ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN PHÚC LINH

PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP

DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH – 2013 – L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THUẬN

(Cơ quan công tác: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước)

Hà Nội, 2017

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự

hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thuận. Các nội dung nghiên cứu, kết quả

trong đề tài này là trung thực và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước

đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh

giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu

tham khảo.

Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số

liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn

gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về

nội dung luận văn của mình. Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội không

liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình

thực hiện (nếu có).

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2017

Người cam đoan

Sinh viên

2

Nguyễn Phúc Linh

MỤC LỤC

BẢNG KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ 5

DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ ......................................................... 7

CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT

ĐỘNG SÁP NHẬP VÀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP ...................................... 13

1.1 Những vấn đề lý luận ....................................................................................... 13

1.1.1 Khái niệm hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ........................ 13

1.1.2 Đặc điểm khác biệt của thị trường sáp nhập và mua bán doanh nghiệp so

với các thị trường khác: ...................................................................................... 24

1.1.3 Ý nghĩa của hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ..................... 24

1.2 Những vấn đề pháp lý về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ........................ 26

1.2.1 Khái niệm pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp .................... 26

1.2.2 Nội dung của pháp luật sáp nhập và mua bán doanh nghiệp .................... 26

1.2.3 Vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh hoạt động mua bán và sáp

nhập doanh nghiệp .............................................................................................. 27

1.2.4 Quy định về hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A) của một

số quốc gia trên thế giới ..................................................................................... 27

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP VÀ MUA BÁN

DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM .......................................................................... 31

2.1 Hoạt động M&A Việt Nam trong những năm gần đây: .................................. 31

2.2 Một số thương vụ M&A điển hình tại Việt Nam: ........................................... 37

3

2.3 Nội dung pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam ......... 40

2.3.1 Một số quy định của Luật Doanh Nghiệp hiện hành đối với hoạt động

mua bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam ................................................... 41

2.3.2 Một số quy định của Luật Đầu tư hiện hành đối với hoạt động mua bán

sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam ................................................................. 48

2.3.3 Một số quy định của Luật Cạnh tranh hiện hành đối với hoạt động mua

bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam ........................................................... 52

2.3.4 Một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành đối với hoạt

động mua bán sáp nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam ........................... 53

2.3.5 Một số quy định của Luật Kinh doanh bất động sản hiện hành 2014 đối

với hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam ............................ 55

2.4 Một số những bất cập trong pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở

Việt Nam ................................................................................................................ 58

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP VÀ MUA BÁN

DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM .......................................................................... 66

3.1 Yêu cầu hoàn thiện .............................................................................................. 66

3.2 Nội dung hoàn thiện ............................................................................................ 66

3.3 Giải pháp hoàn thiện ........................................................................................... 67

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 75

4

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 78

BẢNG KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu, chữ viết tắt Diễn giải

Công ty cổ phần CTCP

Doanh nghiệp DN

Nghị định Chính phủ NĐ-CP

Sở Kế hoạch và Đầu tư SKHĐT

Tổ chức tín dụng TCTD

Trách nhiệm hữu hạn TNHH

TT-BKHĐT Thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Thông tư của Bộ Tài chính TT-BTC

Thông tư của Ngân hàng Nhà nước TT-NHNN

ASEAN Economic Community: Cộng đồng kinh tế chung AEC

ASEAN

Business Cooperation Contract: Hợp đồng hợp tác kinh BCC

doanh

Financial Analyst Institute: Cơ quan phân tích tài chính CFA

Hoa Kỳ

Foreign Direct Investment: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

Free Trade Aggrement: Hiệp định thương mại tự do FTA

Institute of Mergers, Acquisitions and Alliances: Viện IMAA

Hợp nhất, Mua lại và Liên kết: một tổ chức tư vấn phi lợi

nhuận được công nhận và bảo đảm trên toàn thế giới

Initial Public Offering: Phát hành cổ phiếu ra công chúng IPO

Mergers and Acquisitions: Hoạt động mua bán và sáp M&A

5

nhập doanh nghiệp

OTC Over the counter: là một loại cổ phiếu đã được phát hành

tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nhưng chưa niêm

yết giá

TPP Trans-Pacific Partnership Agreement: Hiệp định đối tác

xuyên Thái Bình Dương

Đô la Mỹ USD

VBF Vietnam Business Forum: Diễn đàn kinh doanh Việt Nam

VCA Vietnam Competition Authority: Cục quản lý cạnh tranh

6

Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ

Bảng, đồ thị, sơ đồ Tên Trang

Hình 1.1 Tổng số thương vụ theo số lượng và giá trị từ 77

năm 2015 đến cuối năm 2016 (Theo Báo cáo

phân tích của KPMG; Capital IQ, thời điểm:

22/7/2016)

Hình 2.1 Tình hình M&A trên toàn cầu(Nguồn: 78

Thomson Financial, IMAA)

Hình 2.2 Tình hình M&A Khu vực Châu Á – Thái 78

Bình Dương(Nguồn: Thomson Financial,

IMAA)

Hình 2.3 Tình hình M&A tại Việt Nam(Nguồn: 78

Thomson Financial, IMAA)

Bảng 1.1 So sánh giữa thâu tóm, mua lại, sáp nhập, 22

hợp nhất

Bảng 2.1 Tổng hợp những thương vụ M&A nổi bật 37

trong năm 2015, 2016

Biểu đồ 2.1 Số lượng các khoản đầu tư cho Start-up 77

2011-2016. (Nguồn: Theo thống kê của

7

Topica Founder Institute)

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đang và sẽ diễn ra sâu rộng chưa

từng có, với việc thực hiện lộ trình Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC); đàm phán

và ký kết nhiều FTA thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình

Dương (TPP), FTA Việt Nam – EU, Việt Nam – Hàn Quốc, không gian kinh tế của

Việt Nam đang được mở rộng hơn bao giờ hết. Không gian kinh tế mới này đang

mở ra cơ hội mới, sân chơi mới cho cộng đồng nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Không gian kinh tế mới cộng hưởng với làn sóng M&A (Merger and

Acquisitions) đã và đang diễn ra sôi động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế,

với nhiều thương vụ quy mô lớn lên tới hàng tỉ USD sẽ tạo nên sự bùng nổ của thị

trường M&A như những dự đoán của các chuyên gia cách đây vài năm trở lại đây.

Trước đó, từ năm 2013 đến 2015, tổng giá trị thị trường M&A đã tăng từ 3,5

tỷ USD lên đến 5,2 tỷ USD. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2016, tổng giá trị thị trường

đã đạt 3 tỷ USD và vượt ngưỡng mong đợi 5,3 USD[5]

Ở góc nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường Việt nam đang rộng

mở và giàu tiềm năng hơn bao giờ hết. Việt nam là một nền kinh tế trẻ với dân số

hơn 93 triệu người. Cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, và sự hội nhập quốc

tế đã biến Việt Nam thành một địa điểm đầu tư tiềm năng. Các nhà đầu tư nước

ngoài đến Việt nam để khai thác một thị trường tiêu thụ rộng lớn, cũng như dời các

cơ sở sản xuất của họ đến Việt Nam để hưởng các lợi thế từ hiệp định thương mại

tự do. Thông qua việc thâu tóm một doanh nghiệp nội địa, nhà đầu tư nước ngoài có

thể giảm thiểu thời gian bước vào thị trường cho dự án đầu tư của họ tại Việt nam.

Năm 2016, chúng ta được chứng kiến nhiều thương vụ M&A giá trị cao

trong lĩnh vực bán lẻ, tiêu dùng với bên mua là các nhà đầu tư đến từ Thái Lan và

Nhật Bản. Thương vụ chuyển nhượng Big C và Metro Cash & Carry nằm trong top

3 giao dịch M&A có giá trị cao nhất. Lĩnh vực bất động sản cũng sôi động với

thương vụ Keangnam Landmark Tower, Empire City và Kumho Asiana Plaza. Một

điểm chung của các thương vụ lớn này là hầy hết các nhà đầu tư nước ngoài đóng

8

vai trò là bên mua. ( Xem Hình 1.1 – Phụ lục – Trang 77 )

Tuy nhiên, pháp luật Việt nam chưa có một khung pháp lý thống nhất cho

M&A. Thay vào đó, các quy định pháp luật về M&A nằm rải rác ở nhiều luật khác

nhau. Đó cũng là lý do cần phải có công trình nghiên cứu luật học đánh giá pháp

luật và tình hình thực thi pháp luật để kiểm soát các thương vụ mua bán, sáp nhập

doanh nghiệp nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, hiệu quả, mang lại

phúc lợi chung cho xã hội.

Với những lý do đó, tôi lựa chọn : “Pháp luật về mua bán và sáp nhập

doanh nghiệp ở Việt Nam” là đề tài khóa luận của mình. Trong quá trình nghiên

cứu không thể tránh những thiếu sót, mong thầy cô và các bạn góp ý để tôi có thể

hoàn thành đề tài một cách hoàn thiện nhất. Tôi xin chân thành cảm ơn !

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích của khóa luận:

Mục đích của khóa luận là nghiên cứu hoạt động sáp nhập và mua bán doanh

nghiệp dưới góc độ pháp lý và xây dựng một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về

mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.

Để đạt được mục đích trên, khóa luận cần đạt được những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận của hoạt động sáp nhập và mua bán doanh

nghiệp bằng việc làm rõ khái niệm, quan niệm hoạt động sáp nhập và mua bán

doanh nghiệp ở một số quốc gia và Việt Nam; làm rõ đặc điểm mua bán, sáp nhập

doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với một số quan hệ pháp luật khác; phân

tích các nội dung cơ bản của pháp luật về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp. Trong

quá trình phân tích, hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp được xem xét dưới

góc độ so sánh với quy định của một số nước trên thế giới làm phong phú hơn cũng

như toàn diện hơn về hoạt động này.

Thứ hai, nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động mua bán

và sáp nhập doanh nghiệp, chỉ ra những tồn tại bất cập của hệ thống pháp luật về

mua bán và sáp nhập doanh nghiệp; phân tích và bình luận những kinh nghiệm điều

chỉnh pháp luật về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở một số quốc gia; Phân tích,

đánh giá thực tiễn hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp làm nền tảng đề đề

9

xuất giải pháp phù hợp.

Thứ ba, đề xuất giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán

doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở

Việt Nam hiện nay

Phạm vi:

- Thời gian: Trong những năm gần đây 2015-2017

- Không gian: Trong khuôn khổ phạm vi pháp lý hoạt động sáp nhập mua bán

doanh nghiệp Việt Nam

- Nội dung: Bài làm tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ các khái niệm liên

quan đến hoạt động mua bán sáp nhập M&A theo quy định của pháp luật

Việt Nam, nêu lên những điểm nổi bật trong quy định và những bất cập, hạn

chế để từ đó nêu lên một số những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý

hoạt động M&A tại Việt Nam.

4. Câu hỏi nghiên cứu

Bài làm tập trung trả lời cho một số các câu hỏi nghiên cứu:

- Thế nào là hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp M&A ? Đặc điểm

và ý nghĩa của hoạt động M&A?

- Thế nào là pháp luật về hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp M&A?

- Toàn cảnh thị trường M&A trên thế giới và Việt Nam trong những năm gần

đây như thế nào?

- Hoạt động M&A được quy định trong pháp luật Việt Nam như thế nào?

- Có những khó khăn, bất cập gì trong các quy định pháp luật Việt Nam về

hoạt động M&A?

10

- Cần có những giải pháp gì để khắc phục những khó khăn bất cập trên?

5. Kết cấu đề tài

Kết cấu của khóa luận gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động sáp nhập và mua

bán doanh nghiệp: Trọng tâm của chương là làm rõ vấn đề lý luận quan niệm, khái

niệm về hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp, phân biệt được rõ những

khái niệm liên quan theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành như: thâu tóm,

mua lại, sáp nhập, hợp nhất, tìm hiểu được đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động sáp

nhập và mua bán doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương 1 nêu lên khái niệm chung

nhất về thế nào là pháp luật và nội dung pháp luật hoạt động sáp nhập và mua bán

doanh nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở

Việt Nam: Trọng tâm của chương có thể tóm gọn thành 3 phần chính. Phần thứ nhất

là về thực trạng hoạt động M&A Việt Nam nói chung trong những năm gần đây

2015-2017, tổng hợp một số thương vụ M&A tiêu biểu, điển hình. Phần thứ hai nêu

lên một số quy định trong pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động M&A, được

tác giả chia theo các nhóm chế định cụ thể. Phần cuối cùng, tác giả nêu một số

những bất cập trong pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam

hiện nay đang gây nhức nhối cho các nhà hành luật.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở Việt

Nam: Trong phạm vi kiến thức và hiểu biết, cũng như trong quá trình nghiên cứu đề

tài, tác giả nêu lên năm ý kiến giải pháp để góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về

hoạt động M&A mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.

6. Đóng góp của đề tài

Khóa luận với đề tài “Pháp luật về mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt

Nam” đã thể hiện được những điểm sau:

- Tổng lược được toàn cảnh M&A Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng

11

trong khoảng thời gian gần đây 2015-2017.

- Nêu lên được thực trạng một số những bất cập, vướng mắc hiện này liên

quan đến vấn đề hoạt động M&A tại Việt Nam gây khó dễ cho các nhà đầu

tư, các nhà hành luật.

- Làm rõ được các khái niệm liên quan đến hoạt động M&A dưới góc độ các

quy định pháp lý hiện hành của Việt Nam: thâu tóm, mua lại, sáp nhập, hợp

nhất.

- Nêu lên một số giải pháp để hoàn thiện hơn khung pháp lý hoạt động M&A

12

tại Việt Nam.

CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ

HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP VÀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP

1.1 Những vấn đề lý luận

1.1.1 Khái niệm hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp

Mua bán (mua lại) và sáp nhập (M&A – viết tắt của cụm từ tiếng anh

“Mergers and Acquisitions”). Hai khái niệm này thường đi chung với nhau do có

nhiều nghiệp vụ giống nhau, khá nhiều trường hợp người ta không thể phân biệt sự

khác nhau và không có đủ thông tin để nhận định. M&A có thể hiểu là hoạt động

giành quyền kiểm soát một doanh nghiệp, một bộ phận doanh nghiệp thông qua

việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó. Như vậy, nguyên tắc cơ bản

của M&A là phải tạo ra được những giá trị mới cho các cổ đông mà việc duy trì tình

trạng cũ không đạt được. Nói cách khác, M&A liên quan đến việc sở hữu và thực

thi quyền sở hữu để làm thay hoặc tạo ra những giá trị mới cho các cổ đông. Về một

khía cạnh khác, mua bán và sáp nhập là một giao dịch, trong đó chủ sở hữu của

công ty, cơ cấu và hoạt động kinh doanh được biến chuyển hoặc kết hợp. Nhìn nhận

dưới góc độ quản trị chiến lược, M&A có thể là đòn bảy cho phép công ty tăng

trưởng hoặc “chìm” và làm thay đổi lối kinh doanh vốn có và vị thế cạnh tranh trên

thị trường.

Mặc dù Mua bán và Sáp nhập thường được đề cập cùng nhau với thuật ngữ

quốc tế phổ biến là “M&A” nhưng hai thuật ngữ Mua bán và Sáp nhập vẫn có sự

khác biệt nhất định. Khi một công ty mua lại hoặc thôn tính một công ty khác và đặt

mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì thương vụ đó được gọi là Mua bán. Dưới khía

cạnh pháp lý, công ty bị mua lại không còn tồn tại, bên mua đã “nuốt chửng” bên

bán và cổ phiếu của bên mua không bị ảnh hưởng.

Theo nghĩa đen, Sáp nhập diễn ra khi hai doanh nghiệp, thường có cùng quy

mô, đồng thuận hợp nhất lại thành một công ty mới thay vì hoạt động và sở hữu

riêng lẻ. Loại hình này thường được gọi là “Sáp nhập ngang bằng”. Cổ phiếu của cả

hai công ty sẽ ngừng giao dịch và cổ phiếu của công ty mới sẽ được phát hành.

Trường hợp Daimler-Benz và Chrysler là một ví dụ về Sáp nhập: hai hãng Sáp nhập

13

và một công ty mới (pháp nhân mới) ra đời mang tên DaimlerChrysler. Tuy nhiên,

trên thực tế, hình thức “Sáp nhập ngang bằng” không diễn ra thường xuyên do

nhiều lý do. Một trong những lý do chính là việc truyền tải thông tin ra công chúng

cần có lợi cho cả công ty bị mua và công ty mới sau khi Sáp nhập. Thông thường,

một công ty mua một công ty khác và trong thỏa thuận đàm phán sẽ cho phép công

ty bị mua tuyên bố với bên ngoài rằng, hoạt động này là “Sáp nhập ngang bằng”

cho dù về bản chất là hoạt động mua bán. Một thương vụ mua bán cũng có thể được

gọi là Sáp nhập khi cả hai bên đồng thuận liên kết cùng nhau vì lợi ích chung.

Nhưng khi bên bị mua không không muốn bị thâu tóm thì sẽ được coi là một

thương vụ mua bán. Một thương vụ được coi là mua bán hay sáp nhập hoàn toàn

phụ thuộc vào việc, thương vụ đó có được diễn ra một cách thân thiện giữa hai bên

hay bị ép buộc thâu tóm nhau.

Một số tình huống không được coi là M&A:[15]

• Một doanh nghiệp mua cổ phần của một doanh nghiệp khác nhưng không

tham gia hoạt động quản trị/điều hành, chỉ thuần túy nhận cổ tức hoặc kỳ vọng nhận

thặng dư khi bán lại cổ phần cho nhà đầu tư khác;

• Một quỹ đầu tư chứng khoán mua cổ phiếu (niêm yết hoặc OTC) của một

doanh nghiệp đại chúng trên thị trường chứng khoán và cũng không tham gia quản

trị/điều hành tại doanh nghiệp đó.

• Một quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital) khi đầu tư vốn với tư cách cổ

đông vào các doanh nghiệp và cử đại diện phần vốn góp tại Hội đồng quản trị

nhưng vai trò của các thành viên này chủ yếu chỉ mang tính tư vấn, hỗ trợ cho các

doanh nghiệp này với kỳ vọng khi doanh nghiệp phát triển sẽ có thể thoái vốn thông

qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO). Trường hợp doanh nghiệp do quỹ

đầu tư vào không thành công thì khoản đầu tư trên có thể mất theo đúng tính chất

“mạo hiểm” của quỹ.

Như vậy, hoạt động M&A không chỉ làm thay đổi tình trạng sở hữu của một

doanh nghiệp đối với cổ phần hoặc tài sản mà còn làm thay đổi cả hoạt động quản

trị/điều hành của doanh nghiệp. Tuy nhiên mức độ thay đổi về quản trị còn phụ

thuộc vào các quy định của pháp luật, điều lệ doanh nghiệp và các thỏa thuận của

14

các bên khi tiến hành thương vụ M&A.

Định nghĩa hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp theo quy định pháp

luật của một số nước:

Hoa Kỳ là quốc gia Liên bang nên tồn tại hai hệ thống pháp luật là pháp luật

liên bang và pháp luật của từng bang. Do đó, hoạt động M&A chịu sự điều chỉnh

của hai hệ thống pháp luật là pháp luật liên bang và pháp luật của từng bang. Theo

pháp luật liên bang, sáp nhập có nghĩa là sự kết hợp giữa hai công ty mà một bên

hoàn toàn bị thâu tóm bởi công ty kia. Công ty kém quan trọng hơn sẽ mất đi đặc

điểm nhận diện của mình và trở thành một phần của công ty quan trọng hơn nơi vẫn

giữ được đặc điểm nhận diện của mình. Hoạt động sáp nhập làm lu mờ công ty bị

sáp nhập và công ty được sáp nhập sẽ nắm giữ các quyền, lợi ích và trách nhiệm của

công ty bị sáp nhập. Một hoạt động sáp nhập không giống với hoạt động hợp nhất

mà hai công ty cùng bị mất đi những đặc điểm nhận dạng của mình và tạo nên một

hình thức công ty hoàn toàn mới.

Dựa trên báo cáo của CFA(Financial Analyst) Institute: Các văn bản pháp lý

của Mỹ điều chỉnh hoạt động M&A được chia thành hai nhóm chính. Nhóm thứ

nhất là Luật chống độc quyền (Antitrust Law) và Luật chứng khoán (Securities

Law). Nhóm thứ nhất – Luật chống độc quyền gồm một số các văn bản pháp lý

như: Sherman Antitrust Act (1980) khung hình phạt cho hoạt động hạn chế cạnh

tranh, Clayton Antitrust Act (1914) bổ sung các hành vi bị cấm như phân biệt giá,

độc quyền, Celler-Kefauver Act(1950), Hart–Scott–Rodino Antitrust Improvements

Act (1976) yêu cầu khoảng thời gian chờ đợi trước khi một thương vụ M&A hoàn

thành và nêu ra các dữ liệu pháp lý cần đệ trình... Nhóm thứ hai – Luật chứng khoán

gồm Williams Act (1968) quy định về công khai thông tin…[17]

Cộng đồng chung Châu Âu: Cộng đồng Châu Âu đã có một định nghĩa cụ

thể về sáp nhập và mua lại tại Quy định về Sáp nhập của Cộng đồng Châu Âu số

139/2004 ngày 20/01/2004 (EC Merger Regulation) như sau: (i) sự sáp nhập giữa

hai pháp nhân độc lập hoặc hai bộ phận của hai pháp nhân; hoặc (ii) thâu tóm quyền

kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc mua lại chứng khoán hoặc tài sản

của một công ty khác; (iii) hoặc tạo ra một liên doanh mới. Quy định về Sáp nhập

của Cộng đồng Châu Âu đã đưa ra cách tính về doanh số, thủ tục cần thiết để tiến

hành việc sáp nhập và mua lại một cách cụ thể. Mặc dù hệ thống pháp luật của từng

15

quốc gia thuộc thành viên của Cộng đồng chung 3 Châu Âu là khác nhau, nhưng

Quy chế về Sáp nhập của Cộng đồng Châu Âu được áp dụng chung và là văn bản có

hiệu lực điều chỉnh cao hơn pháp luật của từng quốc gia phê chuẩn. [4]

Pháp luật Việt Nam, trên cơ sở phân tích các quy định của Luật Cạnh

Tranh 2004, Luật Doanh Nghiệp 2014, chúng ta có được những khái niệm cơ bản

sau:

Thứ nhất, về vấn đề sáp nhập doanh nghiệp (Mergers):

Theo Điều 195 Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014:“Một hoặc một số công

ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau

đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa

vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại

của công ty bị sáp nhập.”

Sáp nhập doanh nghiệp còn được định nghĩa trong Luật Cạnh Tranh 2004 tại

Khoản 1 - Điều 17: “1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh

nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang

một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp

nhập […].”

Thứ hai, quan niệm về hợp nhất doanh nghiệp (Consolidations):

Theo Điều 194 Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014: “Hai hoặc một số công

ty (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau

đây gọi là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp

nhất.”

Luật Cạnh Tranh 2004 quy định vấn đề này tại Khoản 1 – Điều 17: “Hợp

nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,

quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,

đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.”

Thứ ba, quan niệm về mua bán doanh nghiệp ( Acquisitions): Mặc dù Luật

Doanh Nghiệp không đề cập đến khái niệm mua bán doanh nghiệp nhưng chúng ta

lại có Điều luật quy định về bán doanh nghiệp – Điều 187 Luật Doanh Nghiệp

16

2014:

“1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho

người khác. 2. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu

trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh

trong thời gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua,

người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác.[…].”

Luật Cạnh Tranh cũng đưa ra được khái niệm về mua lại doanh nghiệp tại

Khoản 3 – Điều 17: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ

hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ

hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”

Thứ tư, khái niệm về thâu tóm doanh nghiệp (Takeovers): Thâu tóm là khái

niệm được sử dụng để chỉ một công ty tìm cách nắm giữ quyền kiểm soát đối với

một công ty khác thông qua thâu tóm toàn bộ hoặc một tỷ lệ số lượng cổ phần hoặc

tài sản của công ty mục tiêu đủ để có thể khống chế toàn bộ các quyết định của công

ty đó.

Tỷ lệ này có thể khác nhau theo quy định cụ thể trong Luật Công ty của từng

nước. Ví dụ ở Việt Nam, tỷ lệ này là 75% (tối thiểu là 65%) cụ thể theo Khoản 3

Điều 60 Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014:

“3. Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác, nghị quyết của Hội

đồng thành viên được thông qua tại cuộc họp trong các trường hợp sau đây:

a) Được số phiếu đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên

dự họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này;

b) Được số phiếu đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp của các thành viên

dự họp tán thành đối với quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50%

tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một

tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; sửa đổi, bổ sung Điều

lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty.”

Sau khi kết thúc chuyển nhượng, công ty mục tiêu sẽ chấm dứt hoạt động (bị

sáp nhập) hoặc trở thành một công ty con của công ty thâu tóm.

Trong nhiều trường hợp, lãnh đạo hai doanh nghiệp không thống nhất được

để đi đến một vụ mua bán thân thiện (friendly takeover) và bên đi mua trở thành kẻ

thôn tính bằng cách dùng nhiều biện pháp để gạt lãnh đạo công ty bị thôn tính sang

17

một bên. Hình thức giao dịch này được gọi là thôn tính thù nghịch (hostile

takeover). Có ba biện pháp chính dành cho bên đi thôn tính trong trường hợp bị lãnh

đạo doanh nghiệp bên kia cự tuyệt. Thứ nhất là tiếp xúc thuyết phục, đàm phán với

các cổ đông của công ty bị thôn tính để các cổ đông này ủng hộ việc thay thế ban

lãnh đạo của công ty bị thôn tính bằng một ban lãnh đạo mới ủng hộ việc sáp nhập.

Thứ hai là đưa ra một chào mua tế nhị (tender offer), theo đó bên thôn tính công bố

công khai sẵn sàng mua lại một phần hoặc toàn bộ cổ phiếu của bên bị thôn tính với

một mức giá nhất định (thường là cao hơn nhiều so với giá thị trường) từ bất kỳ cổ

đông nào muốn bán. Thứ ba là âm thầm gom cổ phiếu trên thị trường (phương pháp

này đôi khi bị gọi là creeping tender offer). Trong bất cứ trường hợp thôn tính thù

nghịch nào thì bên thôn tính đều bị ban lãnh đạo của công ty bị thôn tính chống lại,

và mục tiêu của kẻ đi thôn tính cũng là thay đổi ban lãnh đạo của công ty bị mua

lại(proxy battle).

Nhận xét:

Thuật ngữ “sáp nhập và mua lại” được hiểu phổ biến hiện nay ở Việt Nam

không những không chuyển tải hết khái niệm M&A (về mặt ngôn ngữ) mà còn chưa

thể hiện đầy đủ các hình thức hoạt động này. Trường hợp thôn tính mang tính thù

địch đối thủ cạnh tranh (tạm dịch thuật ngữ hostile takeovers) thông qua phương

thức “lôi kéo cổ đông bất mãn” rõ ràng không phải là “mua lại”. Còn “sáp nhập’

thực tế chỉ là một bộ phận trong khái niệm “thâu tóm” công ty. Sáp nhập để chỉ sự

thâu tóm toàn phần, và công ty mục tiêu chấm dứt sự tồn tại (như khái niệm được

quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014); trong khi “thâu tóm” còn được sử dụng

để chỉ việc tìm cách nắm giữ một số lượng cổ phần dưới 100% nhưng đủ để chi

phối công ty mục tiêu. Bên cạnh đó, thuật ngữ ‘sáp nhập và mua lại’ cũng không

tính đến hình thức “hợp nhất”, tuy không phổ biến nhưng không thể coi là một

trường hợp cá biệt của sáp nhập (trong Luật Doanh nghiệp cũng tách biệt hai khái

niệm này).

Do đó, thuật ngữ “mua bán và sáp nhập” sẽ được giới thiệu và trình bày

trong bài viết này để bao quát tất cả các hình thức của M&A từ khía cạnh quản trị

công ty. Mặc dù vậy, nhằm mục phân tích, hiểu hơn về bản chất của từng khái niệm

nhỏ liên quan đến hoạt động M&A, tác giả đã thực hiện bảng so sánh chi tiết các

18

khái niệm liên quan đến hoạt động M&A.

Thâu tóm (Takeovers) Mua lại (Acquisitions) Sáp nhập (Mergers) Hợp nhất (Consolidations)

Là thuật ngữ được sử dụng Là thuật ngữ sử dụng Là thuật ngữ sử dụng khi Là thuật ngữ được sử dụng khi Khái

khi một doanh nghiệp (gọi là khi cá nhân hay doanh một hoặc một số doanh hai hoặc nhiều doanh nghiệp niệm

doanh nghiệp thâu tóm) tìm nghiệp mua lại toàn bộ nghiệp sáp nhập vào một cùng thỏa thuận chia sẻ tài sản,

cách nắm giữ quyền kiểm tài sản và các khoản nợ doanh nghiệp khác bằng thị phần, thương hiệu của nhau

soát đối với doanh nghiệp của doanh nghiệp khác cách chuyển toàn bộ tài sản , để hình thành một doanh

khác(gọi là doanh nghiệp với một giá nào đó đã quyền, nghĩa vụ hợp pháp nghiệp hoàn toàn mới, với tên

mục tiêu) thông qua thâu tóm được thỏa thuận bằng sang doanh nghiệp nhận sáp gọi mới (có thể gộp tên của hai

toàn bộ hoặc một tỷ lệ cổ tiền mặt, chứng khoán nhập, đồng thời chấm dứt sự doanh nghiệp cũ) và chấm dứt

phần hoặc tài sản của doanh hoặc cả hai. Bên mua tồn tại của doanh nghiệp bị sự tồn tại của các doanh nghiệp

nghiệp mục tiêu đủ để khống doanh nghiệp đăng ký sáp nhập. bị hợp nhất.

chế các quyết định của doanh thay đổi chủ doanh

nghiệp. nghiệp để trở thành chủ (Về cơ bản sáp nhập là một

sở hữu mới của doanh trường hợp đặc biệt của thâu

nghiệp. tóm khi thâu tóm toàn bộ cổ

phần và chấm dứt hoạt động

19

của công ty bị sáp nhập.)

Sau khi kết thúc việc chuyển Đối với hoạt động mua Sau khi kết thúc hoạt động Song hành với tiến trình này, Ý

nhượng, doanh nghiệp mục lại doanh nghiệp: doanh sáp nhập doanh nghiệp: cổ phiếu của các doanh nghiệp nghĩa

tiêu sẽ chấm dứt hoạt động nghiệp mục tiêu sẽ vẫn doanh nghiệp mục tiêu – bị hợp nhất sẽ không còn tồn của

hoặc trở thành doanh nghiệp tồn tại trước, trong và doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ tại mà doanh nghiệp mới ra đời nghiệp

con của doanh nghiệp thâu sau quá trình mua bán. chấm dứt sự tồn tại. sẽ phát hành cổ phiếu mới thay vụ

thế. tóm.

Nói chính xác hơn, trên góc

độ pháp lý, doanh nghiệp

mục tiêu sẽ ngừng hoạt động,

doanh nghiệp thâu tóm nắm

toàn bộ hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp mục tiêu,

tuy nhiên cổ phiếu của doanh

nghiệp thâu tóm vẫn được

tiếp tục giao dịch bình

thường.

DN A + DN B DN A + DN B Sơ đồ TH1: Thâu tóm toàn bộ  DN A  DN A

 DN A (Doanh nghiệp có

 DN C

minh Sáp nhập. ( Thay đổi chủ sở hữu)

20

họa cơ TH2: Thâu tóm một phần. quy mô lớn hơn) (Doanh nghiệp mới)

Trong đó: bản

Ví dụ: DN A thâu tóm một - DN A và DN B là hai doanh

phần DN B. nghiệp có ý định hợp nhất.

Cơ cấu cổ phần vốn góp của - DN C là doanh nghiệp được

DN B: DN A(70%), DN hình thành dựa trên sự kết hợp

D(20%), DN E(10%). của hai DN A và DN B.

Không có doanh nghiệp mới Không có doanh nghiệp Không có doanh nghiệp mới Xuất hiện doanh nghiệp mới và Kết

xuất hiện. mới xuất hiện. xuất hiện. cổ phiếu mới quả

hoạt

động

M&A

Quyền quyết định sẽ thuộc về Quyền quyết định và Quyền quyết định và kiểm Các doanh nghiệp tham gia Quyền

doanh nghiệp có quy mô và kiểm soát doanh nghiệp soát doanh nghiệp thuộc về hợp nhất có quyền quyết định quyết

tỷ lệ sở hữu cổ phần lớn hơn sẽ thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp nhận sáp trong Hội đồng quản trị công ty định và

trong Hội đồng quản trị. mới (bên mua lại doanh nhập. được hợp nhất tùy vào số vốn kiểm

Trong trường hợp, “thâu tóm nghiệp). đóng góp của mỗi bên. soát

mang tính thù địch (hostile doanh

21

takeovers), cổ đông của nghiệp

doanh nghiệp mục tiêu được

trả tiền để bán lại cổ phiếu

của mình và hoàn toàn mất

quyền kiểm soát doanh

nghiệp.

Hình thức này có tính phổ Việc chia sẻ quyền sở hữu, Tính

biến nhiều hơn do tính chất quyền lực và lợi ích một cách phổ

đơn giản hơn khi chia sẻ đồng đều và lâu dài luôn khó biến

quyền lợi sau quá trình thâu khăn và khó thực hiện giữa các

tóm doanh nghiệp. cổ đông với nhau. Vì lâu dần

do tính chất độc chiếm sẽ hình

thành xu hướng liên kết giữa

các cổ đông.

- Công ty cổ phần Tập đoàn - Thương vụ Central - Thương vụ Ngân hàng Vào thời điểm 07/5/1998: hãng Ví dụ

Masan (Bên bán) đã ký kết Group mua BigC TMCP Phát triển Mê Daimler – thương hiệu nổi một số

thỏa thuận hợp tác Chiến Vietnam (Giá trị: 1.140 Kong(MDB) sáp nhập vào tiếng của Mercedes Benz của thương

lược đối với Tập đoàn Singha triệu USD) Ngân hàng TMCP Hàng Hải Đức công bố việc chi 27 tỷ vụ

22

(Bên mua) của Thái Lan. - Thương vụ VNG mua Việt Nam (Maritime bank) Euro để tiến hành hợp nhất

Giá trị thỏa thuận lên tới 1,1 Tiki (Giá trị: 17,1 triệu (Giá trị: 529 triệu USD) hãng Chrysler đang thua lỗ ở

tỷ USD bao gôm vốn mới USD) - Thương vụ Công ty cổ Mỹ. Đây là vụ hợp nhất lớn

cho phép Singha sở hữu 25% - Thương vụ Vinamilk phần Thành Thành Công nhất tính đến thời điểm đó, tên

cổ phần của Masan mua Driftwood Dairy Tây Ninh sáp nhập vào gọi sau khi hợp nhất là Daimler

Consumer Holdings và (Giá trị: 3 triệu USD) Công ty cổ phần Mía đường Chrysler. Daimler Chrysler trở

Nhiệt điện Gia Lai thành nhà sản xuất xe hơi lớn 33,3% cổ phần Masan

( Giá trị: 50,5 triệu USD thứ ba thế giới. Với mục tiêu Brewery. Thương vụ này

sau hợp nhất, thương hiệu hoàn tất trong tháng 1/2016.

Daimler Chrysler sẽ đứng đầu Với thương vụ này, Masan và

trong phạm vị toàn thế giới, tuy Singha ngay lập tức mở rộng

nhiên kết quả không như mong thị trường kinh doanh thực

đợi. phẩm và đồ uống của hai

công ty thành quy mô khu

vực, trọng tâm là các nước

ASEAN: Việt Nam, Lào,

Thái Lan, Myanmar…

23

Bảng 1.1: So sánh giữa thâu tóm, mua lại, sáp nhập, hợp nhất

1.1.2 Đặc điểm khác biệt của thị trường sáp nhập và mua bán doanh

nghiệp so với các thị trường khác:

Hoạt động M&A được thực hiện dựa trên rất nhiều mục tiêu tùy thuộc vào

chiến lược của nhà đầu tư. Nhất là đối với hoạt động mua lại doanh nghiệp, việc

mua lại không chỉ đơn thuần là việc tiếp quản khối lượng tài sản, nhân lực hiện có

của doanh nghiệp, đó còn là việc mua lại cả một thương hiệu, các khách hàng mục

tiêu , tiềm năng, bí mật kinh doanh… của doanh nghiệp. Nhưng cũng có nhiều

trường hợp đơn thuần, mục đích của nhà đầu tư chỉ là việc muốn đầu tư và hưởng

lời từ khoản đầu tư của mình. Tuy nhiên, hoạt động M&A về cơ bản là hoạt động

của một bên tìm cách giành quyền kiểm soát một bên khác qua việc nắm giữ một

phần hoặc toàn bộ cổ phần, vốn góp, tài sản của bên mục tiêu. “Quyền kiểm soát” là

quyền đủ để tham gia quyết định những vấn đề quan trọng thông qua việc đạt mức

sở hữu nhất định về vốn hoặc cổ phần doanh nghiệp, đây là một trong những yếu tố

quan trọng để phân biệt thị trường M&A với các thị trường khác.

Bên cạnh đó, hàng hóa của thị trường M&A là một loại tài sản đặc biệt, đó là

những công ty, doanh nghiệp, tập đoàn, tổ chức – là một tập hợp của nhiều loại tài

sản nhỏ khác và có giá trị rất lớn. Hàng hóa đó có mức trao đổi mua bán không

thường xuyên và việc trao đổi mua bán diễn ra tốn nhiều thời gian và công sức.

Hoạt động của thị trường bao quát tất cả các lĩnh vực, ngành nghề hoạt động

kinh doanh. Quy mô của thị trường M&A không bị hạn chế bởi giới hạn địa lý, hoạt

động M&A xuyên quốc gia rất phát triển. Hoạt động M&A có ảnh hưởng lớn đến

sự phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề mà nó tham gia, thậm chí ảnh hưởng đến

sự phát triển của nền kinh tế một nước. Chính vì vậy hoạt động M&A chịu sự chi

phối và điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật, đặc biệt là các quy định về chống độc

quyền và chính sách bảo hộ của Chính phủ.

1.1.3 Ý nghĩa của hoạt động sáp nhập và mua bán doanh nghiệp

M&A trên thế giới cũng như M&A tại Việt Nam đều được nhận định rằng,

sẽ tạo ra giá trị tăng thêm (giá trị cộng hưởng - synergies) nhờ giảm chi phí, mở

24

rộng thị phần, tăng doanh thu hoặc tạo ra cơ hội tăng trưởng mới. Giá trị cộng

hưởng có được từ mỗi thương vụ M&A sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh hiệu quả

và giá trị DN sau M&A được nâng cao.

Đồng thời, M&A còn góp phần cải thiện tình hình tài chính của DN. Sau

M&A, DN sẽ được tăng thêm nguồn vốn sử dụng và khả năng tiếp cận nguồn vốn,

chia sẻ rủi ro, tăng cường tính minh bạch về tài chính. Có thể thấy rằng, một trong

những yêu cầu đặt ra cho việc đổi mới tái cơ cấu ngành Ngân hàng Việt Nam, đó

chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thông qua việc gia tăng

nguồn vốn điều lệ của các ngân hàng. Do đó, M&A trong lĩnh vực tài chính ngân

hàng diễn ra khá sôi động và đã đáp ứng được nhu cầu cải thiện nguồn vốn kinh

doanh trong lĩnh vực này. Trong thời gian qua, một loạt các thương vụ M&A ngân

hàng đã được tiến hành thành công như: Sáp nhập Ngân hàng SCB, Đệ Nhất và Đại

Tín; sáp nhập Tiên Phong Bank – Doji; Habubank – SHB; PVcomBank - Ngân

hàng Phương Tây; Ngân hàng MHB vào BIDV; Ngân hàng MDB sáp nhập vào

Maritime Bank; Southern Bank vào Sacombank…

M&A còn giúp DN đạt được hiệu quả kinh doanh dựa vào quy mô khi DN

có thể thâm nhập được vào thị trường mới, có thêm một dây chuyền sản phẩm mới

hay mở rộng phạm vi phân phối, mở rộng chi nhánh, phòng giao dịch, các dự án…

Hơn nữa, quy mô lớn cũng giúp giảm thiểu chi phí trong kinh doanh như giảm thiểu

sự trùng lắp trong mạng lưới phân phối, tiết kiệm chi phí hoạt động và chi phí quản

lý... Sau khi thực hiện M&A, hai bên có thể khai thác được những lợi thế lẫn nhau,

tăng thị phần, tận dụng quan hệ khách hàng, khả năng bán chéo sản phẩm, dịch vụ,

từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo ra các cơ hội kinh doanh mới.

Trên thực tế, khi hai hay nhiều bên sáp nhập lại đều có nhu cầu giảm việc

làm, nhất là các công việc gián tiếp. Bởi vậy, M&A sẽ là dịp để các DN sàng lọc và

sa thải những vị trí làm việc kém hiệu quả, từ đó góp phần không nhỏ vào việc tinh

gọn bộ máy của DN. Qua đó, DN sẽ có cơ hội được tiếp nhận nguồn lao động có kỹ

năng tốt và nhiều kinh nghiệm. Đồng thời, thông qua việc M&A, DN có thể tận

dụng công nghệ hay kỹ thuật của nhau để tạo lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, nguồn

vốn dồi dào cũng là một trong những điều kiện thuận lợi để họ trang bị những công

nghệ hiện đại phục vụ cho việc kinh doanh.

Ngoài các yếu tố nêu trên, thương hiệu cũng là một yếu tố quan trọng tác

25

động đến sự thành công của 1 thương vụ M&A. Bên đi mua phải trả một khoản chi

phí tương đối lớn cho “thương hiệu” - thứ tài sản không thể hiện trên bảng cân đối

kế toán cũng như trên báo cáo tài chính. Điều mà các công ty đi mua hướng đến

chính là những khách hàng lâu năm, trung thành với một thương hiệu, những mối

quan hệ với các đối tác chiến lược được gây dựng trong một thời gian dài. Điển

hình cho mục đích này chính là việc công ty đa quốc gia Unilever mua lại thương

hiệu kem đánh răng P/S của Công ty Hóa mỹ phẩm Phong Lan thuộc Sở Công

nghiệp TP. Hồ Chí Minh vào năm 1995 với giá 5 triệu USD, từ đó đặt nền móng

cho việc xâm nhập và bành trướng thị trường của nhãn hiệu này. Đến nay, Unilever

đã chiếm thị phần rộng lớn với rất nhiều sản phẩm tiêu dùng đa dạng.

Năm 2017 và những năm tiếp theo, thị trường Việt Nam hứa hẹn sẽ có thêm

nhiều thương vụ M&A đình đám khác. Với xu thế hòa nhập với nền kinh tế thế giới,

dòng vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam chắn chắc sẽ gia tăng

nhanh thông qua con đường M&A. Do đó, Việt Nam cần xây dựng một khung pháp

lý an toàn để vừa có thể thu hút được nhà đầu tư nước ngoài vừa có thể bảo vệ được

quyền lợi của nhà đầu tư trong nước.

1.2 Những vấn đề pháp lý về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp

1.2.1 Khái niệm pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp

Theo nghĩa rộng, pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp là tổng

hợp các quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các bên tiến hành hoạt động sáp nhập

và mua bán doanh nghiệp.

Theo nghĩa hẹp, pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp là hệ thống

các quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ xã hội phát sinh giữa các

bên có liên quan trong việc ký kết hợp đồng liên quan đến sáp nhập và mua bán

doanh nghiệp và các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với

doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan hay thực hiện

kiểm soát Nhà nước về tập trung kinh tế được quy định trong pháp luật cạnh tranh.

1.2.2 Nội dung của pháp luật sáp nhập và mua bán doanh nghiệp

Nội dung của pháp luật về mua bán doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa hẹp

như đã trình bày ở nhóm tiểu mục 1.2.1 bao gồm các quy định cụ thể sau: Quy định

26

về các hình thức mua bán doanh nghiệp, quy định về chù thể mua bán doanh

nghiệp; Quy định về hợp đồng- phương thức thực hiện các giao dịch mua bán doanh

nghiệp và quy định về thủ tục mua bán doanh nghiệp… Tuy nhiên, nội dung của

pháp luật sáp nhập và mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam được đề cập tại Chương

2 sẽ được tiếp cận theo một hướng khác: Hệ thống một số các quy định của pháp

luật Việt Nam trong một số văn bản pháp luật hiện hành cụ thể về hoạt động mua

bán và sáp nhập doanh nghiệp M&A.

1.2.3 Vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh hoạt động mua bán và

sáp nhập doanh nghiệp

Trong bối cảnh, Việt Nam đang dần mở cửa, thực thi rất nhiều những hiệp

định thương mại tự do thế hệ mới, tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng đang diễn ra,

hoạt động M&A luôn đóng vai trò quan trọng, không chỉ đối với quá trình tái cấu

trúc nền kinh tế, mà với cả hoạt động thu hút đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất –

kinh doanh. Và làm thế nào để hoạt động M&A thực sự trở thành công cụ ngày

càng hữu hiệu cho quá trình tái trúc nền kinh tế, tái cấu trúc doanh nghiệp, đồng

thời là một kênh huy động vốn hiệu quả, đáp ứng nhu cầu rất lớn về nguồn vốn đầu

tư phát triển trong giai đoạn mới mà vẫn đảm bảo được tính an toàn, tạo được sân

chơi bình đẳng, công bằng cho các chủ thể, tránh tình trạng cạnh tranh, độc quyền

thì công cụ pháp lý là phương thức hiệu quả thực hiện sứ mệnh này.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt kết quả tích cực trong các quy định pháp lý

hiện hành điều chỉnh về hoạt động M&A thì vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế cần

khắc phục, một số quy định còn ở mức độ lý thuyết, chưa có tính thực tiễn cao. Do

đó, đòi hỏi các nhà làm luật phải thực sự nắm bắt xu thế, tình hình thực tế kinh tế để

sửa đổi, bổ sung, phát huy vai trò của pháp luật một cách toàn diện nhất trong việc

điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

Việt Nam.

1.2.4 Quy định về hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)

của một số quốc gia trên thế giới

Tác giả tham khảo một số tai liệu từ một số các nghiên cứu trước đó: [4]

Trung Quốc: Trung Quốc là một trong những nước thu hút nhiều vốn đầu

27

tư nước ngoài dưới hình thức mua lại và sáp nhập (M&A) nhất ở Châu Á những

năm gần đây. Nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia M&A với các doanh nghiệp

nội địa theo nhiều cách thức khác nhau. Trước khi tiến hành M&A các nhà đầu tư

phải đệ trình một bản kế hoạch tái tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước trong đó nêu

rõ những thông tin về nhà đầu tư nước ngoài, tình hình tài chính, quy mô kinh

doanh, cơ cấu cổ phần, kế hoạch ổn định nhân sự và đặc biệt là cách thức quản lý

công ty mới. Trung Quốc yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp kế hoạch để

cải tiến cơ cấu quản lý và thúc đẩy tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp nhà

nước.

Về vấn đề giá cả mua lại doanh nghiệp: Trung Quốc quyết định giá mua lại

doanh nghiệp phải dựa trên giá trị tài sản hoặc giá trị cổ phần do một công ty đánh

giá tài sản ở Trung Quốc đưa ra. Phương pháp đánh giá tài sản hoặc cổ phần phải là

phương pháp được quốc tế công nhận. Nếu như giá mua lại doanh nghiệp thấp hơn

giá trị đó thì cuộc chuyển nhượng này không được phép thực hiện. Về thuế áp dụng

cho các giao dịch M&A, Trung Quốc căn cứ vào từng hình thức M&A để áp dụng

mức thuế suất khác nhau đối với từng giao dịch.

Thái Lan: Mua lại và sáp nhập hai hoặc nhiều công ty có thể dưới các hình

thức sau: i, Sáp nhập (hợp nhất) ii, Mua lại cổ phần iii, Mua lại tài sản. Trong ba

hình thức trên thì hình thức hợp nhất là ít phổ biến tại Thái Lan do Thái Lan không

khuyến khích hình thức hợp nhất các công ty.

Trong một số lĩnh vực nhất định (Ngân hàng, tài chính tín dụng, bảo hiểm

nhân thọ, đại lý du lịch, hàng hải, hàng không…) Thái Lan đều có những giới hạn

về vốn và số lượng người nước ngoài tham gia vào hoạt động quản lý.

Về thuế, Thái Lan dành nhiều ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Thuế doanh lợi là 30% đối với sáp nhập và mua lại bằng hình thức tài sản. Còn đối

với mua lại cổ phiếu, Thái Lan áp dụng thuế lũy tiến từ 5% - 37% đối với công dân

Thái và 30% cho các công ty nội địa và 15% khấu trừ trước cho công dân và công

ty nước ngoài. Thuế trước bạ là 0,5 % trên số bất động sản ( được miễn nếu như các

điều kiện đặt ra được đáp ứng ) đối với hình thức đầu tư mua lại bằng tài sản và sáp

28

nhập. Và 0,1% giá bán ra hoặc giá trị cổ phiếu đã trả ( tùy theo giá trị nào lớn hơn ).

Hình thức đầu tư bằng cách mua lại cổ phiếu và sáp nhập được miễn thuế

VAT, còn mua lại tài sản chỉ bị đánh 7% trên bất động sản và được miễn nếu

chuyển nhượng toàn bộ công ty.

Về vấn đề người lao động, Thái Lan quy định tất cả người lao động phải

đồng ý với bản kế hoạch nhân sự do bên mua đưa ra. Bản kế hoạch đó phải đảm bảo

được quyền lợi của người lao động. Đối với những người xin thôi việc, công ty phải

đền bù cho họ theo quy định của luật lao động tùy theo thời gian làm việc cho công

ty.

Malaysia: Mặc dù, luôn chào đón các nhà đầu tư nước ngoài nhưng chính

phủ Malaysia vẫn cố gắng tăng tỷ lệ sở hữu của công dân Malaysia và Bumiputra

(người Malaysia bản địa ) ở các công ty bị M&A. Với mục đích đó, Malaysia luôn

đảm bảo rằng tỷ lệ sở hữu trong nền kinh tế Malaysia theo tỷ lệ tối thiểu là 30% sở

hữu thuộc về Bumiputra, 40% thuộc về người Malaysia khác và tối đa 30% thuộc

về người nước ngoài.

Đối với hình thức đầu tư mua lại cổ phiếu, nhà đầu tư nước ngoài phải xin

phép Cục đầu tư nước ngoài nếu như mua mua lại hơn 15% cổ phiếu của công ty

nội địa hoặc mua cổ phiếu với tổng giá trị hơn 10 triệu ringgit Malaysia ( RM

10.000.000). Đối với hình thức đầu tư mua lại tài sản, nhà đầu tư nước ngoài cũng

phải xin phép cục đầu tư nước ngoài và chỉ được phép mua tài sản có giá trị lớn hơn

150.000 Ringgít Malaysia, đồng thời không bị giới hạn số tài sản được mua.

Về vấn đề người lao động, trước khi tiến hành M&A thì nhà đầu tư nước

ngoài không cần phải lấy ý kiến người lao động. Công ty mới chỉ cần đảm bảo sao

cho người lao động vẫn giữ được các điều kiện làm việc như trước đây. Các công ty

phải cố gắng tuyển dụng và đào tạo người Malaysia sao cho họ có thể tham gia vào

các vị trí trong công ty.

Nói chung, Malaysia không có luật chống độc quyền áp dụng với tất cả các

ngành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực truyền thông và viễn thông thì có luật về chống

độc quyền theo đó. nhà đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào những dự án

làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường viễn thông.

Về thuế, Malaysia chỉ đánh thuế thu nhập 20% đối với 500.000 Ringgit đầu

29

tiên và 25% đối với số thu nhập còn lại.

Singapore: Trước khi Luật công ty của Singapore có hiệu lực (ngày

15/6/2005), các giao dịch thường được gọi là “sáp nhập” thực chất là công ty B mua

lại tài sản của công ty A nhờ đó công ty B phát hành cổ phiếu của công ty mình cho

công ty A. Hay công ty A và công ty B có thể cùng góp tài sản để lập thành công ty

C và công ty C sẽ phát hành cổ phiếu cho hai công ty trên. Mặc dù về tài sản là

chung trong một công ty nhưng về tư cách pháp nhân thì công ty A, công ty B và

công ty C (nếu phù hợp) vẫn là ba công ty riêng biệt. Sau khi luật công ty ra đời,

Singapore đặt ra những quy định chặt chẽ hơn đối với hình thức hợp nhất (sáp nhập)

công ty. Sau khi hợp nhất hai hay nhiều công ty thì có thể hình thành một công ty

hợp nhất hoặc là hình thành một công ty mới.

Mua lại các công ty ở Singapore cũng giống như các nước khác có thể thông

qua hình thức mua lại cổ phiếu hoặc mua lại tài sản. Về luật chống độc quyền,

Singapore không có luật chống độc quyền. Nhưng trong một số ngành như viễn

thông, bưu chính, ngành dịch vụ công có những quy định về chống độc quyền.

Hoa Kỳ: Hoa Kỳ có lẽ là một trong những nước đi đầu trong kinh nghiệm

thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động M&A. Luật chống độc quyền

Sherman được ban hành từ năm 1890.

Về định chế quản lý M&A, đạo luật ủy ban Thương mại liên bang (FTC)

năm 1975 đã quy định “ngăn cấm mọi hành vi không lành mạnh đe dọa tính cạnh

tranh của thị trường” và trao cho cơ quan hành pháp này chức năng độc lập thực thi

các luật chống độc quyền của liên bang. Tiếp theo, năm 1976 Luật chống độc quyền

Hart-Scott-Rodino (HSR) bắt buộc các bên liên quan phải thông báo và nộp hồ sơ

thẩm tra lên FTC và Bộ Tư pháp trước khi hoàn tất vụ sáp nhập. Quy định này được

áp dụng đối với tất cả những vụ sáp nhập mà một trong hai bên có doanh thu trên

100 triệu USD và bên còn lại trên 10 triệu USD, với giá trị chuyển nhượng vượt quá

15 triệu USD. Nếu các công ty thuộc đối tượng như trên thực hiện sáp nhập mà

không qua thẩm tra của FTC và Bộ Tư pháp sẽ bị hủy thỏa thuận chuyển nhượng và

30

có thể bị phạt lên đến 10000 USD/ngày.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP VÀ

MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

2.1 Hoạt động M&A Việt Nam trong những năm gần đây:

Tổng quan M&A thế giới trong những năm 2015, 2016: Nếu như năm 2015

được thúc đẩy bởi những điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi, mức tiền mặt cao cùng

mức lãi suất thấp, thị trường mua bán và sáp nhập M&A đã ghi nhận nhiều thương

vụ ở hầu hết các khu vực địa lý và trải dài khắp các lĩnh vực thì bước vào năm

2016, thị trường M&A phải đón nhận vài tác động xấu có thể cản trở dòng chảy

giao dịch và định giá.

Số lượng các giao dịch và giá trị thương vụ M&A được ghi nhận trên toàn

thế giới đạt mức kỷ lục trong năm 2015. Khối lượng các thương vụ M&A trên toàn

thế giới đã tăng 4% từ con số 31.963 trong năm 2014 tăng lên mức 33.365 thương

vụ vào năm 2015 và làm lu mờ đi con số 32.856 giao dịch vào thời kỳ đỉnh cao của

thị trường trong năm 2005. Nối tiếp thị trường M&A tăng trưởng mạnh mẽ năm

2014, giá trị của các thương vụ M&A trên toàn cầu đã tăng thêm 29% từ 3.890 tỷ

USD trong năm 2014 lên mức 3.890 tỷ USD vào năm 2015, tăng gấp đôi giá trị so

với mức trung bình ba năm trước năm 2014 là 1.930 tỷ USD. Trên toàn thế giới, số

lượng các giao dịch có giá trị hàng tỷ USD đã tăng 10% từ con số 489 năm 2014

lên 536 giao dịch trong năm 2015. Tổng giá trị các thương vụ tỷ USD trên toàn cầu

đã tăng 45% từ 2.020 tỷ USD đến 2.940 tỷ USD.[18]

(Thao khảo hình 2.1, hình 2.2, hình 2.3 – Phụ lục – Trang 78)

Cùng với sự sôi động của thị trường M&A khu vực và thế giới, thị trường

Việt Nam cũng có những ảnh hưởng tích cực. Tại Việt Nam, hoạt động M&A năm

2015 đã trở lại mốc kỷ lục 5,2 tỷ USD được thiết lập từ năm 2012. Trong năm 2016

cũng đã diễn ra nhiều thương vụ quy mô và có giá trị kinh tế cao.

Ngoài ảnh hưởng của xu hướng M&A thế giới và khi vực, các yếu tố chính

thúc đẩy hoạt dộng M&A tại Việt Nam trong những năm qua là làn sóng tiếp cận thị

trương của các nước trong khi vực mà điển hình là Thái Lan, Singapore, Nhật Bản.

31

Ngoài ra, sự phục hồi của thị trường bất động sản và sự kỳ vọng vào việc Việt Nam

gia nhập vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và thành viên của

Cộng đồng chung kinh tế ASEAN (AEC) cũng là những yếu tố quan trọng.

Bên cạnh đó, cuối năm 2015 và đầu năm 2016 là khởi đầu của một nhiệm kỳ

mới cùng với những động thái mạnh mẽ của Chính phủ về quá trình cổ phần hóa

các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy kinh tế tư nhân, cải cách một số luật lệ liên

quan đến doanh nghiệp và đầu tư, môi trường vĩ mô ổn định cũng sẽ là yếu tố thúc

đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước mạnh dạn hơn trong hoạt động M&A.

Xét về số lượng thương vụ, các thương vụ giữa các doanh nghiệp nội chiếm

đã số vơi trên 60%. Tuy nhiên, giá trị các thương vụ này chủ yếu ở quy mô nhỏ và

vừa, quanh ức 5 triệu USD. Nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan tọng

với các thương vụ quy mô lớn từ 30 đến trên 100 triệu USD. Đáng chú ý, đã xuất

hiện những thương vụ chuyển nhượng những công ty hoặc hệ thống có tài sản lớn,

quy mô trên 1 tỷ USD tại thị trường Việt Nam.[12]

Thái Lan, Singapore, Nhât Bản vẫn là những người mua chủ yêu tại thị

trường Việt nam. Trong khi Nhật Bản tham gia đầu tư chiến lược vào các công ty

hàng không, xăng dầu, dược phẩm, thì Singapore nổi lên với những thương vụ bất

động sản thương mại và Thái Lan tiếp tục tập trung vào mảng bán lẻ với mục tiêu

mở rộng thị trường.

Các ngành bán lẻ, công nghệ, tiêu dùng, bất động sản tiếp tục chiếm tủ trọng

lớn trong giá trị các thương vụ M&A tại Việt Nam. Đây cũng là những lĩnh vực thu

hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các nhà đầu tư có tiềm lực

trong nước. Ngành ngân hàng đã bước vào ổn định dần sau các thương vụ tái cấu

trúc và sắp xếp của ngân hàng nhà nước và phát triển thêm xu hướng đầu tư vào các

dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tài chính tiêu dùng.

Qua đó ta có cái nhìn chung về xu hướng chính củ thị trường M&A Việt

Nam trong những năm gần đây:

Thứ nhất, lĩnh vực bán lẻ và hàng tiêu dùng: những thương vụ tiếp cận thị

trường hơn 93 triệu dân. Đi đầu các thương vụ M&A trong năm qua là ngành bán lẻ

và hàng tiêu dùng, chiếm tới 38,46% tổng giá trị. Trong đó quy mô của 2 thương vụ

M&A từ Thái Lan đã chiếm 24,8% giá trị M&A năm 2015 nửa đầu năm 2016. Tuy

khong có nhiều thương vụ diễn ra, nhưng nhàng sản xuất thực phẩm và bán lẻ lại có

32

những thương vụ tỷ đô với sự tha gia của của các doanh nghiệp ngoại. Trong ngành

bán lẻ, thương vụ đáng chú ý nhất đó là Central Group mua lại BigC Việt Nam với

giá 1.140 tỷ USD với tham vọng chi phối ngành bán lẻ Việt. Cũng trong ngành bán

lẻ, thương vụ Vingroup mua lại hệ thống siêu thị Maximark tuy không được tiết lộ

giá trị nhưng theo giới chuyên môn, đây cũng là một thương vụ có giá trị lớn. Bên

cạnh đó thương vụ tỷ đô khác là Singha trở thành đối tác chiến lược của Masan với

giá trị 1,1 tỷ USD thông qua việc nắm giữa 25% cổ phần của Masan Consumer

Holding và 33% cổ phần Masan Brewery.

Lĩnh vực thương mại điện tử trong khu vực Đông Nam Á đã trở thành trọng

tâm cho các công ty hàng tiêu dùng. Trước đó, công ty thương mại điện tử lớn nhất

Trung Quốc Alibaba Group Holding đã chi 1 tỷ USD mua cổ hần kiểm soát tại khi

vực Đông Nam A của Lazada, trang bán lẻ trực tuyến đang giữ ngôi vương tại Việt

nam. Tại thị trường Việt Nam, theo thống kê của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt

Nam (VECOM) lĩnh vực thương mại điện tử được dự đoán sẽ tăng trưởng hơn 30%

mỗi năm từ năm 2016 đến 2020, với quy mô giá trị vào năm 2020 ước tính đạt 10 tỷ

USD, chiếm khoản 5% thị trường bán lẻ. [12]

Thứ hai, khối ngoại chiếm ưu thế, với các nhà đầu tư Thái lan, Nhật Bản

và Singapore.

Thứ ba, Bất động sản tiếp tục đón đầu TPP. Đã phục hồi từ cuối năm

2014 kéo thị trường bất động sản 2015 tiếp tục khởi sắc với những tín hiệu tích cực

của thị trường và theo nhận định là đang bước vào thời kỳ phát triển mới. Bất động

sản tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài Hàn Quốc, Nhật

Bản, và Singapore. Giao địch đáng chú ý nhất là thương vụ giữa Keppel Land và

chủ đầu tư dự án Empire City tại quận 2, TP HCM, trong đó Keppel đã nhận chuyển

nhượng 40% cổ phần, tương đương với 93,9 triệu USD. Ở trong nước, các nhà phát

triển dự án nội địa cũng không ngừng mở rộng và tìm mua các dự án tốt. Ví dụ như

Bitexco có những động thái mở rộng vào bất động sản du lịch, với thương vụ mua

cổ phần Công ty Du lịch Hương Giang (Huế).

Diễn biến của thị trường đã cho thấy doanh nghiệp nào sớm xác định M&A

là hướng đi chiến lược đang thu hoạch được nhiều thành công lớn. Nhìn lại quá

trình M&A của một số doanh nghiệp được đánh giá nổi trội trong lĩnh vực BĐS có

33

thể khẳng định đây là một trong những yếu tố để nắm được cơ hội kinh doanh ở

thời điểm thị trường tốt nhất. Thông qua M&A, một loạt doanh nghiệp BĐS đã “lột

xác” hoàn toàn.

Chẳng hạn như Novaland, với 4 dự án ở năm 2013, đến nay đã phát triển trên

40 dự án ở phân khúc trung và cao cấp. Trong năm 2016, số lượng dự án đã hoàn

thành và bàn giao là 7 dự án, và 21 dự án mới đã và đang được phát triển. Một tên

tuổi khác đáng chú ý về lĩnh vực M&A trong năm qua là Công ty CP Địa ốc Đất

Xanh, với 7 dự án đã M&A, nâng tổng số dự án đang triển khai lên 20 dự án. Dự án

M&A quy mô lớn trong năm 2016 của doanh nghiệp này là tại khu trung tâm Nam

Rạch Chiếc (Phường An Phú, Quận 2) - Zem Riverside với tổng vốn 1.071 tỷ đồng,

quy mô 6,7ha.

Những ngày cuối cùng của năm 2016, Đất Xanh cũng đã chính thức công bố

hợp tác đầu tư với Công ty Địa ốc Sài gòn để cùng phát triển dự án SaigonRes

Riverside (P.Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Tp.HCM) với quy mô đất 67.221 m

2, tổng vốn là 950 tỷ đồng, trong đó Đất Xanh góp 75%, tương đương 712,5 tỷ

đồng. Trước đó, Đất Xanh cũng đã thỏa thuận xong thương vụ chuyển nhượng cổ

phần từ Công ty CP Đầu tư hạ tầng và đô thị Dầu Khí (Dầu khí Thăng Long –

Petrol Land) trị giá 564 tỷ đồng để nhận quyền phát triển dự án khu nhà ở chung cư

cao tầng (P.Phước Long B, Quận 9, Tp.HCM) với diện tích 8,57ha, được UBND

Thành phố chấp thuận đầu tư vào năm 2014.[12]

Với Vingroup, năm qua, nhờ đẩy mạnh chiến lược đầu tư vào các dự án bất

động sản thông qua các thương vụ mua lại nhiều công ty địa ốc những năm trước

đó, doanh nghiệp này liên tục bung nguồn hàng ra thị trường ở khắp các tỉnh thành,

nhất là Tp.HCM, Hà Nội. Vào thời điểm thị trường khó khăn, M&A thể hiện mình

là công cụ giảm hàng tồn kho và giải thoát cho những doanh nghiệp sa lầy. Doanh

nghiệp ngày càng chuộng việc mua lại các dự án để rút ngắn tối đa thời gian đưa

sản phẩm ra thị trường. Bởi vậy, hợp tác giữa các doanh nghiệp sẽ là yếu tố tất yếu.

Theo các chuyên gia dự đoán trong năm 2017 hoạt động mua bán, sáp nhập

doanh nghiệp, chuyển nhượng dự án sẽ phát triển mạnh hơn trước đây. Trong đó,

bất động sản là một trong hai lĩnh vực có mức độ M&A sôi động nhất hiện nay bên

cạnh ngành bán lẻ.

"Năm 2017, mua bán sáp nhập doanh nghiệp sẽ mạnh hơn, bởi cơ hội và

34

điều kiện cho các thương vụ M&A rất lớn. Tp.HCM đang có 500 dự án tạm ngưng

triển khai", theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch hiệp hội Bất động sản Tp.HCM cho

biết. Cũng theo ông Châu, doanh nghiệp nội với kinh nghiệm và sự am hiểu thị

trường sẽ tiếp tục dẫn dắt thị trường trong thời gian tới: "Dù rằng, dòng vốn ngoại

rót vào thị trường bất động sản vẫn lớn, thị trường bất động sản Tp.HCM chiếm đến

40,9% (326,8 triệu USD) vốn FDI của thành phố, nhưng doanh nghiệp nội đang dẫn

dắt thị trường bán hàng lẫn M&A chứ không phải doanh nghiệp ngoại".[15]

Thứ tư, Ngân hàng, tài chính – các thương vụ liên quan đến tài chính

tiêu dùng. Xu hướng mua lại các công ty tài chính cũng được thể hiện rõ với sự

tham gia của các ngân hàng trong nước cũng như các đối tác nước ngoài. Các ngân

hàng SHB, VPBank, MB đều tham gia mua lại công ty tài chính từ các tập đoàn

tổng công ty nhà nước và tái cơ cấu thành các công ty cung cấp tài chính tiêu dùng.

Thương vụ đáng chú ý trong năm là Credit Saigon Nhật Bản đầu tư vào HDBank

Finance và thương vụ Công ty TNHH Bảo hiểm Dongbu – một công ty bảo hiểm

đến từ Hàn Quốc đầu tư vào Công ty Bảo hiểm Bưu điện PTI.

Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ có hai thương vụ chuyển đổi đáng chú ý.

Tháng 10/2015, ACE – một trong những tập đoàn bảo hiểm tài sản và Tập đoàn bảo

hiểm Chubb – một “thương hiệu Mỹ” nổi tiếng với lịch sử hoạt động trên 130 năm,

đã đi đến thỏa thuận sáp nhạp thành một tập đoàn bảo hiểm lớn thứ 4 toàn cầu mang

tên Chubb. Tháng 4/2016, ACE Life đã chính thức đổi tên thành Chubb Life tại thị

trường Việt Nam.

Thứ năm, Xu hướng khởi nghiệp – nguồn tiềm năng cho các thương vụ

M&A. Chưa năm nào, khởi nghiệp và start-up được nhắc nhiều đến như thời điểm

những năm gần đây. Số lượng các doanh nghiệp start-up đầu tư cũng tăng 2,4 lần,

từ 28 doanh nghiệp năm 2014 lên đến 67 doanh nghiệp năm 2015, 50 doanh nghiệp

năm 2016.[12]

(Xem biểu đồ 2.1 – Phụ lục – Trang 77)

4 lĩnh vực được đầu tư mạnh trong là thương mại điện tử, truyền thông, tài

chính trên nền tảng công nghệ (fintech), giáo dục trên nền tảng công nghệ (edtech).

Trong đó, gần nửa số đầu tư ban đầu (angel/seed) cho các doanh nghiệp Việt đến từ

các nhà đầu tư nước ngoài.

Một số thương vụ mua lại điển hình như: Vietnamm mua lại Foodpanda,

35

Weeby.co mua lại Tappy, Yellow Mobile mua lại Clever Ads Corp và Websosanh.

Một trong những thương vụ ấn tượng và tạo khích lệ nhất cho cộng đồng Startup

người Việt Nam cả trong nước và nước ngoài, đó là tập đoàn quốc tế Fossil mua lại

Misfit – một doanh nghiệp đặt tại Việt nam với trị giá 260 triệu USD.

Và có thể nói rẳng, trong không gian kinh tế mở này, một cuộc đua mới đã

thực sự bắt đầu:

- Với AEC được hình thành, khu vực ASEAN trở thành một khu vực kinh tế

quan trọng và trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế. Tổng giá trị vốn

FDI đầu tư vào ASEAN năm 2014 đã đạt mốc 136,2 tỷ USD, đưa ASEAN thành

khu vực tiếp nhận đầu tư lớn nhất trong các quốc gia đang phát triển. Ở phạm vi

quốc gia và khu vực, các quốc gia sẽ phải cạnh tranh để thu hút dòng vốn FDI và

M&A vào quốc gia mình. [15]

- Các nhà đầu tư cũng đang nằm trong cuộc đua tìm cơ hội đầu tư tốt nhất

trong giai đoạn này. Cuộc đua tim cơ hội mới trong các lĩnh vực bán lẻ, tiêu dùng,

công nghiệp , bất động sản, nông nghiệp sẽ diễn ra mạnh mẽ. Cơ hội cho thoái vốn

cho các doanh nghiệp nhà nước lớn tại Việt Nam vẫn còn rộng mở cho các nhà đầu

tư nước ngoài và cả các nhà đầu tư trong nước có tiềm lực.

- Ở phạm vi doanh nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang trong cuộc

đua để cạnh tranh thu hút các dòng vốn ngoại cũng như cạnh tranh với các doanh

nghiệp nước ngoài trong việc tiếp cận thị trường Việt Nam và khu vực. Các thương

vụ M&A tiếp tục tập trung nhiều vào lĩnh vực bán lẻ, hàng tiêu dùng, bất động sản.

Ngoài ra các lĩnh vực viễn thông, năng lượng, hạ tầng bao gồm hạ tầng cảng biển và

hàng không, vật liệu có thể sẽ xuất hiện những thương vụ lớn, đóng góp giá trị đáng

kể cho hoạt động M&A tại Việt Nam trong giai đoạn tới.

Những thương vụ lớn sẽ tiếp tục lộ diện dần trong những năm tới. Thị trường

có thể trông đợi các thương vụ phát hành riêng lẻ để chọn đối tác chiến lược của

doanh nghiệp nhà nước lớn cổ phần hóa và sự tham gia của các nhà đầu tư nước

ngoài. Mặt khác, những thương vụ chuyển nhượng liên quan đến các dự án đầu tư

36

nước ngoài có thể sẽ đóng góp nhiều hơn vào bức tranh M&A Việt Nam.

2.2 Một số thương vụ M&A điển hình tại Việt Nam:

Dưới đây là bảng tổng hợp những thương vụ M&A nổi bật trong năm 2015, 2016 theo báo cáo phân tích của KPMG; Capital IQ,

trích ngày 22/07/2016:

Bên mua Bên bán Doanh nghiệp mục tiêu % Triệu USD

(hoạt động tại Việt

Nam

Năm 2016

Tập đoàn Central Thái Lan Tập đoàn Casino Pháp Big C Việt Nam 100% 1,145 1

Group Guichard-Perrachon

Công ty Singha Singapore - Tập đoàn Thực phẩm 1,100 25%; 2 -

33% Asia Holding Masan

Tập đoàn TCC Thái Lan Tập đoàn Metro Đức Metro Cash&Carry Việt 100% 695 3

Holding Nam Cash&Carry

International

4 Công ty Mapletree Singapore Công ty Kumho Hàn Quốc Kumho Asiana Plaza Sài 100% 215

Investments Industrial; Asiana Gòn

Arilines

5 Công ty Far Đài Loan - - Far Eastern Polytex - 210

37

Eastern Investment

Tập đoàn ANA Nhật Bản Việt Nam Airlines Việt Nam Việt Nam Airlines 8% 109 6

Holdings

7 Công ty Taisho Nhật Bản Công ty dược Hậu Việt Nam Công ty dược Hậu Giang 25% 98

Pharmaceutical Giang(DHG) (DHG)

8 Ngân hàng Public Malaysia Ngân hàng BIDV Việt Nam Public Bank Việt Nam 50% 77

Bank Berhad

9 Công ty BĐS Khải Việt Nam Công ty VinaLand; Việt Nam Công ty Phát triển Quốc 100% 74

Hưng VinaCapital tế Thể kỷ 21

10 Công ty kinh Việt Nam Công ty Dalton Singapore Công ty Vinametric 100% 49

doanh địa ốc New Investment

Life

Năm 2015

1 Tập đoàn Modelez Hoa Kỳ Tập đoàn KIDO Việt Nam Công ty Kinh Do Binh 80% 597

International Duong

2 Tập đoàn CREED Nhật Bản Công ty bất động sản An 20% 200 - -

Corporation Gia

3 Power Buy Thái Lan Công ty NKT New Tập đoàn thương mại 49% 200 -

Solution technology Nguyễn Kim

38

4 Công ty CP Đầu tư Việt Nam Ngân hàng Quân đội 10% 191 - -

Quốc tế Viettel MBB

Investment

5 Tập đoàn JX Nhật Bản Tập đoàn Việt Nam Tập đoàn Petrolimex 8% 184

Nippon Oil Energy Petrolimex

6 Công ty Chứng Việt Nam Ngân hàng TMCP Phát 100% 164 - -

khoán BIDV triển Nhà Đồng bằng

sông Cửu Long MHB

7 - - Nord Anglia Hồng Kong British International 90% 155

Education School

8 Tập đoàn TNR Việt Nam Vingroup Việt Nam Tháp TNR tại Hà Nội 100% 110

Holdings Việt

Nam

9 Công ty Gaw Hồng Kong Công ty Indochina Việt Nam Dự án BĐS Vinaland 100% 106

Capital; Gaw NP Land; Indochina Việt Nam

Capital Land 2

10 Tập đoàn Warburg Hoa Kỳ Vingroup Việt Nam Trung tâm thương mại - 100

Pincus Vincom

39

Bảng 2.1: tổng hợp những thương vụ M&A nổi bật trong năm 2015, 2016

2.3 Nội dung pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh nghiệp ở Việt

Nam

Để thực hiện giao dịch M&A, nhà đầu tư phải tuân thủ nhiều quy định pháp

luật điều chỉnh cụ thể từng khía cạnh của hoạt động này, như Luật Cạnh tranh, Luật

Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán, Bộ luật Lao động...

Xét ở góc độ quyền của doanh nghiệp, các quy định pháp luật của Việt Nam

đã công nhận quyền thực hiện giao dịch M&A của nhà đầu tư, như Luật Đầu tư,

Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Bộ luật Dân sự, Luật Các tổ chức tín

dụng... Quyền này được thể hiện thông qua một số quyền như: quyền được chào bán

cổ phần, hoặc giá trị phần góp vốn của người chủ sở hữu vốn, hoặc giá trị phần vốn

được quyền chào bán của doanh nghiệp, quyền bán doanh nghiệp (bao gồm bán tài

sản của doanh nghiệp, chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp đang sở hữu, hoặc bán

toàn bộ doanh nghiệp nhà nước), quyền mua lại doanh nghiệp của các tổ chức kinh

tế Việt Nam.

Đánh giá chung thì có thể thấy rằng, Việt Nam không có một khung pháp lý

thống nhất cho M&A. Thay vào đó, các quy định pháp luật về M&A nẳm rải rác ở

nhiều luật khác nhau. Một số luật quan trọng mà một người giao dịch M&A ở Việt

Nam cần lưu ý khi xem xét một thương vụ M&A bao gồm: Bộ luật Dân sự, Luật

Doanh Nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh và Luật Chứng khoán.

Đối với việc mua lại một công ty mục tiêu hoạt động trong các lĩnh vực có

điều kiện nhất đinh, luật quản lý các lĩnh vực cụ thể được áp dụng. Ví dụ, việc mua

lại một ngân hàng đồng thời được điều chỉnh bởi Luật các tổ chức tín dụng và các

quy định hướng dẫn có liên quan (các nghị định và thông tư). Các quy định này,

cùng với các nghị định và thông tư hướng dẫn điều chỉnh và ảnh hưởng đến cấu trúc

giao dịch và thủ tục của mỗi vụ M&A.

Nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào một công ty bằng cách góp thêm

vốn hoặc mua lại cổ phần hiện hữu trong công ty mục tiêu. Nếu công ty mục tiêu có

một hoặc nhiều ngành nghề kinh doanh có quy định về điều kiện đối với nhà đầu tư

nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện đó để tiến hành

việc mua lại.

Có hai nguồn để tìm các điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài đó là

40

các hiệp định thương mại/đầu tư mà Việt Nam đã tham gia và pháp luật Việt Nam.

Các hiệp định thương mại/đầu tư, tùy thuộc vào quốc tịch của nhà đầu tư, điều ước

chung để tìm kiếm là các cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại

khác nhau (Biểu cam kết dịch vụ số WT/ACC/VNM/48/Add.2 của Việt Nam khi

gia nhập WTO, Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN – ACIA, Hiệp định khung

ASEAN về dịch vụ - AFAS, Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và các nước

khác gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia/New Zealand, Nhật Bản và Ấn Độ và

Hiệp định đầu tư/đối tác/thương mại song phương giữa Việt Nam và các quốc gia

khác như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…)

Về pháp luật của Việt Nam, một số điều kiện đầu tư được quy định tại pháp

luật luật của Việt Nam. Ví dụ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bất động sản phải

đáp ứng điều kiện quy định trong Luật Kinh doanh Bất động sản của Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam đang hoàn thiện Cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài

FIA để cung cấp cho chúng các thông tin về điều kiện đầu tư và cũng là nơi tiện lợi

cho việc tra cứu các văn bản pháp lý, thủ tục liên quan

Và dưới đây là tổng hợp một số các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt

động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A):

2.3.1 Một số quy định của Luật Doanh Nghiệp hiện hành đối với hoạt động

mua bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam

2.3.1.1 Các hình thức, trình tự thủ tục hoạt động M&A:

Dựa trên các quy định trong Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014, các hình

thức, trình tự thủ tục M&A được quy định cụ thể như sau:

(1) Hình thức thứ nhất: Nhận chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn

góp của các cổ đông, thành viên: Đây là trường hợp tổ chức, cá nhân nhận chuyển

nhượng một phần hoặc toàn bộ cổ phần, phần vốn góp của các cổ đông, thành viên

của doanh nghiệp để chi phối việc ra quyết định của doanh nghiệp hoặc thâu tóm

B

hoàn toàn doanh nghiệp.

A

C

E

B

41

Tuy nhiên, phương thức chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp có

những phạm vi nhất định, đòi hỏi các bên tham gia cần nắm chắc luật: Hạn chế về

mặt thủ tục, theo quy định của pháp luật và điều lệ. Ví dụ, thành viên Công ty

TNHH phải ưu tiên chuyển nhượng cho các thành viên khác trong Công ty TNHH

trước khi có quyền chào bán cho bên thứ ba (cụ thể tại Khoản 1 – Điều 53 Luật

Doanh Nghiệp 2014) . Đối với công ty cổ phần, hạn chế chuyển nhượng cổ phần

chủ yếu áp dụng đối với cổ đông sáng lập và cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi biểu

quyết. Cổ đông sáng lập không được phép chuyển nhượng cổ phần phổ thông cho

người không phải là cổ đông sáng lập trong vòng 3 năm đầu kể từ ngày CTCP được

cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trừ khi được sự đồng ý của Đại hội

đồng cổ đông (cụ thể tại Khoản 3 – Điều 119 Luật Doanh Nghiệp 2014). Cổ đông

sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được phép chuyển nhượng cổ phần ưu đãi

biểu quyết cho người khác (cụ thể tại Khoản 3 – Điều 116 Luật Doanh Nghiệp

2014). Ngoài ra điều lệ công ty cổ phần có thể quy định các hạn chế khác áp dụng

cho việc chuyển nhượng cổ phần (cụ thể tại Khoản 1 – Điều 126 Luật Doanh

Nghiệp 2014).

Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH sẽ dẫn đến

thay đổi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cần phải được cơ quan cấp

phép chấp thuận thông qua việc sửa đổi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Đối với công ty cổ phần, việc thay đổi cổ đông sáng lập không dẫn đến việc sửa đổi

giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nhưng công ty cổ phần vẫn phải gửi thông

báo đến cơ quan đăng ký kinh doanh.

Về phương thức chuyển nhượng cổ phần được quy định tại Điều 126 Luật

Doanh Nghiệp hiện hành 2014: “2. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp

đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng

khoán. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải

được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của

họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng

khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp

luật về chứng khoán.[…] 6. Trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì

cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã

42

chuyển nhượng và số cổ phần còn lại. 7. Người nhận cổ phần trong các trường hợp

quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của

họ quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ

đông.”

(2) Hình thức thứ hai: Mua cổ phần, góp vốn vào doanh nghiệp trong

trường hợp doanh nghiệp tăng vốn điều lệ: Đây là trường hợp tổ chức, cá

nhân(không phải là thành viên, cổ đông) mua cổ phần phát hành thêm, góp thêm

vốn vào doanh nghiệp khi tăng vốn điều lệ dẫn tới tổ chức, cá nhân này chi phối

việc ra quyết định của doanh nghiệp. Hay ta có thể hiểu đây là trường hợp tiếp nhận

BCA

C

A

B

vốn góp của thành viên mới tại Điểm b Khoản 1 Điều 68 Luật Doanh Nghiệp 2014.

(3) Hình thứ thứ ba: Mua hoặc bán doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh

nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Người mua

doanh nghiệp tư nhân đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp để trở thành chủ doanh

nghiệp tư nhân.

Trường hợp này được quy định tại Điều 187 Luật Doanh Nghiệp 2014:

“Điều 187. Bán doanh nghiệp

1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác.

2. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm

về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh trong thời

gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua, người bán

và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác.

3. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về

lao động.

4. Người mua doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân theo

Thay đổi Chủ sở hữu doanh nghiệp

quy định của Luật này.”

A

A

43

Chú thích: Doanh nghiệp A sau khi được mua lại, người mua doanh nghiệp

trở thành chủ sở hữu mới của doanh nghiệp A

Về trình tự, thủ tục thì theo Khoản 4 Điều 187 Luật Doanh Nghiệp 2014:

Sau khi ký kết xong hợp đồng mua bán doanh nghiệp và hoàn tất việc chuyển

nhượng, người mua doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp

tư nhân. Người mua gửi Hồ sơ đăng ký thay đổi đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi

doanh nghiệp đã đăng ký. Các căn cứ pháp lý : Nghị định 78/2015 NĐ-CP về đăng

ký doanh nghiệp và Thông tư 20/2015 TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng ký doanh

nghiệp.

(4) Hình thức thứ tư: Sáp nhập doanh nghiệp: Sáp nhập doanh nghiệp là

việc một hoặc một số doanh nghiệp sáp nhập vào một doanh nghiệp khác bằng cách

chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp sang cho doanh nghiệp

nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập. Cụ thể

các quy định của sáp nhập doanh nghiệp được quy định tại Điều 195 Luật Doanh

A

B

B

Nghiệp hiện hành 2014.

Chú thích: Doanh nghiệp A sáp nhập vào doanh nghiệp B.

Quy mô kinh doanh của doanh nghiệp B được mở rộng.

Thủ tục sáp nhập doanh nghiệp được quy định cụ thể tại khoản 2, hồ sơ và

trình tự đăng ký doanh nghiệp được quy định rất cụ thể, chi tiết tại các Khoản 3, 4,

5 Điều 195 Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014.

(5) Hình thức thứ năm: Hợp nhất doanh nghiệp: Hợp nhất là việc hai

hoặc một số doanh nghiệp hợp nhất thành một doanh nghiệp mới bằng cách chuyển

toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang doanh nghiệp được hợp

nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất. Cụ thể các quy

định về hợp nhất doanh nghiệp được quy định tại Điều 194 Luật Doanh Nghiệp hiện

A

B

C

44

hành 2014.

Chú thích: Doanh nghiệp A và doanh nghiệp B hợp nhất tạo ra doanh nghiệp C

Thủ tục hợp nhất doanh nghiệp được quy định cụ thể tại khoản 2, hồ sơ và

trình tự đăng ký doanh nghiệp được quy định rất cụ thể, chi tiết tại các Khoản 4, 5,

6 Điều 194 Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014.

(6) Hình thức thứ sáu: Chia doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thể được

chia thành một số doanh nghiệp khác và doanh nghiệp bị chia chấm dứt tồn tại. Cụ

thể các trường hợp chia doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1 – Điều 192 Luật

Doanh Nghiệp 2014:

“1. Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể chia các cổ đông, thành

viên và tài sản công ty để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới trong một trong các

trường hợp sau đây:

a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với tài sản

tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chia sang cho các công ty mới

theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia và tương ứng giá trị tài sản được chuyển cho

công ty mới;

b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông cùng

với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp họ được chuyển sang cho

các công ty mới;

A

B

C

c) Kết hợp cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.”

Chú thích: Doanh nghiệp A được chia thành doanh nghiệp B và doanh nghiệp

C và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp A

Thủ tục chia doanh nghiệp được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 192 Luật

Doanh Nghiệp hiện hành 2014.

(7) Hình thức thứ bảy: Tách doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thể tách

bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh

nghiệp hiện có để thành lập một hoặc một số doanh nghiệp mới mà không chấm dứt

tồn tại của doanh nghiệp bị tách. Cụ thể các phương thức tách công ty được quy

định tại Khoản 2 Điều 193 Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014.

45

“2. Tách công ty có thể thực hiện theo một trong các phương thức sau đây:

a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với tài sản

tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chuyển sang cho các công ty mới

theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị tách và tương ứng giá trị tài sản được chuyển cho

công ty mới;

b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông cùng

với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp của họ được chuyển sang

cho các công ty mới;

c) Kết hợp cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.

3. Công ty bị tách phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ và số lượng thành viên tương

ứng với phần vốn góp, cổ phần và số lượng thành viên giảm xuống đồng thời với

A

A

B

đăng ký doanh nghiệp các công ty mới.”

Chú thích: Doanh nghiệp A tách một phần quyền, nghĩa vụ, tài sản và lợi ích

hợp pháp để thành lập doanh nghiệp mới B nhưng không chấm dứt sự tồn tại của

mình

Cụ thể trong trường hợp quy định tại Khoản 2a Điều 193 Luật Doanh Nghiệp

đã được trích ở trên diễn ra khi công ty muốn tái cấu trúc ngành nghề kinh doanh,

tài sản, nhân sự và hoạt động quản trị công ty. Trong trường hợp này, công ty mục

tiêu sẽ được tách thành các công ty hoạt động độc lập với nhau, nhưng thường sẽ có

chung và cùng cổ đông.

Trường hợp diễn ra tại Khoản 2b Điều 193 Luật Doanh nghệp hiện hành

thường diễn ra khi trong công ty phát sinh những nhóm cổ đông lớn xung đột về lợi

ích và đường lối phát triển kinh doanh công ty với nhóm cổ đông nhỏ hoặc/và trong

công ty xuất hiện các nhà đầu tư mới muốn thâu tóm ngành nghề hoặc mạng lưới

kinh doanh của công ty mục tiêu. Do vậy, nhóm cổ đông này muốn loại bỏ nhóm cổ

đông nhỏ để thâu tóm công ty.

Nếu như trước đây, theo Luật Doanh nghiệp 2005, các cổ đông lớn không có

quyền loại bỏ cổ đông nhỏ hay không có cơ sở pháp lý để có thể thực hiện, thì nay

Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định cụ thể tại Khoản 2b Điều 193 Luật Doanh

nghiệp hiện hành. Áp dụng quy định này của luật, nhóm cổ đông lớn, nếu chiếm cổ

46

phần chi phối tối thiểu từ 65% cổ phần đang lưu hành có quyển biểu quyết trong

công ty đã có thể dùng quyền biểu quyết của mình để tổ chức lại công ty, thông qua

quy định về tách công ty, họ hoàn toàn có thể loại bỏ nhóm cổ đông nhỏ ra khỏi

công ty. Quy định này là điểm mới mà các nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn có thể

thâu tóm các công ty đã nới room 100% (Cụ thể tại Nghị định 60/2015/NĐ-CP: Sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm

2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán).

Trường hợp thứ ba có thể diễn ra và áp dụng một hoặc cả hai phương thức

tách công ty tại Khoản 2a và Khoản 2b Điều 193 Luật Doanh nghiệp hiện hành khi

có nhà đầu tư nước ngoài chỉ muốn mua một mảng kinh doanh, phân phối hoặc các

giấy phép con có giá trị bào đó có của công ty, mà không muốn mua hết các mảng

kinh doanh khác, cũng như không muốn nhận nhân sự, tài sản của cả công ty.

Thủ tục tách doanh nghiệp được quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 193 Luật

Doanh Nghiệp hiện hành 2014.

*) Nhận xét chung:

Đánh giá chung, so với trước đây, Luật Doanh Nghiệp 2014 đã bãi bỏ yêu

cầu chỉ được sáp nhập, chia, tách, hợp nhất các doanh nghiệp cùng loại để cho phép

các doanh nghiệp khác loại hình được hợp nhất, sáp nhâp, tách, chia thành các loại

hình doanh nghiệp khác nhau. Quy định mới này giúp cho doanh nghiệp không còn

phải thực hiện thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp khi thực hiện sáp nhập,

hợp nhất, giữa các doanh nghiệp khác loại.

Ví dụ: Trước đây công ty TNHH muốn sáp nhập vào công ty cổ phần thì

công ty TNHH phải chuyển đồi thành công ty cổ phần sau đó mới thực hiện sáp

nhập hai công ty cổ phần với nhau. Nhưng theo quy định hiện nay, công ty TNHH

được trực tiếp sáp nhập vào công ty cổ phần.

Bên cạnh đó Luật cũng bổ dung các quy định về hạn chế sở hữu chéo để tạo

cơ sở pháp lý làm lãnh mạnh quá trình M&A doanh nghiệp; bao gồm: (i)Công ty

con không được đầu tư góp vốn vào công ty mẹ. Các công ty con của cùng một

công ty mẹ khong được cung nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau.

47

(ii) Các công ty con có cùng một công ty mẹ là doanh nghiệp có sở hữu ít hơn 65%

vốn nhà nuwocs không được cùng nhau góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy

định của Luật Doanh Nghiệp hiện hành.

2.3.2 Một số quy định của Luật Đầu tư hiện hành đối với hoạt động mua

bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam

Nếu như Luật Doanh Nghiệp quy định về một số hình thức cụ thể của hoạt

động M&A và quy định trình tự, thủ tục đăng ký lại các doanh nghiệp(nếu cần), sau

khi kết thúc quá trình M&A thì Luật Đầu tư quy định về thủ tục và điều kiện sáp

nhập và thây tóm doanh nghiệp(M&A) khi có nhà đầu tư nước ngoài chuyển

nhượng dự án đầu tư. Luật Đầu tư tiếp cận M&A theo hướng quy định về việc nhà

đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp Việt

Nam và việc chuyển nhượng dự án đầu tư của các nhà đầu tư.

Về vấn đề chủ thể: Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, chủ thể thực

hiện đầu tư kinh doanh góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế là

nhà đầu tư. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh,

gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức

thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt

Nam. Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế

không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.

Nhà đầu tư nước ngoài hiện nay được xác định theo tiêu chí chính là quốc

tịch, ai không có quốc tịch Việt Nam thì đó là nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó,

có tiêu chí khác xác định nhà đầu tư nước ngoài theo vốn, tức là chỉ cần doanh

nghiệp tại Việt Nam có vốn đầu tư từ nước ngoài thì doanh nghiệp đó cũng được

xem là nhà đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư năm 2014 chọn phương án dung hòa cả

hai tiêu chí, chia nhà đầu tư thành ba nhóm: (i) nhà đầu tư có quốc tịch nước ngoài

(Khoản 1 – Điều 3 Luật Đầu tư 2014); (ii) doanh nghiệp Việt Nam có từ 51% vốn

nước ngoài trở lên; và (iii) doanh nghiệp Việt Nam có dưới 51% vốn nước

ngoài(Điều 23 Luật Đầu tư 2014). Nhóm (i) và (ii) bị áp dụng các điều kiện như nhà

đầu tư nước ngoài (từ ngành nghề đầu tư đến thủ tục đầu tư…) còn nhóm (iii) được

48

áp dụng các thủ tục và điều kiện như doanh nghiệp trong nước.

Như vậy, nhìn chung, Luật Đầu tư 2014 đã quy định tương đối minh bạch về

chủ thể thực hiện mua bán và sáp nhập doanh nghiệp như nhà đầu tư, trong đó đưa

ra quy định rõ ràng về các chủ thể phải thực hiện các thủ tục đầu tư như nhà đầu tư

nước ngoài.

Về vấn đề hình thức, điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp

trong doanh nghiệp Việt Nam: Luật Đầu tư năm 2014 quy định minh bạch về hình

thức và điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế:

- Nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức

sau đây: a) Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của công

ty cổ phần; b) Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; c) Góp

vốn vào tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b

nêu trên.

- Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo

các hình thức sau đây: a) Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ

đông; b) Mua phần vốn góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở

thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn; c) Mua phần vốn góp của thành

viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty

hợp danh; d) Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc

trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản này.(Cụ thể tại Điều 25 Luật Đầu

tư 2014)

Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài nêu

trên phải đáp ứng điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn; hình thức đầu tư, phạm vi hoạt

động, đối tác Việt Nam tham gia thực hiện hoạt động đầu tư và điều kiện khác quy

định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 22 của Luật Đầu tư hiện hành.

Về tỷ lệ sở hữu vốn, nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ không

hạn chế trong tổ chức kinh tế (nới room), trừ các trường hợp sau đây: a) Tỷ lệ sở

hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ chức kinh

doanh chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật về

chứng khoán; b) Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp

nhà nước cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu theo hình thức khác thực hiện theo

49

quy định của pháp luật về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước; c) Tỷ

lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không thuộc quy định tại điểm a và điểm b

khoản này thực hiện theo quy định khác của pháp luật có liên quan và điều ước

quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. (Khoản 3 Điều 22

Luật Đầu tư 2014)

Luật Đầu tư năm 2014 đã kế thừa, phát triển và hoàn thiện các chính sách

đầu tư theo hướng khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được đầu tư trong tất cả các

lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được quyền tự chủ quyết định

hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và pháp luật liên quan; được Nhà nước

đối xử bình đẳng trước pháp luật phù hợp với pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt

Nam là thành viên; hoạt động đầu tư phải phù hợp quy hoạch. Các quy định về hoạt

động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt

Nam từng gặp nhiều vướng mắc do pháp luật đầu tư không xác định rõ tỷ lệ sở hữu

nước ngoài trong doanh nghiệp và không quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục thực

hiện hoạt động này.

Nhằm hạn chế việc ban hành tùy tiện các lĩnh vực cấm đầu tư và đầu tư có

điều kiện, Điều 25 Luật Đầu tư năm 2014 khẳng định nguyên tắc: Các lĩnh vực đầu

tư có điều kiện chỉ được quy định trong các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên; các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân,

Hội đồng nhân dân các cấp không được ban hành danh mục lĩnh vực cấm đầu tư và

lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Điều 21 Luật Đầu tư năm 2014 sửa đổi, bổ sung quy

định về đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần theo hướng khẳng định quyền

của nhà đầu tư trong việc thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức góp vốn, mua

lại phần vốn góp, mua cổ phần phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp năm

2014 và trên cơ sở đáp ứng các điều kiện, thủ tục được quy định cụ thể tại Luật này.

Luật Đầu tư năm 2014 cũng sửa đổi quy định về điều kiện thực hiện hoạt

động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn

góp, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, ngoài việc đáp ứng điều

kiện về tỷ lệ sở hữu và các điều kiện đầu tư khác, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện

hoạt động này theo thủ tục quy định thống nhất tại Luật Doanh nghiệp.

Điều 6 Luật Đầu tư năm 2014 đã vạch rõ giới hạn của các ngành nghề cấm

đầu tư kinh doanh, thay vì việc cấm nhưng không rõ ràng theo lĩnh vực như Điều 30

50

Luật Đầu tư năm 2005. Quy định này có thể coi là một bước tiến quan trọng trong

tư duy để thể chế hóa Điều 33 Hiến pháp hiện hành: Mọi người có quyền tự do kinh

doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Luật Đầu tư năm 2014

dành riêng một phụ lục (Phụ lục 4) liệt kê 267 ngành nghề đầu tư kinh doanh có

điều kiện. Nếu căn theo con số, số lượng 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện

có thể khiến nhiều người cho rằng Luật Đầu tư năm 2014 mở rộng phạm vi ngành

nghề kinh doanh có điều kiện, so với chín lĩnh vực đầu tư có điều kiện hiện nay.

Tuy nhiên, thật ra Luật Đầu tư 2005 chỉ liệt kê chung chung các ngành nghề có điều

kiện. Đồng thời, Luật Đầu tư 2014 chỉ tổng hợp và làm rõ hơn danh mục những

ngành nghề kinh doanh có điều kiện vốn đã được liệt kê trong vô số các văn bản

chuyên ngành khác. Theo cách tiếp cận này, từ nay các cơ quan nhà nước không

còn quyền tự đặt ra các nghề kinh doanh có điều kiện, trừ khi được Quốc hội chấp

thuận bằng việc sửa đổi Luật Đầu tư. Chắc chắn việc sửa luật sẽ không dễ dàng như

sửa một nghị định cấp Chính phủ hoặc một thông tư cấp bộ. Do vậy, nhà đầu tư có

thể yên tâm rằng danh sách này sẽ không dài ra một cách nhanh chóng. [11]

Về vấn đề chuyển nhượng dự án đầu tư: Luật Đầu tư quy định các nhà đầu

tư có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư cho nhà đầu tư

khác nếu đáp ứng các điều kiện: (Cụ thể tại Điều 45 Luật Đầu tư 2014)

Dự án chưa chấm dứt hoạt động; -

Đáp ứng các điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài trong trường -

hợp nhà đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng thuộc ngành, nghề có điều kiện áp

dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài.

- Đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về kinh

doanh bất động sản trong trường hợp chuyển nhượng dự án gắn với chuyển nhượng

quyền sử dụng đất;

- Đáp ứng điều kiện quy định tại giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc theo

quy định khác của pháp luật có liên quan(nếu có).

Nhà đầu tư trong nước thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư để

thay đổi nhà đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương

đầu tư, đồng thời nhà đầu tư chưa hoàn thành việc góp vốn, huy động vốn và đưa dự

án vào khai thác, vận hành. Các trường hợp còn lại, nhà đầu tư trong nước thực hiện

thủ tục thay đổi sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan

51

khác khi chuyển nhượng dự án đầu tư mà không phải thực hiện thủ tục đầu tư theo

Luật đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục điều chỉnh nhà đầu tư tại giấy

chứng nhận đăng ký đầu tư khi chuyển nhượng dự án đầu tư.

2.3.3 Một số quy định của Luật Cạnh tranh hiện hành đối với hoạt động

mua bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam

Luật Cạnh Tranh nhìn nhận hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp

(M&A) dưới góc độ hành vi tập trung kinh tế bao gồm sáp nhập doanh nghiệp, mua

lại doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp và liên doanh doanh nghiệp. Đưa ra các

quy định hạn chế các giao dịch M&A dựa trên thị phần kết hợp của các bên tham

gia giao dịch.

Theo luật Cạnh tranh 2010 : “Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một

số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của

mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp

bị sáp nhập”, “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc

một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một

ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Luật Cạnh tranh cũng đề cập đến hợp

nhất doanh nghiệp - là việc “hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,

quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,

đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. (Cụ thể Điều 17)

Theo quy định của Luật Cạnh tranh, việc sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất

doanh nghiệp và mua lại doanh nghiệp là hành vi tập trung kinh tế. Do đó, việc sáp

nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp bị cấm trong trường hợp việc sáp nhập, hợp

nhất, mua lại doanh nghiệp tạo ra thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia

tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan. Cụ thể tại các Điều 18,

20 Luật Cạnh tranh 2004:

“Điều 18. Trường hợp tập trung kinh tế bị cấm Cấm tập trung kinh tế nếu thị

phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên

thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của Luật này hoặc trường

hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp

52

nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.

Điều 20. Thông báo việc tập trung kinh tế 1. Các doanh nghiệp tập trung

kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện

hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh

trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Trường hợp thị phần kết hợp của các doanh

nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc

trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh

nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo. […]”

Theo đó, nếu thị phần kết hợp của các bên trong M&A từ 30 đến 50% đối

với thi trường liên quan, thì giao dịch M&A đó phải được thông báo cho Cục Quản

lý cạnh tranh Việt Nam (VCA) và các giao dịch tạ ra thị phần kết hợp trên 50% đều

không được phép ( trừ một vài trường hợp ngoại lệ).

2.3.4 Một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành đối với hoạt

động mua bán sáp nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Điểm cần lưu ý là theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành

2010 thì việc chia, tách, sáp nhập các tổ chức tín dụng phải được sự chấp thuận từ

Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể được quy định tại Khoản 5 Điều 103 Luật các tổ chức

tín dụng 2010: “5. Việc thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết theo quy

định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này và việc góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng

thương mại theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều này phải được sự chấp thuận

trước bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ

thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận. Điều kiện, thủ tục và trình tự

thành lập công ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại thực hiện theo

quy định của pháp luật có liên quan.”

Một số văn bản dưới luật cần đáng lưu ý như Nghị định 01/2014/NĐ-CP

ngày 03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của

tổ chức tín dụng Việt Nam đã quy định theo hướng ưu đãi hơn đối với nhà đầu tư

nước ngoài trong việc mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Theo đó, một

nhà đầu tư chiến lược nước ngoài được sở hữu tối đa 20% vốn điều lệ của một tổ

chức tín dụng(TCTD) Việt Nam (Điều 7 Nghị định 01/2014/NĐ-CP), trong khi đó,

một nhà đầu tư là tổ chức trong nước chỉ được sở hữu tối đa là 15% vốn điều lệ 53

của một TCTD Việt Nam (Điều 55 Luật tổ chức tín dụng 2010) trừ một số trường

hợp luật định. Ngoài ra, nghị định 01 cũng cho phép nhà đầu tư nước ngoài được

mua cổ phần vượt quá giới hạn quy định trong từng trường hợp cụ thể đối với

TCTD yếu kém được cơ cấu lại.

Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN quy

định về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD. Thông tư số 04/2010/TT-NHNN

đã: (i) kế thừa và loại bỏ những hạn chế của Quy chế về sáp nhập, hợp nhất, mua lại

tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam được ban hành theo Quyết định số

241/1998/QÐ-NHNN5 ngày 15/07/1998 của NHNN, theo đó phạm vi các đối tượng

được/thuộc diện sáp nhập, hợp nhất được mở rộng; (ii) kế thừa tinh thần của Luật

Doanh nghiệp về hợp nhất, sáp nhập, Luật Cạnh tranh về tập trung kinh tế, đồng

thời đảm bảo tuân thủ các cam kết của Việt Nam đối với WTO trong lĩnh vực tài

chính, ngân hàng, cụ thể:

Về hình thức M&A, Thông tư quy định việc sáp nhập, hợp nhất, và mua lại

giữa các tổ chức tín dụng chỉ được tiến hành dưới một số hình thức nhất định. Ngân

hàng được nhận hợp nhất, sáp nhập hay mua lại các tổ chức tín dụng khác, nhưng

công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính chỉ được nhận hợp nhất, sáp nhập từ

các công ty cùng loại. Riêng hoạt động mua lại chỉ có các hình thức sau: ngân hàng

mua lại công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính hoặc công ty tài chính mua lại

công ty cho thuê tài chính. (Cụ thể tại Điều 6 Thông tu 04/2010/TT-NHNN)

Về điều kiện tiến hành M&A, Thông tư cũng quy định điều kiện để tiến hành

hợp nhất, sáp nhập hay mua lại các tổ chức tín dụng, theo đó việc hợp nhất, sáp

nhập hay mua lại không được thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy

định của Luật Cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng tham gia các hoạt động này phải

phối hợp xây dựng một đề án thực hiện hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại không trái

với nội dung của hợp đồng đã ký. Ngoài ra, tổ chức tín dụng còn lại sau khi tiến

hành hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại phải đảm bảo đáp ứng điều kiện về vốn pháp

định theo quy định của pháp luật. (Cụ thể tại Điều 9 Thông tu 04/2010/TT-NHNN)

Về mặt thủ tục, NHNN sẽ lấy ý kiến tham gia của chi nhánh NHNN tại địa

54

phương, UBND địa phương và các cơ quan chuyên môn của NHNN về hồ sơ xin

chấp thuận nguyên tắc để ra quyết định chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận. Nếu

được chấp thuận nguyên tắc, các tổ chức tín dụng tham gia phải thông qua lại các

nội dung thay đổi tại đề án trước khi lập hồ sơ chính thức gửi lại cho NHNN để

được chấp thuận chính thức. Sau đó, các tổ chức chấm dứt hoạt động cần phải

hoàn tất thủ tục rút giấy phép kinh doanh, tổ chức mới phải hoàn thành thủ tục

đăng ký kinh doanh, đăng bố cáo hợp nhất, tổ chức khai trương... Thông tư

nghiêm cấm việc phân tán tài sản của tổ chức tín dụng dưới mọi hình thức trong

quá trình xin chấp thuận. (Cụ thể tại Điều 21 Thông tu 04/2010/TT-NHNN)

Bên cạnh hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam, hoạt động M&A

ngân hàng còn phải tuân theo các thoả thuận, Hiệp ước song phương và đa

phương (TPP, FTA Việt Nam –EU, FTA Việt Nam – Hàn Quốc…) trong đó các

nước đối tác đều chấp nhận cam kết của Việt Nam về giới hạn tối đa mức sở hữu

cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một NHTM Việt Nam là 30% vốn điều

lệ. Quy định như vậy đảm bảo yêu cầu về mở thị trường và phù hợp với tình hình

phát triển thị trường tài chính, ngân hàng Việt Nam.

2.3.5 Một số quy định của Luật Kinh doanh bất động sản hiện hành 2014

đối với hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam

Trước khi có Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, đã có hành lang pháp

lý cho việc mua bán, chuyển nhượng dự án bất động sản, nhưng còn nhiều vướng

mắc dẫn đến giao dịch thực tế rất khó khăn, vòng vèo. Chẳng hạn, quy định pháp

luật trước đó (Luật Kinh doanh bất động sản 2006) chỉ quy định cho phép mua bán

toàn bộ dự án. Tức là không có cơ chế để chủ đầu tư bán từng phần dự án. Điều nay

dẫn đến nguy cơ là dự án được chuyển giao từ chủ đầu tư thiếu năng lực này sang

chủ đầu tư thiếu năng lực khác, bởi dự án lớn, không dễ gì tìm được chủ đầu tư đủ

tiềm lực. Quy định này hạn chế khả năng gặp nhau giữa cung – cầu. Đôi khi bên

mua chỉ muốn mua một cấu phần của dự án, nhưng bên bán do ràng buộc pháp luật,

55

buộc phải bán cả dự án.

Luật Kinh doanh bất động sản 2014 đã khắc phục bất cập này, cho phép chủ

đầu tư bán một phần dự án. (Quy định tại Mục 6:Chuyển nhượng toàn bộ hoặc một

phần dự án bất động sản – Luật Kinh doanh bất động sản 2014). Đồng thời, Nghị

định số 76/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất

động sản năm 2014 dành riêng Mục 5 quy định chi tiết trình tự, thủ tục chuyển giao

56

toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản.

Ngoài ra, hoạt động M&A còn được điều chỉnh ít nhiều bởi các văn bản

pháp luật khác

Luật Thương mại và Bộ Luật Dân sự: chủ yếu điều chỉnh hoạt động M&A

dưới khía cạnh hợp đồng giữa các bên. Các loại hợp đồng này có thể là hợp đồng

mua bán cổ phần, hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp, hợp đồng mua bán tài

sản, hợp đồng liên doanh…

Luật Thuế: Khi thực hiện M&A thông thường sẽ thay đổi lớn về tài chính,

các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế gia trị gia

tăng….sẽ phát sinh vì vậy các bên tham gia phải hoàn thành tất các nghĩa vụ thuế

đối với nhà nước Việt Nam.

Luật Kế toán: Quy định về việc hợp nhất báo cáo tài chính. Ngoài ra còn

được quy định cụ thể tại các văn bản Thông tư số 21/2006/TT-BTC, Thông tư số

161/2007/TT-BTC, Chuẩn mực kế toán số 11 – Hợp nhất kinh doanh, Chuẩn mực

kế toán số 25 – Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con.

Luật Kiểm toán: kiểm tra các hoạt động về tài chính của doanh nghiệp để xác định

giá trị tài sản của doanh nghiệp.

Luật Sở hữu trí tuệ: Điều chỉnh khía cạnh chuyển giao quyền tác giả, công

nghệ, bí mật kinh doanh giữa các bên.

Luật Lao động: yêu cầu các bên tham gia M&A phải thực hiện đúng nghĩa

vụ đối với người lao động, tức là các phương án sử dụng lao động khi thương vụ

thành công. Ngoài ra, các quy định khác cũng tham gia điều chỉnh hợp hoạt động

57

này như định giá tài sản, hải quan, bất động sản…

2.4 Một số những bất cập trong pháp luật về sáp nhập và mua bán

doanh nghiệp ở Việt Nam

Dù đã có nhiều tín hiệu đáng mừng trong thời gian gần đây, nhưng quy mô

thị trường mua bán, sáp nhập (M&A) tại Việt Nam vẫn còn tương đối khiêm tốn so

với các nước khác trong khu vực. Bên cạnh những vấn đề như sự ổn định của nên

kinh tế, nguồn nhân lực sẵn có và các yếu tố môi trường, một trong những lý do

quan trọng kìm hãm sự phát triển của thị trường M&A tại Việt Nam chính là việc

thiếu một hệ thống pháp luật toàn diện và thống nhất điều chỉnh các giao dịch này.

Thứ nhất, một số điểm bất cập trong quy định về hoạt động M&A của

Luật Doanh Nghiệp hiện hành 2014:

Một trong những vấn đề được các nhà hành luật quan tâm là quy định về vấn

đề tách công ty. Như đã trình bày ở trên, hoạt động tách công ty được quy định tại

Điều 193 Luật Doanh nghiệp hiện hành. Nếu như khoản 2b là điểm tiến bộ, điểm

mới thì Khoản 3 Điều 193 lại là một quy định bất cập, khi tiếp tục quy định về vốn

điều lệ của công ty bị tách. Cụ thể “Công ty bị tách phải đăng ký thay đổi vốn điều

lệ và số lượng thành viên tương ứng với phần vốn góp, cổ phần và số lượng thành

viên giảm xuống đồng thời với đăng ký doanh nghiệp các công ty mới”.

Vấn đề vốn điều lệ của công ty bị tách và được tách, Luật Doanh nghiệp

2005 đã không đề cập và đây là điểm hay của luật cũ. Vì nếu luật không quy định

cụ thể, thì trên thực tế sẽ dễ dàng thực hiện hơn. Thực tiễn thực hiện thủ tục đăng ký

kinh doanh tại các sở kế hoạch đầu tư, vì luật không quy định cụ thể, nên tùy theo

quan điểm của từng sở và phụ thuộc vào việc giải trình trong hồ sơ của công ty, mà

sở nơi nhận hồ sơ sẽ đồng ý công ty bị tách giảm vốn điều lệ tương ứng hay giữ

nguyên vốn điều lê của công ty bị tách.

Thuật ngữ và khái niệm vốn điều lệ vốn đã chưa đựng nhiều bất cập với giới

chuyên gia pháp luật và tài chính, đã nhiều lần phân tích và yêu vầu nhà làm luật

xem xét để bãi bỏ theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên nhà soạn luật có lý do của họ,

nên vẫn giữ khái niệm này trong Luật Doanh nghiệp hiện hành. Luật quy định vốn

điều lệ là số vốn của cổ đông đã góp hay đã mua của công ty. Vốn này sử dụng

58

trong hoạt động kinh doanh và vận hành công ty. Chính vì vậy, vốn điều lệ có thể

biến động trong quá trình kinh doanh, có thể tăng hoặc giảm. Sổ sách kế toán sẽ ghi

nhận vốn tăng lên hoặc giảm xuống như là vốn chủ sở hữu của công ty.

Trong trường hợp vốn điều lệ bằng vốn chủ sở hữu, thị khi tách một phần cổ

phần cùng vơi tài sản tương ứng cổ phần đó sang công ty được tách, việc giảm vốn

điều lệ của công ty bị tách là hợp lý. Nếu công ty kinh doanh hiệu quả, vốn chủ sở

hữu của công ty sẽ tăng lên rất nhiều lần so với vốn điều lệ, như vậy có nghĩa là tài

sản của doanh nghiệp dư ra só với vốn điều lệ đã góp và họ có thể mang phần dư

này để phân chia và tách riêng thành tài sản của công ty được tách, điều này hoàn

toàn hợp lý và thực hiện được.

Tuy nhiên, luật lại đánh đồng các trường hợp như nhau và buộc phải giảm

vốn điều lệ tương ứng khi tách công ty. Do vậy, công ty bị tách mà giảm vốn điều

lệ, nghĩa là cổ phần được chia đều từ vốn điều lệ sẽ bị điều chỉnh giảm xuống tương

ứng cho cổ đông. Điều này ảnh hưởng đến hình ảnh của công ty, đến quyền lợi của

các cổ đông khi làm cho họ bị giảm số lượng cổ phần đang nắm giữ và đôi khi sẽ

làm giảm giá cổ phiếu đang giảo dịch. Thêm vào đó, việc giảm vốn điều lệ nhiều

khi ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng tại ngân hàng của công ty bị tách, vì thực tế

các ngân hàng thường đánh gía khả năng tín dụng thông qua số vốn điều lệ đăng ký

trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.[8]

Do vậy, trên thực tế, nhằm đáp ứng nhu cầu của mình, doanh nghiệp có thể

vận dụng nhiều quy định khác của pháp luật để đạt được mục đích mà mình đề ra.

Tuy nhiên, việc thực hiện nhiều thủ tục lòng vòng sẽ làm phát sinh nhiều chi phí và

rủi ro không đáng có, thay vì phải thực hiện trực diện vấn đề và áp dụng hay vận

dụng trực tiếp các quy định pháp luật quy định về vấn đề đó.

Bên cạnh đó, theo báo cáo Bảng đóng góp ý kiến về Luật Doanh Nghiệp

2014 tại Diễn đàn kinh doanh Việt Nam (VBF) 2016 vừa qua có đặt vấn đề thiếu

quy định cụ thể về việc tổ chức lại doanh nghiệp, bao gồm sáp nhập, hợp nhất, chia,

tách doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp và Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký

doanh nghiệp cần quy định rõ những nội dung để hướng dẫn cho các (Sở kế hoạch

đầu tư)SKHĐT và cho các doanh nghiệp. Theo đó, hiện tại chưa có quy định cụ thể

về các vấn đề sau đây:

- định giá doanh nghiệp khi tổ chức lại;

59

- việc thanh toán trong tổ chức lại DN như thế nào;

- vốn điều lệ của (các) doanh nghiệp tổ chức lại ra sao;

- thủ tục thực hiện thế nào?

Ví dụ, 2 doanh nghiệp đều có vốn 1 triệu USD quyết định sáp nhập. Doanh

nghiệp A kinh doanh hiệu quả, được định giá là 10 triệu USD. Doanh nghiệp B kinh

doanh lỗ lã liên tục, được định giá là 0 USD. Như vậy khi sáp nhập, hai bên quyết

định vốn điều lệ mới của doanh nghiệp sáp nhập là 10 triệu USD, hai chủ sở hữu sẽ

đồng sở hữu 50-50 vốn điều lệ, và chủ sở hữu của Doanh Nghiệp B sẽ phải thanh

toán cho chủ sở hữu DN A là 5 triệu USD. Trên thực tế, giao dịch được thể hiện

như vậy là rất hợp lý nhưng có thể không thực hiện được, vì những lý do sau:

- SKHĐT xem việc sáp nhập là việc cộng dồn vốn điều lệ của 2 doanh

nghiệp hiện đăng ký trên Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư của 2 doanh nghiệp;

- không có cơ chế cho chủ sở hữu DN B thanh toán lại phần giá trị được

hưởng chênh lệch cho chủ sở hữu DN A;

- SKHĐT không biết thực hiện thủ tục nào trước, thủ tục nào sau nếu doanh

nghiệp đồng thời có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký

doanh nghiệp.

Thứ hai, một số điểm bất cập trong quy định về hoạt động M&A của

Luật Đầu tư hiện hành 2014:

Một trong những vấn đề tồn đọng trong Luật Đầu tư là mâu thuẫn giữa luật

và cách áp dụng pháp luật của các cơ quan Nhà nước.

Một mâu thuẫn giữa việc Luật Đầu tư và các quy định hiện hành về việc mở

và sử dụng tài khoản đầu tư đã gây nhiều khó khăn trong chuyển nhượng vốn và

thanh toán. Các quy định về ngân hàng hiện nay vẫn áp dụng cách phân loại đầu tư

theo hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, trong khi Luật Đầu tư mới không còn sử

dụng sự phân loai này nữa. Điều này gây khó khăn trong việc xác định loại tài

khoản cần được mở và sử dụng cho mục đích đầu tư.

Mặc dù các quy định của luật hướng tới việc cắt giảm thủ tục hành chính cho

các nhà đầu tư nước ngoài trong các giao dịch M&A, nhưng trên thực tế, một số

quy định mới theo hướng tạo ra nhiều thủ tục hành chính hơn. Chẳng hạn, trong khi

thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp theo quy định

60

của Điều 26 - Luật Đầu tư hiện hành 2014 chỉ áp dụng đối với trường hợp nhà đầu

tư nước ngoài đầu tư vào công ty lần đầu hoặc dẫn tới thay đổi tỷ lệ sở hữu, thì trên

thực tế, một số cơ quan cấp phép địa phương yêu cầu vẫn phải có phê duyệt trong

trường hợp tăng vốn điều lệ của công ty có vốn đầu tư nước ngoài, ngay cả khi việc

tăng vốn này không dẫn đến bất kỳ thay đổi nào về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư.[13]

Thứ ba, một số điểm bất cập trong quy định về hoạt động M&A của

Luật Cạnh tranh hiện hành: Các giao dịch M&A ngày càng được kiểm soát gắt

gao để bảo đảm tuân thủ Luật Cạnh Tranh của Việt Nam. Theo đó, nếu thị phần kết

hợp của các bên trong M&A từ 30 đến 50% đối với thi trường liên quan, thì giao

dịch M&A đó phải được thông báo cho Cục Quản lý cạnh tranh Việt Nam (VCA)

và các giao dịch tạ ra thị phần kết hợp trên 50% đều không được phép ( trừ một vài

trường hợp ngoại lệ).

Trên thực tế, cả doanh nghiệp cũng như các cơ quan chức năng đều nhận ra

những khó khăn khi thi hành những quy định này. Chẳng hạn, hiện vẫn có nhiều

luồng ý kiến liên quan đến việc liệu Luật Cạnh tranh có được áp dụng với giao dịch

giữa các bên ở nước ngoài , mà bên mua không có hiện diện thương mại tại Việt

Nam hay không. Hơn nữa, rất khó để các bên có thể xác định thế nào là “thị trường

liên quan” theo Luật Cạnh Tranh để theo đó tiến hành phân tích dữ liệu về thị phần

của mình.

Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường bao gồm những hàng hoá, dịch

vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Thị trường địa

lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể, trong đó có những hàng hoá, dịch vụ có

thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng

kể với các khu vực lân cận. Việc phân chia thị trường liên quan thành thị trường sản

phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan không có nghĩa là có hai thị trường

riêng biệt. Ngược lại, đây là hai khía cạnh của một thị trường liên quan: khía cạnh

sản phẩm và khía cạnh địa lý. Chẳng hạn, đối với một số ngành nghề công nghiệp,

tập trung kinh tế cần được đánh giá ở thị trường địa lý liên quan. Ví dụ, trong lĩnh

vực bán lẻ, việc đánh giá tập trung kinh tế thực hiện ở cấp quốc gia là không hợp lý,

bởi vì khách hàng lựa chọn giữa các cửa hàng bán lẻ gần nhà hoặc nơi làm việc.

61

Vậy câu hỏi đặt ra là nên xác định khoảng cách địa lý như thế nào?

Ông Antoine Logeay - Phó chủ tịch Tiểu ban Pháp luật Hiệp hội Doanh

nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) chia sẻ, ở châu Âu, cơ quan chống độc

quyền sử dụng các tiêu chí về thời gian vận chuyển. Ví dụ, các cửa hàng bán lẻ

trong cùng một thị trường liên quan nếu khách hàng có thể đến cửa hàng trong vòng

30 phút. Tại Việt Nam chưa có những tiêu chí như vậy. “Cục Quản lý cạnh tranh

Việt Nam có thể có những quy tắc riêng để xác định trong thực tế, nhưng các quyết

định về việc áp dụng lại không được công khai, (thực tế, Cục Quản lý cạnh tranh

chỉ xuất bản một báo cáo thường niên về hoạt động của mình), vì vậy mà các nhà

đầu tư không biết cơ sở để xác định thị trường liên quan. Theo đó, Cục Quản lý

cạnh tranh nên công bố các quyết định của mình theo tiêu chuẩn quốc tế đã được

áp dụng ở nhiều nước khác. Điều này sẽ tạo ra những thay đổi tích cực”, ông

Antoine Logeay nói.[7]

Thứ tư, một số điểm bất cập trong quy định về hoạt động M&A bất

động sản hiện hành: Ta có thể tạm hiểu hoạt động M&A các dự án bất động sản là

việc chuyển giao về hình thức khi tư cách chủ đầu tư này sang chủ đầu tư khác;

hoặc cũng có thể là việc chuyển giao về bản chất khi giữ nguyên tư cách chủ đầu tư

nhưng tỷ lệ sở hữu chi phối doanh nghiệp chủ đầu tư đã có thay đổi.

Thường có hai cách thức cơ bản để các bên chuyển giao dự án bất động sản

cho nhau: Thứ nhất là cách chuyển giao thẳng, được pháp luật quy định là giao dịch

chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án bất động sản từ chủ đầu tư này sang

chủ đầu tư khác. Thứ hai là cách chuyển gián tiếp, vẫn giữ tư cách chủ đầu tư hiện

hại của dự án nhưng các bên thực hiện một giao dịch chuyển nhượng vốn/cổ phần

để chuyển giao dự án cho nhau.[9]

Trong cách thức thứ nhất - trường hợp nhà đầu tư nước ngoài nhận chuyển

nhượng một phần hoặc toàn bộ một dự án, thì họ lại phải đối mặt với quy định khá

“ngặt nghèo” như dự án phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, đã

có quy hoạch chi tiết 1/500 được phê duyệt; phải hoàn thành xong các nghĩa vụ về

tài chính, về thuế, về giải phóng mặt bằng. Với trường hợp chuyển nhượng toàn bộ

dự án đầu tư xây dựng kết cấu ha tầng, thì phải hoàn thành các công trình hạ tầng kỹ

thuật tương ứng theo đúng tiến độ ghi trong dự án đã được phép duyệt. Ngoài ra, dự

62

án cũng phải đảm bảo không có tranh chấp, không bị kê biên, không có quyết định

thu hồi đất thu hồi dự án của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền… Việc chuyển

nhượng chỉ hoàn thành khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.

(Cụ thể tại Điều 49 Luật kinh doanh bất động sản 2014).

Tuy nhiên, trên thực tế, khi các doanh nghiệp đã quyết định bán đi dự án của

mình thì đa phần đều là những doanh nghiệp thiếu vốn, không có tiền giải phóng

mặt bằng, không có tiền làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Do đó,

yêu cầu trên đã phần nào làm cản trở hoạt động chuyển nhượng. Để mua được dự

án như thế này, các nhà đầu tư nước ngoài lại phải cho doanh nghiệp Việt Nam vay

vốn hoặc ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) để chủ đầu tư tiếp tục hoàn

thiện các thủ tục nêu trên. Nhà đầu tư nước ngoài đôi khi không dám mạo hiểm

vung tiền đi trước, vì phương án này cũng chứa quá nhiều rủi ro.

Ngoài ra, với quy định cho bên nhận chuyển nhượng phải là doanh nghiệp

kinh doanh bất động sản, thì nhà đầu tư nước ngoài lại phải lập doanh nghiệp kinh

doanh bất động sản trước khi mua lại dự án. Phải bỏ ra vốn pháp định tối thiểu là 20

tỷ đồng (Cụ thể tại Điều 10 Luật kinh doanh bất động sản 2014) trước khi thực hiện

việc mua lại dự án trong khi mục tiêu chính của họ chỉ là dự án.

Trong cách thức thứ hai – vẫn giữ nguyên tư cách chủ đầu tư hiện tại của dự

án, thực hiện giao dịch chuyển nhượng vốn/cổ phần thường được sử dụng để né

tránh thủ tục hành chính, thủ tục chấp thuận của cách thức thứ nhất. Tuy nhiên, trên

thực tế, các nhà đầu tư cũng gặp phải không ít rào cản khi thực hiện phương án này:

thông thường, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều dự án khác nhau, tình hình tài

chính doanh nghiệp không minh bạch, rõ ràng, trong khi nhà đầu tư nước ngoài lại

chỉ quan tấm đến một sự án thực sự tiềm năng của doanh nghiệp ấy. Nhiều trường

hợp, các nhà đầu tư rất thích dự án, những cũng không đủ kiên nhẫn để “dọn dẹp”

hết những bùng nhùng của doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp không muốn bán

đứt dự án tốt của mình, nên sau khi xem báo cáo thẩm tra pháp lý, thương vụ đã

không thể tiến hành.

Vì đơn giản ta có thể hiểu rằng, ngoài quyền đầu tư, khai thác dự án, chủ sở

hữu mới(bên nhận chuyển nhượng cổ phần) sẽ phải “gánh” luôn những nghĩa vụ cũ

của doanh nghiệp của chủ đầu tư. Mà những nghĩa vụ ấy nhiều khi không được

thông báo công khai tại thời điểm chuyển nhượng cổ phần dù có thể đã có cam kết

63

về việc công khai thông tin về hiện trạng doanh nghiệp. Các nghĩa vụ này có thể là

nghĩa vụ với các đối tác giao dịch thương mại hoặc thậm chí là cả các cơ quan nhà

nước, điển hình là nghĩa vụ thuế. Đương nhiên, khi phát sinh những nghĩa vụ mới,

quyền lợi của bên mua chắc chắn bị ảnh hưởng.

Thứ năm, một số điểm bất cập trong quy định văn bản dưới luật khác:

Một trong các vấn đề gây nhức nhối là hoạt động M&A đối với công ty đại

chúng. Năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP cho phép các

công ty niêm yết (và các công ty đại chúng khác) hoạt động trong các ngành kinh

doanh không bị hạn chế đầu tư nước ngoài nâng tỷ lệ sở hữu của của nhà đầu tư

nước ngoài trong công ty lên đến 100% (so với tỷ lệ tối đa trước đây là 49%).(Cụ

thể tại Điều 21). Quy định này tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài mua lại

cổ phần để nắm quyền chi phối hoạt động các công ty đại chúng.

Mặc dù vậy, sau hơn một năm kể từ khi Nghị định 60 được ban hành, quy

định này vẫn không tạo được lực đẩy đáng kể cho thị trường M&A. Cho đến nay,

mới chỉ có một số ít công ty đại chúng được phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư

nước ngoài và phản ứng của thị trường vẫn còn dè dặt với những dự định nâng tỷ lệ

sở hữu nước ngoài của các công ty trên thị trường chứng khoán. Nguyên nhân của

hiện tượng trên bao gồm:[13]

- Thứ nhất, các quy định hướng dẫn Nghị định 60/2015/NĐ-CP còn chưa

đầy đủ và toàn diện.

- Thứ hai, chưa có danh mục hoàn chỉnh của ngành nghề kinh doanh không

có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty đại chúng.

Điều này đã ít nhiều gây khó khăn cho các công ty đại chúng khi xác định

liệu họ có được phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong

công ty mình hay không, nhất là với các công ty hoạt động đa ngành

nghề, đa lĩnh vực. Tương tự, khi xét đề nghị nâng tỷ lệ sở hữu của nhà

đầu tư nước ngoài trong một công ty đại chúng, Ủy ban Chứng khoán

Nhà nước hiện không có căn cứ cụ thể để xác minh liệu công ty đó có

hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với các nhà đầu

tư nước ngoài hay không. Do đó, trên thực tế với mỗi trường hợp, ủy ban

phải tiến hành lấy ý kiến của các bộ, ngành có liên quan. Chính vì thế,

quá trình xin nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài của các công ty đại chúng

64

thường mất rất nhiều thời gian để chấp thuận.

- Thứ ba, chưa có quy định rõ ràng về tình trạng pháp lý của một công ty

niêm yết sau khi nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong công

ty. Quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong công ty có thể thay đổi

hằng ngày và nằm ngoài tầm kiểm soát cuẩ công ty Biến động sở hữu

nước ngoài của một công ty từ 49% lên 51% có thể diễn ra nhanh chóng,

tùy thuộc vào diễn biến của thị trường. Do đó, từ một nhà đầu tư trong

nước theo Luật Đầu Tư (với 49% sở hữu nước ngoài), một công ty niệm

yết có thể trở thành nhà đầu tư nước ngoài (với 51%) chỉ trong một vài

ngày, thậm chí là một vài giờ. Hiện nay, không có quy định nào hướng

dẫn về tác động của vấn đề này tới các khoản đầu tư của một công ty

niêm yết.

Điều này góp phần dẫn đến sự do dự của các công ty niêm yết khi tiến

hành nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong công ty, hạn chế

các cơ hội đầu tư nước ngoài dưới hình thành M&A trong công ty đại

chúng.

Bên cạnh đó, vấn đề về M&A bởi các quỹ đầu tư cũng cần đưa ra đánh giá,

xem xét. Những năm gần đây, một trong những phát triển đáng chú ý của thị trường

M&A là sự tham gia của các quỹ đầu tư tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Đến

cùng với các quỹ đầu tư này là nguồn vốn, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp và cơ

hội tiếp cận các thông lệ kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, cùng với đó, các quỹ đầu

tư này cũng đòi hỏi khắt khe hơn về cơ cấu các khoản đầu tư qua hình thức M&A.

Phần lớn các khoản đầu tư bởi các quỹ đầu tư đều bao gồm các điều kiện về cổ phần

ưu đãi (preference share), cổ phiếu chuyển đổi (convertible share), quyền chọn bán

(put option), quyền chọn mua (call option), cũng như quyền yêu cầu cùng bán cổ

phần và quyền bán cổ phần theo cùng điều kiện (tag-along/drag-along).

Tuy nhiên hành lang pháp lý cho hoạt động M&A tại Việt nam vẫn còn thiếu

các quy định đối với các cấu trúc phức tạp trong hoạt động M&A quốc tế nói trên.

Điều này đã gây ra không ít lo ngại đối với các nhà đầu tư về tính ổn định, về pháp

lý các khoản đầu tư ở Việt Nam. Thiếu quy định cụ thể, thiếu cơ chế công bố phán

quyết của tòa án và cả việc các bên không sẵn sàng đưa tranh chấp tòa đã khiến việc

áp dụng và thi hành những cấu trúc đầu tư này khó khăn hơn, mặc dù chúng được

65

phổ biến ở một số quốc gia khác.

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SÁP NHẬP VÀ

MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

3.1 Yêu cầu hoàn thiện

Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đang và sẽ diễn ra sâu rộng với

việc thực hiện lộ trình Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC); đàm phán và ký kết

nhiều FTA thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

(TPP), FTA Việt Nam – EU, Việt Nam – Hàn Quốc, … không gian kinh tế của Việt

Nam đang được mở rộng hơn bao giờ hết. Không gian kinh tế mới này đang mở ra

cơ hội mới, sân chơi mới cho cộng đồng nhà đầu tư trong và ngoài nước. Làn sóng

M&A đang diễn ra sôi động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, với nhiều

thương vụ quy mô lớn lên tới hàng tỉ USD sẽ tạo nên sự bùng nổ của thị trường

M&A.

Một hành lang pháp lý hoàn thiện sẽ tạo điều kiện góp phần thúc đẩy các

giao dịch mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) phát triển, nó sẽ tạo điều kiện

để xác lập các giao dịch, địa vị pháp lý của các bên trong giao dịch và hậu quả pháp

lý sau khi kết thúc giao dịch. Tuy nhiên, pháp luật Việt nam chưa có một khung

pháp lý thống nhất cho M&A. Thay vào đó, các quy định pháp luật về M&A nằm

rải rác ở nhiều luật khác nhau. Đó cũng là lý do cần phải có công trình nghiên cứu

luật học đánh giá tình hình thực thi pháp luật để đưa ra các giải pháp nhằm khắc

phục những điểm hạn chế, bất cập của pháp luật trong thực tiễn khi thực hiện các

thương vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Từ đó, tạo ra môi trường cạnh tranh

công bằng, hiệu quả, mang lại phúc lợi chung cho xã hội.

3.2 Nội dung hoàn thiện

Sau quá trình nghiên cứu, phân tích tình hình thực tiễn thực thi pháp luật

trong hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam mà tác giả đã diễn

giải cụ thể ở phần trên. Ta có thể đưa ra một số nhận định chung về các điểm bất

66

cập cần hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, đến nay, M&A vẫn chưa có một khung pháp lý riêng biệt và hoàn

chỉnh, những quy định điều chỉnh chúng lại phân bố rải rác ở các văn bản quy phạm

khác nhau: Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật đầu tư,… tạo cho người sử

dụng cảm giác mơ hồ, không thống nhất khi tìm hiểu về chúng, nó cũng là một

trong nhiều nguyên nhân khiến các doanh nghiệp khó nắm bắt về các quy định

M&A, tỉ lệ thành công trong thương vụ không cao.

Thứ hai, còn xuất hiện một số các quy định trong các văn bản pháp luật hiện

hành còn mang tính lý thuyết, hình thức mà chưa có tính thực tiễn cao, khi áp dụng

còn gây nhiều khó khăn hoặc không thể áp dụng được.

3.3 Giải pháp hoàn thiện

Để phần nào tháo gỡ được những vướng mắc, hoàn thiện phần nào hệ thống

pháp luật trong hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong

phạm vi kiến thức và sự nghiên cứu của mình, tác giả đưa ra một số những giải

pháp như sau:

Thứ nhất, Nhà nước cần ra soát các quy định trong các văn bản pháp

luật có liên quan và ban hành Nghị định về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp,

quy định, hướng dẫn cụ thể tiến trình thực hiện M&A:

Đã có ý kiến quan điểm cho rằng, phải có một bộ luật riêng, tổng hợp chuyên

biệt điều chỉnh M&A.[3] Điều này là giúp hình thành một “không gian” cho M&A

rõ ràng hơn trong “môi trường” luật pháp nhưng lại dẫn đến việc cần một lượng lớn

công sức, của cải bỏ vào trước và sau khi Bộ luật ban hành. Bộ luật là văn bản quy

phạm pháp luật do Quốc hội ban hành nhằm để điều chỉnh các mối quan hệ có phạm

vi rộng trong một lĩnh vực nào đó (Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự,..), khái niệm này

nếu áp vào M&A có thể thấy được rằng: M&A chỉ là một phương thức, cách hoạt

động trong lĩnh vực doanh nghiệp, nó chưa thể lớn lao đến mức tốn kém để làm ra

một Bộ Luật.

Tuy nhiên, ta cũng không thể để tình trạng các quy định trong cùng một chế

định nằm rải rác, như vậy rất khó cho các chủ thể để tiếp cận ứng dụng. Bởi xét cho

cùng, pháp luật là những chuẩn mực định hướng cho tư tưởng, hành vi, xử sự của

67

các thành viên trong một cộng đồng người nhằm đạt các mục tiêu mà cộng đồng đó

mong muốn và để đạt được mục tiêu này, pháp luật phải trở nên thực tế, thuận tiện,

dễ dàng áp dụng và tra cứu bởi tất cả các chủ thể.

Quay trở lại vấn đề,“Pháp luật vẫn là động lực để M&A phát triển đúng

hướng”, vì các lý do đã phân tích ở trên có thể thấy không cần có Bộ luật riêng điều

chỉnh nhưng vẫn nên có một văn bản pháp lý để tập trung hướng dẫn thủ tục và

trình tự M&A ở mức Nghị định chính phủ. Cách này dường như trở nên hiệu quả

nhất, vừa giúp hạn chế sự tốn kém vừa tạo được “nhãn quan” rõ ràng hơn cho doanh

nghiệp trong việc áp dụng pháp lí khi tiến hành các thương vụ M&A.

Cụ thể quy định những vấn đề quan trọng như: thủ tục thực hiện, các bước

thực hiện, thời gian xem xét hồ sơ, quy định về chế độ thuế, cách hạch toán sổ

sách…thu về một mối các quy định thủ tục M&A để tránh chồng chéo trong khâu

quản lý và giúp doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận, thực hiện các thương vụ theo

đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, cần xây dựng một kênh tra cứu thông tin, kiểm soát thông tin

tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động mua bán,

sáp nhập nói riêng: một trong những cách, phương thức nên triển khai là tạo dựng

một cổng thông tin điện tử tra cứu thông tin tin cậy cho hoạt động mua bán sáp

nhập doanh nghiệp M&A tại Việt Nam, bên cạnh các trang thông tin rất hữu ích đã

và đang được hoàn thiện của Bộ Kế hoạch và Đầu tư như: Cổng thông tin đăng ký

doanh nghiệp quốc gia(dangkykinhdoanh.gov.vn), Hệ thống thông tin quốc gia về

đầu tư nước ngoài FIA(dautunuocngoai.gov.vn)… Đây là một trong những phương

thức tiện lợi, dễ dàng thực hiện, các chủ thể dễ dàng tiếp cận và tra cứu, nhanh gọn,

chi phí rẻ, mang lại hiệu quả cao. Để xây dựng cổng thông tin này, ta có thể tham

khảo một số trang web quốc tế như trang chính của IMAA: Institute of Mergers,

Acquisitions and Alliances: Viện Hợp nhất, Mua lại và Liên kết: một tổ chức tư vấn

phi lợi nhuận được công nhận và bảo đảm trên toàn thế giới, nơi các dữ liệu, báo

cáo phân tích hoạt động M&A từ nhiều quốc gia toàn cầu được tập hợp

Vai trò của hoạt động xây dựng cổng thông tin trong việc hỗ trợ hoạt động

M&A làn cấp thiết, vì ta đều biết thông tin về giá cả, thương hiệu, thị trường, thị

phần, quản trị, con người... là rất cần thiết cho cả bên mua lẫn bên bán. Nếu thông

68

tin không được kiểm soát, không minh bạch sẽ gây ra nhiều thiệt hại cho cả bên

mua, bên bán, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các thị trường khác như hàng hóa,

chứng khoán, ngân hàng. Cũng như các thị trường khác, thị trường mua bán và sáp

nhập doanh nghiệp hoạt động có tính dây chuyền, nếu một thương vụ M&A lớn

diễn ra không thành công hoặc có yếu tố lừa dối thì hậu quả cho nền kinh tế là rất

lớn vì có thể giá cổ phiểu, trái phiếu, hoạt động kinh doanh, đầu tư... của doanh

nghiệp đó nói riêng và các doanh nghiệp liên quan bị ảnh hưởng theo. Từ đó, kéo

theo hệ lụy cho cả nền kinh tế nếu một trong hai công ty sáp nhập là một Tập đoàn

lớn cỡ như các Tổng công ty của Nhà nước. Hơn nữa, hoạt động M&A hàm chứa

rất nhiều yếu tố rủi ro, tình trạng độc quyền có thể tạo ra khi mà các thương vụ lớn

trong một ngành được tiến hành, do đó, rất cần sự kiểm soát thông tin chặt chẽ của

Nhà nước thông qua các công cụ pháp lý hướng dẫn các qui định cụ thể rõ ràng và

minh bạch để có thể phát huy được các mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt trái này,

không làm ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, nền kinh tế, người tiêu dùng.

Thứ ba, về phía các quy định về hoạt động M&A trong pháp luật Cạnh

tranh: cần hoàn thiện một số quy định pháp lý có thể rất hợp lý và đúng trên lý

thuyết nhưng khó thực hiện được trong thực tiễn. Như ta đều biết thì M&A được

coi là một chiến lược hợp lý để duy trì hoạt động của các công ty bên bờ vực phá

sản, vực họ dậy để tiếp tục tăng trưởng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích không

thể phủ nhận của các thương vụ M&A đem lại cho sự phát triển kinh tế, vẫn tồn tại

nhiều quan ngại rằng nếu không được kiểm soát chặt chẽ, các hoạt động này sẽ là

cơ hội cho các doanh nghiệp lớn thâu tóm thị trường, mở rộng quy mô và triệt tiêu

cạnh tranh, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh bình đẳng không chỉ ở

phạm vi nội địa của quốc gia mà còn cả quy mô khu vực.

Chính vì vậy, hoạt động M&A cần được điều chỉnh bởi khuôn khổ pháp lý

về cạnh tranh và có giám sát, kiểm tra chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước và

hơn thế nữa là các quy định phải được rà soát sao cho phù hợp với thực tiễn, tránh

trường hợp quy định nhưng chỉ dừng lại ở trên mức độ lý thuyết. Ví dụ như trường

hợp quy định của Luật Cạnh tranh đã được trình bày ở phía trên của bài viết, Điều

20 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Các DN tập trung kinh tế có thị phần kết hợp

từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các DN đó phải

69

thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế”.

Điều này trên thực tế rất khó thực hiện, do hệ thống thông tin dữ liệu về DN của

Việt Nam thiếu và rải rác ở nhiều cơ quan. Hơn thế, tiêu chí này đang được cho là

thiếu định lượng và gây khó khăn cho các DN, khi họ phải mất chi phí khá lớn để

nghiên cứu, đánh giá thị phần, nhằm xác định xem thương vụ của họ có thuộc diện

phải thông báo cho Cục Quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành hoạt động M&A hay

không. Như vậy, cơ hội kinh doanh của DN sẽ mất đi và có thể sẽ phát sinh tiêu

cực.

Về vấn đề này, bà Rosemary Ann Webb, thành viên Nhóm điều chỉnh và sáp

nhập - Ủy ban Thương mại lành mạnh Úc khuyến nghị việc đặt ra các ngưỡng

thông báo đối với việc chi phối thị phần phải được đưa vào trong luật, đặc biệt với

những vụ M&A lớn. Ở tầm vĩ mô, Trưởng chi nhánh Luật và chính sách cạnh tranh

Unctad, TS. Hassan Qaqaya cho rằng cần có sự điều chỉnh, bổ sung các điều luật

quản lý cạnh tranh hướng tới cả các vụ M&A xuyên quốc gia bởi đây là xu hướng

tất yếu của thị trường. Nếu Luật không được cập nhật kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn

đến xu hướng cạnh tranh này, gây bất lợi cho nền kinh tế khu vực, các nhà quản lý

cần chú trọng đến tính bao trùm thị trường và sẵn sàng cho việc cạnh tranh toàn

cầu.[14]

Thứ tư, về phía các quy định về hoạt động M&A bất động sản: Như

những bất cập, hạn chế đã được đề cập trên bài viết, pháp luật cần có một số sự thay

đổi, hoàn thiện, cụ thể như sau:

Cần tháo gỡ quy định nhà đầu tư nước ngoài muốn mua lại một phần hay

toàn bộ một dự án bất động sản phải thành lập một doanh nghiệp có chức năng kinh

doanh bất động sản(mà điều kiện cần có là vốn điều lệ tối thiểu 20 tỷ đồng). Bởi lẽ,

sẽ rất khó để khẳng định một thương vụ M&A mà họ chuẩn bị tiến hành có thành

công hay không, trong khi vẫn phải chịu rủi ro về mặt chi phí thuế, phí cho tới khi

giao dịch thành công.

Thay vào việc quy định chủ đầu tư nhận chuyển nhượng toàn bộ hay một

phần dự án là phải là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thì ta phải chăng nên

sửa đổi thanh nhà đầu tư đã được chấp thuận về mặt chủ trương cho việc nhận

chuyển nhượng dự án trước, sau đó mới bắt họ phải tiến hành thủ tục thành lập

70

doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất

động sản chỉ là nhằm cho họ thực hiện được dự án sau khi M&A mà thôi. Như vậy

nhà đầu tư yên tâm hơn trong việc đầu tư M&A dự án bất động sản.

Bên cạnh đó, một số quy định cũng cần phải xem xét để tạo sân chơi công

bằng, bình đẳng hơn giữa nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Ví dụ như quy định

về việc nhà đầu tư nước ngoài không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới

hình thức tách đất thành các lô để bán, trong khi nhà đầu tư trong nước lại được

phép thực hiện hay quy định về việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ

được phép thu tối đa 50% giá trị hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng thuê mua bất

động sản được hình thành trong tương lai, trong khi tỷ lệ áp dụng dành cho nhà đầu

tư bất động sản Việt nam là 70… [10]

Thứ năm, cần có những quy định trong việc quản lý và bảo mật thông

tin. Để hoạt động M&A được hiệu quả đôi khi bên bán phải cung cấp cho bên mua

những thông tin mật hoặc là những chiến lược hoạt động kinh doanh, thông tin

khách hàng…, nếu sau đó cả hai không đi đến một thỏa thuận M&A thì rủi ro công

ty bán bị rò rỉ thông tin là rất lớn, do đó pháp luật cần có những biện pháp để can

thiệp vấn đề này. Tuy nhiên, về vấn đề này, bản thân các bên cũng cần phải chủ

động chặt chẽ về vấn đề thông tin ngay từ khâu giao kết hợp đồng. Theo đó phải tạo

lập một điều khoản riêng về vấn đề chuyển giao, bảo mật thông tin, bí mật kinh

doanh.

Về vấn đề hợp đồng trong giao dịch, mặc dù pháp luật có quy định về các nội

dung trong hợp đồng, tuy nhiên chúng chỉ dừng lại ở các nội dung cơ bản, khá

chung chung. Do đó, để giảm thiểu khả năng xảy ra tranh chấp, hợp đồng M&A nên

được xây dựng như hồ sơ toàn diện về toàn bộ thỏa thuận giữa các bên với mọi

khóa cạnh của giao dịch. Trong hợp đồng M&A có thể xác định những thay đổi lập

túc cần phải làm đối với công ty trong tầm ngắm bao gồm các vấn đề như việc từ

chức, bổ nhiệm các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giảm đốc, Kế toán trưởng;

việc trả các khoản vay ngân hàng và thay đổi cơ cấu công ty mục tiêu; thực hiện

nghĩa vụ thanh toán theo giai đoạn hoặc theo tiến độ về thời gian do các bên thỏa

thuận. Cũng cần quy định về đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán đảm

71

bảo hợp đồng có hiệu lực và không vi phạm các quy định về quản lý ngoại hối.

Có thể nói rằng, việc đề ra các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về

mua bán doanh nghiệp là đòi hỏi khách quan và cần thiết khi khung khổ pháp lý

điều chỉnh về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa đồng bộ, các quy định

về mua bán doanh nghiệp nằm rải rác trong các văn bản pháp luật và tồn tại nhiều

bất cập. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp phải phù hợp với

đặc thù của nền kinh tế thị trường Việt Nam; phải đảm tính thống nhất, minh bạch

và khả thi của pháp luật mua bán doanh nghiệp đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập

kinh tế quốc tế. Những giải pháp này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh

pháp luật về mua bán doanh nghiệp và thúc đẩy sự phát triển bền vững của hoạt

72

động mua bán doanh nghiệp trên thị trường mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam.

KẾT LUẬN

Ở Việt Nam so với thế giới, hoạt động M&A chỉ là sự khởi đầu. Sau khi Việt

Nam ra nhập WTO, số vụ M&A doanh nghiệp đã tăng mạnh cả về số lượng và quy

mô. Bên cạnh đó, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, M&A còn là một

kênh rất tiềm năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khi các công ty ngoại quốc

muốn vượt qua rào cản thị trường để thâm nhập thị trường nội địa.

Tuy nhiên, chính phủ vẫn cần hoàn thiện hơn nữa các định chế và thể chế để

thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh của mình. Các quy định

pháp lý cần được hoàn thiện để có thể bám sát với yêu cầu thực tiễn. Ngoài ra, năng

lực và phạm vi hoạt động của các công ty tư vấn M&A là điều mà Việt Nam còn rất

thiếu và cần chú trọng để khuyến khích các chủ thể rất quan trọng, vốn đóng vai trò

trung gian trong các hoạt động M&A này phát triển hơn nữa.

Bài khóa luận với đề tài “Pháp luật về hoạt động mua bán và sáp nhập

doanh nghiệp ở Việt Nam” đã đạt được những kết quả, đóng góp:

Thứ nhất, Tổng lược được toàn cảnh M&A Thế giới nói chung và Việt Nam

nói riêng trong khoảng thời gian những năm gần đây 2015-2017: Trong khi thị

trường mua bán và sáp nhập (M&A) toàn cầu có dấu hiệu chững lại, thì tại Việt

Nam, số lượng và giá trị các thương vụ vẫn tiếp tục đà tăng trưởng trong những

năm gần đây.

Thứ hai, nêu lên được thực trạng một số những bất cập, vướng mắc hiện này

liên quan đến vấn đề hoạt động M&A tại Việt Nam gây khó dễ cho các nhà đầu tư,

các nhà hành luật: Một số quy định pháp luật của Việt Nam về hoạt động M&A còn

dừng lại ở mức độ lý thuyết, chưa có tính thực tiễn cao. Nhiều quy định gây cản trở,

khó áp dụng, gây khó khăn cho các nhà đầu tư và các nhà hành luật.

Thứ ba, đã làm rõ được các khái niệm liên quan đến hoạt động M&A dưới

góc độ các quy định pháp lý hiện hành của Việt Nam: thâu tóm, mua lại, sáp nhập,

73

hợp nhất: Nếu chỉ dịch đơn thuần hoạt động M&A là hoạt động mua bán sáp nhập

là không đầy đủ. Thuật ngữ “sáp nhập và mua lại” được hiểu phổ biến hiện nay ở

Việt Nam không những không chuyển tải hết khái niệm M&A (về mặt ngôn ngữ)

mà còn chưa thể hiện đầy đủ các hình thức hoạt động này. Bên cạnh viêc mua lại,

sáp nhập còn có những hoạt động khác cũng trong khuôn khổ M&A như hoạt động

thâu tóm, hợp nhất. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả đã tổng hợp, so sánh để

có cái nhìn toàn diện nhất về hoạt động M&A.

Thứ tư, nêu lên một số giải pháp để hoàn thiện hơn khung pháp lý hoạt động

M&A tại Việt Nam: Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về sáp nhập và mua bán doanh

nghiệp ở Việt Nam, tác giả khóa luận đã đưa ra những giải pháp cơ bản: Một là Nhà

nước cần ra soát các quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan và ban hành

Nghị định về sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, quy định, hướng dẫn cụ thể tiến trình

thực hiện M&A. Hai là cần xây dựng một kênh tra cứu thông tin, kiểm soát thông

tin tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động mua bán, sáp

nhập nói riêng. Ba là về phía các quy định về hoạt động M&A trong pháp luật Cạnh

tranh: cần hoàn thiện một số quy định pháp lý có thể rất hợp lý và đúng trên lý

thuyết nhưng khó thực hiện được trong thực tiễn. Bốn là về phía các quy định về

hoạt động M&A bất động sản. Năm là cần có những quy định trong việc quản lý và

74

bảo mật thông tin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu Tiếng Việt:

1. Một số văn bản pháp luật:

- Luật các tổ chức tín dụng 2010

- Luật Cạnh tranh 2004

- Luật Đầu tư 2014

- Luật Doanh Nghiệp 2014

- Luật Kinh doanh bất động sản 2014

2. Một số văn bản dưới luật:

- Nghị định 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà

đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng việt nam.

- Nghị định 60/2015/NĐ-CP: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định

số 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán

- Nghị định 78/2015 NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.

- Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm 2012 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng

khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán

- Nghị định số 76/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật

Kinh doanh bất động sản năm 2014

- Thông tư 20/2015 TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp.

- Thông tư số 04/2010/TT-NHNN quy định về việc sáp nhập, hợp nhất,

mua lại TCTD

3. Nguyễn Thị Mai Hương (2010), “Khía cạnh pháp lý của hoạt động sáp nhập

và mua lại các tổ chức tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học

Quốc gia Hà Nội (ĐHQCHN), Hà Nội.

4. Phùng Ngọc Việt Nga (2012), “Hoàn thiện pháp luật về sáp nhập và mua lại

doanh nghiệp (M&A) phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam”, Luận văn Thạc

75

sĩ, Khoa Luật(ĐHQGHN), Hà Nội.

5. Báo Đầu tư (2016), Toàn cảnh thị trường Mua bán- Sáp nhập doanh nghiệp

Việt Nam 0 Vietnam M&A Outlook 2016”. Hà Nội

Báo cáo phân tích của KPMG; Capital IQ, trích ngày 22/07/2016: 6.

Báo đầu tư Chứng khoán, “Euro Charm: Thị trường M&A năng động và 7.

nhiều cơ hội”

Link: http://tinnhanhchungkhoan.vn/mua-ban-sap-nhap/eurocham-thi-truong-ma-

nang-dong-va-nhieu-co-hoi-180053.html

8. Cao Huyền Trang-Trưởng phòng pháp lý, Công ty cổ phần Chứng khoán

Bản Việt (2016), “Tách công ty – vấn đề đáng bàn trong tái cấu trúc doanh”, Đặc

san của Báo đầu tư M&A Outlook 2016, tr54-55.

9. Luật sư Hồ An Khoa “Mua tài sản hay cổ phần: Lối nào cũng có thách thức”,

Đặc san của Báo đầu tư M&A Outlook 2016, tr118-119.

10. Luật sư Nguyễn Thanh Hà-Chủ tịch Công ty Luật SBLaw, “Khung pháp lý

cho hoạt động M&A bất động sản cần tiếp tục hoàn thiện”, Đặc san của Báo đầu tư

M&A Outlook 2016, tr108-109.

11. Lưu Nguyễn Duy, “Những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán

và sáp nhập doanh nghiệp (M&A)”

Link: http://nguyenduyluu.blogspot.com/2016/03/nhung-van-ban-phap-luat-dieu-

chinh-hoat-dong-mua-ban-va-sap-nhap-doanh-nghiep-m-a.html

12. Nhóm nghiên cứu MAF-bao gồm các chuyên gia nghiên cứu độc lập đến từ

Viện Hợp nhất sáp nhập và liên minh (IMAA), Diễn đàn M&A Việt Nam, Đại học

Quốc gia Hà Nội(VNU) và một số tổ chức tư vấn M&A Việt Nam, “Hoạt động

M&A Việt Nam 2015-2016: Cuộc đua mới đã bắt đầu”

13. Robert Fish, Trần Ngọc Ánh-Công ty Luật ALLENS “Tiếp tục hoàn thiện hệ

thống pháp luật về M&A”, Đặc san của Báo đầu tư M&A Outlook 2016, tr44-45.

14. Vietnam Business Forum, “Cần hạn chế những vụ M&A hướng tới độc

quyền”

Link: http://vccinews.vn/news/7139/.html

15. Vietnam M&A Network (Sưu tầm: www.vungocdung.info)

16. Hệ thống cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài FIA

76

Link: dautunuocngoai.gov.vn

B. Tài liệu Tiếng Anh

17. CFA (Financial Analyst Institute) (NGOs)

Trang chủ: https://cfainstitute.org

Link: https://www.cfainstitute.org/.../inv/.../corporate_finance_chapter10.ppt

18. Hãng Luật WilmerHale (Washington DC, Mỹ) , 2015 M&A Report, 2016

M&A Report.

Trang chủ: https://www.wilmerhale.com/

Link:https://www.wilmerhale.com/pages/SiteSearch.aspx?keyword=Outlook%20M

&A%202015%20and%202016

19. IMAA(Institute for Mergers, Acquisitions and Alliances)

77

Link: https://imaa-institute.org/mergers-and-acquisitions-statistics/

PHỤ LỤC

Hình 1.1: Tổng số thương vụ theo số lượng và giá trị từ năm 2015 đến cuối năm

2016 (Theo Báo cáo phân tích của KPMG; Capital IQ, thời điểm: 22/7/2016)

Biểu đồ 2.1:Số lượng các khoản đầu tư cho Start-up 2011-2016

78

(Nguồn: Theo thống kê của Topica Founder Institute)

Hình 2.1: Tình hình M&A trên toàn cầu(Nguồn: Thomson Financial, IMAA)

Hình 2.2: Tình hình M&A Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

79

Hình 2.3: Tình hình M&A tại Việt Nam(Nguồn: Thomson Financial, IMAA)