ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ HUYỀN TRANG
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT
NAM VỀ XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ ĐỘC QUYỀN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH:
Luật kinh doanh
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ HUYỀN TRANG
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT
NAM VỀ XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ ĐỘC QUYỀN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH:
Luật kinh doanh
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH 2013
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS NGUYỄN THỊ THUẬN
Hà Nội 2017
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các kết quả được sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã
công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
Vũ Huyền Trang
3
LỜI CẢM ƠN
Tiếng ve đã gọi mùa hè về, một mùa phượng đỏ lại đến. Tuy nhiên, mùa hè
năm nay đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời em. Thời gian thấm thoát trôi
đi, 4 năm ngồi trên ghế giảng đường Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội đã kết
thúc. Quãng thời gian vinh dự được là sinh viên của Khoa đã đem đến cho em
không chỉ một kho tri thức, mà bên cạnh đó còn là rất nhiều những kỹ năng cần
thiết khác. Thầy Cô không chỉ thổi bùng ngọn lửa đam mê học tập, phấn đấu
trong những thế hệ sinh viên như em, mà còn tận tình chỉ dạy cho em vô vàn kinh
nghiệm, kiến thức đáng quý không có trong sách vở. Trong luận văn này-tác phẩm
cuối cùng em được ghi tên với tư cách là một sinh viên của Khoa Luật-Đại học
Quốc gia Hà Nội, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến toàn thể quý thầy cô
công tác tại Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội. Đặc biệt là Cô giáo Nguyễn
Thị Thuận-người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Sẽ nhớ mãi những tiết giảng hăng say và nhiệt huyết của thầy cô, những giây phút
nghiêm khắc nhắc nhở và cả những khoảnh khắc thầy trò thân thiện chia sẻ về
học tập, công việc và cuộc sống. Tất cả sẽ là hành trang và kỷ niệm không thể
nào quên giúp em tiến bước trên con đường phía trước.
Giờ đây, giây phút tạm biệt đã đến, những giọt nước mắt đã lăn trên đôi
má của những cô cậu sinh viên khi phải rời xa Mái Nhà mang tên Khoa Luật yêu
dấu. Em xin hứa sẽ tiếp tục phấn đấu và trưởng thành trong những con đường
phía trước để xứng đáng là sinh viên Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội.
Em xin gửi đến toàn thể quý thầy cô Khoa Luật lời chúc sức khỏe và thành
công nhất!
4
PHẦN MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh hội nhập và giao lưu thương mại, kinh tế quốc tế diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và sôi động hơn bao giờ hết, các doanh nghiệp luôn cần đổi mới
và phát triển để theo kịp cuộc chơi. Thực tế, việc cạnh tranh giữa các chủ thể tham
gia đầu tư kinh tế đang nóng và trở lên khốc liệt qua từng giờ, từng ngày. Cạnh
tranh là hiện tượng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế ở mọi lĩnh vực, mọi
vùng miền, mọi quốc gia trên toàn thế giới.
Cạnh tranh như đòn bẩy thúc đẩy các doanh nghiệp nỗ lực hơn nữa để có thể
thu về lợi nhuận và độc quyền ra đỉnh cao của cạnh tranh. Những doanh nghiệp
đủ mạnh sẽ dần dành được sức mạnh thị trường to lớn và cuối cùng có được vị trí
độc quyền. Thực chất, độc quyền không hề xấu, tuy nhiên khi có được vị trí cao
nhất, nhiều doanh nghiệp có những hành vi lạm dụng vị trí này để thao túng thị
trường, hạn chế cạnh tranh lành mạnh nhằm mục đích thu lợi bất hợp lý. Lạm
dụng vị trí độc quyền không còn là hiện tượng hiếm gặp trong nền kinh tế thị
trường ngày nay ở Việt Nam và hành vi này gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm
trọng cho đời sống của người dân, hoạt động của các doanh nghiệp khác và ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế nói chung
Nhận thức được tình trạng này ngày càng tăng cũng như hậu quả nặng nề của
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. Sinh viên chọn đề tài: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC
QUYỀN để nghiên cứu, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm ngăn
chặn hành vi này.
Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
5
Ý nghĩa khoa học, Khóa luận sẽ đi sâu làm rõ và đồng thời phân tích kỹ lưỡng
những kiến thức cơ bản nhất liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí độc quyền như
độc quyền, sức mạnh thị trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền để từ đó cung
cấp cái nhìn chính xác và khách quan về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. Từ
những phân tích ban đầu, khóa luận tiếp tục chỉ ra thực trạng về hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền tại Việt Nam hiện nay, cũng như những thành tựu và hạn chế
trong công tác xử lý vi phạm. Cuối cùng đề xuất giải pháp mới có tính chất xây
dựng góp phần cho khoa học pháp lý nói chung và cụ thể là quy định của Luật
cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thị trường nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn, từ nền tảng nắm rõ kiến thức khoa học về hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền, Khóa Luận còn phân tích những hậu quả nặng nề và chỉ ra chế
tài pháp luật áp dụng với hành vi này. Từ đó nâng cao nhận thức của các chủ thể
tham gia đầu tư kinh tế nói chung và đặc biệt là những doanh nghiệp có vị trí độc
quyền nói riêng. Góp phần hạn chế hành vi vi phạm trong thực tiễn và thúc đẩy
môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và văn minh.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền và các quy định của Luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi này
- Phân tích thực trạng hành vi lạm dụng vị trí độc quyền tại Việt Nam hiện
nay cũng như thực trạng xử lý vi phạm.
- Nêu lên những vấn đề cần xem xét và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế, đẩy
lùi hành vi lạm dụng vị trí độc quyền và những kiến nghị về quy định của
Luật cạnh tranh liên quan đến vấn đề này.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6
Đối tượng nghiên cứu: là hành vi lạm dụng vị trí độc quyền và các quy định
của Luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi này
Phạm vi nghiên cứu: Khòa luận tập trung nghiên cứu bản chất, đặc điểm của
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, thực trạng cũng như diễn biến của hành vi
này tại Việt Nam và đề xuất giải pháp để hạn chế hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền và các kiến nghị về quy định pháp luật với hiện tượng này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận này là các phương pháp
nghiên cứu truyền thống như phân tích, luận giải, so sánh, tổng hợp…
KẾT CẤU KHÓA LUẬN
Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
Chương 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC
QUYỀN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH
Chương 3: ĐỀ XUẤT Ý KIẾN VỀ VIỆC XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
7
8
Mục lục
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................... 3
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN ................................................................................... 11
1.1Khái quát chung về quyền lực thị trường của doanh nghiệp và doanh nghiệp có vị trí độc quyền ................................................................................................... 11
1.1.1 Quyền lực thị trường của doanh nghiệp ....................................................... 11
1.1.2 Doanh nghiệp có vị trí độc quyền và nguyên nhân độc quyền ..................... 12
1.2 Khái niệm và đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí độc quyền........................... 14
1.2.1 Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí độc quyền .............................................. 14
1.2.2 Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ......................................... 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH .................................... 24
2.1 Quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam về xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ................................................................................................................. 24
2.1.1 Quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam ...................................................... 24
2.1.2 Đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của pháp luật xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ............................................................................................................... 25
2.2 Phân tích chi tiết quy định pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ................................................................................................................................... 27
2.1.1 Nhóm hành vi lạm dụng mang tính bóc lột .................................................. 28
2.1.2 Nhóm hành vi mang tính độc quyền ............................................................. 37
2.1.3 Nhóm hành vi khác ....................................................................................... 41
2.2.4 Chế tài xử phạt với những hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ..................... 41
2.3 Thực trạng xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ..................................... 42
Vụ việc giữa công ty Xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) và công ty cổ phần hàng không Pacific Airlines (PA) – nay là JP .............................................. 45
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN. ................................................................... 53
3.1 Những bất cập trong quy định của Luật cạnh tranh về xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền .............................................................................................. 53
3.1.1 Khái niệm thị trường liên quan chưa rõ ràng ................................................ 54
9
3.1.2 Chế tài đối với các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền ................................. 55
3.1.3 Các quy định về cơ quan quản lý .................................................................. 58
3.2. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. ........................................................................................................... 59
3.2.1 Quy định pháp luật phù hợp với quan điểm, đường lối và chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ......................................................... 59
3.2.2 Quy định pháp luật phải phù hợp với nguyên tắc kinh doanh; với phong tục, tập quán, chuẩn mực đạo đức kinh doanh; và quy luật vận động khách quan của nền kinh tế thị trường ............................................................................................. 60
3.2.3 Luật cạnh tranh là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các chủ thể kinh doanh và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng ....................................................................................... 61
3.2.4 Luật cạnh tranh phải đảm bảo sự độc lập của bộ máy thực thi và sự tương tác với các lĩnh vực pháp luật khác ........................................................................ 62
3.3 Đề xuất giải pháp ............................................................................................... 63
3.3.1 Hoàn thiện các khái niệm ............................................................................. 63
3.3.2 Hoàn thiện bộ máy cạnh tranh ...................................................................... 64
3.3.3 Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ................................................................................................................................ 65
3.3.4 Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh về xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền .......................................................................................................... 66
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 67
10
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH
VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
*****
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
1.1Khái quát chung về quyền lực thị trường của doanh nghiệp và doanh
nghiệp có vị trí độc quyền
1.1.1 Quyền lực thị trường của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đều có quy mô, đối tượng
kinh doanh, phương thức hay chiến lược riêng trong từng khâu nhất định. Chính
sự khác nhau, đa dạng trong rất nhiều yếu tố kể trên tạo nên một thị trường kinh
tế ngày càng đa dạng và năng động. Trong đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi công ty,
mỗi cơ sở sản xuất đều có một tầm ảnh hưởng nhất định đối với thị trường liên
quan và đó chính là quyền lực thị trường của doanh nghiệp.
Theo cuốn từ điển kinh tế học hiện đại “quyền lực thị trường là khả năng
của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác động
đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua”.
Pháp luật của Canađa coi “quyền lực thị trường là khả năng giữ giá cao hơn
mức giá cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận trong một khoảng thời gian đáng kể,
thông thường là một năm”.
Quyền lực thị trường thể hiện ở việc các quyết định của doanh nghiệp sẽ
ảnh hưởng tốt hoặc xấu không chỉ đến bản thân doanh nghiệp đó, mà còn có
tác động đến những chủ thể nằm ngoài phạm vi doanh nghiệp. Khi một doanh
nghiệp quyết định tăng hoặc giảm giá bán hàng hóa hay dịch vụ mình cung cấp,
11
mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất. Kéo theo đó là một chuỗi thay đổi của
nhiều đối tượng khác nhau, đó là hành vi của người tiêu dùng, các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường liên quan, các doanh nghiệp chuyên cung cấp nguyên liệu
đầu vào và từ đó tạo ra các chuỗi thay đổi khác. Có thể khẳng định mỗi doanh
nghiệp có một quyền lực thị trường nhất định phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau như loại; giá thành; địa điểm bán hay phân phối; số lượng cửa hàng, chi
nhánh, đại lý cung cấp hàng hóa hay dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất. Bên
cạnh đó, thị trường là một sân chơi chung cho mọi doanh nghiệp, giữa các
doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan luôn tồn tại mối quan hệ hai
chiều, quyền lực thị trường của doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến quyền lực thị trường của một hay nhiều doanh nghiệp khác nhau
ở những mức độ khác nhau. Ngắn gọn, có thể hiểu quyền lực thị trường của
doanh nghiệp là khả năng chi phối, sức ảnh hưởng của doanh nghiệp đó đến
chủ thể liên quan.
1.1.2 Doanh nghiệp có vị trí độc quyền và nguyên nhân độc quyền
Khái niệm doanh nghiệp độc quyền
Doanh nghiệp có vị trí độc quyền là doanh nghiệp có quyền lực thị trường
đủ lớn để có thể chi phối đến các chủ thể khác ở một mức độ mà chỉ có doanh
nghiệp đó mới làm được. Theo Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có
vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch
vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan. Dưới góc độ lý
thuyết, vị trí độc quyền đã loại bỏ khả năng có sự tồn tại của cạnh tranh trên thị
trường liên quan bởi tại đó chỉ có một doanh nghiệp duy nhất là doanh nghiệp
đang được xem xét hoạt động. Do đó, khi xác định vị trí độc quyền, cơ quan
cạnh tranh chỉ cần:
(1) Xác định thị trường liên quan;
12
(2) Xác định số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường. Nếu
kết luận đưa ra là chỉ có một doanh nghiệp duy nhất thì doanh nghiệp đó có vị
trí độc quyền.
Những nguyên nhân dẫn đến độc quyền bao gồm:
Thứ nhất là, độc quyền tự nhiên: Độc quyền từ quá trình cạnh tranh, được
tạo ra bởi tích tụ dần theo cơ chế lợi nhuận và các nguồn lực trị trường cứ tích
tụ dần hình thành nên độc quyền
Thứ hai là, độc quyền hình thành từ yêu cầu của công nghệ sản xuất hoặc
yêu cầu tối thiểu về quy mô của ngành kinh tế kỹ thuật. Trong những lĩnh vực
nhất định chỉ có những doanh nghiệp nhất định đáp ứng được yêu cầu về mặt
công nghệ hoặc số vốn đầu tư tối thiểu mới có thể đầu tư có hiệu quả. Từ đó,
theo lẽ tự nhiên thị trường đã trao cho doanh nghiệp đáp ứng đủ khả năng trên
vị trí độc quyền.
Thứ ba là, Độc quyền hình thành từ các rào cản trên thị trường; bao gồm
sự bảo hộ của Nhà nước, sự trung thành của khách hàng, rào cản do lợi thế chi
phí tuyệt đối của doanh nghiệp đang tồn tại đã làm cản trở sự gia nhập thị trường
của doanh nghiệp đối thủ, đồng thời củng cố vị trí độc quyền của doanh nghiệp
đang tồn tại.
Thứ tư là, Độc quyền do sự tích tụ tập trung kinh tế, tập trung kinh tế
diễn ra thông qua việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh và những hình
thức khác.
Từ đó hình thành nên doanh nghiệp độc quyền tự nhiên hay độc quyền Nhà
nước. Vị trí độc quyền đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị trường và khả
năng chi phối các quan hệ trên thị trường.
Cần khẳng định rõ, hiện tượng độc quyền là một tất yếu khách quan trong
sự phát triển tự nhiên của bất kỳ một nền kinh tế nào. Trải qua một quãng thời
gian sản xuất hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, có những doanh nghiệp tự bị bật 13
khỏi thị trường vì không có chiến lược kinh doanh đúng đắn, không có đủ tiềm
lực về vốn hay những nguyên nhân khác; đây chính là quy luật đào thải tự
nhiên. Trụ lại sau những lần chọn lọc tự nhiên đó, có những doanh nghiệp sẽ
đạt được vị trí độc quyền trong thị trường liên quan.
Nói cách khác, bản thân hiện tượng độc quyền là một sản phẩm sinh ra từ
quá trình phát triển kinh tế tự nhiên và chính bởi lẽ đó, độc quyền không hề xấu
và không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật nói chung và pháp
luật canh tranh nói riêng chỉ vào cuộc khi những doanh nghiệp có vị trí độc
quyền và có những hành vi lạm dụng vị trí độc quyền đó.
1.2 Khái niệm và đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
1.2.1 Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Kiểm soát và xử lý các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ môi trường
cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử. Đặc trưng cơ bản của chế định
pháp này là đối tượng áp dụng là những doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên
thị trường. Luật Cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa mà liệt cụ thể
các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Theo đó, chỉ khi
doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện những hành vi được quy định tại
Điều 13 và Điều 14 Luật Cạnh tranh mới bị coi là lạm dụng vị trí độc quyền để
hạn chế cạnh tranh.
Pháp luật của một số nước (điển hình là Canađa cũng có cách tiếp cận
như pháp luật Việt Nam là không đưa ra khái niệm chung mà liệt kê các hành
vi bị coi là vi phạm pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền. Điều 78 Luật Cạnh tranh Canađa liệt kê 11 hành vi bị coi là lạm
dụng (ngoài ra còn cho phép cơ quan có thẩm quyền xử lý những hành vi chưa
được pháp luật liệt kê nhưng thỏa mãn cấu thành pháp lý của hành vi lạm dụng
theo Điều 79). Điều 79 quy định Tòa Cạnh tranh chỉ đưa ra phán quyết xử lý
14
doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp khi chứng minh đủ ba nội dung sau
đây:
Thứ nhất, một hoặc nhiều doanh nghiệp về cơ bãn hoặc hoàn toàn kiểm
soát một loại hình, một phân đoạn kinh doanh, trên toàn lãnh thổ Canađa hay
tại bất kỳ khu vực nào của nó;
Thứ hai, đã hoặc đang thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định
trong luật cạnh tranh;
Thứ ba, hành vi đó đã, đang hoặc có thể làm cản trở, làm giảm cạnh tranh
trên thị trường một cách đáng kể.
Theo Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày
22/4/1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD, “hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền để hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp
có vị trí độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị
trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức
cạnh tranh”i. Bên cạnh khái niệm, hai văn bản này cũng liệt kê cụ thể các hành
vi bị coi là lạm dụng vị trí vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Như vậy,
giống như các chế định khác trong pháp luật cạnh tranh, các quy định trong
pháp luật của các nước và các tổ chức quốc tế về hành vi lạm dụng đều liệt kê
và mô tả dấu hiệu pháp lý của các hành vi cụ thể; đặt ra các điều kiện để xử lý
doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Việc đưa ra khái niệm chỉ có ý nghĩa lý luận,
phục vụ cho công tác nghiên cứu và cho việc nhận thức về bản chất của nhóm
hành vi này. Các quy định liệt kê các hành vi lạm dụng nhằm đảm bảo cho công
tác áp dụng pháp luật được thực hiện một cách công bằng và hiệu quả.
Với những hành vi được liệt kê trong Luật Cạnh tranh, có thể khái quát
thành khái niệm sau: hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền những hành vi do doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường, doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện nhằm củng cố vị trí
15
thống lĩnh, duy trì vị trí độc quyền bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi
thị trường; ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị
trường, phát triển kinh doanh hoặc nhằm thu lợi nhuận độc quyền bằng cách
bóc lột khách hàng.
1.2.2 Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Dù có những khác biệt nhất định trong các quy định về hành vi lạm dụng,
song pháp luật của các nước đều thống nhất rằng nhóm hành vi này có ba đặc
trưng sau đây:
Đặc điểm thứ nhất là, chủ thể thực hiện hành vị là doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan.
Vị trí độc quyền có thể được hình thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh
tranh; từ những điều kiện tự nhiên của thị trường như: yêu cầu về quy mô hiệu
quả tối thiểu, sự biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị
trường; hoặc sự bảo hộ của quyền lực Nhà nước…. Vị trí độc quyền đem lại
cho doanh nghiệp quyền lực thị trường và khả năng chi phối các quan hệ trên
thị trường. Theo cuốn từ điển kinh tế học hiện đại “quyền lực thị trường là khả
năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác
động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc
mua”. Tiếp thu những giá trị truyền thống trong lý thuyết cạnh tranh và các học
thuyết kinh tế, Pháp luật của Canađa coi “quyền lực thị trường là khả năng giữ
giá cao hơn mức giá cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận trong một khoảng thời
gian đáng kể, thông thường là một năm”. Trong khi đó, pháp luật của Cộng hòa
Pháp sử dụng đồng thời hai cách tiếp cận về quyền lực thị trường là cách tiếp
cận mang tính học thuyết và cách tiếp cận mang tính thực tiễn. Cách tiếp cận
thứ nhất đã áp dụng định nghĩa trừu tượng mà các án lệ đã đưa ra: “doanh
nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có khả năng thoát khỏi cạnh
tranh thực chất, không chịu ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo
trên thị trường đó”. Thế nên, thay vì phải tuân theo quy luật của thị trường,
16
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền có thể tự làm luật trên thị
trường đó. Cách tiếp cận thực tiễn được hình thành từ triết lý cho rằng “người
lạm dụng không hẳn là người muốn lạm dụng, nhưng người lạm dụng chắc
chắn phải là người có khả năng lạm dụng”. Thế nên, người ta thừa nhận sự tồn
tại của sự thống lĩnh trên một thị trường khi trên thị trường đó xuất hiện những
hành vi mà nếu có cạnh tranh thực chất thì những hành vi đó đã không thể thực
hiện được. Sự khác nhau nói trên đã đưa đến những khác biệt về căn cứ pháp
lý được sử dụng để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp trong pháp luật của các nước.
Pháp luật Canađa chủ yếu sử dụng thị phần và các rào cản gia nhập thị
trường, trong khi Pháp luật của Pháp lại sử dụng đa tiêu chí để xác định vị trí
thống lĩnh, bao gồm: thị phần của doanh nghiệp, sự mất cân đối giữa các lực
lượng thị trường như quy mô của doanh nghiệp, doanh nghiệp có trực thuộc
hay không trực thuộc vào một tập đoàn, khả năng tài chính, sự yếu kém của đối
thủ cạnh tranh.., diễn biến về sự thay đổi thị phần của doanh nghiệp, việc nắm
giữ một số lợi thế về công nghệ, hiệu quả quản lý, ưu thế nhãn hiệu và các yếu
tố bên ngoài có thể cho phép doanh nghiệp tránh được sự cạnh tranh thực chất.
Dù có sự khác nhau trong quan niệm về quyền lực thị trường, song pháp luật
của các nước đều thống nhất rằng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đem lại cho
doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác và đem lại khả
năng chi phối các quan hệ với khách hàng. Những lợi thế cạnh tranh có thể là
khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (như nguồn nguyên liệu, giá cả,
số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói quen
tiêu dùng của khách hàng .v.v.) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng
trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ
của nó (bao gồm cả đối thủ tiềm năng). Trong quan hệ ấy, doanh nghiệp có điều
kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây khó khăn cho đối thủ trong quá trình
kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường. Đối với khách hàng, vị trí
thống lĩnh hoặc độc quyền đã khẳng định địa vị quan trọng của doanh nghiệp 17
trong cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường liên quan bởi họ là nguồn
cung hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị trường. Vì thế, quyền lựa chọn của khách
hàng đã bị hạn chế, nhu cầu của khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng đáp ứng
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có cơ hội để bóc lột khách hàng bằng cách
đặt ra những điều kiện giao dịch không công bằng.
Về mặt học thuật, có hai vấn đề cần phải làm rõ như sau:
Một là, mục đích của pháp luật về chống hành vi lạm dụng là nhằm tạo
ra một khuôn khổ thị trường trong đó mọi doanh nghiệp đều có cơ hội thành
công hay thất bại tùy thuộc vào năng lực cạnh tranh. Các quy định của pháp
luật được áp dụng nhằm thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả và không ảnh hưởng đến
lợi ích hợp pháp của bất kỳ đối thủ cạnh tranh hay nhóm đối thủ cạnh tranh nào.
Mặt khác, các chính sách cạnh tranh được xây dựng và được áp dụng để khuyến
khích cạnh tranh mà không phải để trừng phạt các doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền. Nếu vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp
được tạo lập hợp pháp và doanh nghiệp thực hiện các chiến lược cạnh tranh
lành mạnh (cho dù kết quả của chiến lược đó có loại bỏ đối thủ cạnh tranh) thì
pháp luật cạnh tranh chưa thể xử lý doanh nghiệp. Nói cách khác, việc áp dụng
pháp luật chống lạm dụng không nhằm xoá bỏ vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc
quyền của doanh nghiệp mà chỉ loại bỏ hành vi lạm dụng vị trí thống trị thị
trường để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh. Một khi doanh nghiệp có quyền
lực thị trường chưa có các biểu hiện của sự lạm dụng thì chúng vẫn là chủ thể
được pháp luật bảo vệ.
Hai là, chủ thể thực hiện việc lạm dụng có thể là một doanh nghiệp đơn
lẻ hoặc một nhóm doanh nghiệp (tối đa là 4) có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc
quyền trên thị trường liên quan. Đối với vụ việc điều tra về hành vi lạm dụng
của nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị trường, cơ quan có thẩm quyền cần
phải phân biệt được hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh với các thoả thuận hạn
chế cạnh tranh. Bởi trong pháp luật về hạn chế cạnh tranh, những thỏa thuận
18
hạn chế cạnh tranh do một nhóm doanh nghiệp thực hiện, mặt khác, nội dung
của một số thỏa thuận có biểu hiện giống với các hành vi lạm dụng như: phân
chia thị trường, hạn chế sản sản xuất, phân phối sản phẩm, hạn chế phát triển
khoa học kỹ thuật…. Khi một nhóm doanh nghiệp (với tổng thị phần kết hợp
đủ để thống lĩnh thị trường) thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường để hạn chế cạnh tranh thì giữa họ không có sự thoả thuận trước. Nếu cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền có đủ chứng cứ chứng minh rằng đã tồn tại một
thoả thuận trong nhóm doanh nghiệp đó để thực hiện những hành vi nói trên thì
hành động của họ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật chống thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh.
Đặc điểm thứ hai là, doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh,
doanh nghiệp độc quyền đã hoặc đang thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh
được quy định trong Luật Cạnh tranh
Điều 13 Luật Cạnh tranh nghiêm cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh sau:
- Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh;
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo
bất bình đẳng trong cạnh tranh;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
19
- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. Với các
doanh nghiệp độc quyền, ngoài những hành vi trên, Điều 14 Luật Cạnh tranh
còn cấm thực hiện hai hành vi sau:
- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
- Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết
mà không có lý do chính đáng. Với các quy định tại Điều 13 và Điều 14 Luật
Cạnh tranh, có thể kết luận rằng cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể xử lý doanh
nghiệp về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn
chế cạnh tranh khi chứng minh đủ hai điều kiện sau:
Một, doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra có vị trí thống lĩnh
thị trường hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền;
Hai, doanh nghiệp đó đã, đang thực hiện một trong những hành vi hạn
chế cạnh tranh kể trên. Do đó, nếu hành vi trên do doanh nghiệp bình thường
thực hiện thì không thể kết luận đó là hành vi lạm dụng. Tương tự, doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền thực hiện những chiến lược, những hành vi
cạnh tranh không thuộc các trường hợp trên cũng không làm xuất hiện hành vi
lạm dụng. Như vậy, các quy định về lạm dụng đã đưa ra một ranh giới ứng xử
về cạnh tranh cho các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc
quyền. Các cơ quan có thẩm quyền không thể áp dụng các biện pháp xử lý nếu
các doanh nghiệp chưa vượt quá giới hạn cho phép và ngược lại.
Căn cứ vào các quy định hiện hành, doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc
quyền không thể bị quy kết là đã có hành vi lạm dụng nếu thực hiện những
hành vi không thuộc những trường hợp được liệt kê tại Điều 13 và Điều 14 Luật
Cạnh tranh. Về vấn đề này, pháp luật của các nước có những cách tiếp cận rộng
hơn. Điều 78 Luật Cạnh tranh Canađa liệt kê những hành vi lạm dụng, song
thực tiễn áp dụng lại cho thấy, Cục Cạnh tranh và Tòa Cạnh tranh Canađa còn
chấp nhận một số hành vi không được liệt kê trong Điều 78 là hành vi phản
20
cạnh tranh nếu thỏa mãn ba điều kiện theo quy định tại Điều 79 đã được đề cập
ở phần trên. Tương tự, Hội đồng Cạnh tranh của Cộng hòa Pháp đã thừa nhận
rằng một số hành vi dù không thuộc diện bị cấm nhưng vẫn có thể bị coi là cản
trở đối với sự vận hành bình thường của thị trường vì những hành vi đó do một
doanh nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh thực hiện với động cơ phản cạnh tranh rõ
rệt. Như vậy, với cách giải quyết này, chế định về hành vi lạm dụng trong pháp
luật của các nước có thể được mở rộng bằng quyền của cơ quan cạnh tranh
trong việc đánh giá mục đích và khả năng phản cạnh tranh của những hành vi
không được pháp luật liệt kê.
Về bản chất, lạm dụng vị trí độc quyền để hạn chế cạnnh tranh là việc
các doanh nghiệp đã khai thác lợi thế mà quyền lực thị trường đem lại trong
quan hệ với khách hàng để áp đặt những điều kiện giao dịch bất lợi cho khách
hàng như áp đặt giá bán cao, áp đặt giá mua thấp, áp đặt các điều kiện mua bán
bất hợp lý.... Với những hành vi bóc lột khách hàng, doanh nghiệp có quyền
lực thị trường đã thâu tóm toàn bộ thặng dư xã hội (bao gồm toàn bộ thặng dư
sản kinh doanh và toàn bộ thặng dư tiêu dùng). Do đó, cạnh tranh đã không có
cơ hội phát huy tác dụng đối với thị trường nói chung và đối với khách hàng,
người tiêu dùng nói riêng. Trong quan hệ cạnh tranh với đối thủ, các doanh
nghiệp đã sử dụng lợi thế mà quyền lực thị trường đem lại để thực hiện các
chiến lược cạnh tranh nhằm chèn ép; ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối
thủ cạnh tranh tiềm năng. Trong những trường hợp này, doanh nghiệp đã làm
giảm, làm cản trở sự phát triển của tình trạng cạnh tranh trên thị trường.
Dưới góc độ kinh tế, các doanh nghiệp thực hiện hành vi đã khai thác sự
yếu thế của khách hàng; của đối thủ để củng cố, duy trì vị trí hiện tại của mình
trên thị trường. Môi trường cạnh tranh không vận hành theo đúng quy luật hoặc
bị cản trở, bị tiêu diệt nên pháp luật cần can thiệp để tái thiết lập các điều kiện
thuận lợi cho cạnh tranh hoạt động trở lại.
21
Dưới góc độ pháp lý, khi thực hiện hành vi lạm dụng, doanh nghiệp đã
vi phạm nghĩa vụ đặc thù của doanh nghiệp có vị trí độc quyền là “ không được
làm giảm mức độ cạnh tranh hiện có trên thị trường”.
Hậu quả của hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh
tranh trên thị trường liên quan
Đặc trưng này cho thấy tác hại của hành vi lạm dụng đối với thị trường.
Doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng nhằm duy trì, củng cố vị trí hiện có
hoặc nhằm thu lợi ích độc quyền từ việc bóc lột khách hàng. Do đó, việc thực
hiện hành vi có thể gây ra những thiệt hại cho một số đối tượng cụ thể, song
nghiêm trọng hơn là làm suy giảm, cản trở tình trạng cạnh tranh của thị trường.
Vì vậy, pháp luật của các nước đều buộc cơ quan có thẩm quyền phải chứng
minh hành vi lạm dụng đã, đang hoặc có thể sẽ gây hậu quả ngăn cản hay hạn
chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường.
OECD cũng đưa ra khuyến nghị về việc xác định hành vi lạm dụng, trong
đó họ cảnh báo rằng chỉ có thể chống lại có kết quả sự lạm dụng quyền lực thị
trường, khi pháp luật và người thi hành nó xác định được “những hành vi cụ
thể có thể gây hại cho cạnh tranh và đánh giá được những tác động toàn diện
của chúng trên thị trường có liên quan”.
Điều 79 Luật Cạnh tranh Canada quy định một trong những điều kiện để
xứ lý doanh nghiệp có quyền lực thị trường đã thực hiện hành vi làm dụng là
hành vi đã, đang hoặc có thể gây ra hậu quả ngăn cản hay hạn chế cạnh tranh
đáng kể trên thị trường. Pháp luật của Cộng hòa Pháp cũng có những quy định
tương tự.
Theo pháp luật của những quốc gia trên thì hậu quả không phải là yếu tố
cấu thành của hành vi lạm dụng mà là điều kiện để xử lý doanh nghiệp có hành
vi lạm dụng. Với cách tiếp cận này, trong vụ việc về hành vi lạm dụng, cơ quan
có thẩm quyền của các nước sẽ xác định ba nội dung sau đây:
22
Một, doanh nghiệp bị điều tra có hay không vị trí độc quyền;
Hai, doanh nghiệp bị điều tra có thực hiện hành vi lạm dụng không;
Ba, hành vi lạm dụng có gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả phản cạnh
tranh hay không.
Luật Cạnh tranh của Việt Nam không đi theo xu hướng này. Theo đó,
Luật Cạnh tranh coi hậu quả hạn chế cạnh tranh là một trong những yếu tố cấu
thành nên hành vi lạm dụng. Do đó, khi điều tra vụ việc về hành vi lạm dụng,
cơ quan có thẩm quyền chỉ cần chứng minh hai nội dung là:
Một, doanh nghiệp bị điều tra có vị trí độc quyền;
Hai, doanh nghiệp bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi lạm dụng
được quy định tại Điều 13, Điều 14 Luật Cạnh tranh. Hậu quả hạn chế cạnh
tranh đã được chuyển hóa trong những dấu hiệu pháp lý của từng hành vi lạm
dụng. Dấu hiệu về hậu quả của hành vi là căn cứ để phân biệt hành vi lạm dụng
với hiện tượng tập trung kinh tế (cũng là một dạng hạn chế cạnh tranh). Tập
trung kinh tế được Luật Cạnh tranh quy định bao gồm bốn hành vi (sáp nhập,
hợp nhất, mua lại và liên doanh). Thực chất, bốn hành vi này tạo thành những
chiến lược của các doanh nghiệp tập trung các nguồn lực hiện có bằng cách tập
trung hoặc liên kết những yếu tố về vốn, thị trường, lao động… từ các doanh
nghiệp tham gia nhằm nâng cao khả năng kinh doanh và cạnh tranh, hình thành
nên các thế lực độc quyền mà không thông qua sự tích tụ tư bản (tích tụ dần từ
hiệu quả kinh tế). Từ đó, khả năng làm giảm, sai lệch hoặc hạn chế cạnh tranh
của tập trung kinh tế được chứng minh trên cơ sở những suy đoán về việc các
doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh có thể tạo ra doanh
nghiệp, nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị trường làm thay đổi cấu trúc và
tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Trong khi đó,
hành vi lạm dụng gây ra hậu quả là những thiệt hại về lợi ích mà các doanh
nghiệp khác, hoặc khách hàng phải gánh chịu.
23
Nói cách khác, pháp luật chống lạm dụng hướng đến việc cấm đoán hành
vi, còn pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế có nhiệm vụ ngăn chặn khả năng
hình thành các thế lực có quyền lực trên thị trường bằng việc tiến hành tập trung
kinh tế.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH
TRANH
2.1 Quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam về xử lý hành vi lạm dụng vị
trí độc quyền
2.1.1 Quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam
Điều 12 Luật cạnh tranh 2004 xác định doanh nghiệp được coi là có vị
trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ
mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan. Tại Điều 13 và Điều
14 Luật cạnh tranh 2004, các nhà lập pháp đã liệt kê và minh thị rõ tám hành
vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm.
Mục 4 Nghị Định 116/ 2005 NĐ-CP – Quy định chi tiết thi hành một số
quy định của Luật cạnh tranh, đã giải thích rõ các khái niệm quan trọng trong
việc xác định hành vi của doanh nghiệp có vị trí độc quyền có phải là hành vi
lạm dụng hay không và giải thích chi tiết về những hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền.
Nghị định số 120/2005/NĐ-CP – Quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh
vực cạnh tranh có quy định rõ về chế tài xử phạt với những hình vi lạm dụng
vị trí độc quyền
Nghị định số 05/2006/NĐ-CP và Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của hai cơ quan quản lý cạnh tranh
thực hiện nhiệm vụ giám sát và xử lý các trường hợp lạm dụng vị trí độc quyền
là Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng quản lý cạnh tranh.
24
2.1.2 Đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của pháp luật xử lý hành vi lạm
dụng vị trí độc quyền
Đặc điểm của pháp luật Cạnh tranh kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền
Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền nhằm
mục đích tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, cân bằng lợi ích của các chủ
thể trên thị trường và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội quốc gia.
Thứ hai, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền chỉ can
thiệp vào những nơi, những quan hệ, những hành vi không đảm bảo sự cạnh
tranh mang tính hiệu quả.
Thứ ba, trách nhiệm kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm trước hết sẽ
thuộc về các cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh mà không cần thiết
phải có sự tố cáo hay khiếu kiện từ phía đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng của
doanh nghiệp bị kiểm soát hay từ phía người dân.
Nguyên tắc của pháp luật Cạnh tranh xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 120/2005/ NĐ-CP Nguyên tắc xử
lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh, ta có:
1. Việc xử lý hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh
phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
a) Mọi hành vi vi phạm phải được phát hiện kịp thời. Việc xử lý hành vi vi phạm
phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do hành vi
vi phạm gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
b) Việc xử lý hành vi vi phạm phải tuân theo các trình tự, thủ tục trong tố tụng
cạnh tranh được quy định tại chương III của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP
25
ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Cạnh tranh và các quy định tại Nghị định này;
c) Việc xử lý hành vi vi phạm phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng
thẩm quyền do pháp luật quy định;
d) Một hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh chỉ bị xử lý một lần; một doanh
nghiệp thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử lý đối với từng hành vi vi
phạm;
đ) Không tiến hành xử lý hành vi vi phạm theo quy định của Nghị định này đối
với những hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm.
Vai trò của quy định pháp luật về xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền:
Thứ nhất, góp phần duy trì tương quan thị trường trong môi trường cạnh
tranh lành mạnh. Kiếm soát doanh nghiệp có vị trí độc quyền nhằm tránh hành
vi lạm dụng. Đồng thời, điều hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh trên thị
trường với lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ hai, khuyến khích doanh nghiệp có vị trí độc quyền bằng con đường
cạnh tranh lành mạnh. Thực hiện các biện pháp ngăn chặn các hậu quả tiêu cực
do hành vi lạm dụng vị trí độc quyền gây ra. Góp phần bảo đảm sự ổn định và
phát triển của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, thúc đẩy sự phát triển của nguyên tắc tự do kinh doanh nhưng
vẫn đảm bảo có sự quản lý và điều tiết của nhà nước.
Thứ tư, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đối thủ cạnh tranh
lành mạnh nhưng yếu thế của các doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Tăng cường
sức mạnh tự bảo vệ của người tiêu dùng trước những hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp độc quyền.
26
Thứ năm, giúp Việt Nam nhanh chóng mở rộng thị trường và đáp ứng
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ nền kinh tế thị trường quốc gia.
2.2 Phân tích chi tiết quy định pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền
Theo Điều 12 Luật cạnh tranh 2004, Doanh nghiệp được coi là có vị trí
độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà
doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.
Đồng thời, căn cứ Điều 13 và Điều 14 Luật cạnh tranh 2004, các hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm bao gồm:
1. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh;
2. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán
lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
4. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo
bất bình đẳng trong cạnh tranh;
5. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
7. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
8. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng.
27
Nhận xét, Luật cạnh tranh đã liệt kê rõ ràng và chi tiết những hành vi bị
coi là lạm dụng vị trí độc quyền. Căn cứ vào tính chất và mục đích của chủ thể
thực hiện, có thể chia các hành vi lạm dụng thành hai nhóm hành vi sau đây
2.1.1 Nhóm hành vi lạm dụng mang tính bóc lột
Nhóm hành vi lạm dụng mang tính bóc lột là những hành vi của doanh
nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan đã áp đặt những điều kiện
thương mại bất lợi cho khách hàng nhằm thu lợi nhuận độc quyền. Nhóm hành
vi này có các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, đối tượng mà nhóm hành vi này hướng đến là khách hàng của
doanh nghiệp làm phát sinh trong quan hệ giữa doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh, có vị trí độc quyền với khách hàng. Ở đó, hiện tượng trăm người bán, vạn
người mua sẽ là cơ hội cho người bán tận dụng để đưa ra những điều kiện bất
lợi cho người mua trong giao dịch.
Thứ hai, hành vi lạm dụng đem lại lợi ích cho doanh nghiệp không từ
hiệu quả kinh doanh mà từ những điều kiện thương mại bất lợi mà khách hàng
phải gánh chịu. Theo Luật Cạnh tranh, nhóm hành vi này bao gồm các hành vi
sau đây:
1. Áp đặt giá mua giá bán hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
2. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
3. Phân biệt đối xử trong các giao dịch như nhau;
4. Áp đặt các điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc các doanh nghiệp khác phải chấp nhận những nghĩa vụ
không liên quan đến hợp đồng.
28
2.1.1.1 Áp đặt giá mua giá bán hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định
giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
Hành vi áp đặt giá mua, giá bán bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại gây
thiệt hại cho khách hàng được coi là điển hình cho nhóm hành vi lạm dụng
mang tính bóc lột. Với hành vi này, khách hàng đã phải chịu thiệt hại bởi giá
mà họ phải mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm; hoặc phải bán với
giá thấp hơn giá thành của sản phẩm. Giá mua, bán sản phẩm trên thị trường
không được hình thành từ cạnh tranh mà do các doanh nghiệp độc quyền ấn
định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định với giá cạnh tranh (giả định) là
khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có vị trí độc quyền có được.
Do đó, lợi nhuận mà việc ấn định giá bất hợp lý đem lại cho doanh nghiệp
không phải do khả năng kinh doanh hay do khả năng đàm phán, trả giá mang
lại, mà do kết quả của sự lạm dụng vị trí độc quyền, lạm dụng tình trạng không
có khả năng lựa chọn khác của khách hàng để buộc họ phải chấp nhận mức giá
mà doanh nghiệp có sức mạnh thị trường áp đặt.
Theo Luật Cạnh tranh và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, nhóm hành vi
này có ba loại vi phạm cụ thể sau đây:
LOẠI THỨ NHẤT: Hành vi áp đặt giá mua hàng hoá dịch vụ bất hợp lý
gây thiệt hại cho khách hàng, là “việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc
độc quyền trên thị trường liên quan khi mua hàng hoá, dịch vụ đã áp đặt giá
mua được đặt ra thấp hơn giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ trong điều kiện
chất lượng hàng hóa không suy giảm và thị trường không có biến động về giá
bán buôn của hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ”.
Trong trường hợp này, doanh nghiệp thực hiện hành vi đang đóng vai trò
là người mua hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Với quy định trên, để xác định
hành vi, cần chứng minh hai dấu hiệu sau đây:
29
- Thứ nhất, giá của hàng hóa, dịch vụ đã bị doanh nghiệp thực hiện hành vi áp
đặt thấp hơn giá thành sản xuất. Để xác định dấu hiệu này, cơ quan có thẩm
quyền so sánh giá mua bán của sản phẩm với giá thành của chúng. Dấu hiệu
này được thỏa mãn nếu kết quả so sánh cho thấy giá mua bán thấp hơn giá thành
của hàng hóa, dịch vụ và ngược lại.
- Thứ hai, việc áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ thấp hơn giá thành là bất hợp
lý. Việc áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ thấp hơn giá thành là bất hợp lý nếu
thỏa mãn hai điều kiện:
- Chất lượng hàng hoá, dịch vụ không kém hơn trước đó;
- Không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc biến động bất thường
làm giá bán buôn hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan giảm
tới mức dưới giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp so
với trước đó. Bằng việc áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý, doanh
nghiệp có vị trí độc quyền đã buộc khách hàng phải chấp nhận lỗ để tiêu thụ
được sản phẩm mà không có lý do chính đáng. Doanh nghiệp đã sử dụng vị trí
độc quyền làm lợi thế trước khách hàng để gây bất lợi cho họ nhằm thu lợi ích
độc quyền
LOẠI THỨ HAI, Hành vi áp đặt giá bán hàng hoá, dịch vụ được coi là bất hợp
lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột
biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh
nghiệp và hành vi đó xảy ra trong hai trường hợp sau đây:
- Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với
tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu
đó;
30
- Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hoá,
dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt
đầu tăng giá
LOẠI THỨ BA, Áp đặt giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc
doanh nghiệp khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ
bán lại hàng hoá thấp hơn mức đã quy định trước
Giá bán lại là kết quả của sự áp đặt của nhà sản xuất đối với người phân
phối, thiếu vắng yếu tố tự nguyện, tự do ý chí của người phân phối trong việc
xác định mức giá bán lại. Theo đó, với vị trí độc quyền, doanh nghiệp không
cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hoá thấp hơn mức đã
quy định trước. Nhà phân phối, nhà bán lẻ chỉ còn có thể bán hại hàng hóa bằng
hoặc cao hơn mức giá sàn đã được doanh nghiệp ấn định. Với hành vi này,
doanh nghiệp đã không gây thiệt hại trực tiếp cho các nhà phân phối, các nhà
bán lẻ mà buộc họ phải hợp tác với mình để bóc lột khách hàng mua lại hàng
hóa.
2.1.1.2 Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý, giới hạn
thị trường cản trở phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách
hàng
Là người nắm giữ thị phần lớn,doanh nghiệp độc quyền sẽ đại diện cho
khả năng cung hoặc cầu của thị trường liên quan, các quyết định về lượng hàng
hóa, dịch vụ được sản xuất, mua, bán sẽ ảnh hưởng đến mức độ thoả mãn nhu
cầu cho khách hàng. Do ở vào địa vị thấp hơn trong giao dịch bởi quyền lựa
chọn bị hạn chế, nên khi bị vi phạm quyền lợi, khách hàng rất khó phản ứng lại
vì không thể sử dụng các cơ chế trừng phạt tự nhiên của thị trường để răn đe
doanh nghiệp.
Nhóm hành vi này bao gồm ba loại hành vi cụ thể sau đây:
31
a. Hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng là
hành vi giảm khả năng cung hàng hoá, dịch vụ một cách giả tạo để lũng
đoạn thị trường, làm biến động quan hệ cung - cầu theo hướng có lợi cho
doanh nghiệp trong giao dịch với khách hàng.
Hậu quả mà hành vi này gây ra cho khách hàng không chỉ là nhu cầu của
họ về hàng hoá, dịch vụ không được đáp ứng đầy đủ theo đúng khả năng thực
có của thị trường mà còn là những điều kiện mua bán như giá cả, phương thức
phân phối, cung ứng… sẽ thay đổi theo hướng bất lợi cho khách hàng.
b. Hạn chế thị trường gây thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn
nguồn mua sản phẩm mà không có lý do chính đáng gây thiệt hại cho khách
hàng.
Với hành vi này, doanh nghiệp đã giới hạn thị trường mua hàng hóa, dịch
vụ theo nguồn cung cấp (theo khách hàng). Chứng cứ về hành vi này là việc
doanh nghiệp đã từ chối không mua hàng hóa, dịch vụ từ những nguồn cung
khác mà không có lý do chính đáng. Theo Điểm b Khoản 2 Điều 28 Nghị định
số 116/2005/NĐ- CP, doanh nghiệp được quyền từ chối mua hàng hóa, dịch vụ
từ các nguồn khác nếu các nguồn này không đáp ứng được những điều kiện
hợp lý và không phù hợp với tập quán thương mại thông thường do bên mua
đặt ra.
c. Hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng
là việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở việc nghiên cứu
phát triển kỹ thuật, công nghệ hoặc ngăn cản việc ứng dụng tiến bộ khoa
hoặc kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh.
Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng
bao gồm các loại hành vi sau đây:
32
- Một là, mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy
hoặc không sử dụng.Việc tiêu hủy hoặc không sử dụng những đối tượng trên
cho thấy doanh nghiệp thực hiện hành vi không có ý định khai thác lợi ích của
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để phục vụ cho hoạt động
kinh doanh mà chỉ lợi dụng quyền được bảo hộ để ngăn cản các doanh nghiệp
khác không được tiếp cận và sử dụng những đối tượng đó. Vì vậy, dù đã xác
lập tư cách chủ sở hữu đối với các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp,
song pháp luật không thể bảo hộ, che chắn cho những toan tính không tử tế nói
trên của doanh nghiệp có quyền lực thị trường.
- Hai là, đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công
nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó.
2.1.1.3 Hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cho các giao
dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng cho khách hàng (còn gọi là hành
vi phân biệt đối xử trong thương mại)
Điều 29 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định việc áp đặt điều kiện
thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh là hành vi phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về
điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch
mua, bán hàng hoá, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá,
dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn
so với doanh nghiệp khác.
Quy định trên cho thấy cấu thành pháp lý của hành vi này bao gồm các
yếu tố sau đây:
- Thứ nhất, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã áp dụng các điều kiện mua,
bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng khác nhau trong những giao dịch như
nhau.
33
- Thứ hai, hành vi gây ra tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các khách
hàng. Xét về mặt hậu quả, hành vi phân biệt đối xử không xâm hại đến đối thủ
cạnh tranh trực tiếp của doanh nghiệp vi phạm mà nó bóp méo diện mạo cạnh
tranh giữa các khách hàng của doanh nghiệp. Do đó, các khách hàng của doanh
nghiệp phải là những chủ thể kinh doanh và hoạt động trên cùng thị trường liên
quan với nhau. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định sự bất bình đẳng là
tình trạng một một số doanh nghiệp có được vị trí có lợi hơn so với doanh
nghiệp khác. Vị trí cạnh tranh có lợi mà Nghị định mô tả nhìn dưới góc độ kinh
tế học được xem xét dưới hai tình huống, sau đây:
- Việc phân biệt đối xử tạo ra những ưu thế cho một số khách hàng so với những
khách hàng khác, ví dụ giá sản phẩm được tính rẻ hơn người khác hoặc thời
gian giao hàng được sớm hơn…;
- Việc phân biệt đối xử tạo ra những tình trạng bất lợi hơn của một hoặc một số
khách hàng so với những khách hàng khác, ví dụ như áp đặt các điều kiện giao
sản phẩm bất lợi hơn, giá cả cao hơn… người khác. Hai tình huống trên tương
ứng với hai nội dung của sự phân biệt, đó là áp đặt các điều kiện thương mại
ưu đãi cho một hoặc một vài khách hàng nhất định nào đó trong các giao dịch
tương tự với các khách hàng còn lại; hoặc áp đặt điều kiện thương mại mang
tính bất lợi cho một hoặc một số khách hàng khác so với điều kiện thương mại
thông thường của các giao dịch tương tự khác.
2.1.1.4 Hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán
hàng hoá, dịch vụ, hoặc buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
a. Hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ
Khoản 1 Điều 30 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định “Áp đặt cho
các doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ
34
là việc áp đặt những điều kiện tiên quyết mà khách hàng phải chấp nhận trước
khi ký kết hợp đồng, bao gồm:
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa khác; hạn chế mua, cung ứng dịch vụ
khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định
của pháp luật về đại lý;
- Hạn chế về địa điểm, bán lại hàng hoá trừ những hàng hoá thuộc danh mục
mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định
của pháp luật;
- Hạn chế về khách hàng mua lại hàng hoá trừ những hàng hoá thuộc danh mục
mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định
của pháp luật;
- Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp”.
Quy định trên cho thấy cấu thành pháp lý của hành vi này bao gồm các
yếu tố sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp đã buộc khách hàng khi mua, bán hàng hóa, dịch
vụ phải chấp nhận các điều kiện có nội dung hạn chế cạnh tranh. Như vậy,
ngoài nghĩa vụ của bên mua hoặc bên bán hàng hóa dịch vụ, khách hàng phải
chấp nhận thêm các điều kiện ký kết hợp đồng do doanh nghiệp đặt ra. Những
điều kiện này có thể là một nghĩa vụ nằm trong một vài điều khoản của hợp
đồng hoặc chỉ là một yêu cầu độc lập được doanh nghiệp đưa ra khi đàm phán
ký kết hợp đồng.
Thứ hai, các điều kiện được đưa ra phải là điều kiện tiên quyết cho việc
ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ. Cho đến nay, pháp luật cạnh tranh
chưa giải nghĩa cụm từ điều kiện tiên quyết cho việc ký kết hợp đồng. Do đó,
điều kiện tiên quyết cho việc ký kết hợp đồng có thể được hiểu là những yêu
cầu được đưa ra mà khách hàng phải chấp nhận thì mới tiến hành ký kết hợp
35
đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ. Nếu khách hàng không chấp nhận điều kiện
đưa ra, doanh nghiệp sẽ không tiến hành đàm phán hoặc ký kết hợp đồng.
b. Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định “buộc doanh
nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng
của hợp đồng là hành vi gắn việc mua bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của
hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người
được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài
phạm vi cần thiết thực hiện hợp đồng” .
Với hành vi buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, doanh nghiệp đã bắt khách hàng
phải mua thêm hàng hóa, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc từ người thứ ba
được chỉ định hoặc phải thực hiệm thêm những nghĩa vụ nằm ngoại phạm vi
cần thiết để thực hiện hợp đồng. Như vậy, có hai vấn đề được đặt ra khi nghiên
cứu và xác định hành vi này:
- Một là, hành vi này đã hình thành nên các hợp đồng mua bán kèm. Hợp đồng
mua bán kèm là loại hợp đồng mà ngoài đối tượng chính của việc mua bán,
khách hàng phải chấp nhận mua thêm hàng hóa, dịch vụ khác hoặc thực hiện
thêm những nghĩa vụ khác (đối tượng phụ). Đối tượng phụ của hợp đồng mua
bán không phải là những nghĩa vụ đương nhiên phát sinh từ hợp đồng mua bán
đối tượng chính. - Hai là, đối tượng chính và đối tượng phụ trong hợp đồng
mua bán kèm không liên quan trực tiếp với nhau. Nghị định số 116/2005/NĐ-
CP giải nghĩa không liên quan trực tiếp là việc mua thêm hàng hóa, dịch vụ
hoặc thực hiện thêm những nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện
hợp đồng.
36
2.1.2 Nhóm hành vi mang tính độc quyền
Hành vi lạm dụng mang tính độc quyền là những hành vi do doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thực hiện nhằm kìm hãm cạnh tranh bằng cách
loại bỏ, ngăn cản đối thủ tham gia thị trường để duy trì, củng cố quyền lực thị
trường. Có hai dấu hiệu cần phải chú ý khi phân tích bản chất của nhóm hành
vi này là:
Thứ nhất, đối tượng mà hành vi này hướng đến là đối thủ cạnh tranh. Đối
thủ cạnh tranh có thể là các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hoặc các
đối thủ tiềm năng (bao gồm những doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường
khác và những nhà đầu tư có ý định tham gia vào thị trường liên quan của doanh
nghiệp).
Thứ hai, nhóm hành vi này có thể không đem lại lợi ích vật chất trực tiếp
nhưng tạo cơ hội cho doanh nghiệp củng cố địa vị bằng cách loại bỏ đối thủ.
Sự ra đi hoặc việc từ bỏ ý định gia nhập thị trường sẽ giảm bớt sức ép cạnh
tranh cho doanh nghiệp, đồng thời khách hàng sẽ mất đi cơ hội có được sự lựa
chọn trong giao dịch trên thị trường liên quan.
Nhóm hành vi này bao gồm hai hành vi là:
- Hành vi bán hàng hoá, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh (còn gọi là hành vi định giá cướp đoạt hoặc hành vi định giá hủy
diệt).
- Hành vi ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới.
2.1.2.1 Hành vi bán hàng hoá, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh (còn gọi là hành vi định giá cướp đoạt hoặc hành vi
định giá hủy diệt)
Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định “trừ những trường hợp
đặc biệt, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ
37
đối thủ canh tranh là việc bán hàng với mức giá thấp hơn tổng các chi phí sau
đây:
- Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp
luật hoặc gia mua hàng hoá để bán lại;
- Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật”
Từ quy định trên, khi điều tra về hành vi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành xác định và so sánh giữa giá bán trên thực tế và giá thành toàn bộ của
cùng một sản phẩm như sau:
- Xác định giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ. Giá bán hàng hoá, dịch vụ
là giá bán thực tế của doanh nghiệp trong các giao dịch với khách hàng.
- Xác định giá thành sản xuất toàn bộ. Giá thành toàn bộ được hiểu là mức giá
cơ bản được cấu thành từ các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu
thông…của sản phẩm và được các doanh nghiệp sử dụng làm các căn cứ xác
định giá bán hàng hoá, dịch vụ của mình.
- So sánh giá bán thực tế và giá thành toàn bộ của sản phẩm để xác định hành
vi
2.1.2.2 Hành vi ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh
mới
Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới là
hành vi tạo ra những rào cản về giá hoặc về nguồn tiêu thụ, nguồn nguyên vật
liệu… trên thị trường liên quan. Việc xác định hành vi ngăn cản cần phải làm
rõ một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần xác định rõ đối thủ cạnh tranh mới. Đối thủ cạnh tranh mới là
doanh nghiệp đang tìm cách tham gia thị trường (có thể gọi là doanh nghiệp
mới). Cần phân biệt thuật ngữ doanh nghiệp mới và doanh nghiệp mới thành
38
lập. Thuật ngữ doanh nghiệp mới trong Luật Cạnh tranh mô tả những doanh
nghiệp đang tìm cách tham gia vào một thị trường cụ thể, bao gồm:
- Các doanh nghiệp tiềm năng, tức là chưa được thành lập theo pháp luật về
doanh nghiệp;
- Đã được thành lập và hoạt động ở một thị trường khác, đang có ý định tham
gia thị trường tồn tại rào cản gia nhập.
Thứ hai, xác định các rào cản cho sự gia nhập. Theo Black’s Law
Dictionary, rào cản gia nhập thị trường là những nhân tố kinh tế gây khó khăn
cho các nhà kinh doanh trong việc tham gia vào thị trường và trong cuộc cạnh
tranh với các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường đó. Trong kinh tế học,
người ta chia rào cản ra làm hai loại:
- Rào cản cơ cấu là những nhân tố ngăn chặn sự nhập cuộc của các doanh nghiệp
tiềm năng.
- Rào cản chiến lược là hành vi trong chiến lược của các doanh nghiệp đang
hoạt động trên thị trường nhằm ngăn cản sự gia nhập của các doanh nghiệp tiềm
năng, ví dụ như chiến lược định giá để ngăn chặn đối thủ; chiến lược thiết lập
các rào cản theo chiều dọc…
Theo Điều 31 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, các rào cản cho việc gia
nhập thị trường có thể được hình thành bằng việc các doanh nghiệp thống lĩnh
thị trường, doanh nghiệp độc quyền thực hiện một trong các hành vi sau đây:
- Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược tẩy chay bằng cách yêu cầu khách
hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới. Bằng việc yêu cầu
khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới, các doanh
nghiệp đã tạo ra những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm tăng
chi phí sản xuất, kinh doanh của đối thủ. Nếu khách hàng là người tiêu thụ hoặc
phân phối sản phẩm, thì hành vi này đã làm cho đối thủ gặp khó khăn trong
việc tìm kiếm nguồn đầu ra. Ngược lại, nếu khách hàng là người cung cấp 39
nguyên liệu đầu vào, hành vi này đã ngăn cản đối thủ mới tiếp cận các nguồn
nguyên liệu quan trọng trên thị trường. Trong mọi trường hợp, đối thủ cạnh
tranh buộc phải tổ chức kế hoạch tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới hoặc nguồn
tiêu thụ mới. Việc thâu tóm các nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn tiêu thụ đã
làm tăng chí phí của đối thủ, có thể làm cho đối thủ bị suy giảm sức cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược thiết lập rào cản chiều dọc bằng cách
đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hành bán lẻ không chấp nhận
phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới. Với chiến lược này,
doanh nghiệp có quyền lực thị trường đã hạn chế khả năng phân phối sản phẩm
của đối thủ mới bằng cách khống chế ý chí của những nhà phân phối hoặc các
cửa hàng bán lẻ, ép buộc họ không được phân phối sản phẩm của đối thủ. Lúc
này, để có thể tiêu thụ được sản phẩm, đối thủ mới buộc phải có chiến lược xây
dựng và phát triển mạng lưới phân phối hoàn toàn mới (không phải là những
nhà phân phối hoặc cửa hàng bán lẻ hiện đang tồn tại trên thị trường). Kế hoạch
này sẽ là mạo hiểm bởi sẽ làm tăng chi phí và tăng độ rủi ro khi tiêu thụ sản
phẩm do người sản xuất và nhà phân phối đều là lính mới trên thị trường.
- Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược ngăn cản qua giá bằng cách bán hàng
hoá với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập thị trường nhưng
không thuộc trường hợp bán hàng hoá dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối
thủ. Với lập luận tương tự như trường hợp của hành vi định giá dưới giá thành
toàn bộ, chiến lược ngăn cản qua giá được thực hiện để làm cho các nhà kinh
doanh có ý định gia nhập phải cân nhắc khả năng có được lợi nhuận hay không
với mức giá hiện tại (đã được hạ thấp). Đối với trường hợp này, Nghị định số
116/2005/NĐ-CP chưa đưa ra được căn cứ để xác định mức giá ngăn cản, các
quy định mới chỉ dừng lại ở việc mô tả chung là “không thuộc trường hợp bán
hàng hoá dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối thủ.... Vì thế vấn đề tiếp theo
mà pháp luật phải làm rõ là xác định ranh giới về giá của hai trường hợp định
giá dưới giá thành toàn bộ và định giá ngăn cản.
40
Thứ ba, mặc dù một trong những căn cứ để xác định sự vi phạm là đã
ngăn cản sự gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới, nhưng cơ quan có
thẩm quyền chỉ cần xác định được rằng doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, có vị
trí độc quyền đã thực hiện một trong ba chiến lược ngăn cản kể trên, không cần
phải xác định chiến lược ngăn cản đã hoàn thành hay chưa. Việc ngăn cản mà
Luật Cạnh tranh nói đến tồn tại ở dạng tiềm năng của hành vi, tức là nếu các
hành vi kể trên đã mang trong mình khả năng ngăn cản sự nhập cuộc của doanh
nghiệp mới, là đủ để kết luận về sự vi phạm.
2.1.3 Nhóm hành vi khác
Đối với các doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường, kể cả các
doanh nghiệp độc quyền tự nhiên hay độc quyền Nhà nước, ngoài những hành
vi lạm dụng quyền lực thị trường để hạn chế cạnh tranh kể trên, Luật Cạnh
tranh còn nghiên cấm thêm hai hành vi sau đây:
- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng là hành vi buộc khách hàng
phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng
trong quá trình thực hiện hợp đồng;
- Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp
đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng là hành vi của doanh nghiệp
độc quyền thực hiện một trong các hình thức sau:
+ Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần
thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào;
+ Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào
một hoặc một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để
tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng và không chịu biện pháp chế tài nào
2.2.4 Chế tài xử phạt với những hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Căn cứ theo Điều 24 Nghị định 120/2005/NĐ-CP: Doanh nghiệp có hành
vi lạm dụng vị trí độc quyền sẽ bị phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm
41
tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp có vị trí độc
quyền đối với một trong các hành vi lạm dụng đã phân tích ở trên
Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều 24 này, doanh nghiệp
lạm dụng vị trí độc quyền có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt
bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm
bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành
vi vi phạm;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao
dịch kinh doanh liên quan;
- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp
đã cản trở;
- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
- Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng đã thay đổi mà không có lý do
chính đáng;
- Buộc khôi phục lại hợp đồng đã huỷ bỏ mà không có lý do chính đáng.
2.3 Thực trạng xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa
các chủ thể tham gia trong lĩnh vực kinh tế ngày càng phát triển và khốc liệt
hơn bao giờ hết. Để tạo điều kiện cho môi trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh
và văn minh, Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích sự tham gia đầu
tư kinh tế của nhiều thành phần khác nhau và đồng thời thu hẹp sự bảo hộ với
những lĩnh vực mà trước đây thuộc độc quyền kinh doanh của Nhà nước. Kinh
tế phát triển mạnh đồng nghĩa với quy trình chọn lọc tự nhiên diễn ra càng khắt
khe, những doanh nghiệp chậm đổi mới hay không đáp ứng đủ nhu cầu về vốn
sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi cuộc chơi, nhường chỗ cho những doanh nghiệp
42
đủ mạnh. Nói cách khác, nhiều doanh nghiệp bằng chính năng lực và sự cạnh
tranh lành mạnh đã đạt được vị trí độc quyền.
Bên cạnh những doanh nghiệp đạt được vị trí độc quyền nhờ quá trình
cạnh tranh lành mạnh, đa số doanh nghiệp có được vị trí độc quyền là do Nhà
nước bảo hộ, nắm quyền chi phối, độc quyền mục đích là nhằm đảm bảo cho
hoạt động của đất nước được ổn định, thống nhất, đảm bảo tốt hơn nhu cầu thiết
yếu của người dân, tránh manh mún, lũng đoạn của tư nhân, tư bản. Người ta
gọi đó là độc quyền nhà nước như ở một số ngành như điện, xăng dầu, ngân
hàng, cấp nước...
Tuy nhiên, những doanh nghiệp độc quyền Nhà nước khi trong tay sẵn
có sức mạnh thị trường to lớn, lại them sự bảo hộ của Nhà nước, đã nhiều lần
có hành vi lạm dụng vị trí độc quyền gây những thiệt hại to lớn đến quyền lợi
của người dân trong sinh hoạt và cuộc sống hằng ngày. Đây chính là sự độc
quyền nhà nước đã bị biến tướng thành độc quyền doanh nghiệp. Thực tế cho
thấy tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ, bù lỗ của Nhà nước, các
doanh nghiệp này không tăng cường đầu tư, cải tiến trang thiết bị, cơ sở vật
chất và đổi mới phương pháp làm việc để nâng cao hiệu quả hoạt động để cạnh
tranh và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân, đồng thời cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang thực
hiện đường lối đổi mới, mở cửa thị trường và gia nhập WTO.
Vấn đề đặt ra cho bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam là sự mất cân đối trong tương quan thị trường giữa khu vực
kinh tế Nhà nước và các khu vực khác. Vị trí độc quyền hiện nay gần như hoàn
toàn thuộc về khối doanh nghiệp nhà nước. Khách quan nhìn nhận rằng, sự
cạnh tranh diễn ra trên thị trường kinh doanh Việt Nam ngày càng khốc liệt và
có nguy cơ bị lạm dụng từ phía các doanh nghiệp có vị trí độc quyền trong và
ngoài nước.
43
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, sau 10 năm thi hành Luật Cạnh
tranh, những kết quả thực thi bước đầu đạt được đã giúp nâng cao nhận thức
của toàn cộng đồng xã hội về vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh, giúp
định hình văn hoá cạnh tranh trong kinh doanh và giúp điều chỉnh hành vi ứng
xử cho phù hợp không chỉ đối với cộng đồng các doanh nghiệp mà cả đối với
các cơ quan quản lý nhà nước và toàn thể cộng đồng xã hội.
Rõ ràng, kết quả bước đầu đạt được trong thực thi các quy định về chống
các hành vi hạn chế cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
cơ quan cạnh tranh đã tác động một cách trực tiếp tới nhận thức và hành vi
không chỉ của các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường mà còn cả đối với
mọi tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Luật Cạnh tranh không chỉ giúp bảo vệ các hoạt động cạnh tranh, góp
phần giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức của cộng đồng xã hội về cạnh tranh
và bảo vệ cạnh tranh, mà còn giúp điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp
đang hoạt động kinh doanh và mọi cá nhân, tổ chức khác trong xã hội cho phù
hợp để hướng tới một môi trường cạnh tranh có văn hoá, lành mạnh và bình
đẳng.
Trong 10 năm qua, trung bình mỗi năm Cục Quản lý cạnh tranh thực
hiện điều tra tiền tố tụng từ 10 đến 12 vụ việc liên quan đến các hành vi hạn
chế cạnh tranh. Đồng thời, thông qua quá trình điều tra, xử lý 08 vụ việc hạn
chế cạnh tranh, với gần 70 doanh nghiệp bị điều tra, các cơ quan cạnh tranh đã
ra quyết định xử lý, thu về ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt và phí xử lý
vụ việc cạnh tranh gần 5,5 tỷ đồng. Mặc dù trong các vụ việc này ngoài hình
thức xử phạt tiền, không có hình thức xử phạt bổ sung và/hoặc biện pháp khắc
phục hậu quả nào được áp dụng, nhưng Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng
cạnh tranh cũng đã đưa ra một số khuyến nghị đối với các doanh nghiệp, hiệp
hội và các cơ quan quản lý nhà nước về việc tuân thủ pháp luật cạnh tranh,
tránh thực hiện các hành vi vi phạm tương tự trong tương lai.
44
Tính đến hết năm 2015, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiếp nhận hơn 300
khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh, tiến hành điều tra tổng số 158 vụ và
ra quyết định xử phạt trong 150 vụ đã điều tra. Đáng quan tâm, trên thực tế,
nhận thức của DN đối với Luật Cạnh tranh còn thấp và tâm lý ngại khiếu nại
đã dẫn đến tình trạng nhiều DN tự từ bỏ quyền được bảo vệ của mình. Bên cạnh
đó, trong nhiều trường hợp các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương do
chưa nhận thức hoặc chưa hiểu một cách đầy đủ các quy định của pháp luật
cạnh tranh nên đã vô tình ban hành văn bản hoặc có những hành vi mang tính
chất hành chính không phù hợp với các quy định của pháp luật.
Trong số các vụ việc bị phát hiện và xử lý trên, số lượng các vụ việc liên
quan đến hành vi lạm dụng vị trí độc quyền được thống kê là không nhiều. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp độc quyền Nhà nước đã có hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền đưa ra những quyết định ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển kinh tế. Có thể nêu ra trường hợp điển hình như sau:
Vụ việc giữa công ty Xăng dầu hàng không Việt Nam (Vinapco) và công
ty cổ phần hàng không Pacific Airlines (PA) – nay là JP
Tóm tắt vụ việc
Vụ việc xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán nhiên liệu
hàng không giữa doanh nghiệp độc quyền nhà nước là Công ty Xăng dầu hàng
không Việt Nam (Vinapco) và Công ty cổ phần hàng không Pacific Airlines
(PA) – nay là JPA. Theo Hợp đồng mua bán nhiên liệu hàng không JET A-1 số
34/PA2008 ngày 31/12/2007 giữa Vinapco và PA, hai bên thỏa thuận mức phí
cung ứng nhiên liệu là 593.000 đồng/tấn tại thời điểm ký kết; khi có sự thay đổi
về mức phí cung ứng, Vinapco có trách nhiệm thông báo cho PA bằng văn bản
qua đường fax; mọi sửa đổi, bổ sung Hợp đồng đều phải được hai bên thỏa
thuận bằng văn bản có chữ ký của người có thẩm quyền; khi có tranh chấp, các
bên phải giải quyết thông qua thương lượng, trường hợp thương lượng không 45
thành sẽ đưa ra giải quyết tại Tòa Kinh tế thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội; lý do duy nhất để Vinapco có thể ngừng thực hiện Hợp đồng đã giao kết
là khi PA chậm thanh toán quá 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bảng kê
của Vinapco.
Đầu tháng 3/2008, do ảnh hưởng bởi biến động giá xăng dầu thế giới nên
Vinapco đã có Công văn số 446/XDHK-KDXNK mời đại diện của PA đến họp
để xác định lại mức phí cung ứng mới. Việc thương lượng diễn ra bằng các
cuộc họp và công văn trao đổi qua lại giữa Vinapco và PA. Tuy nhiên, cả hai
bên đều chưa có được sự đồng thuận về mức phí mới. Trong quá trình thương
lượng, Vinapco đã có Công văn số 512/XDHK-VPĐN gửi PA ngày 20/3/2008
thông báo:
(1) Từ 01/4/2008, mức phí cung ứng nhiên liệu bay sẽ là 750.000 đồng/tấn;
(2) Từ 01/7/2008, hai bên sẽ căn cứ vào giá nhiên liệu thế giới để điều chỉnh
mức phí cung ứng cho phù hợp.
Trong các cuộc họp và các văn bản gửi Vinapco, PA bày tỏ quan điểm
thừa nhận việc tăng phí cung ứng khi chi phí thị trường tăng là hợp lý, nhưng
yêu cầu phí cung ứng phải bình đẳng giữa các hãng hàng không nội địa, cụ thể
là giữa PA và Tổng công ty hàng không Việt Nam (VNA), đồng thời đề nghị
Vinapco và PA cùng kiến nghị Chính phủ và các bộ liên quan xem xét, quyết
định.
Do không đạt được thỏa thuận về mức phí mới, ngày 28/3/2008, Vinapco
có Công văn số 560/XDHK-KDXNK gửi PA qua đường fax yêu cầu PA chấp
thuận bằng văn bản mức phí cung ứng mới là 750.000 đồng/tấn trước ngày
31/3/2008. Trường hợp Vinapco không nhận được trả lời bằng văn bản theo
thời hạn trên, Vinapco sẽ dừng cung ứng nhiên liệu cho mọi chuyến bay của
PA cho đến khi PA chấp thuận.
46
Ngày 31/3/2008, Vinapco có Công văn số 570/XDHK-KDXNK gửi PA
thông báo ngừng tra nạp nhiên liệu cho mọi chuyến bay của PA từ 0h00 ngày
01/4/2008.
Ngày 01/4/2008, Cục Hàng không Việt Nam đã có Công văn số
985/CHK-TC yêu cầu VNA chỉ đạo Vinapco không được đơn phương ngừng
cung cấp xăng dầu nếu không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngay sau đó, Vinapco có Công văn số 573/XDHK-KDXNK gửi PA thông báo
cung cấp nhiên liệu cho PA trong hai ngày 01 và 02/4/2008. Và ngày 02/4/2008,
Vinapco có Công văn số 597/XDHK-KDXNK gửi PA thông báo tiếp tục nạp
nhiên liệu cho tất cả chuyến bay của PA từ 0h00 ngày 3/4/2008.
Đối tượng bị điều tra và xử lý trong vụ việc
Đối tượng bị điều tra và xử lý trong vụ việc này là doanh nghiệp độc
quyền nhà nước hoạt động trong thị trường dịch vụ cung cấp xăng dầu hàng
không dân dụng -Vinapco. Theo hồ sơ vụ việc cạnh tranh số KNCT-
HCCT0004, thụ lý ngày 06/01/2009, Vinapco bị điều tra vì đã thực hiện hai
hành vi hạn chế cạnh tranh theo Điều 14 của Luật Cạnh tranh là áp đặt các
điều kiện bất lợi cho khách hàng và lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương
thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.
Doanh nghiệp bị áp đặt các điều kiện bất lợi và có giao kết hợp đồng bị hủy bỏ
với Vinapco là PA. Vào thời điểm xảy ra hành vi, trên thị trường vận chuyển
hành khách bằng máy bay trong nước chỉ có PA và VNA trực tiếp cạnh tranh
với nhau mà Vinapco là doanh nghiệp trực thuộc VNA. Với tình trạng này, có
hai vấn đề cạnh tranh được đặt ra:
- Một là, nhiên liệu bay là đầu vào thiết yếu cho các hãng hàng không. Vinapco
là doanh nghiệp độc quyền cung cấp nhiên liệu bay cho các hãng hàng không
dân dụng tại các sân bay dân dụng của Việt Nam. Khi Vinapco dừng cung cấp
nhiên liệu bay cho bất kỳ công ty kinh doanh vận tải hàng không nào, công ty
ấy không thể tiếp tục hoạt động vì không có nguồn cung cấp thay thế. Đã có 47
quan điểm cho rằng, việc áp dụng Luật Cạnh tranh vào môi trường độc quyền
là chưa phù hợp. Nhưng trong quá trình phát triển của Việt Nam hiện nay, vì
nhiều lý do, có hàng trăm doanh nghiệp kinh doanh ở vị trí độc quyền, việc
nhận định các tranh chấp thương mại của doanh nghiệp độc quyền theo hướng
xử phạt hành chính như trên sẽ tạo ra một tiền lệ không tốt cho phát triển kinh
tế nói chung cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp và cơ quan quản lý cạnh tranh nói riêng1. Quan điểm này cho
thấy vẫn còn một số doanh nghiệp chưa hiểu rõ về khả năng điều chỉnh và vai
trò của Luật Cạnh tranh trong thị trường hiện đại.
- Hai là, trong vụ việc này, những hành vi mà các cơ quan tiến hành tố tụng
hướng đến điều tra là những hành vi không nhằm bóc lột khách hàng của
Vinapco mà chủ yếu là gây ra những khó khăn cho PA trong hoạt động kinh
doanh.
Như vậy, đối tượng bị điều tra khá đặc biệt không chỉ bởi vị thế độc
quyền mà còn liên quan khá lớn đến thị trường vận chuyển hành khách bằng
máy bay. Việc xử lý hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh không chỉ bảo vệ quyền
cho PA trước Vinapco mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc duy trì sự cạnh
tranh trên thị trường vận tải hàng không dân dụng nội địa giữa PA và VNA.
Thực tế xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền với vụ việc
Ngày 22/4/2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số
21/QĐ-QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh và ngày 28/5/2008, Cục
trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 34/QĐ-QLCT về việc điều tra
chính thức vụ việc cạnh tranh. Như vậy, Cục Quản lý cạnh tranh đã áp dụng
triệt để khoản 2, Điều 86 để ra quyết định điều tra sơ bộ khi phát hiện có dấu
hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Ngày 14/4/2009, Hội đồng xử lý vụ việc ra quyết
định xử lý vụ việc. Theo quyết định này, Vinapco bị xử lý vì đã thực hiện hai
hành vi hạn chế cạnh tranh theo Điều 14 của Luật Cạnh tranh (đã đề cập ở trên)
48
và bị xử phạt với mức 0,05% doanh thu của Công ty này trong năm 2007 (năm
trước đó) và đưa ra ba kiến nghị:
(1) Tách Vinapco ra khỏi VNA;
(2) Cấp giấy phép cho các doanh nghiệp khác cùng được thực hiện chức năng
cung cấp xăng dầu hàng không;
(3) Tăng cường hơn nữa quản lý nhà nước đối với dịch vụ cung cấp xăng dầu
hàng không tại Việt Nam.
Ngày 26/6/2009, Hội đồng Cạnh tranh đã ra quyết định giải quyết khiếu
nại của Vinapco đối với Quyết định số 11/QĐ-HĐXL ngày 14/4/2009 của Hội
đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong quyết định này, về cơ bản, Hội đồng
Cạnh tranh ủng hộ những đánh giá và kết luận trong Quyết định 11/QĐ-HĐXL
của Hội đồng Xử lý vụ việc.
Diễn biến của vụ việc cho thấy thủ tục tố tụng cạnh tranh theo Luật Cạnh
tranh đã được áp dụng triệt để từ các giai đoạn điều tra cho đến giai đoạn giải
quyết khiếu nại ở Hội đồng Cạnh tranh. Vì là vụ việc hạn chế cạnh tranh đầu
tiên nên việc tiến hành tố tụng trên thực tế được coi như sự kiểm nghiệm hữu
hiệu về tính khả thi của các quy định của đạo luật này và những tác động của
nó đến thị trường.
Luật Cạnh tranh là một công cụ pháp lý mới của Nhà nước trong quá
trình Việt Nam chuyển sang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Luật Cạnh tranh cùng với Bộ luật Dân sự, Luật Thương
mại, Luật Đầu tư, Luật Hàng không dân dụng… tạo thành một khuôn khổ pháp
lý đồng bộ cho hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, việc xử
lý vụ việc đã khẳng định giá trị của khoản 1, Điều 2 của Luật Cạnh tranh là:
Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh bao gồm cả những doanh
nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động
49
trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Mặc dù Vinapco là doanh nghiệp độc quyền nhà nước nhưng điều đó
không cho phép các doanh nghiệp này đứng trên pháp luật và cũng không cho
phép họ tự tạo ra một kỷ luật kinh doanh riêng. Thực tế, các doanh nghiệp độc
quyền nhà nước được bao bọc bởi những rào cản gia nhập thị trường và có
những ưu thế cạnh tranh bởi cơ chế chủ quản hành chính – kinh tế.
Pháp luật cạnh tranh chưa có chức năng xóa bỏ những rào cản và những
thiết chế pháp lý khác để khôi phục cạnh tranh, nhưng lại có nhiệm vụ quan
trọng để ngăn chặn và xử lý những hành vi khai thác thế mạnh độc quyền (kể
cả thế mạnh do những rào cản nói trên đem lại) nhằm bóp méo sự lành mạnh
của thị trường và làm suy giảm hiệu quả của cạnh tranh. Những quan ngại về
môi trường kinh doanh không bình đẳng do sự tồn tại của các doanh nghiệp độc
quyền nhà nước có thể được trấn an bằng việc thẳng thắn và nghiêm túc xử lý
hành vi vi phạm của các doanh nghiệp này.
Khi khởi đầu vụ việc, cũng không ít quan điểm lo ngại cho các cơ quan
quản lý cạnh tranh về những sức ép bên ngoài có thể ảnh hưởng đến kết quả và
tính khả thi của việc xử lý doanh nghiệp độc quyền. Cuối cùng, các kết quả của
vụ việc cho thấy sự quyết tâm của các cơ quan này trong việc thi hành trách
nhiệm của mình. Dưới góc độ ý thức kinh doanh, việc xử lý doanh nghiệp độc
quyền về hành vi lạm dụng quyền lực thị trường sẽ buộc các doanh nghiệp độc
quyền phải nhận thức lại về trách nhiệm của mình đối với thị trường và xã hội.
Ngay cả khi muốn khai thác quyền lực sẵn có để kiếm lợi ích, các doanh nghiệp
này cũng không dám công nhiên coi thường khách hàng mà phải e dè và nể sợ
trước pháp luật cạnh tranh.
Trong vụ việc này, vấn đề cạnh tranh đã được các cơ quan thực thi luật
phân tích ở nhiều góc độ để từ đó đưa ra những kết luận đúng đắn, cụ thể như
sau:
50
- Hành vi lạm dụng của Vinapco ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của PA.
Theo đó, hành vi ngừng cung cấp nhiên liệu đã làm cho hoạt động kinh doanh
của PA bị đình trệ, uy tín của doanh nghiệp này bị tổn thương trước khách hàng.
Về thiệt hại vật chất, mặc dù chưa có số liệu chính thức, song bằng những diễn
biến thực tế của vụ việc, có thể nhận thấy rằng PA đã phải gánh chịu những
khoản thiệt hại do phải trả tiền chậm chuyến cho các hành khách đã mua vé
máy bay trong ngày 01/4/2008, các khoản lợi nhuận có thể thu được từ các
chuyến bay bị đình chuyến
- Hành vi của Vinapco đã bóp méo tình trạng cạnh tranh trên thị trường vận
chuyển hành khách bằng máy bay giữa PA và VNA. Trong bối cảnh Vinapco
là doanh nghiệp trực thuộc VNA, thì hành vi này dễ tạo ra những nghi vấn rằng
đã có chiến lược chèn ép đối thủ cạnh tranh của một tập đoàn hàng không lớn
nhất Việt Nam. Trong quyết định xử lý vụ việc, Hội đồng Xử lý đã mạnh dạn
bình luận rằng việc PA bị ngừng cung cấp nhiên liệu bay sẽ dẫn đến hậu quả là
hủy bỏ cạnh tranh trên thị trường vận chuyển hành khách bằng máy bay. Vào
thời điểm xung quanh tháng 4/2008, chỉ có PA và VNA đang trực tiếp cạnh
tranh trên thị trường vận chuyển hành khách bằng máy bay5. Mặc dù chưa đi
sâu phân tích khía cạnh này, song nhận định trên đã cho thấy các cơ quan cạnh
tranh đã bước đầu mở rộng phân tích ảnh hưởng của một hành vi lạm dụng đến
tình trạng cạnh tranh của nhiều vùng thị trường có liên quan. Từ đó có thể thấy
rằng, tình trạng độc quyền và thống lĩnh thị trường của các tập đoàn kinh tế lớn
hiện nay (đặc biệt là các tập đoàn nhà nước) khá phức tạp. Vị trí độc quyền
không chỉ còn phản ảnh qua thị phần hoặc qua tình trạng độc chiếm thị trường
mà chúng hoạt động mà còn có thể là khả năng chi phối các nguồn đầu vào và
các lực lượng khác trên thị trường. Chỉ cần có hành vi kiểm soát được một vài
nguồn đầu vào thiết yếu là có thể chi phối những thị trường thứ cấp tiếp theo.
Do đó, giải pháp xử lý hành vi vi phạm chỉ có thể tác động đến ý thức pháp luật
của doanh nghiệp thực hiện hành vi mà chưa thể giải quyết triệt để tình trạng
51
cạnh tranh trên các vùng thị trường đang có độc quyền và đang có nguy cơ xuất
hiện hành vi lạm dụng.
- Hành vi của Vinapco còn gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng
đã mua vé của PA bị lỡ chuyến. Nguy hiểm hơn nếu PA bị ngừng hoạt động,
người tiêu dùng sẽ ít lựa chọn hơn trong việc di chuyển bằng hàng không nội
địa, sẽ bị hạn chế khả năng di chuyển khi nhà cung cấp còn lại bị quá tải. Cùng
với việc mạnh dạn xử lý doanh nghiệp độc quyền nhà nước, các cơ quan cạnh
tranh đã chính thức cảnh báo về những tác động của việc lạm dụng độc quyền
để gây hại cho môi trường cạnh tranh, coi thường người tiêu dùng và cản trở
sự phát triển lành mạnh của thị trường và khuyến nghị các cơ quan có thẩm
quyền chú trọng hơn nữa đến việc xây dựng môi trường cạnh tranh trong những
ngành không cần thiết phải duy trì độc quyền.
Từ việc phân tích kỹ bản chất vụ việc, các cơ quan có thẩm quyền đã áp
dụng Luật cạnh tranh một cách hiệu quả như sau:
Tuy là vụ việc đầu tiên về hành vi hạn chế cạnh tranh và cũng là lần đầu
tiên các cơ quan cạnh tranh Việt Nam tiến hành tố tụng cạnh tranh. Hệ thống
cơ quan cạnh tranh Việt Nam (Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh)
còn khá non trẻ. Hai cơ quan này mới được thành lập theo Nghị định số
05/2006/NĐ-CP và Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
09/01/2006. Lực lượng điều tra viên chưa mạnh cả về số lượng và kinh nghiệm
điều tra, xử lý vụ việc. Các quy định về tố tụng cạnh tranh phần lớn được xây
dựng từ sự kết hợp những đặc thù của thủ tục xử lý vi phạm hành chính, những
nguyên tắc trong tố tụng dân sự – kinh tế và những kinh nghiệm pháp lý của
các nước. Luật Cạnh tranh và Nghị định số 116/2005/NĐ-CP chỉ mới mô tả
một cách cơ bản quy trình tố tụng. Việc chuyển hóa những khung pháp lý thành
hành vi tố tụng thực tế đòi hỏi khả năng xử lý và kinh nghiệm của các cơ quan
có thẩm quyền và của người tiến hành tố tụng.
52
Quá trình điều tra và xử lý vụ việc đã kiểm chứng hiệu quả của quy trình
tố tụng cạnh tranh, khả năng làm việc của các điều tra viên, của người xử lý vụ
việc. Hơn nữa, Việt Nam mới tiếp cận với pháp luật cạnh tranh nên kinh nghiệm
thực thi còn nhiều hạn chế, mặc dù các tình tiết của vụ việc không gây nhiều
tranh cãi trong khoa học pháp lý của Việt Nam về hành vi và về thủ tục tố tụng,
song nó đã thể hiện được bản lĩnh và năng lực của các cơ quan quản lý cạnh
tranh, của người tiến hành tố tụng. Đây là những kinh nghiệm đầu tiên cho các
cơ quan này trong việc thực thi chức năng của mình.
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN.
3.1 Những bất cập trong quy định của Luật cạnh tranh về xử lý hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền
Luật cạnh tranh đã liệt kê rất rõ ràng những hành vi bị coi là lạm dụng vị
trí độc quyền và đồng thời ban hành Nghị định chi tiết về chế tài xử phạt với
từng hành vi. Việc liệt kê như vậy giúp quá trình xác định hành vi vi phạm được
nhanh chóng và tránh những nhầm lẫn do hiểu lầm quy định của Luật; đồng
thời cho thấy thái độ kiên quyết của nhà làm luật về những hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền.
Bên cạnh đó, sau một thời gian đi vào thực tiễn áp dụng, các quy định về
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền đã bộc lộ những bất cập nhất định. Việc chỉ
ra những thiếu sót này là vô cùng quan trọng, để tạo tiền đề cho một khung
pháp lý chặt chẽ và tiến bộ hơn trong tương lai. Từ đó góp phần hạn chế hành
vi lạm dụng vị trí độc quyền, cũng như góp phần thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh,
thu hút đầu tư của nhiều thành phần khác nhau cả trong và ngoài nước.
53
3.1.1 Khái niệm thị trường liên quan chưa rõ ràng
Điều Luật cạnh tranh đã quy định: doanh nghiệp được coi là có vị trí độc
quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà
doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan
Vậy để có thể kết luận một doanh nghiệp có hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền hay không thì việc quan trọng đầu tiên là cần xác định doanh nghiệp đó
có vị trí độc quyền hay không. Nói cách khác, cần xác định thị trường liên quan
của doanh nghiệp để từ đó đi đến bước tiếp theo là số lượng doanh nghiệp trên
thị trường đó. Tuy nhiên, trong các quy định của Luật cạnh tranh và các Nghị
định có liên quan thì không hề giải thích rõ thế nào là thị trường liên quan.
Thiếu sót này có thể là cơ hội cho những hành vi vi phạm của doanh nghiệp
hay có thể dẫn đến sự bao che của cơ quan chức năng trong việc xử lý vi phạm.
Việc xác định thị trường liên quan trong các vụ việc về hành vi hạn chế
cạnh tranh không đơn giản. Cục Thương mại công bằng của Anh định nghĩa
“thị trường là một giai đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều tra nào về
hành vi lạm dụng. Bởi lẽ thị phần chỉ được tính toán sau khi những ranh giới
của thị trường đã được xác định. Do đó, nếu thị trường được xác định sai, thì
tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu trúc thị trường đều
không hoàn thiện”. Các quy định về thị trường liên quan trong pháp luật cạnh
tranh Việt Nam khá đơn giản theo
- Khoản 1, Điều 3 của Luật Cạnh tranh
- Điều 4, 8 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP.
Các quy định này chưa đủ để hiểu về thị trường liên quan và cách thức
xác định nó
54
3.1.2 Chế tài đối với các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Thiếu sót trong hình thức phạt tiền
Căn cứ theo Điều 24 Nghị định 120/2005/NĐ-CP: Doanh nghiệp có
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền sẽ bị phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong
năm trước đó
Vấn đề thứ nhất, trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm mới thành lập
và hoạt động chưa đủ một năm tài chính, tổng doanh thu trong năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản này được xác định là
tổng doanh thu của doanh nghiệp kể từ ngày thành lập cho đến ngày ra quyết
định điều tra chính thức về hành vi vi phạm
Việc quy định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật trong
“hiện tại” dựa trên cơ sở mức doanh thu của đối tượng vi phạm đã thực hiện
trong “quá khứ”, có lẽ không phản ảnh đúng mức trách nhiệm pháp lý phải chịu
tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm - một trong những nguyên
tắc cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính. Nội dung này cần được nghiên
cứu, quy định lại cho phù hợp theo hướng dựa trên hậu quả gây ra do hành vi
vi phạm phạm luật của đối tượng vi phạm.
Vấn đề thứ hai, về hình thức và mức độ xử lý đối với biện pháp phạt tiền
có khung phạt quá rộng và doanh nghiệp bị phạt trên tổng doanh thu chứ không
phải là doanh thu trên thị trường liên quan. Mức phạt cũng không căn cứ trên
lĩnh vực vi phạm, vai trò của doanh nghiệp và nhóm hành vi cụ thể. Điều này
có thể có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận, sự phát triển của doanh
nghiệp trong những lĩnh vực độc quyền khác mà không có hành vi lạm dụng vị
trí độc quyền. Từ đây, các nhà làm luật nên quy định rõ ràng rằng: Doanh
55
nghiệp có hành vi lạm dụng vị trí độc quyền sẽ bị phạt tiền đến 10% tổng
“doanh thu trên thị trường liên quan’’ thay vì “tổng doanh thu’’.
Thiếu sót trong hình thức phạt bổ sung
Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định
120/2005/CĐ-CP, doanh nghiệp lạm dụng vị trí độc quyền có thể bị áp dụng
một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả
sau đây:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm
bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành
vi vi phạm;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao
dịch kinh doanh liên quan;
- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp
đã cản trở;
- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
- Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng đã thay đổi mà không có lý do
chính đáng;
- Buộc khôi phục lại hợp đồng đã huỷ bỏ mà không có lý do chính đáng.
Trong trường hợp doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện hành vi
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh, với quy định như trên sẽ nảy sinh vấn đề sau
Pháp luật quy định cụ thể những trường hợp được bán dưới giá thành mà
không bị coi là hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh, đó là: (1) Hạ giá bán hàng hóa tươi sống; (2) Hạ giá bán hàng
hoá tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng; (3) Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ; (4) Hạ giá bán 56
hàng hoá trong chương trình khuyến mại theo quy định của pháp luật; (5) Hạ
giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản
xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh; (6)
Các biện pháp thực hiện chính sách bình ổn giá của nhà nước theo quy định
hiện hành của pháp luật về giá.
Các trường hợp hạ giá bán quy định nêu trên phải được niêm yết công
khai, rõ ràng tại cửa hàng, nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời gian
hạ giá. Còn các nếu không thuộc các trường hợp nêu trên coi như bị xác định
bán hạ giá là hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Theo cách hiểu thông thường, bán hạ dưới giá thành là hành vi của những
doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính, nhằm chịu lỗ trong một thời gian nhất
định, đến khi các đối thủ cạnh tranh thuộc các doanh nghiệp nhỏ không chịu
nổi áp lực về giá thì họ bắt buộc phải lựa chọn: Thứ nhất, bán đúng giá để đảm
bảo hoạt động của doanh nghiệp, nghĩa là bán với giá cao hơn đối thủ cạnh
tranh đưa ra, điều này dẫn đến thị trường sẽ không chấp nhận, hàng hóa sẽ bị
lưu kho; thứ hai, bán hạ giá thấp hơn giá thành sẽ dẫn đến doanh nghiệp thua
lỗ, và đến một thời điểm nhất định nào đó sẽ không đảm bảo cho việc tồn tại
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Đến thời điểm đó, đối thủ cạnh tranh sẽ
bù đắp các khoản lỗ bằng cách: Bán đúng với giá doanh nghiệp xây dựng hoặc
tăng thêm do sự khan hiếm của hàng hóa nên thị trường phải chấp nhận; doanh
số sẽ tăng thêm do không còn đối thủ sản xuất loại hàng hóa tương tự.
Như vậy, nếu xét tại thời điểm cạnh tranh không lành mạnh thì doanh
nghiệp có hành vi vi phạm sẽ không có lãi, như đã phân tích nêu trên. Tuy vậy,
để xử lý hành vi vi phạm này, pháp luật lại quy định ngoài việc bị xử phạt tiền,
còn bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu
toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Thiết nghĩ,
đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực này khó có thể che giấu; do vậy sẽ bị cơ
57
quan có thẩm quyền phát hiện hoặc các doanh nghiệp có liên quan sẽ khiếu nại
ngay từ thời điểm bắt đầu đối tượng có hành vi vi phạm
Các nhà làm luật nên xem xét bỏ quy định “tịch thu toàn bộ khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm” vì không cần thiết
3.1.3 Các quy định về cơ quan quản lý
Theo pháp luật cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Bộ
Công thương có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về cạnh
tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng… Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết các vụ việc
cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.
Việc tổ chức hệ thống quản lý – tài phán cạnh tranh với hai cơ quan riêng
biệt của nước ta đã đảm bảo được sự phân cấp, phân quyền cũng như có tính
cưỡng chế thi hành trong xử lý các vụ việc cạnh tranh. Bên cạnh đó, vẫn còn
một số điểm chưa thật sự hợp lý về cơ quan quản lý cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, chức năng và nhiệm vụ của hai cơ quan chưa phù hợp. Trong
khi Cục Quản lý cạnh tranh thực hiện nhiều nhiệm vụ như điều tra các vụ việc
cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng… thì vai trò của Hội đồng cạnh tranh khá
mờ nhạt. Bộ máy quản lý cạnh tranh của Việt Nam là mô hình duy nhất tồn tại
trên thế giới.
Thứ hai, các cơ quan hành chính như Chính phủ, các bộ ngành, ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, thanh tra chuyên trách cũng được coi là bộ máy thực thi cạnh
tranh theo quy định của luật chuyên ngành. Nhưng lại hạn chế về nguồn nhân
lực: cán bộ hành chính chỉ am hiểu về một chuyên ngành cụ thể; số lượng
chuyên viên hiểu biết và có kinh nghiệm chuyên sâu về cạnh tranh chưa nhiều.
Thứ ba, hai hệ thống cơ chế giải quyết tranh chấp cạnh tranh hiện nay là
cơ quan cạnh tranh và cơ quan hành chính. Với khung quy định về chức năng
nhiệm vụ và quyền hạn của các bộ máy này thì về cơ bản địa vị pháp lý, thẩm
58
quyền giải quyết giữa chúng là ngang nhau mà không có sự phân định thẩm
quyền. Điều đó sẽ dẫn đến mâu thuẫn, chống chéo và ỉ lại của các cơ quan xét
xử.
Theo Báo cáo đánh giá năm thực thi luật cạnh tranh của Bộ Công thương,
bộ máy giải quyết cạnh tranh ở Việt Nam vẫn còn lúng túng trong xử lý hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Sự thiếu kinh nghiệm của cơ quan thực
thi, thiếu kiến thức, ý thức của giới kinh doanh là một trong những nguyên nhân
làm cho bộ máy thực thi chưa làm tròn nhiệm vụ của mình
3.2. Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý hành vi lạm
dụng vị trí độc quyền.
3.2.1 Quy định pháp luật phù hợp với quan điểm, đường lối và chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
Nền kinh tế thị trường đều đặt ra vấn đề phải điều tiết cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền. Những yếu tố này có liên quan chặt chẽ đến việc hình thành
thể chế kinh tế, việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và hiệu lực quản lý
kinh tế của nhà nước thông qua việc tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi,
bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác phát triển, đổi mới các
công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Nước ta cũng chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng có sự đặc thù là phát triển theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, bên cạnh việc tuân theo các nguyên
tắc và quy luật vận động khách quan của kinh tế thị trường, khi nghiên cứu xây
dựng pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền chúng
ta cũng phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện chủ trương, quan điểm và nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
đề ra,luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí
độc quyền phải là sự kết hợp hài hòa giữa chống hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền nhưng vẫn đảm bảo thúc đẩy các doanh nghiệp sáng tạo, cạnh tranh nhau
một cách lành mạnh (vì bản chất độc quyền không hề xấu). Khi có được sự
59
thống nhất giữa hai yếu tố đó,luật cạnh tranh sẽ phát huy chức năng đúng như
nó cần có đó là:
Tạo lập và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng và không phân biệt đối xử trong
cạnh tranh của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế
Bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh
Ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí độc quyền
để lũng đoạn thị trường
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của doanh nghiệp và
của người tiêu dùng...
Đặc biệt, pháp luật cạnh tranh phải là hành lang pháp lý chung, tạo tiền
đề cho pháp luật chuyên ngành thực hiện kiểm soát cạnh tranh nói chung và
kiểm soát lạm dụng sức mạnh thị trường nói riêng.
3.2.2 Quy định pháp luật phải phù hợp với nguyên tắc kinh doanh; với
phong tục, tập quán, chuẩn mực đạo đức kinh doanh; và quy luật vận
động khách quan của nền kinh tế thị trường
Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một
trong những công cụ để nhà nước thực hiện quản lý cạnh tranh và điều tiết nền
kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng và ban hành quy phạm này trong Luật cạnh tranh
phải phù hợp với nguyên tắc và quy luật vận động khách quan của nền kinh tế
thị trường. Trước hết các quy phạm phải tuân thủ nguyên tắc hàng đầu và cơ
bản của nền kinh tế thị trường là nguyên tắc tự do kinh doanh. Nguyên tắc này
được hiểu là mọi chủ thể đều có quyền đầu tư, sản xuất kinh doanh theo những
hình thức luật định; có quyền tự do ấn đính giá cả theo quy luật cung cầu và sự
chỉ dẫn của nhà nước về đăng ký, thương lượng và niêm yết giá; có quyền cạnh
tranh bình đẳng, lành mạnh trong môi trường kinh doanh được pháp luật quy
định và bảo hộ. Nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần này trong quan hệ sản xuất, kinh
60
doanh không bị phân biệt về quy mô, hình thức, lĩnh vực và phạm vi kinh
doanh; đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy,
khi xây dựng quy phạm kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
cần phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể thuộc
mọi thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật cạnh tranh về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường cũng cần phải dựa trên
nền tảng của các tập quán, thông lệ cạnh tranh lành mạnh và những chuẩn mực
đạo đức trong kinh doanh
3.2.3 Luật cạnh tranh là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh, công bằng giữa các chủ thể kinh doanh và đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
Mặc dù quyền tự do kinh doanh cũng như sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế đã được khẳng định trong Hiến Pháp và nhiều văn bản pháp luật;
song trên thực tế vẫn còn tồn tại những nội dung mang tính phân biệt đối xử,
không tạo ra cơ hội cạnh tranh thực sự cho các chủ thể kinh doanh của mọi
thành phần kinh tế. Bởi vậy, để khắc phục tình trạng cạnh tranh không có tổ
chức như hiện nay, cần thiết phải có pháp luật để chống lại các hoạt động hạn
chế cạnh tranh, đảm bảo sự công bằng, tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả các
chủ thể kinh doanh có tiềm năng tham gia quá trình cạnh tranh, bảo đảm cạnh
tranh thực sự trở thành động lực phát triển nền kinh tế. Bên cạnh việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh, sự kết hợp giữa Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của luật cạnh tranh sẽ
góp phần hoàn thiện hơn công cụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nhà
nước. Đồng thời cũng là công cụ để các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng thực
hiện tốt trách nhiệm của mình cũng như tích cực tham gia vào quá trình kiểm
soát các hành vi hạn chế cạnh tranh, gây thiệt hại cho người tiêu dùng
61
3.2.4 Luật cạnh tranh phải đảm bảo sự độc lập của bộ máy thực thi và sự
tương tác với các lĩnh vực pháp luật khác
Đảm bảo sự độc lập của bộ máy thực thi
Sự công bằng trong việc xử lý các vụ việc chỉ có thể có được nếu có sự
độc lập của cơ quan “cầm cân’’ – chủ thể có thẩm quyền điều tra và giải quyết
các khiếu kiện. “Độc lập không chỉ có nghĩa là phải đứng độc lập, riêng rẽ về
mặt tổ chức, không trực thuộc cơ quan chủ quản nào mà phải là độc lập về hoạt
động cũng như về nhiệm vụ, quyền hạn”. Nếu xem xét cơ quan thực thi cạnh
tranh Việt Nam hiện nay, có thể nói, vai trò còn khá mờ nhạt và chưa đảm bảo
tính công bằng. Nguyên nhân của thực trạng này là do việc tổ chức, hoạt động
của cơ quan quản lý cạnh tranh còn chịu nhiều tác động và chi phối của cơ quan
quản lý hành chính là Bộ Công thương.
Ở nhiều quốc gia, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể thuộc Bộ, Chính
phủ hoặc một số Bộ cùng phối hợp quản lý. Nhưng cho dù được tổ chức theo
mô hình nào đi nữa thì nguyên tắc quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo cơ
quan này không chịu bất kỳ một sự can thiệp hay chi phối nào từ các cơ quan
khác để không làm ảnh hưởng đến sự công bằng trong xử lý vụ việc. Ở nước ta
cũng nên xây dựng tính độc lập của bộ máy thực thi cạnh tranh theo quan niệm
chung của các nước trên thế giới; và cần thiết phải ghi nhận trong pháp luật
cạnh tranh để đảm bảo thuộc tính này như là nguyên tắc bắt buộc trong điều tra
và xử lý các vụ việc cạnh tranh.
Đảm bảo sự tương tác với các lĩnh vực pháp luật khác
Các hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường được
đánh giá là có tính sáng tạo bất tận và thường được các chủ thể này che đậy
bằng các thủ thuật rất tinh vi, phức tạp. Do đó, để nhận diện hành vi và phát
hiện ra sự vi phạm, pháp luật cạnh tranh và pháp luật chuyên ngành như pháp
luật kiểm toán, pháp luật thương mại, pháp luật thuế phải có sự tương tác lẫn
nhau. Hay nói cách khác, để hoàn thiện cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng vị 62
trí độc quyền, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh, chúng ta cần tăng
cường các lĩnh vực pháp luật có liên quan như: tiếp tục triển khai thi hành Luật
doanh nghiệp, Luật đầu tư và tăng cường hoàn thiện các quy định pháp luật về
gia nhập và rút lui khỏi thị trường, khuyến khích các chủ thể kinh doanh, các
nhà đầu tư tham gia và hoạt động trên thị trường lành mạnh; hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ người tiêu dùng, củng cố cơ chế giám sát của hiệp hội bảo vệ
người tiêu dùng đối với hoạt động của các chủ thể kinh doanh; tăng cường hệ
thống pháp luật về kiểm soát giá các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền; tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về thuế, tài chính; giải quyết hài hòa lợi ích giữa các doanh
nghiệp; không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
3.3 Đề xuất giải pháp
Từ những bất cập đã được chỉ ra và phân tích ở trên, việc thay đổi là hoàn
toàn cần thiết để đảm nâng cao tính thực thi của Luật cạnh tranh Việt Nam về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của doanh nghiệp
3.3.1 Hoàn thiện các khái niệm
Cần đưa ra một khái niệm cụ thể về thị trường liên quan, nói cách khác
các nhà làm luật nên chỉ ra quy định rõ ràng về cách để xác định thị trường liên
quan. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất, cơ sở để các cơ quan điều tra đi
đến những bước tiếp theo khi xác định một doanh nghiệp có hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền hay không
Bên cạnh đó, việc liệt kê các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền nên được
sửa đổi theo hướng bổ sung khái niệm và xây dựng các tiêu chí để xác định
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. Ngoài ra,với các nhóm gây thiệt hại cho
khách hàng, không nên quy định hậu quả dấu hiệu bắt buộc của hành vi; cần
phải bổ sung thêm hành vi không tăng giá nhưng áp đặt một mức giá cao hơn
nhiều so với giá thành toàn bộ của sản phẩm để bóc lột khách hàng trong nhóm
hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý nhằm bóc lột khách hàng. Cuối cùng, Nhà
63
nước có thể xem xét đặt ra một số trường hợp miễn trừ, nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh cũng như thể hiện sự giáo dục và khoan hồng của pháp luật.
3.3.2 Hoàn thiện bộ máy cạnh tranh
Về tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh
Thứ nhất, nên xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ngang bộ.
Thứ hai, pháp luật cạnh tranh cần phải đảm bảo sự độc lập của cơ quan
quản lý cạnh tranh.
Thứ ba, chúng ta cần thiết phải việc hợp nhất hai cơ quan quản lý cạnh
tranh thành một cơ quan duy nhất.
Thứ tư, chúng tôi kiến nghị nên xây dựng một bộ phận nằm trong cơ
quan quản lý cạnh tranh nhưng độc lập trong rà soát, giải quyết các khiếu kiện
liên quan đến quyết định của cơ quan này
Thứ năm, cần quy định rõ tiêu chí xác định cũng như thời hạn bổ nhiệm
các chức danh này để có thể bảo đảm tính độc lập trong công tác điều tra và xử
lý vụ việc cạnh tranh.
Về chức năng và quyền hạn
Thứ nhất, Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ chỉ tập trung điều tra, xử lý vụ
việc cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các nhiệm vụ chống bán
phá giá, chống trợ cấp và tự vệ sẽ thuộc thẩm quyền của Bộ Công thương.
Thứ hai, nên kết hợp đặc điểm “hành chính” và “tài phán” trong điều tra
và xử lý các vụ việc cạnh tranh.
Thứ ba, nên mở rộng quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc
đánh giá, mục đích và khả năng hạn chế cạnh trạnh tranh của các hành vi lạm
dụng không được pháp luật liệt kê. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần bổ sung
quyền can thiệp vào cấu trúc của thị trường chứ không chỉ là vào các hành vi
vi phạm.
64
Thứ tư, nên củng cố thẩm quyền điều tra của Cơ quan quản lý cạnh tranh.
Về nâng cao năng lực nhân sự của cơ quan quản lý cạnh tranh: Để bảo đảm tính
chuyên nghiệp và có hiệu quả của đội ngũ chuyên viên, cơ quan quản lý cạnh
tranh cần tuyển dụng những chuyên viên có trình độ hiểu biết sâu về cạnh tranh;
xây dựng tài liệu hướng dẫn chuẩn để trang bị kiến thức cho chuyên viên điều
tra và xử lý cạnh tranh; tổ chức các khóa đào tạo về kiến thức cạnh tranh trong
và ngoài nước cho cán bộ chuyên viên; mô phỏng các tình huống cạnh tranh
giả định hoặc sử dụng các vụ việc cụ thể đã và đang được xử lý trên thế giới để
chuyên viên nghiên cứu và thực hành…
3.3.3 Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Thứ nhất, nên bổ sung chế tài hình sự. Thực tế cho thấy, có những trường
hợp doanh nghiệp độc quyền Nhà nước kinh doanh xăng dầu và thu lãi rất cao
do việc điều chỉnh giá bán lẽ xăng dầu. Mặc dù giá dầu thế giới giảm mạnh, tuy
nhiên giá dầu trong nước lại giảm không đáng kể. Ở đây, doanh nghiệp đã lợi
dụng vị trí độc quyền của mình để đưa ra một mức giá bán lẻ bất hợp lý; tuy
biết có thể sẽ phải nộp phải 10% doanh thu nhưng doanh nghiệp vẫn có hành
vi vi phạm vì con số 10% không đáng kể so với số lợi nhuận thu được từ hành
vi lạm dụng vị trí độc quyền. Do đó, cần có những chế tài hình sự đủ mạnh để
nâng cao ý thức của doanh nghiệp có vị trí độc quyền.
Thứ hai, bổ sung trường hợp cá nhân phải chịu trách nhiệm trước những
hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Nhận thức pháp
luật của người đứng đầu doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng, vì vậy
cần có những chế tài cụ thể nhắm đến “đầu tàu’’ để nâng cao trách nhiệm làm
việc và ý thức nghiêm túc chấp hành pháp luật của những người đứng đầu
doanh nghiệp có vị trí độc quyền
Thứ ba, nên đẩy mạnh hoạt động vận động chính sách cạnh tranh trong
các cơ quan nhà nước, nhất là đối với các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh.
65
Thứ tư, để răn đe các chủ thể không được tái phạm, pháp luật cạnh tranh
nên áp dụng mức tiền phạt lũy tiến đối với mỗi lần vi phạm của doanh nghiệp.
3.3.4 Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh về xử lý hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền
Thứ nhất, đảm bảo yếu tố thông tin giữa các doanh nghiệp và cơ quan
quản lý cạnh tranh.
Thứ hai, trong cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh cần làm rõ vai trò của
nhà nước và giảm ảnh hưởng của nhà nước đến sự hình thành độc quyền bằng
con đường hành chính.
Thứ ba, nên đẩy mạnh hoạt động vận động chính sách cạnh tranh trong
các cơ quan nhà nước, nhất là đối với các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh.
Thứ tư, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh phải chủ động giám sát và
nhanh chóng phát hiện các hành vi vi phạm.
Thứ năm, khuyến khích cơ quan thực thi áp dụng thủ tục khám xét để
tìm kiếm những thông tin, bằng chứng mà các điều tra viên cho rằng doanh
nghiệp không cung cấp cho cơ quan điều tra.
Thứ sáu, cơ quan thực thi cạnh tranh nên phát hành những thông cáo báo
chí nhằm phổ biến những thông tin liên quan đến việc thụ lý, điều tra và xử lý
các vụ việc cạnh tranh và tăng cường công tác nghiên cứu và đạo tạo về cạnh
tranh trên mọi tầng lớp xã hội.
66
KẾT LUẬN
Cạnh tranh được chấp nhận như là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh
tế thị trường. Cạnh tranh phát triển theo lộ trình và trải qua các hình thái thị
trường khác nhau; và biểu hiện cuối cùng của quá trình cạnh tranh là xuất hiện
tình trạng độc quyền trong nền kinh tế. Không thể phủ nhận những độc quyền
cũng có mặt tích cực là góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Song xét ở
nhiều phương diện khác, nó có thể đem lại những hậu quả không mong muốn
đến thị trường và xã hội nếu doanh nghiệp có hành vi lạm dụng vị trí này. Thực
tế, sau khi có được vị trí độc quyền, các doanh nghiệp có xu hướng thực hiện
những hành vi hạn chế cạnh tranh đề duy trì và củng cố địa vị của mình hoặc
tăng lợi nhuân. Khi đó, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền sẽ trở thành lực cản,
gây trở ngại cho môi trường cạnh tranh lành mạnh và sự tăng trưởng của thị
trường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, đặc biệt khi Việt Nam đã và tiếp
tục gia nhập nhiều hiệp hội thương mại quốc tế, sức cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp sẽ nóng hơn bao giờ hết. Để đảm bảo thu hút đầu tư từ những doanh
nghiệp trong nước và cả những doanh nghiệp có tiềm lực lớn ở nước ngoài,
trước tiên nền kinh tế Việt Nam cần có một sân chơi cạnh tranh công bằng. Để
có được một thị trường kinh tế hấp dẫn, hệ thống pháp luật cần có những quy
định hợp lý và đúng đắn, tạo cơ sở duy trì cũng như vận hành một nền kinh tế
thị trường cạnh tranh lành mạnh, văn minh.
Sau thời gian nghiêm túc tìm hiểu tài liệu và đi sâu phân tích thực trạng
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, sinh viên đã khẳng định được những vấn đề
quan trọng liên quan đến quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam trong việc
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của doanh nghiệp. Với kết cấu
gồm 3 chương nội dung, sinh viên đã nêu rõ bản chất của độc quyền, từ đó phân
tích kỹ lưỡng các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền và cuối cùng đề xuất nhứng
giải pháp về quy định của Luật cạnh tranh tr ong lĩnh vực kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền.
67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. (2001), Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hiệp Quốc, Hà Nội, tr 52.
2. Luật cạnh tranh
3. Nguyễn Thị Bảo Nga (2012), Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà
Nội.
4. PGS.TS Lê Danh Nghĩa (2010), Giáo trình Luật cạnh tranh, ĐHQG,
Thành Phố Hồ Chí Minh.
5. Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ quy định
về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Hội đồng cạnh tranh
6. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh
7. Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định
về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh.
8. Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh
tranh
9. Th.S Lê Ngọc Thạch (2017), Một số bất cập của pháp luật cạnh tranh
hiện hành, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (5).
10. CIDA (2004), Luật cạnh tranh Canada và bình luận, Bộ Thương Mại
Việt Nam, Hà Nội
11. CIDA (2006), Luật cạnh tranh Canada-một số hướng dẫn thi hành,NXB
Giao thông vận tải, tr 179
68
12. David Harbord, Georg von Gravenitz (2004), Định nghĩa thị trường
trong các vụ điều tra cạnh tranh thương mại, Hội thảo về việc xác định
thị trường liên quan và xác định thị phần của các doanh nghiệp theo
Luật Cạnh tranh, Bộ Công thương tổ chức, Hà Nội.
13. David W. Pearce, Từ điển Kinh tế học hiện đại (Hà Nội: tái bản lần 4,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1999).
14. Dominique Brault, Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của
Cộng hòa Pháp (Hà Nội: Tập 2, NXB chính trị Quốc gia, 2005)
15. OECD - WB, Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi Luật và chính
sách cạnh tranh (Hà Nội: sách dịch, 2004)
69
70