữa, nhiều DNXH dễ rơi vào vòng luẩn quẩn của bài toán giải quyết khó khăn

tài chính ngắn hạn và đầu tư dài hạn cho phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp lao vào

giải quyết những vấn đề trước mắt của vận hành tổ chức, duy trì nguồn tài chính mà không

nhận thức được tầm quan trọng và cũng không có đủ nguồn lực để đầu tư cho các hoạt

động chiến lược cho phát triển tổ chức, phát triển kinh doanh, trong bối cảnh môi trường

69

hoạt động của DNXH là rất phức tạp và nhiều rủi ro [25].

Bên cạnh đó, việc phát triển một thị trường các hoạt động hỗ trợ và dịch vụ nâng

cao năng lực phù hợp cho DNXH là một yêu cầu cấp thiết để giải quyết các vấn đề trên.

Đây lại là một điểm đang thiếu tại Việt Nam. Tuy dịch vụ đào tạo, hỗ trợ, tư vấn đã được

hình thành ở Việt Nam từ khá lâu, phục vụ cả lĩnh vực doanh nghiệp tư nhân và tổ chức

NGO nhưng lại rất khan hiếm các nhà cung cấp có thể mang lại dịch vụ thiết kế riêng cho

nhu cầu của DNXH.

Hiện nay, CSIP đang là đơn vị đầu tiên cung cấp một số khóa đào tạo tập huấn dành

riêng cho các DNXH bao gồm các khóa tập huấn đào tạo về phát triển DNXH tổng quan,

kỹ năng lập kế hoạch kinh doanh, lãnh đạo DNXH, chương trình cố vấn cá nhân và tư vấn

phát triển DNXH... [7, tr.55]. Tuy nhiên khả năng đáp ứng nhu cầu tư vấn đặc thù cho

từng DNXH còn ít. Đồng thời, có rất nhiều các tổ chức, doanh nghiệp đang có tiềm năng

phát triển có nhu cầu chuyển đổi theo mô hình DNXH nhưng lại không có các đơn vị có

khả năng cung cấp các dịch vụ đào tạo, hướng dẫn phù hợp.

3.1.5. Những khó khăn liên quan tới nguồn nhân lực

DNXH thường xuyên làm việc với cộng đồng các nhóm yếu thế trong xã hội. Do

vậy, đặc thù nguồn nhân lực của DNXH do đó dẫn tới một số thách thức cơ bản như sau:

Đầu tiên, chất lượng nguồn nhân lực của các DNXH tương đối thấp, thiếu ổn định,

năng suất lao động thấp. Nguồn lao động của các DNXH làm việc với nhóm những người

thiệt thòi, kém may mắn, vốn là những đối tượng đặc biệt của xã hội như người khuyết

tật, phụ nữ nông thôn, trẻ em thiệt thòi, là những nguồn lao động có chất lượng thấp, tính

ổn định kém do các điều kiện về nhận thức, tinh thần sức khỏe và bối cảnh sinh sống,

cũng như tay nghề lao động rất thấp. Vì vậy, không thể đòi hỏi ở họ năng suất lao động

cao trong thời gian đầu tuyển dụng. Ngoài ra phải dự phòng tính không ổn định, rủi ro về

việc người lao động bỏ việc, không đáp ứng được yêu cầu công việc [7, tr.56].

Bên cạnh đó, do phải làm việc với lực lượng lao động chất lượng thấp và chưa được

70

qua đào tạo, nên hầu hết các DNXH phải dành một khoản chi phí đầu tư tương đối lớn

cho nhân sự. Các chi phí này thường dành cho các hoạt động nâng cao nhận thức, đào tạo

huấn luyện, tổ chức làm việc cho nhân sự, chi phí chăm sóc, chi phí cơ hội… Đối với các

DNXH làm việc với đối tượng xã hội đặc biệt như phụ nữ bị buôn bán trở về, người sống

chung với HIV-AIDS, người khuyết tật... thì chi phí này còn gia tăng do DNXH cần rất

quan tâm và đầu tư chăm sóc tới sức khỏe thể chất và tinh thần, điều kiện sống và sinh

hoạt của họ. Bên cạnh đó, rủi ro về tính bất ổn định của nguồn nhân lực khiến doanh

nghiệp có thể tốn chi phí cho phát triển nhân sự mới [7, tr.56].

Ngoài ra, các DNXH cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nhân sự phù

hợp. Trong bối cảnh thị trường nguồn nhân lực hiện nay, việc tìm kiếm một nhân sự quản

lý tốt là vấn đề đau đầu của các tổ chức, doanh nghiệp nói chung. Nhưng đối với DNXH

thì vấn đề này còn khó khăn hơn nữa. Bởi nhân sự cho DNXH không những phải là người

thấu hiểu và chia sẻ sứ mệnh và giá trị xã hội của doanh nghiệp, mà họ còn phải đáp ứng

yêu cầu về năng lực lao động, và kết hợp được những kiến thức kỹ năng quản lý kinh

doanh và công tác xã hội. Trong khi đó, nguồn tài chính để trang trải cho việc đầu tư nhân

sự cấp cao của DNXH là hạn chế. Không có nhiều DNXH có khả năng chi trả cho những

nhân sự có chuyên môn cao theo mức cạnh tranh của thị trường nguồn nhân lực [7, tr.56].

Bên cạnh đó, hiện nay nguồn nhân lực phổ thông được đào tạo ra từ các trường đại

học đều là những nhân sự đào tạo chuyên biệt cho lĩnh vực thương mại, kinh doanh, tài

chính hoặc phát triển xã hội. Các nội dung định hướng về DNXH chưa được đưa vào giáo

dục tại các trường đại học, nhận thức của giới trẻ về DNXH còn hạn chế nên khả năng thu

hút nguồn nhân lực trẻ có được nền tảng đào tạo tốt của Việt Nam hiện nay là chưa cao.

Như đã nói ở trên, DNXH hiện đang gặp rất nhiều khó khăn và thách thức liên quan

đến nguồn nhân lực. Nhưng một thực tế cần phải đề cập là Nhà nước hiện nay chưa có

các chính sách cụ thể và hiệu quả để khuyến khích sử dụng lao động là người khuyết tật.

Do đó, kể cả khi đã được các DNXH đào tạo nghề, họ vẫn rất khó tìm được việc làm phù

71

hợp; cho dù xét về khả năng, nhiều loại khuyết tật không hề ảnh hưởng đến chất lượng

thực hiện công việc của họ. Khó khăn ở đầu ra tất yếu làm giảm mức độ hấp dẫn trong

việc thu hút học viên đầu vào của các DNXH [23].

Ngoài ra, cũng không có chính sách hỗ trợ nào cho những người làm việc tại các

DNXH. Nhiều DNXH rất khó khăn trong việc tìm giáo viên dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt, trẻ em tự kỷ, người khuyết tật. Mặc dù họ không phải là tình nguyện viên, nhưng lĩnh

vực họ hoạt động mang tính xã hội và thường không có nhiều những lợi ích hấp dẫn như

trong các lĩnh vực thông thường. Do đó, để bù đắp cho những thiếu hụt này, khuyến khích

nguồn nhân lực tham gia khu vực công tác xã hội, nhà nước hoàn toàn có thể khuyến khích

các giáo viên tham gia khối DNXH bằng các chính sách hỗ trợ lương, thuê nhà, đào tạo...

Hơn nữa, một vấn đề nữa mà hầu hết các DNXH đều gặp phải chính là sự phụ thuộc

quá lớn của DNXH vào DNhXH. Có thể nói sự phát triển của hầu như tất cả DNXH đều

gắn chặt với vai trò của người sáng lập là DNhXH. Tuy nhiên sự phụ thuộc quá nhiều vào

DNhXH cũng có thể được coi là một trong những điểm yếu của DNXH. Đơn cử như vấn

đề kế thừa. Liệu các thế hệ lãnh đạo sau này của DNXH có duy trì được tinh thần, sứ

mệnh và ý chí của thế hệ sáng lập DNXH là một câu hỏi lớn cho không ít các DNXH [7,

tr.56].

3.2. Phương hướng và động lực phát triển của Doanh nghiệp xã hội tại

Việt Nam

Hiện nay, trên thế giới phong trào DNXH phát triển mạnh mẽ và lan tỏa trên nhiều

lĩnh vực. Ở Việt Nam, khái niệm DNXH xuất hiện lần đầu tiên vào cuối những năm 2000

nhưng hoạt động mang tinh thần của doanh nghiệp xã hội từ lâu đã được ghi nhận: Mô

hình DNXH đầu tiên tại Việt Nam là hình thức hợp tác xã [7, tr.8]. Cho đến gần đây, có

một làn sóng phát triển mạnh mẽ của các DNXH khi xuất hiện nhiều động lực phát triển

72

hơn.

Trước hết, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB), mặc dù Việt Nam đã trở

thành một nước có thu nhập trung bình nhưng trên thực tế, Việt Nam vẫn phải đối mặt với

nhiều vấn đề xã hội như: tình trạng thất nghiệp; tội phạm thanh, thiếu niên; bất bình đẳng

giới; HIV/AIDS; người cao tuổi; trẻ em đường phố; người khuyết tật; nạn buôn người...

[20] Cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội của những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn

còn thấp do đại đa số các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa đủ để đáp ứng, mang lại

ích lợi cho tất cả những người khó khăn và thiệt thòi trong xã hội. Chính phủ không thể

tự giải quyết tất cả những vấn đề này và các doanh nghiệp xã hội xuất hiện như một giải

pháp bổ sung.

Động lực thứ hai là công cuộc mở cửa và cải cách kinh tế. Trong nền kinh tế thị

trường, Việt Nam đã thừa nhận vai trò và địa vị pháp lý của khu vực tư nhân trong xã hội

[10]. Các sáng kiến cá nhân ngày càng được khuyến khích không chỉ vì ích lợi của chính

họ, mà còn vì toàn xã hội. Kết quả là các sáng kiến nhằm giúp tạo ra sự thay đổi tích cực

cho xã hội xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Ngoài ra, hội nhập kinh tế sâu rộng với thế giới

tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội trong nước có nhiều cơ hội hợp tác phát triển, thu hút

đầu tư xã hội trong các lĩnh vực xã hội, môi trường [10].

Động lực thứ ba là việc rất nhiều tổ chức phi chính phủ đang rút dần khỏi Việt Nam.

Các tổ chức phi chính phủ như Oxfam, Care đã đóng một vai trò nhất định trong việc giúp

Chính phủ Việt Nam giải quyết các vấn đề xóa đói, giảm nghèo, nâng cao năng lực của

phụ nữ trong lực lượng lao động và giảm thiểu bạo lực gia đình trong một khoảng thời

gian [22]. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã trở thành một nước thu nhập trung bình, những tổ

chức này đã lên kế hoạch giảm bớt vai trò của mình. Ngoài ra, nguồn viện trợ từ nước

ngoài cũng giảm dần. Điều này đặt ra thách thức cho các tổ chức phi chính phủ trong nước

và đòi hỏi chuyển đổi dần sang mô hình doanh nghiệp xã hội để có thể thực hiện được

mục tiêu xã hội, nhưng vẫn tạo ra được nguồn lực để thực hiện mục tiêu đó [25].

Cuối cùng, cộng đồng doanh nghiệp hiện nay đã quan tâm hơn đến trách nhiệm xã

hội. Điều này đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển của các doanh nghiệp xã hội. Một

số công ty lớn đã tham gia hoặc tổ chức các chương trình xã hội để tạo cơ hội việc làm 73

cho người khuyết tật, dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho vùng sâu vùng xa, tài trợ cho trẻ em

nghèo trở lại trường học. Có thể nêu ví dụ về FrieslandCampina Việt Nam với Đèn đom

đóm, Uniliver với Áo trắng ngời sáng tương lai, Ocean Bank với Nguồn Sáng, Vinamilk

với Vươn cao Việt Nam và rất nhiều ví dụ khác. Một số công ty thậm chí còn lập cả một

ngân quỹ riêng cho các hoạt động từ thiện [8, tr.14].

3.3. Một số đề xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách nhằm phát triển

Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam

Từ thực tiễn DNXH ở Việt Nam và trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, để khu vực này

tiếp tục phát triển đòi hỏi phải triển khai đồng bộ và hiệu quả một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông dưới nhiều hình thức khác nhau để truyền tải, phổ

biến và giải thích về mô hình DNXH và vai trò của DNXH trong phát triển bền vững. Sự

tham gia tích cực của cộng đồng có thể giúp các DNXH phát triển mạnh hơn.

Thứ hai, để phát triển DNXH thì vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Thực tiễn

trên thế giới cho thấy, khi Nhà nước chuyển dần vai trò từ người cung cấp trực tiếp dịch

vụ công sang vai trò là đảm bảo cung cấp dịch vụ công đến người dân một cách công bằng

và hiệu quả, khắc phục thất bại thị trường thì khu vực DNXH mới thực sự được thúc đẩy

và phát triển mạnh mẽ. Theo đó, Nhà nước cần thực hiện đấu thầu công khai, cạnh tranh

để các DNXH có thể tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích (như xử lý rác

thải, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế cộng đồng, sinh kế bền vững...); ban hành các chính

sách quy định các cơ quan nhà nước, tổ chức thuộc khu vực công; ưu tiên các sản phẩm,

dịch vụ của DNXH khi thực hiện mua sắm công hoặc thuê ngoài nhưng phải đảm bảo chất

lượng dịch vụ cung ứng so với các doanh nghiệp khác.

Bên cạnh đó, với thực tế là hầu hết các DNXH ở Việt Nam đều ở quy mô vừa và

nhỏ, sự hỗ trợ của Chính phủ là rất cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp

74

xã hội. Sự hỗ trợ tài chính trực tiếp có thể giúp cải thiện tình trạng tài chính của các tổ

chức này. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ nên sử dụng tạm thời trong một thời gian ngắn,

nếu không, các DNXH có thể phụ thuộc vào trợ cấp mà mất dần tính cạnh tranh.

Ngoài ra, có thể thành lập Quỹ phát triển DNXH. Quỹ sẽ được tài trợ một phần

bằng phần ngân sách Nhà nước và nhận tài trợ từ các tổ chức thiện nguyện và nhà đầu tư

xã hội. Ngoài ra, thị trường chứng khoán cũng là một kênh huy động vốn cho các DNXH.

Một số nước trên thế giới (như Bangladesh) đã cho phép thành lập các Quỹ đầu tư xã hội

được niêm yết trên thị trường chứng khoán để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư

xã hội và các nhà hảo tâm [7, tr.64].

Thứ ba, cần xây dựng một khung khổ pháp lý dành riêng cho DNXH và các hoạt

động của DNXH. Việc Chính phủ ban hành Nghị định về DNXH là điều cần thiết cho quá

trình thể chế hóa DNXH, chuẩn bị cho bước luật hóa lĩnh vực này ở giai đoạn sau. Xác

định khái niệm, tiêu chí và những quy định về DNXH trong các văn bản luật chính là sự

công nhận của Nhà nước, xã hội để DNXH có thể hoạt động một cách chính danh.

Để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNXH gia nhập thị trường và hoạt

động, hiện nay, Nhà nước đã và đang xây dựng khung pháp lý hoạt động cho các DNXH,

trong đó có các chính sách hỗ trợ DNXH, bao gồm các chính sách tiếp nhận tài trợ, viện

trợ. Các chính sách hỗ trợ cần phải đảm bảo nguyên tắc thông thoáng, tiếp cận thuận lợi

và thủ tục hành chính đơn giản. Tuy nhiên ở đây, cũng cần đề cập đến một số quan điểm

cho rằng các DNXH cần được đặt trong những khung khổ pháp lý chung, hoạt động trên

những ‘sân chơi’ chung để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng với các tổ chức, doanh nghiệp

khác. Do đó, Nhà nước chỉ nên có chính sách ưu đãi cho một số lĩnh vực nhất định mà

Nhà nước thấy cần khuyến khích phát triển hoặc lôi kéo sự tham gia của các tổ chức này

[6]. Các DNXH sẽ hưởng các chính sách ưu đãi khi hoạt động trong lĩnh vực đó, đồng

thời đây cũng là chính sách chung, không chỉ dành riêng cho các DNXH. Ý kiến này rất

đáng tham khảo, bởi các DNXH cần được nhìn nhận gắn với tác động xã hội của mình.

Các DNXH có quy mô khác nhau, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, và do đó

không phải DNXH cũng đem lại những tác động xã hội mà Nhà nước thực sự thấy việc

75

phải có chính sách ưu đãi là cần thiết [7, tr.64].

Ngoài ra, việc thành lập một bộ phận/cơ quan thực hiện QLNN, thúc đẩy, hỗ trợ

DNXH cũng là một vấn đề quan trọng. Về tổ chức quản lý hành chính, pháp luật có thể

quy định về việc thành lập một bộ phận/cơ quan ở cấp phòng trong cơ cấu tổ chức của

một bộ chịu trách nhiệm về QLNN, khuyến khích, hỗ trợ các DNXH. Dựa trên tính chất

đầu mối, đa ngành của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, người viết kiến nghị thành lập một Phòng

chuyên trách về DNXH đặt trong cơ cấu của Cục Phát triển Doanh nghiệp, trực thuộc Bộ

Kế hoạch và Đầu tư. Và để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, Cơ quan chuyên trách

về DNXH nên thực hiện các chương trình hỗ trợ DNXH thông qua một bên thứ 3 là các

tổ chức trung gian phát triển DNXH dưới hình thức đấu thầu cạnh tranh, thuê ngoài, hoặc

đặt hàng, trong khi Cơ quan giữ vai trò giám sát, theo dõi và đánh giá.

Thứ tư, kiến nghị cuối cùng liên quan đến việc nâng cao chất lượng của lực lượng

lao động cho các doanh nghiệp xã hội. Nhiệm vụ đầu tiên là phát triển chương trình chi

tiết về DNXH. Về lâu dài, có thể xây dựng một chuyên ngành riêng dành cho DNXH

nhằm cung cấp cho các sinh viên những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt cần thiết. Đây

là điều kiện tiên quyết để tạo nên những thế hệ DNhXH tài năng trong tương lai. Ngoài

ra, cần có các khóa đào tạo ngắn hạn nhằn bổ sung kiến thức và kỹ năng quản lý điều hành

cho đội ngũ những người lãnh đạo các DNXH [21].

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong hơn 10 năm qua, tinh thần kinh doanh xã hội

đã bắt đầu được lồng ghép vào hoạt động học thuật, tuy nhiên vẫn chưa được thành một

lĩnh vực chính thống trong trường đại học [8, tr.20]. Một số trường đại học lớn trên thế

giới đã thành lập các Trung tâm nghiên cứu về tinh thần kinh doanh xã hội hoặc sáng tạo

xã hội như: Trung tâm sáng tạo xã hội Scholl, thuộc Trường kinh doanh Said, Đại học

Tổng hợp Oxford; Vương quốc Anh; Trung tâm sáng tạo xã hội, Đại học Stanford; Trung

tâm sáng tạo xã hội, Đại học Boston, Hoa Kỳ; Trung tâm đầu tư và sáng tạo xã hội, Trường

kinh doanh Sauder, Đạo học British Columbia, Canada; Trung tâm Doanh nghiệp xã hội

(RAISE), Singapore... [8, tr.20]

Tinh thần kinh doanh xã hội cần thiết được lan tỏa trong xã hội, hướng tới một xã

hội công bằng hơn, tốt đẹp hơn [21]. Điều này đòi hỏi nỗ lực của nhiều bên, trong đó có 76

vai trò của trường đại học trong việc nghiên cứ, đào tạo các nhà quản lý, doanh nhân,

người tham gia thị trường lao động tương lai về trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Các

trường đại học với vai trò về chia sẻ tri thức và đào tạo góp phần vào nỗ lực này thông

qua các hoạt động như:

(i) Nghiên cứu, kiến nghị chính sách thúc đẩy tinh thần kinh doanh xã hội;

(ii) Đưa nội dung đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội vào giảng dạy thành

môn học cốt lõi trong các trường đại học;

(iii) Thành lập các vườn ươm tinh thần kinh doanh xã hội

Thứ năm, phong trào DNXH đang phát triển nhanh thế giới trong những năm

gần đây, vì vậy tăng cường sự hợp tác và phối hợp giữa các bên có liên quan trên phạm vi

quốc gia và trên thế giới về phát triển DNXH là điều cần thiết. Các hoạt động có thể bao

gồm tổ chức các diễn đàn quốc gia và khu vực cung cấp thông tin, giao lưu giữa các

DNhXH, giữa DNhXH và các doanh nhân, nhà tài trợ khác; giữa DNhXH và các nhà

nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách; chia sẻ kinh nghiệm và thực tiễn tốt trong phát

triển DNXH... Việc đẩy mạnh phong trào phát triển DNXH nhằm tạo cộng đồng lớn về

DNXH, qua đó thu hút nguồn vốn từ các tổ chức đầu tư thiện doanh.

Với việc triển khai và thực hiện các đề xuất, kiến nghị nêu trên, người viết hy

vọng loại hình DNXH sẽ phát triển, đóng vai trò hỗ trợ tích cực cho Nhà nước trong việc

77

giải quyết các vấn đề xã hội – môi trường vì lợi ích cộng đồng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Hiện nay, DNXH ở nước ta đang trong giai đoạn phát triển sơ khai với các cơ sở

pháp lý ban đầu đã có và đang tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, tiềm năng

phát triển của DNXH còn rất lớn, không chỉ là các động lực sẽ được tạo ra từ cơ chế và

chính sách của Nhà nước đang được trông đợi ở phía trước, mà còn là các điều kiện có

tính tiền đề đang tồn tại hoặc đã được tạo ra từ quá khứ. Sự phát triển của DNXH sẽ thúc

đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng

XHCN ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết

ở Việt Nam.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít khó khăn, rào cản cho sự phát triển DNXH ở Việt

Nam. Khác với các doanh nghiệp thông thường, DNXH hoạt động vì mục đích xã hội và

môi trường chứ không vì lợi nhuận đơn thuần. Điều này đòi hỏi kỹ năng và kiến thức tổng

hợp của cả khối kinh doanh lẫn xã hội của các nhà lãnh đạo. Các chủ DNXH vẫn phải tự

mày mò, tự tìm lối đi riêng cho mình nên rất vất vả mà hiệu quả không cao. Hiệu quả kinh

tế của các DNXH còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, khó khăn lớn nhất là việc thiếu nguồn lực

78

tài chính, thiếu vốn. Bên cạnh đó, sức ép từ chất lượng sản phẩm dịch vụ, nguồn nhân lực,

hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh, đầu ra sản phẩm, chi phí… cũng đang đặt lên vai

các doanh nghiệp này.

Trước tình hình đó, việc tìm kiếm những giải pháp để hỗ trợ DNXH phát triển là

một việc làm cần thiết. Cũng giống như các nước khác, DNXH tại Việt Nam sẽ không

phát triển và nở rộ nếu thiếu sự vào cuộc của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa

phương. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng vai trò của Nhà nước với hệ thống pháp luật và

chính sách là những điều kiện thiết yếu để các DNXH phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần

sớm hoàn thiện pháp luật và chính sách để gia tăng tác động xã hội của các DNXH ở Việt

79

Nam.

KẾT LUẬN

DNXH là một mô hình đặc biệt thông qua việc sử dụng hoạt động kinh doanh để

đạt được các mục tiêu xã hội. DNXH hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà ưu tiên

hàng đầu của họ là giải quyết các vấn đề xã hội đang nảy sinh trong quá trình tăng trưởng

kinh tế của đất nước. Trên thực tế, các DNXH là những nhân tố thúc đẩy đổi mới, sáng

kiến cho xã hội. Bởi họ không những là người trực tiếp phát hiện ra vấn đề xã hội, mà còn

tìm kiếm giải pháp kinh doanh phù hợp, sẵn sàng đi vào những thị trường ngách chưa ai

đi, thậm chí sáng tạo nên sản phẩm mới, tạo lập một thị trường mới, hoặc đáp ứng nhu

cầu của những nhóm đối tượng thường bị bỏ quên trong xã hội. Các DNhXH là những

doanh nhân có mối quan tâm xã hội cao; đặc biệt họ phải vượt lên rất nhiều khó khăn, trở

ngại để có thể duy trì được mô hình DNXH dung hòa giữa các mục tiêu xã hội bền vững

và thử thách khắc nghiệt của thị trường.

Ngày 26-11-2014, Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi, trong đó lần

đầu tiên đưa ra quy định về DNXH. Tuy còn nhiều điều cần hoàn thiện để tạo khung pháp

lý cho các DNXH hoạt động nhưng đây được xem là một tín hiệu tích cực khuyến khích

sự hình thành một cộng đồng DNXH phát triển hơn tại Việt Nam. Các DNXH được chính

thức công nhận cho thấy sự nhìn nhận của Chính phủ, các nhà làm luật với vai trò thúc

đẩy các tác động xã hội tích cực dựa trên các mô hình kinh doanh bền vững của DNXH.

Hiện nay, Việt Nam đang có đến hàng ngàn doanh nghiệp mà hoạt động của họ có

đặc điểm là chia sẻ gánh nặng với Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và

bảo vệ môi trường. Điển hình nhất là trường hợp của DNXH KOTO. Trải qua 17 năm

thành lập và phát triển, KOTO lớn mạnh dần, trở thành một DNXH phi lợi nhuận được

trao tặng nhiều giải thưởng, không chỉ góp phần thay đổi cuộc sống của hàng trăm bạn trẻ

thiệt thòi, dễ bị tổn thương, mà còn góp phần thay đổi nhận thức của Việt Nam về DNXH.

80

KOTO được xem là “người anh cả của DNXH Việt Nam” và là một dẫn chứng sinh động

về những DNXH thành công. Những thăng trầm mà KOTO đã trải qua sẽ trở thành bài

học kinh nghiệm sâu sắc cho những DNXH mới tại Việt Nam.

Có thể thấy tiềm năng phát triển của DNXH ở Việt Nam còn rất lớn, không chỉ là

các động lực sẽ được tạo ra từ cơ chế và chính sách của Nhà nước đang được trông đợi ở

phía trước, mà còn là các điều kiện có tính tiền đề đang tồn tại hoặc đã được tạo ra từ quá

khứ. Sự phát triển của DNXH sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn

minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng XHCN ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế

chung của thế giới mà còn rất cần thiết ở Việt Nam [22]. Điều này cũng đặt ra một yêu

cầu cấp thiết đối với Nhà nước, đó là việc cần xây dựng các cơ chế, chính sách để tạo lập

khung khổ pháp lý ổn định cho hoạt động của các DNXH, tạo điều kiện thuận lợi cho các

sáng kiến xã hội dễ dàng được triển khai hơn trong thực tế, khuyến khích và thúc đẩy sự

81

phát triển mạnh mẽ tinh thần DNhXH ở Việt Nam [7, tr.67].

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Tài chính, Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/06/2014 của Bộ tài chính

hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của

Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,

Hà Nội.

2. Chính phủ (2015), Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính

phủ quy định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp, Hà Nội.

3. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh và Trần Thị Hồng Gấm

(2012), “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam - Khái niệm, bối cảnh và chính

sách”, tr. 10.

4. Phạm Duy Nghĩa (2010), “Giáo trình Luật kinh tế”, Nxb. Công an nhân dân,

Hà Nội, tr. 29.

5. Đỗ Văn Đại (2016), "Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự

năm 2015", Nxb. Hồng Đức, Hà Nội tr. 101.

6. Vũ Phương Đông (2012), “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – Cần một mô

hình để phát triển”, Tạp chí Luật học, (9).

7. Hội đồng Anh, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng – CSIP và Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2012), “Doanh nghiệp xã

hội tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh, chính sách”, Hà Nội.

8. Hội đồng Anh, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng – CSIP và Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2016), "Điển hình Doanh

nghiệp xã hội tại Việt Nam", Hà Nội.

9. Hội đồng Anh, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng – CSIP và

83

Trung tâm phát triển DNXH Tia Sáng – Spark (2011), "Báo cáo Kết quả Khảo

sát Doanh nghiệp Xã hội Việt Nam", Hà Nội.

10. Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), "Nhìn lại nền kinh

tế Việt Nam sau 25 năm đổi", Hà Nội.

11. Nguyễn Thường Lạng (2011), "Tiềm năng phát triển doanh nghiệp xã hội tại

Việt Nam", Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

12. Thanh Loan (2012), "Phát triển Doanh nghiệp xã hội: Thách thức nhỏ trong

cơ hội lớn". Truy cập tại http://petrotimes.vn/phat-trien-doanh-nghiep-xa-hoi-

thach-thuc-nho-trong-co-hoi-lon-52109.html

13. Võ Sỹ Mạnh (2015), "Doanh nghiệp xã hội theo quy định của Luật Doanh

nghiệp năm 2014 nhìn từ góc độ quyền tự do kinh doanh", Hội thảo Luật

Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014: Những đổi mới nhằm hiện thực hóa

quyền tự do kinh doanh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2015,

tr. 50.

14. Trà My (2016), "Tạo không gian để Doanh nghiệp xã hội phát triển bền

vững". Truy cập tại http://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/tao-khong-gian-

de-doanh-nghiep-xa-hoi-phat-trien-ben-vung-493119

15. Thu Nga (2015), "Xây dựng khung khổ pháp lý cho doanh nghiệp xã hội phát

triển". http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/trao-doi---binh-luan/xay-

dung-khung-kho-phap-ly-cho-doanh-nghiep-xa-hoi-phat-trien-60959.html

16. Vũ Thị Hòa Như (2015), “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về doanh

nghiệp xã hội”, Tạp chí luật học, (3).

17. Chính Phong (2014), "Doanh nghiệp xã hội: Quy định ưu đãi đã có, vẫn phải

chờ". Truy cập tại http://www.sgtiepthi.vn/doanh-nghiep-xa-hoi-quy-dinh-

uu-dai-da-co-van-phai-cho/

18. Peter Keyon (2009), "Các quan hệ đối tác trong việc sử dụng lao động trẻ:

Một số sáng kiến dựa vào cộng đồng tiêu biểu", Tổ chức Lao động Quốc tế

84

(ILO), Khu vực tạo việc làm, Báo cáo nghiên cứu về việc làm số 33, Chương

trinh tạo việc làm cho người trẻ, Geneva, Thụy Sĩ.

19. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

20. Đức Tâm (2015), “Doanh nghiệp xã hội cần thêm điều kiện hoạt động”. Truy

cập tại http://www.thesaigontimes.vn/125011/Doanh-nghiep-xa-hoi-them-

dieu-kien-hoat-dong.html

21. Trương Thị Nam Thắng (2016), "Tinh thần kinh doanh xã hội: Tổng quan và

vai trò của trường đại học", Hà Nội.

22. Thạch Thảo (2016), "Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp sẽ tăng lần đầu tiên kể từ

năm 2013". Truy cập tại http://ndh.vn/ty-le-thanh-nien-that-nghiep-se-tang-

lan-dau-tien-ke-tu-nam-2013-20160825055851518p146c158.news

23. Phạm Thủy (2016), "Cần hiểu đúng về Doanh nghiệp xã hội". Truy cập tại

http://www.doanhnhansaigon.vn/khoi-nghiep/can-hieu-dung-ve-doanh-

nghiep-xa-hoi/1100328/

24. Phan Thị Thanh Thủy (2015), “Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp

năm 2014”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6 (279), tr. 26.

25. Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng – CSIP, Công ty tư vấn đầu tư

và chuyển giao công nghệ – InvestConsults và MSD (2010), “Cẩm nang pháp

lý cho Doanh nhân và Doanh nghiệp xã hội”, Hà Nội.

26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), "Giáo trình Luật Thương mại, tập 1",

Nguyễn Viết Tý chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, tr. 29. Trường Đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh”,

Bùi Xuân Hải chủ biên, Nxb. Hồng Đức, tr. 26.

27. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), "Giáo trình Pháp luật

về chủ thể kinh doanh", Bùi Xuân Hải chủ biên, Nxb. Hồng Đức, tr. 31.

28. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, "Báo cáo số 761/BC-UBTVQH13 ngày

28/10/2014 về tiếp thu, chỉnh lý, giải trình Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa

85

đổi)".

Nguồn:http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/

View_Detail.aspx?ItemID=753&TabIndex=2.

29. Nguyễn Thị Yến (2015), “Doanh nghiệp xã hội và giải pháp phát triển doanh

nghiệp xã hội tại Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 11, tr. 73.

Tài liệu tiếng Anh

30. C.K. Prahalad (2010), “The Fortune at the Bottom of the Pyramid:

Eradicating Poverty Through Profits”, Wharton School Publishing.

31. David Bornstein (2007), "How to change the world: Social Entrepreneurs and

the Power of New Ideas", Oxford University Press.

32. Philip Kotler & Nancy Lee (2005), "Corporate Social Responsibility

DoingtDoing MosMossMost Good for Your Company and Your Cause",

Wiley.

86

33. OECD (2007), “The Social Enterprise Sector: A Conceptual Framework”.