ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRƯƠNG THỊ MỸ LINH
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM, HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH - 2013 - L
Hà Nội, 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRƯƠNG THỊ MỸ LINH
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM, HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH - 2013 - L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. LÊ THỊ BÍCH HUỆ
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
thông tin và số liệu mà tác giả sử dụng trong khóa luận là trung thực. Các khái
niệm, luận điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả
tổng hợp của bản thân tôi.
Người cam đoan
Trương Thị Mỹ Linh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA ................................................. 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ......... 6
1.1.1. Khái niệm chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa .. 6
1.1.2. Vai trò của quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ..................... 10
1.1.3. Trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ................... 11
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa ................................................................................................................ 13
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa .. 13
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý chất lượng
về sản phẩm, hàng hóa ............................................................................. 14
1.2.3. Nội dung của pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
................................................................................................................... 17
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................ 26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM .................................. 28
2.1. Về thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ...................... 28
2.2. Về các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ................... 30
2.2.1. Công bố tiêu chuẩn áp dụng ........................................................... 30
2.2.2. Công bố sự phù hợp ........................................................................ 34
2.2.3. Đánh giá sự phù hợp ....................................................................... 37
2.2.4. Kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa .................................................................................................... 41
2.3. Về trách nhiệm quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa ................. 44
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................ 47
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA Ở
VIỆT NAM ..................................................................................................... 50
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa ở Việt Nam ................................................................................... 50
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa ở Việt Nam ................................................................................... 54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................ 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BoA : Văn phòng Công nhận chất lượng Việt Nam
ISO : Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
KHCN : Khoa học và Công nghệ
MRA : Thỏa thuận Công nhận Lẫn nhau
QCVN : Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia của Việt Nam
TBT : Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
TCVN : Tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá liên quan trực tiếp đến sự an toàn, vệ
sinh, sức khỏe con người, tài sản và môi trường. Trong bối cảnh hội nhập và
toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng
hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng,
không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất
trong nước và lợi ích quốc gia. Đối với doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm,
hàng hoá không những là thước đo quan trọng khẳng định sự tồn tại của
doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và
sức cạnh tranh của nền kinh tế.
“Không có thương hiệu mạnh nếu không có sản phẩm tốt”. Câu nói này
cho thấy tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa đối với doanh nghiệp và quốc gia. Trong môi
trường kinh doanh hiện nay, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc
tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp
mà chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng
nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Xu thế toàn cầu hoá mở
ra thêm nhiều thị trường nhưng cũng làm tăng thêm lượng cung trên thị
trường. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn nhà sản xuất, cung ứng một cách
rộng rãi hơn. Người tiêu dùng coi trọng giá trị của chất lượng hơn là lòng
trung thành đối với nhà sản xuất trong nước, và giá cả chưa hẳn trong mọi
trường hợp đã là nhân tố quyết định trong sự lựa chọn của người tiêu dùng.
Yêu cầu đối với chất lượng hàng hóa của thị trường cả trong và ngoài nước
ngày càng khắt khe. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong tăng trưởng kinh tế đất nước và sự phát triển của doanh
1
nghiệp. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một trong những công cụ
quan trọng để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, một mặt
làm cho chất lượng sản phẩm, hàng hóa thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng
và mặt khác nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý - cơ sở để chiếm lĩnh,
mở rộng thị trường, tăng cường vị thế, uy tín trên thị trường.
Việt Nam có nhiều thuận lợi trong việc thừa kế những thành tựu khoa
học công nghệ hiện đại cùng những kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến của
các nước phát triển. Với chính sách mở cửa, Việt Nam đã ngày càng thu hút
được nhiều các công ty, các tập đoàn kinh doanh đầu tư tham gia vào nền
kinh tế. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và phát huy các
phương pháp quản lý chất lượng mới, hiện đại trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam. Cùng với những thuận lợi, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp không
ít những khó khăn thách thức trong quá trình hội nhập và khẳng định chất
lượng sản phẩm Việt Nam như: sức ép từ hàng nhập khẩu, từ thủ tục và tiêu
chuẩn chất lượng nghiêm ngặt của những thị trường quan trọng như Châu Âu,
Mỹ, Nhật Bản,… .
Nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng và quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa, Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, đã từng bước hình thành công tác quản lý nhà nước về quản
lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành
là hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển khai hoạt động quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa như: Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm
2007, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa…
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa năm 2007 và các Nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn
những vướng mắc như các quy định pháp luật còn chồng chéo, chưa rõ ràng;
2
thiếu các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,…
Vì vậy, nghiên cứu pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa, nhất là xác định rõ nội dung quy định về quản lý, các quy định tác động
tiêu cực đến hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam là
rất cần thiết. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc thực hiện nghiên cứu đề tài nêu trên có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
đó là:
- Cung cấp thông tin về tình hình ban hành, thực thi các văn bản pháp
luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
trong vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, cá nhân nghiên cứu,
thực hiện trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tìm ra những hạn chế, tồn tại trong pháp luật về
quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu quy định pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa.
- Tìm hiểu thực tiễn ban hành và áp dụng pháp luật về quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, từ đó nêu ra những hạn chế, tồn tại trong các quy
3
định này.
- Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản
lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa. Trong đó đề cập đến nội dung quy định, thực trạng quản
lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đồng thời nêu lên những hạn chế, thiếu sót
trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận không đi sâu vào nghiên cứu tất cả các
vấn đề về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà chỉ tập trung vào một số
4
lĩnh vực còn nhiều vướng mắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng
tỏ những nội dung của đề tài/ làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của
khóa luận bao gồm: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng
hợp.
6. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa ở Việt Nam.
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý chất
5
lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA
1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa
1.1.1. Khái niệm chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa
1.1.1.1. Khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và
được sử dụng rất phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy
nhiên, hiểu như thế nào là chất lượng sản phẩm, hàng hóa lại là vấn đề không
đơn giản. Thuật ngữ này được khái quát bằng hàng trăm các định nghĩa khác
nhau phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đứng ở
những góc độ nghiên cứu khác nhau và tuỳ theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh có thể đưa ra những quan niệm về chất lượng xuất phát từ sản
phẩm, từ người sản xuất hay từ đòi hỏi của thị trường.
Quan niệm xuất phát từ sản phẩm cho rằng chất lượng sản phẩm được
phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó hoặc giá trị sử dụng
của nó. Theo quan niệm này, chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với các thuộc
tính hữu ích của sản phẩm.
Nhà sản xuất lại quan niệm chất lượng sản phẩm là sự phù hợp và tuân
thủ đúng những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật đã được đặt
ra từ trước. Chất lượng sản phẩm theo quan điểm này chỉ thể hiện mối quan
tâm của nhà sản xuất đối với việc sản phẩm đạt được những tiêu chuẩn được
6
đặt ra.
Xuất phát từ nền kinh tế thị trường, những khái niệm chất lượng sản
phẩm xuất phát và gắn bó chặt chẽ với các yếu tố cơ bản của thị trường như
nhu cầu, cạnh tranh, giá cả… Đã có hàng trăm định nghĩa về chất lượng sản
phẩm theo quan niệm này được đưa ra bởi các tác giả khác nhau. Đại diện cho
nhóm này có một số các định nghĩa tiếp cận từ nhu cầu của người tiêu dùng
và từ mặt giá trị:
Từ nhu cầu của người tiêu dùng, tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu -
European Organization For Quality Control (EOQC) cho rằng: “Chất lượng
là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng”[13]. Còn
Philip Crosby trong quyển “Chất lượng là thứ cho không” đã diễn tả chất
lượng như sau: “Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”.
Với cách tiếp cận từ mặt giá trị, chất lượng sản phẩm được đặt trong
mối quan hệ giữa lợi ích thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm với chi phí bỏ
ra để mua sản phẩm: “Chất lượng là cái mà khách hàng phải trả đúng với cái
họ nhận được.”[16]
Nhìn chung, mọi định nghĩa tuy có khác nhau về câu chữ nhưng tựu
chung đều nêu lên bản chất cuối cùng mà cả người sản xuất và người tiêu
dùng đều quan tâm hướng tới đó là sự phù hợp với yêu cầu. Thể hiện điều
này, quan điểm đầy đủ hiện nay về chất lượng được Tổ chức tiêu chuẩn hóa
quốc tế ISO (International Organization for Standardization) định nghĩa:
“Chất lượng là mức độ của một tập hợp các thuộc tính vốn có của đối tượng
đáp ứng các yêu cầu” [14]. Yêu cầu ở đây được hiểu là những nhu cầu hay
mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu chung hay bắt buộc.
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 của Việt Nam cũng giải
thích thuật ngữ “chất lượng sản phẩm, hàng hóa” như quan điểm trên: “Sản
phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích
kinh doanh hoặc tiêu dùng. Hàng hoá là sản phẩm được đưa vào thị trường,
7
tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị… Chất lượng sản phẩm, hàng
hóa là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng yêu cầu
trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.” (Điều 3)
Từ những điểm chung có thể đưa ra định nghĩa sau về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa: Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là mức độ thỏa mãn của một
tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa đối với các yêu cầu.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Quản lý chất lượng là một khía cạnh của chức năng quản lý để xác định
và thực hiện chính sách chất lượng. Hoạt động quản lý trong lĩnh vực chất
lượng được gọi là quản lý chất lượng.
Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng:
A.G.Robertson, một chuyên gia người Anh về chất lượng cho rằng
“Quản lý chất lượng được xác định như là một hệ thống quản trị nhằm xây
dựng chương trình và sự phối hợp các cố gắng của những đơn vị khác nhau
để duy trì và tăng cường chất lượng trong các tổ chức thiết kế, sản xuất, đảm
bảo sản xuất có hiệu quả và thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng.”
Đối với A.V.Feigenbaum, nhà khoa học người Mỹ: “Quản lý chất
lượng là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận
khác nhau trong một tổ chức, chịu trách nhiệm triển khai các tham số chất
lượng, duy trì và nâng cao chất lượng.” [12]
Còn theo tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 “Quản lý chất lượng
là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất
lượng.”[14]
Tuy tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng, song nhìn chung
có những điểm giống nhau như: Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt
động, các biện pháp (hành chính, tổ chức, kinh tế, kỹ thuật, xã hội và tâm lý)
8
của các chủ thể có trách nhiệm quản lý. Mục tiêu trực tiếp của quản lý chất
lượng là đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng phù hợp với nhu cầu thị
trường.
Như vậy, có thể rút ra định nghĩa chung về quản lý chất lượng như sau:
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là hoạt động của một chủ thể nhằm
định hướng phát triển, nâng cao và kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Với định nghĩa này, “quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa” được hiểu theo
nghĩa rộng, tức là không chỉ dành cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hàng hóa và dịch vụ, mà còn cho tất cả các tổ chức khác như tổ chức sự
nghiệp: Nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu…và cả các cơ quan hành
chính nhà nước, các tổ chức chính trị.
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định:
“Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của người sản
xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài
sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, hàng hóa Việt Nam.
Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của
pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.” (Điều 5)
Theo đó, Luật sử dụng thuật ngữ “quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa” để nói đến trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh. Khi đề cập đến
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa năm 2007 dùng thuật ngữ “quản lý nhà nước về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá”. Theo cách hiểu này, quản lý chất lượng chỉ là hoạt động
của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là người tổ chức và thực hiện việc
sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hàng, cung cấp dịch vụ. Đây được coi là
9
nghĩa hẹp của quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Khóa luận sử dụng thuật ngữ “quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa”
với nghĩa rộng, bao gồm quản lý chất lượng của người sản xuất, kinh doanh
và quản lý chất lượng của nhà nước.
1.1.2. Vai trò của quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa có vai trò rất quan trọng đối
với xã hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đối với xã hội:
Việc quản lý chất lượng là nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng, sử dụng hợp lý nguồn
tài nguyên thiên nhiên và lao động.
Hơn nữa, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa có vai trò định hướng
và bảo đảm cho hoạt động chất lượng có tác động tích cực đối với sự phát
triển kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển kinh tế phải dựa vào đẩy
mạnh xuất khẩu, mà muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải dựa vào tăng cường khả
năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Muốn tăng cường khả năng cạnh
tranh thì phải nâng cao được năng suất và chất lượng. Sản phẩm hàng hóa
Việt Nam phải có chất lượng mang tầm quốc tế và khu vực. Với định hướng
này, nhà nước tạo điệu kiện để doanh nghiệp cải tạo, đổi mới hệ thống công
nghệ sản xuất, trang thiết bị đo lường, kiểm nghiệm để đáp ứng đòi hỏi của thị
trường. Cũng từ đòi hỏi của thị trường, không chỉ sản phẩm, hàng hóa phải
đảm bảo yêu cầu chất lượng mà bản thân hệ thống quản lý sản xuất các sản
phẩm, hàng hóa đó cũng phải đảm bảo chất lượng.
Đối với doanh nghiệp:
Quản lý chất lượng cho phép doanh nghiệp xác định đúng hướng sản
phẩm cần cải tiến, thích hợp với những mong đợi của khách hàng cả về tính
10
hữu ích và giá cả. Đồng thời, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đảm bảo
tạo ra các sản phẩm có chất lượng, tạo uy tín, niềm tin của người tiêu dùng
đối với doanh nghiệp. Người tiêu dùng chỉ đến với doanh nghiệp khi sản
phẩm của doanh nghiệp có chất lượng thỏa mãn nhu cầu của họ.
Sản xuất là khâu quan trọng tạo thêm giá trị gia tăng của sản phẩm,
hàng hóa do đó nếu như việc quản lý chất lượng sản phẩm tốt sẽ tạo ra những
sản phẩm có lợi cho người dùng và giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận
cao.
Tăng cường quản lý chất lượng sẽ giúp cho việc xác định đầu tư đúng
hướng, khai thác quản lý sử dụng công nghệ, con người có hiệu quả hơn. Đây
là lý do vì sao quản lý chất lượng được đề cao trong những năm gần đây. Như
vậy, về mặt chất hay lượng việc bỏ ra những chi phí ban đầu để đảm bảo chất
lượng sản phẩm sẽ giúp tổ chức, doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro về sau và
hoạt động có hiệu quả hơn.
Đối với người tiêu dùng: quản lý chất lượng góp phần đảm bảo và
nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, làm thỏa mãn những nhu cầu của
người tiêu dùng và góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.1.3. Trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Theo các định nghĩa về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã nêu
trên ta có thể thấy phạm vi quản lý là rất rộng. Tuy nhiên, đứng ở phạm vi
quốc gia quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thực hiện chủ yếu ở hai
cấp độ chính là Nhà nước và Doanh nghiệp. Trách nhiệm quản lý chủ yếu
cũng tập trung ở quản lý Nhà nước và quản lý trong các doanh nghiệp.
Thứ nhất, quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Trước hết phải thấy rằng quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa là hoạt động tổng hợp mang tính kỹ thuật, kinh tế và xã hội, có mục
tiêu, biến đổi theo thời gian và thông qua các cơ chế, chính sách và hệ thống
11
tổ chức.
Khoản 3 Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 “Quản
lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật về
chất lượng sản phẩm, hàng hoá.” Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa có trách nhiệm quản lý
chất lượng sản phẩm ở cấp Nhà nước.
Mục tiêu quản lý chất lượng của Nhà nước Việt Nam là “bảo đảm minh
bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hóa và tổ chức, cá
nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa, phù hợp với
thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.”
Để thực hiện những mục tiêu nói trên, các biện pháp sau đây được tiến
hành: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng; kiểm tra và chứng nhận
chất lượng; áp dụng và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng; công nhận
năng lực kỹ thuật và quản lý của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chất
lượng; thanh tra và xử lý các vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Những biện pháp quản lý của nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa này
được thể hiện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa. Điều đó phù hợp với xu hướng chung của quản lý nhà nước
bằng pháp luật.
Thứ hai, quản lý chất lượng trong doanh nghiệp
Hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong doanh nghiệp
về nguyên lý khác với hoạt động quản lý của nhà nước đối với chất lượng sản
phẩm, hàng hóa. Điều này là do tính chất tổ chức của cơ quan nhà nước và
của doanh nghiệp rất khác nhau vì những mục tiêu khác nhau.
Khoản 2 Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy
định: “Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản
12
xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài
sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, hàng hoá Việt Nam”. Theo đó, trách nhiệm quản lý chất lượng sản
phẩm ở cấp độ Doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của người sản xuất, kinh
doanh.
Hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp hay nói rộng hơn
là của các tổ chức không phải là nhà nước cũng hết sức đa dạng do tính chất
hoạt động của các tổ chức này. Nhà nước chỉ quản lý chất lượng với tư cách
là cơ quan quyền lực nhà nước hướng tới mục tiêu đảm bảo an toàn cho sản
phẩm, hàng hóa, bảo vệ lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Trong khi đó, doanh
nghiệp với mục đích sinh lời thực hiện quản lý chất lượng không chỉ đảm bảo
tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cơ bản Nhà nước quy định để
đảm bảo an toàn cho sản phẩm, hàng hóa, mà còn phải nâng cao chất lượng,
từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa
Vê lý luận, pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung,
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân,
được nhà nước đảm bảo thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì
mục đích bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và sự phát triển
bền vững của xã hội.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá chịu ảnh hưởng tác động đồng thời của
các chủ thể là nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng. Để sản phẩm,
hàng hoá bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường,
đòi hỏi mỗi chủ thể phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình để tác động lên
các yếu tố về chất lượng của sản phẩm, hàng hoá. Do đó, quản lý chất lượng
13
sản phẩm, hàng hóa là tổng hợp các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý là cơ
quan nhà nước hay người sản xuất, kinh doanh và đối tượng bị quản lý trong
các quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Mối quan hệ này xuất phát từ
không chỉ nhu cầu của chủ thể quản lý, mà còn từ tính chất của đối tượng
quản lý là những sản phẩm, hàng hóa được sản xuất, kinh doanh để tiêu dùng
và nhằm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
Từ đó có thể định nghĩa: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa cơ quan nhà nước, người sản xuất, kinh
doanh và người tiêu dùng trong việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh và
người tiêu dùng, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân,
tổ chức sản xuất, kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hướng vào
mục tiêu nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước,
góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế
trong bối cảnh tự do hoá thương mại và hội nhập. Cũng thông qua pháp luật,
Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và
chính thức cho các hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý chất
lượng về sản phẩm, hàng hóa
Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cơ bản đối với hoạt
động xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật. Các nguyên tắc này cần phải
được tôn trọng, tuân thủ trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật,
trong áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và thực hiện pháp luật của
mọi cá nhân, tổ chức. Khi xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý chất
14
lượng cần phải đáp ứng các nguyên tắc chủ yếu sau:
Thứ nhất, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng là người chấp nhận và tiêu thụ
sản phẩm, dịch vụ. Người tiêu dùng đề ra các yêu cầu về sản phẩm, dịch vụ,
chất lượng và giá cả. Do đó, quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ phải được
hướng tới người tiêu dùng và nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu
dùng. Hơn nữa, trong mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh và người
tiêu dùng thì người tiêu dùng được xem là yếu thế hơn do người tiêu dùng ở
thế bị động khi tiếp nhận sản phẩm, hàng hóa với nguồn thông tin hạn chế,
không có kinh nghiệm, chuyên môn trong đánh giá chất lượng.
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được xem là quan trọng
trong hoạt động thương mại nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa nói riêng. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 đề cập đến nội
dung nguyên tắc này khi quy định người sản xuất, kinh doanh có nghĩa vụ
phải đưa thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, cảnh báo về
khả năng gây mất an toàn của sản phẩm, đồng thời, người sản xuất, kinh
doanh phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình và bồi thường
khi có thiệt hại xảy ra.
Thứ hai, bảo đảm quyền tự do quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của người sản xuất, kinh doanh
Môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay đã tạo ra nhiều thách
thức mới trong kinh doanh, và cạnh tranh trở thành một yếu tố quan trọng
đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khả
năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược
cơ bản: chất lượng sản phẩm và giá cả. Trước đây, giá cả thường là yếu tố
quan trọng nhất của năng lực cạnh tranh vì lúc bấy giờ đời sống vật chất của
con người chưa cao, nhưng khi kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống được
nâng cao, xu thế cạnh tranh đã ngả về chất lượng. Do đó, vấn đề quản lý chất
15
lượng sản phẩm, hàng hóa trong doanh nghiệp càng được đề cao. Nhà nước
có tác dụng tạo ra môi trường, cung cấp phương tiện để doanh nghiệp quản lý
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, mà trách nhiệm quan trọng ở đây là bảo đảm
quyền tự do trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp.
Nguyên tắc này được ghi nhận trong Luật chất lượng sản phẩm, hàng
hóa khi quy định về quyền của người sản xuất, kinh doanh. Điều 9 Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định người sản xuất được quyền tự
do quyết định và công bố mức chất lượng sản phẩm do mình sản xuất, quyết
định các biện pháp kiểm soát nội bộ để đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng
hóa. Các hoạt động lợi dụng hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa để cản trở bất hợp pháp, gây phiền hà, sách nhiễu đối với hoạt động sản
xuất, kinh doanh đều bị cấm.
Thứ ba, đảm bảo quản lý nhà nước
Người sản xuất, kinh doanh được tự do trong quản lý chất lượng, sản
phẩm của mình nhưng tự do này phải được thực hiện theo một khuôn khổ
nhất định. Đó là đảm bảo sự tham gia quản lý của nhà nước nhằm thực thi các
quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Nguyên tắc này
được ghi nhận tại Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 về
nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Theo quy định này, nhà
nước quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá bằng cách thiết lập một trật tự
cần thiết về kỹ thuật thông qua các quy định về an toàn chất lượng, sản phẩm
hàng hóa và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để kiểm tra người sản xuất,
kinh doanh có bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị
trường hay không nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.
Thứ tư, tạo thuận lợi cho thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn
ra phổ biến, sôi động. Nhà nước với chức năng kinh tế xây dựng một khuôn
16
khổ pháp luật điều chỉnh nền kinh tế thị trường, bảo vệ anh toàn cho các hoạt
động kinh tế; xây dựng luật chống độc quyền, bảo vệ tự do cạnh tranh lành
mạnh… tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại. Pháp luật về quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa do đó được xây dựng và đảm bảo thực hiện để tạo
thuận lợi cho thương mại.
Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 26 Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa khi quy định về thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp. Việc thừa
nhận kết quả đánh giá sự phù hợp của giữa các quốc gia giúp hạn chế tối thiểu
sự chồng chéo trong hoạt động đánh giá sự phù hợp – biện pháp quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, cắt giảm chi phí và loại bỏ những rào cản phi thuế
quan đối với thương mại, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại trong nước
và thương mại quốc tế.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa
1.2.3.1. Chế định về thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa
Các cơ quan nhà nước và người sản xuất, kinh doanh có thẩm quyền
quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Về cơ bản, nhà nước không can thiệp
vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp, hoạt động nội bộ, quá trình sản xuất
do người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa hoàn toàn chịu trách
nhiệm. Nhà nước đặt ra các yêu cầu, điều kiện cho quá trình sản xuất như đặt
ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các yêu cầu khác để doanh nghiệp
áp dụng, thực hiện. Sản phẩm sau khi thực hiện đầy đủ các quy định của nhà
nước đều được tự do lưu thông trên thị trường. Nhà nước chỉ kiểm tra hàng
hóa lưu thông trên thị trường khi có nhu cầu quản lý hoặc khi có khiếu nại của
người tiêu dùng.
Như vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm, hàng hóa quản lý các khía cạnh an toàn, vệ sinh, môi trường
17
của sản phẩm và tác động của nó tới xã hội thông qua hệ thống quy chuẩn kỹ
thuật bắt buộc áp dụng, các thông tư quản lý cấp Bộ và các biện pháp thanh
tra, kiểm tra sự thực thi và phù hợp của sản phẩm, hàng hóa với các văn bản
quản lý trên. Còn người sản xuất, kinh doanh quản lý chất lượng trên cơ sở
ban hành hay áp dụng bộ tiêu chuẩn cơ sở, bao gồm cả tiêu chuẩn cho sản
phẩm, tiêu chuẩn về hệ thống quản lý và các công cụ cải tiến.
Việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của người sản xuất, kinh
doanh ngoài mục tiêu đảm bảo an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản,
môi trường mà còn có mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Trong khi đó, quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà nước chỉ nhằm thực thi các quy định của pháp luật về
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tức là chỉ đảm bảo khía cạnh an toàn của sản
phẩm.
1.2.3.2. Các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Quản lý chất lượng cũng như bất kỳ một loại quản lý nào đều phải
được thực hiện bởi một số biện pháp nhất định. Dựa trên các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật, cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh có
thể sử dụng các biện pháp sau để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Thứ nhất, công bố tiêu chuẩn áp dụng
Công bố tiêu chuẩn áp dụng là việc người sản xuất, kinh doanh công bố
các tiêu chuẩn cơ sở sử dụng làm căn cứ cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa
của mình trước khi đưa sản phẩm, hàng hóa ra thị trường. Doanh nghiệp có
quyền chủ động trong sản xuất, kinh doanh, có quyền lựa chọn áp dụng các
tiêu chuẩn phù hợp với mình. Song, hình thức công bố tiêu chuẩn cũng đòi
hỏi doanh nghiệp phải có nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm trước người
tiêu dùng, phải bảo đảm hàng hóa đạt tiêu chuẩn chất lượng đã công bố, phải
thường xuyên kiểm tra chất lượng hàng hóa và chịu trách nhiệm về chất lượng
hàng hóa do mình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải
18
bảo đảm trung thực, chính xác trong việc thông tin, quảng cáo về chất lượng
hàng hóa của mình, phải đảm bảo hàng hóa theo quy định. Những thông tin
này là kênh thông tin trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, đồng thời
đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng tiến hành
việc kiểm tra, thanh tra sau công bố.
Tiêu chuẩn cơ sở có thể được xây dựng theo những phương thức cơ bản
sau:
- Chấp nhận tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu
vực hoặc tiêu chuẩn nước ngoài tương ứng thành tiêu chuẩn cơ sở.
- Xây dựng mới tiêu chuẩn cơ sở trên cơ sở sử dụng các kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ, các kết quả thử nghiệm, đánh giá, phân tích và
thực nghiệm.
- Sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn cơ sở hiện hành.
Nội dung tiêu chuẩn cơ sở thể hiện các chỉ tiêu an toàn và các chỉ tiêu
đặc trưng có tính chất quyết định đối với chất lượng của sản phẩm mang tên
và được xem xét lại khi có yêu cầu thay đổi cần thiết để đảm bảo luôn đáp
ứng được yêu cầu và phù hợp với các quy định hiện hành hoặc mới ban hành.
Thứ hai, công bố sự phù hợp
Để đảm bảo chất lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường
nhà sản xuất cần phải đặt ra các tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm của
mình. Nhà sản xuất có thể áp dụng tiêu chuẩn quốc gia và/hoặc tự xây dựng
tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm của mình, việc lựa chọn tiêu chuẩn nào để áp
dụng là hoàn toàn tự nguyện của nhà sản xuất. Tuy nhiên, theo quy định hiện
hành, để sản phẩm hàng hóa được đưa ra lưu thông, mua bán, trao đổi thì
chúng cần được nhà sản xuất, nhà nhập khẩu công bố chất lượng hàng hóa.
Công bố sự phù hợp bao gồm công bố hợp chuẩn và công bố hợp quy.
Công bố hợp chuẩn là việc tổ chức, cá nhân tự công bố sản phẩm, hàng hóa,
19
dịch vụ, quá trình, môi trường phù hợp với tiêu chuẩn tương ứng. Công bố
hợp quy là việc tổ chức, cá nhân tự công bố sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá
trình, môi trường phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là cơ sở để thực hiện hoạt động công
bố sự phù hợp. Các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật xác định những hàng
hoá, dịch vụ nào có thể hoặc không thể trao đổi, và theo đó hoạt động mua
bán trao đổi được phép hay không được phép diễn ra. Đồng thời, thông qua
các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật này, nhà nước thực hiện quản lý chất
lượng chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Thuật ngữ “tiêu chuẩn” được định nghĩa trong Hiệp định TBT là: “Tài
liệu do một cơ quan được thừa nhận ban hành để sử dụng chung và nhiều lần,
trong đó quy định các quy tắc, hướng dẫn hoặc các đặc tính của sản phẩm
hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất có liên quan mà việc tuân thủ là
không bắt buộc. Tài liệu này cũng có thể bao gồm tất cả hoặc chỉ liên quan
riêng đến thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, yêu cầu về dãn nhãn hoặc
ghi nhãn đươc áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản
xuất.”
Đối với quy chuẩn kỹ thuật, Hiệp định TBT định nghĩa là: “Tài liệu quy
định đặc tính của sản phẩm hoặc quy trình và các phương pháp sản xuất có
liên quan, bao gồm các quy định hành chính mà việc tuân thủ là bắt buộc.
Quy chuẩn kỹ thuật có thể bao gồm tất cả hoặc chỉ liên quan riêng đến thuật
ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, yêu cầu về dãn nhãn hoặc ghi nhãn đươc
áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản xuất.” [22]
Quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn quy định các đặc tính của một sản
phẩm, như kích cỡ, hình dáng, thiết kế, chức năng và cách vận hành sản
phẩm, hoặc cách thức ghi nhãn hoặc đóng gói trước khi sản phẩm được đem
ra bán. Sự khác nhau giữa tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật nằm ở tính bắt
buộc áp dụng. Trong khi việc tuân thủ tiêu chuẩn là tự nguyện, thì đối với quy
20
chuẩn kỹ thuật, việc tuân thủ là bắt buộc và có hiệu lực pháp luật. Theo đó,
nếu một sản phẩm không đáp ứng các yêu cầu của một quy chuẩn kỹ thuật, nó
sẽ không được phép đưa ra thị trường. Trong trường hợp tiêu chuẩn, sản
phẩm không phù hợp tiêu chuẩn sẽ vẫn được phép lưu thông trên thị trường,
nhưng thị phần của sản phẩm này có thể bị ảnh hưởng nếu sản phẩm khác đáp
ứng được các tiêu chuẩn được người tiêu dùng ưa chuộng.
Việc ban hành hay quy định áp dụng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật là rất cần thiết cho nhiều vấn đề từ bảo vệ môi trường, an toàn, an ninh
quốc gia đến việc bảo vệ người tiêu dùng. Đây là công cụ kỹ thuật quan trọng
để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá vì tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
quy định các yêu cầu an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đạt được để có thể
được đưa vào lưu thông, tiêu dùng; đồng thời nó cũng là căn cứ để đánh giá
sản phẩm, hàng hóa có đảm bảo yêu cầu an toàn hay không.
Thứ ba, đánh giá sự phù hợp
Đánh giá sự phù hợp là một thủ tục được quốc tế thừa nhận để chứng tỏ
rằng các yêu cầu cụ thể đối với một sản phẩm, quy trình, hệ thống, con người
hay tổ chức đã được đáp ứng.
Đề cập về tầm quan trọng của thử nghiệm, chứng nhận và công nhận
trong nền kinh tế toàn cầu, Tiêu chuẩn ISO/IEC 17011: Đánh giá sự phù hợp
– Các yêu cầu chung đối với các tổ chức công nhận khi công nhận các tổ chức
đánh giá sự phù hợp, quy định: “Trong lĩnh vực quản lý, cơ quan có thẩm
quyền nhà nước thực thi pháp luật liên quan đến việc chấp nhận các sản
phẩm, dịch vụ để bảo vệ an toàn, sức khoẻ, môi trường, ngăn ngừa gian lận
hoặc vì sự công bằng trên thị trường. Trong lĩnh vực tự nguyện, nhiều ngành
công nghiệp trong phạm vi một nền kinh tế hay toàn cầu, thiết lập các hệ
thống đánh giá sự phù hợp và chấp nhận, nhằm đạt được một trình độ kỹ
thuật tối thiểu, tạo điều kiện cho việc so sánh [giữa các sản phẩm, dịch vụ, hệ
thống], và cũng để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng. Một điều kiện tiên quyết
21
đối với kinh doanh bình đẳng là bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào, khi đã
chính thức được chấp nhận trong một nền kinh tế, thì phải được lưu thông tự
do tại những nền kinh tế khác mà không phải tiến hành nhiều thử nghiệm,
giám định, chứng nhậnlặp lại v.v. Điều này là cần thiết cho dù toàn bộ hay
một phần của sản phẩm hoặc dịch vụ có phải là đối tượng chịu sự quản lý hay
không.” [20]
Theo định nghĩa của Thỏa ước về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
(Technical Barrieers to Trade – TBT) của Tổ chức thương mại quốc tế
(WTO), thủ tục đánh giá sự phù hợp là bất cứ thủ tục nào được áp dụng trực
tiếp hoặc gián tiếp để xác định rằng các yêu cầu có liên quan trong các quy
định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật có được thực hiện hay không [22]. Các thủ tục
này đánh giá sản phẩm và các điều kiện sản xuất ra các sản phẩm đó để đưa ra
sự đảm bảo với các cơ quan có thẩm quyền và người tiêu dùng rằng các yêu
cầu quy định đã được thực hiện.
Thủ tục đánh giá sự phù hợp bao gồm các hoạt động kỹ thuật như thử
nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận và công nhận nhằm xác định rằng
các sản phẩm hoặc quá trình đáp ứng các yêu cầu được quy định trong quy
chuẩn và tiêu chuẩn.
Thử nghiệm là một phương thức đánh giá sự phù hợp phổ biến nhất.
Trước khi đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường thì sản phẩm hay dịch
vụ đó, cần được thử nghiệm nhằm đảm bảo sự tuân thủ với các chỉ tiêu kỹ
thuật có trong tiêu chuẩn tài liệu quy định về chất lượng của sản phẩm hoặc
dịch vụ đó.
Giám định là hình thức đơn giản nhất, là việc kiểm tra số lượng và/hoặc
trọng lượng của hàng hoá kinh doanh, hoặc nếu xảy ra ở biên giới, việc kiểm
tra có thể bao gồm việc kiểm tra các tài liệu xuất/nhập khẩu với kiểm tra thực
tế lô chuyến hàng trên cơ sở đánh giá nghiệp vụ. Các tổ chức giám định kiểm
tra một phạm vi rộng lớn các sản phẩm, nguyên liệu, quá trình, quy trình làm
22
việc, dịch vụ trong lĩnh vực tư cũng như công; mục đích chung là nhằm giảm
rủi ro cho người mua, người sở hữu, người sử dụng hoặc người tiêu dùng của
những đối tượng đã được giám địn
Chứng nhận là khi một bên thứ ba đưa ra một đảm bảo bằng văn bản
rằng một sản phẩm (kể cả dịch vụ), quá trình, con người, tổ chức hoặc dịch vụ
phù hợp với những yêu cầu cụ thể. Hoạt động chứng nhận bao gồm chứng
nhận sản phẩm và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng.
Khi sản phẩm được chứng nhận có nghĩa là sản phẩm đó có các chỉ tiêu
chất lượng, vệ sinh an toàn phù hợp với qui định trong tiêu chuẩn (hoặc quy
chuẩn kỹ thuật) có liên quan. Điều này đã tạo lòng tin của khách hàng đối với
nhà sản xuất, góp phần nâng cao uy tín của nhà sản xuất, vì thế giúp cho nhà
sản xuất dễ dàng trong việc mở rộng thị trường và thuyết phục khách hàng
chấp nhận sản phẩm.
Những sản phẩm được chứng nhận sẽ có ưu thế cạnh tranh đối với
những sản phẩm cùng loại khi chưa được chứng nhận, chính vì vậy mà hoạt
động chứng nhận sản phẩm đã trở thành công cụ tiếp thị hữu hiệu cho nhà sản
xuất. Chứng nhận sản phẩm cũng là một cách thức kiểm soát sản xuất, trên cơ
sở đó sẽ giúp nhà sản xuất giữ ổn định chất lượng; cải tiến năng suất; giảm sự
lãng phí và giảm tỉ lệ sản phẩm bị phế phẩm.
Công nhận:
Các hoạt động đánh giá sự phù hợp được thực hiện bởi tổ chức đánh
giá sự phù hợp. Để đánh giá sự phù hợp, các tổ chức đánh giá sự phù hợp phải
được công nhận, hoạt động công nhận này cũng là cơ sở cho việc thừa nhận
kết quả đánh giá sự phù hợp tạo ra sự tin tưởng và thúc đẩy tiếp cận thị trường
thế giới. Để tăng độ tin cậy vào các hoạt động đánh giá sự phù hợp giữa các
nước, cần phải đạt được thoả thuận chính thức mang tên Thỏa thuận Công
nhận Lẫn nhau (MRA – Mutual Recognition Agreement/ Arrangement). Đây
là thỏa thuận giữa hai nước nhằm công nhận các kết quả thử nghiệm, giám
23
định, chứng nhận hay công nhận của nhau. MRA giúp hạn chế sự chồng chéo
của các hoạt động đánh giá sự phù hợp đối với sản phẩm, dịch vụ và hệ thống
trước khi được xuất khẩu.
Theo đó, công nhận là quy trình theo đó một tổ chức thẩm quyền công
nhận chính thức một tổ chức hoặc cá nhân có năng lực tiến hành những công
việc cụ thể. Công nhận được tiến hành đối với các phòng thử nghiệm và hiệu
chuẩn, các tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận sản phẩm và tổ chức chứng
nhận hệ thống quản lý chất lượng. Hoạt động công nhận là cơ sở để thừa nhận
kết quả đánh giá sự phù hợp, từ đó hạn chế tối đa việc thử nghiệm và chứng
nhận lại, giảm chi phí và loại bỏ các rào cản phi quan thuế trong thương mại
và cản trở tiếp cận thị trường
Thứ tư, kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, việc kiểm
tra, thanh tra việc thực thi pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quản
lý nhà nước nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa nói riêng.
Thực chất, hoạt động thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc quản lý của nhà nước
đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.
Thanh tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là việc xem xét, đánh giá và
xử lý việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có
hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa do tổ chức, người có
thẩm quyền thực hiện theo trình tự pháp luật quy định. Cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà phải chịu trách nhiệm pháp lý khác
nhau. Thông qua trách nhiệm này đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá của
mình trước xã hội, người tiêu dùng, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng. Việc đảm bảo hoạt động thanh tra chính là một hình thức
24
thể hiện sự kiểm tra của công dân đối với hoạt động thực thi pháp luật của các
cơ quan nhà nước để hạn chế, tiến tới loại trừ thói quan liêu, cửa quyền, tệ
nạn tham nhũng, cũng như tình trạng vô pháp luật, góp phần củng cố pháp
chế, bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của công dân.
Còn kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là việc xem xét tình hình
thực tế việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các cá nhân, tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra chất lượng chất lượng sản phẩm, hàng hóa
thực hiện là một trong các yếu tố quan trọng đảm bảo thực sự và trên thực tế
các hoạt động sản xuất, kinh doanh được thực hiện. Việc kiểm tra chất lượng
sản phẩm, hàng hóa được phân chia thành các giai đoạn theo quá trình từ hình
thành, hoàn chỉnh sản phẩm đến lưu thông trên thị trường và đưa vào sử dụng
sản phẩm. Trong sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm bao gồm các nội
dung như kiểm tra việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật, kiểm tra kết quả đánh giá
sự phù hợp, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy,... Hoạt động kiểm
tra chất lượng hàng hóa trong nhập khẩu, lưu thông trên thị trường gồm kiểm
tra nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, thử nghiệm mẫu theo tiêu
chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,...
Mục đích của cơ chế này là bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy các quyền, lợi
ích chính đáng của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng,
đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.3.3. Trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa
Để hoạt động thanh tra, kiểm tra có hiệu quả cần xác định được trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và việc
xác định nhiệm vụ của mỗi cơ quan trong từng lĩnh vực cũng là điều rất cần
thiết.
Phân công vai trò và trách nhiệm trong quản lý, cũng giống như trong
các lĩnh vực khác, đóng một vị trí lớn trong hoạt động quản lý chất lượng sản
25
phẩm, hàng hóa. Trong lĩnh vực quản lý chất lượng có rất nhiều nhóm lĩnh
vực nhỏ hơn có thể phân ra, phụ thuộc vào từng sản phẩm, hàng hóa như thực
phẩm, thiết bị y tế, cây trồng, vật liệu xây dựng,… Do đó để thuận tiện cho
hoạt động quản lý, mỗi nhóm lĩnh vực này sẽ do các cơ quan khác nhau phụ
trách. Việc phân công này thường căn cứ vào từng lĩnh vực đặc thù mà mỗi
cơ quan sẽ phụ trách khác nhau. Sự chuyên trách như vậy sẽ làm cho hiệu quả
quản lý nhà nước được nâng cao vì sẽ tận dụng hiệu quả hơn các nguồn lực.
Tuy nhiên, dù quản lý các lĩnh vực riêng song giữa các cơ quan cùng cấp này
vẫn rất cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau vì nhà nước là một thể thống
26
nhất và các lĩnh vực quản lý cũng vậy.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Quản lý chất lượng có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay
bởi vì quản lý chất lượng một mặt làm cho chất lượng sản phẩm, hàng hóa
thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng và mặt khác nâng cao hiệu quả của hoạt
động quản lý. Đó là cơ sở để doanh nghiệp chiếm lĩnh, mở rộng thị trường,
tăng cường vị thế, uy tín trên thị trường. Quản lý chất lượng cho phép doanh
nghiệp xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích hợp với những
mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích và giá cả.
Trong chương I, khóa luận đã đề cập đến cơ sở lý luận về quản lý chất
lượng và pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa bao gồm các
khái niệm, vai trò và trách nhiệm quản lý chất lướng sản phâm, hàng hóa;
khái niệm, nguyên tắc xây dựng và thực hiện pháp luật và nội dung pháp luật
về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá liên quan trực tiếp đến sự an toàn, vệ
sinh, sức khỏe con người, tài sản và môi trường được quản lý trên cơ sở tiêu
chuẩn công bố áp dụng và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Người sản xuất,
kinh doanh và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa. Người sản xuất, kinh doanh hoàn toàn tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa do mình làm ra trước Nhà nước và
người tiêu dùng. Nhà nước không can thiệp quá nhiều vào hoạt động của
doanh nghiệp mà chỉ quản lý thông qua việc ban hành các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật.
Để thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, người sản xuất,
kinh doanh và nhà nước có thể thực hiện các biện pháp: công bố tiêu chuẩn áp
dụng, công bố sự phù hợp, đánh giá sự phù hợp và thanh tra, kiểm tra chất
27
lượng sản phẩm, hàng hóa.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM, HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Về thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Việc thi hành các Luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã tạo nên sự
chuyển biến lớn đối với nhận thức chung về chất lượng và quản lý chất lượng
trong rất nhiều Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô và
vi mô. Các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước dần ý thức được phạm
trù quản lý nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong cơ chế kinh
tế thị trường. Các doanh nghiệp cũng nhận thức được rõ ràng hơn trách nhiệm
của mình đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ quy định trong
Luật Doanh nghiệp và Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật Chất lượng
sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định:
“2. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của người
sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài
sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, hàng hóa Việt Nam.
3. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của
pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.”
Như vậy, chủ thể có thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa là người sản xuất, kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó,
người sản xuất, kinh doanh quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho người, động
vật, thực vật, tài sản, môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam. Cơ quan quản lý nhà nước
28
quản lý nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, đảm bảo người sản xuất, kinh doanh thực thi theo quy định pháp
luật về chất lượng.
Thẩm quyền quản lý chất lượng của các chủ thể quản lý được quy định
tại Khoản 1 Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
“Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn
công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Căn cứ vào khả năng gây
mất an toàn, sản phẩm, hàng hóa được quản lý như sau:
a) Sản phẩm, hàng hóa nhóm 1 được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu
chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng;
b) Sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 được quản lý chất lượng trên cơ sở quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban
hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng.
Chính phủ quy định cụ thể việc ban hành Danh mục sản phẩm, hàng
hóa nhóm 2.”
Theo đó, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm nhóm 1 và nhóm 2. Việc
phân loại sản phẩm nhóm 1 và nhóm 2 để quản lý được dựa trên khả năng gây
mất an toàn có thể xảy ra của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hóa được
phân thành 2 nhóm sau:
Nhóm 1 gồm những sản phẩm, hàng hóa không có hoặc ít có khả năng
gây mất an toàn. Sản phẩm, hàng hóa được coi là không có hoặc ít có khả
năng gây mất an toàn nếu trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử
dụng hợp lý và đúng mục đích, không gây ra nguy hại hoặc ít có khả năng gây
ra nguy hại đến sức khỏe và sự an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản
và môi trường.
Nhóm 2 gồm những sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn.
29
Sản phẩm, hàng hóa được coi là có khả năng gây mất an toàn nếu trong điều
kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, vẫn có
tiểm năng khả năng gây ra nguy hại đến sức khỏe và sự an toàn cho người,
động vật, thực vật, tài sản và môi trường.
Việc phân nhóm theo mức độ như vậy để ưu tiên những sản phẩm,
hàng hóa đòi hỏi phải có sự kiểm soát nghiêm ngặt của Nhà nước không chỉ ở
sản phẩm đầu ra của sản xuất mà cả ở các khâu quan trọng trong quá trình
nghiên cứu thiết kế, tổ chức sản xuất và kiểm tra trong nội bộ cơ sở sản xuất.
Theo đó, những sản phẩm, hàng hóa không có khả năng gây mất an toàn được
quản lý dựa trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản xuất công bố. Những sản
phẩm hàng hóa có khả năng gây mất an toàn được quản lý chất lượng trên cơ
sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng.
2.2. Về các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
2.2.1. Công bố tiêu chuẩn áp dụng
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội trong những năm vừa qua,
hàng hóa được đưa ra thị trường ngày càng đa dạng. Tuy nhiên điều đáng nói
ở đây là trên thị trường, sản phẩm do các nhà sản xuất khác nhau, đưa ra
nhiều khi có mức giá và mức chất lượng không đồng bộ, thậm chí tỷ lệ
nghịch; thông tin về hàng hóa không chính xác. Đặc biệt nạn hàng giả, hàng
kém chất lượng chẳng những làm thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn đe dọa
tới an toàn, sức khỏe của mỗi người và hiệu quả sản xuất của nhiều doanh
nghiệp.
Để đẩy mạnh hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, phù
hợp với xu thế hội nhập, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 có
nội dung quan trọng đó là quy định các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
phải thực hiện việc công bố tiêu chuẩn áp dụng. Điều 23 Luật chất lượng sản
30
phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định:
“1. Người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ bản,
thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hóa hoặc một trong các
phương tiện sau đây:
a) Bao bì hàng hóa;
b) Nhãn hàng hóa;
c) Tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa.
2. Nội dung của tiêu chuẩn công bố áp dụng không được trái với yêu
cầu của quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban
hành.”
Theo đó, người sản xuất, người nhập khẩu công bố tiêu chuẩn áp dụng
thông qua hình thức ghi số hiệu tiêu chuẩn được áp dụng, cảnh báo hoặc các
đặc tính cơ bản trên nhãn hoặc bao gói sản phẩm, hàng hóa hoặc trong các tài
liệu giao dịch, giới thiệu sản phẩm và các hình thức thích hợp khác. Nội dung
xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn thực hiện theo Thông tư số 21/2007/TT-
BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn về xây
dựng và áp dụng tiêu chuẩn.
Đây là một phương thức quản lý chất lượng hàng hóa được áp dụng
nhằm nâng cao trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh trước người tiêu
dùng đối với chất lượng sản phẩm. Theo phương thức này, doanh nghiệp là
chủ thể trong việc công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đồng
thời doanh nghiệp cũng phải tự chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm, hàng hóa do mình công bố.
So với hình thức đăng ký chất lượng hàng hóa trước đây thì thủ tục
công bố tiêu chuẩn chất lượng được thực hiện đơn giản hơn. Trên thực tế, vấn
đề công bố tiêu chuẩn áp dụng vẫn còn tình trạng đối tượng đã công bố tiêu
chuẩn chất lượng nhưng sản phẩm, hàng hóa mà họ đưa ra thị trường không đạt
31
mức chất lượng đã công bố. Như trường hợp Công ty Cổ phần Quốc tế Đông
Trung (Lâm Đồng) đăng ký hàm lượng dinh dưỡng trên giấy phép, bao bì NPK
là 53%, nhưng kiểm tra chỉ đạt 8,2%. Hay như trường hợp Công ty Đông Hải
(Đà Nẵng), hàm lượng đăng ký là 53%, kiểm định chỉ có gần 3%... [24]
Việc công bố tiêu chuẩn áp dụng bao gồm các đặc tính cơ bản, thông
tin cảnh cáo, số hiệu tiêu chuẩn có thể thông qua các phương tiện khác nhau,
trong đó có nhãn hàng hóa. Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của
Chính phủ về nhãn hàng hóa được ban hành là cơ sở pháp lý cao nhất phục vụ
quản lý nhà nước về ghi nhãn hàng hóa. Về cơ bản, nghị định đã đáp ứng các
yêu cầu hội nhập và quản lý sản xuất, kinh doanh, lưu thông phân phối sản
phẩm hành hóa, đáp ứng sự phát triển kinh tế, thương mại.
Tuy nhiên quá trình thực hiện Nghị định và các văn bản liên quan đến
nhãn hàng hóa còn thể hiện một số tồn tại, vướng mắc như:
Việc ghi nhãn và dán nhãn phụ trên bao bì nguyên liệu nhập khẩu để
sản xuất xuất khẩu (bao gồm cả nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến, gia
vị) là vấn đề cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thủy sản.
Một số doanh nghiệp đã bị Ðoàn kiểm tra Quản lý thị trường xử phạt với lý
do nguyên liệu thủy sản nhập khẩu (để chế biến xuất khẩu) lưu tại kho chỉ
có nhãn tiếng Anh, không có nhãn phụ tiếng Việt. Tuy nhiên, đa số doanh
nghiệp thủy sản nhập nguyên liệu thủy sản để sản xuất xuất khẩu hoặc nhập
kinh doanh để sản xuất tiếp hàng xuất khẩu (không lưu thông hay tiêu thụ
trong nuớc), nên không thể có được nhãn phụ tiếng Việt theo quy định. Yêu
cầu ghi nhãn phụ tiếng Việt chỉ áp dụng cho sản phẩm được đưa ra lưu thông
ở thị trường trong nước còn hàng hóa dùng để chế biến hàng xuất khẩu,
không lưu thông trong nước (bao gồm cả nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế
biến, gia vị) thì không phải ghi nhãn phụ tiếng Việt. Vấn đề này sẽ được giải
quyết khi Nghị định 43/2017/NĐ-CP về Nhãn hàng hóa có hiệu lực vào
32
1/6/2017 tới đây. Theo Nghị định mới, nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất
hỗ trợ chế biến thực phẩm, linh kiện nhập khẩu về để sản xuất, không bán ra
thị trường không phải ghi nhãn phụ.
Một quy định nữa không phù hợp về vấn đề ghi nhãn hàng hóa là:
Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT
ngày 27/10/2014 hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia
thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bao gói sẵn (sau đây viết tắt là
Thông tư 34) như sau: “Nội dung bắt buộc phải ghi nhãn: tên sản phẩm;
thành phần cấu tạo; định lượng sản phẩm; ngày sản xuất; thời hạn sử dụng
và hướng dẫn bảo quản; hướng dẫn sử dụng; tên và địa chỉ của tổ chức, cá
nhân chịu trách nhiệm về sản phẩm; xuất xứ; số Giấy Tiếp nhận bản công bố
hợp quy hoặc Giấy Xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm;
các khuyến cáo, cảnh báo an toàn thực phẩm”.
Quy định có “số Giấy tiếp nhận công bố hợp quy hoặc xác nhận công
bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm” này chỉ đúng khi doanh nghiệp nhập
khẩu phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm để tiêu thụ trong
nước. Còn việc nhập khẩu những mặt hàng này để chế biến sản phẩm thủy sản
xuất khẩu hoặc làm nguyên liệu sản xuất tiếp thì không phù hợp.
Hơn nữa, quy định về đối tượng điều chỉnh tại Thông tư 34 chưa rõ
ràng, cụ thể tại Khoản 2, Điều 1 của Thông tư 34 về “Phạm vi điều chỉnh và
đối tượng áp dụng” chỉ nêu chung chung là không áp dụng đối với sản phẩm
sơ chế, nhưng trong Thông tư chưa nói rõ sản phẩm như thế nào được coi là
sản phẩm sơ chế.
Trong những năm gần đây tiến trình hội nhập của Việt Nam đã và đang
được triển khai mạnh mẽ. Việt Nam đã ký kết các Hiệp định với Liên minh
kinh tế Á - Âu (EEU), Hàn Quốc và ký kết tuyên bố kết thúc đàm phán FTA
song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã mở ra một chặng
đường mới cho doanh nghiệp Việt Nam bước vào môi trường kinh doanh
33
rộng lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các quy định của các tổ
chức mà Việt Nam tham gia, như những quy định rất khắt khe trong Hiệp
định Đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương về vấn đề xuất xứ hàng hóa
mà Việt Nam bắt buộc phải cam kết thực hiện. Trong đó có các cam kết về
nhãn hàng hóa đối với hàng hóa cụ thể, về việc xác định xuất xứ hàng hóa...
Như vậy, hiện nay xuất xứ hàng hóa và việc xác định xuất xứ hàng hóa có rất
nhiều quy định khác nhau và phức tạp, đặt ra vấn đề cần phải được rà soát để
sửa đổi cho thống nhất và phù hợp, tránh vi phạm các cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia.
2.2.2. Công bố sự phù hợp
Trong số các biện pháp quản lý chất lượng có quy định biện pháp người
sản xuất kinh doanh công bố hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất hoặc cung
cấp phù hợp với tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Đây là một
trong các bài quản lý được ISO đưa ra và khuyến khích các quốc gia áp dụng.
Biện pháp này được quy định trong Luật, Nghị định, Thông tư như:
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Nghị định số
127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Thông tư số
28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy
định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù
hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; Thông tư số 23/2007/TT-BKHCN
ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn xây dựng, thẩm
định và ban hành quy chuẩn kỹ thuật,…
Việc áp dụng phương thức này sẽ làm giảm bớt sự can thiệp không cần
thiết của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian cho doanh nghiệp và
sản phẩm sẽ rẻ hơn, nhanh đến với người tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, cũng phải
thấy rằng để thực hiện phương thức này, Nhà nước đã đặt niềm tin rất lớn vào
34
các doanh nghiệp khi thể hiện trách nhiệm xã hội của mình đối với chất lượng
hàng hóa, dịch vụ mình làm ra hay cung cấp, bên cạnh đó đòi hỏi người tiêu
dùng phải nâng cao nhận thức để hiểu được các quyền hợp pháp và trách
nhiệm công dân của mình đối với vấn đề chất lượng sản phẩm trong quá trình
mua và sử dụng chúng.
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là cơ sở để người sản xuất, kinh
doanh thực hiện công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy.
Về tiêu chuẩn:
Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam về cơ bản được xây dựng và sửa đổi trên
cơ sở rà soát các TCVN hiện hành và xây dựng mới TCVN, bổ sung kịp thời
các tiêu chuẩn thuộc các đối tượng theo yêu cầu quản lý cấp bách,… Mới đây,
Việt Nam đã ban hành TCVN 9000:2015 và TCVN 9001:2015 thay thế các
tiêu chuẩn cũ để phù hợp với tiêu chuẩn của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
ISO 9000 và ISO 9001.
Theo thống kê của Viện Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam (VSQI), tính
đến hết tháng 12/2015, có 8.625 Tiêu chuẩn Quốc gia đã được Bộ KHCN
công bố, sử dụng rộng rãi trong các hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh.
Hiện tại mức độ hài hòa của hệ thống TCVN đối với các tiêu chuẩn quốc tế,
tiêu chuẩn khu vực đạt trên 45%, mục tiêu đến năm 2020 là 60% nhằm đảm
bảo cho vị trí của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam tại thị trường
trong nước và trên thị trường quốc tế, đóng góp vào mục tiêu đưa nền kinh tế
Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. [26]
Tuy nhiên, hệ thống TCVN thực sự chưa đáp ứng rộng rãi, thực sự
chưa phát huy được hiệu quả và hiệu lực cao. Trình độ khoa học kỹ thuật của
nhiều TCVN còn thấp và lạc hậu.
Về quy chuẩn kỹ thuật:
Hệ thống Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia được hình thành và phát triển
35
trên cơ sở quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để quản lý đối
với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường có khả năng gây mất
an toàn, bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động thực vật,
môi trường sinh thái; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người
tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Tổng số QCVN hiện có là 632
QCVN, do 13 Bộ quản lý chuyên ngành xây dựng, ban hành với sự thẩm định
của Bộ KHCN.
Trong tổng số 632 QCVN, số lượng QCVN điều chỉnh đối tượng sản
phẩm, hàng hóa nhóm 2 theo quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng
hoá là 425 QCVN, chiếm tỷ lệ 67% tổng số QCVN hiện hành, tập trung vào
các vấn đề an toàn, chất lượng, bảo vệ môi trường, sức khỏe.... Với kết quả
này, hiện còn 86 đối tượng/nhóm đối tượng sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 còn
chưa có QCVN tương ứng (thuộc các lĩnh vực: Trang thiết bị phòng cháy,
chữa cháy; Trang thiết bị kỹ thuật ngành Công an; Dịch vụ trong lĩnh vực
giao thông, vận tải; Công trình kết cấu hạ tầng giao thông; Vật liệu nổ công
nghiệp; Công trình vui chơi công cộng; Trang thiết bị y tế; Hoá chất, chế
phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng, y tế; Vị thuốc đông y có
độc tính; Thiết bị y học cổ truyền) [26]. Trong khi đó, có những sản phẩm,
hàng hóa không thuộc Danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2, nhưng lại được
ban hành Quy chuẩn kỹ thuật như: sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ
đến 12 tháng tuổi; các sản phẩm chất bột từ sữa;…
Theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, sản phẩm, hàng
hoá nhóm 2 được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng
do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người
sản xuất công bố áp dụng. Việc thiếu quy chuẩn kỹ thuật gây khó khăn cho
việc người sản xuất thực hiện việc công bố hợp quy theo quy định pháp luật,
đồng thời gây khó khăn cho việc quản lý những sản phẩm, hàng hóa này của
36
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.2.3. Đánh giá sự phù hợp
Đánh giá sự phù hợp là một dịch vụ khoa học công nghệ quan trọng,
phục vụ đắc lực cho hoạt động giao lưu thương mại. Mục đích của đánh giá
sự phù hợp là cung cấp lòng tin cho người sử dụng rằng các yêu cầu đối với
sản phẩm, dịch vụ và hệ thống được đáp ứng. Niềm tin tưởng đó, đến lượt bản
thân nó, sẽ đóng góp trực tiếp cho sự chấp nhận của thị trường đối với các sản
phẩm, dịch vụ và hệ thống này. Sự tin tưởng của người sử dụng có thể đạt
được thông qua sự hợp tác giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoặc các tổ
chức được công nhận, dẫn đến việc thừa nhận lẫn nhau và sự quảng bá xuyên
biên giới về công việc của các bên tham gia.
Việt Nam chính thức gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và
một loạt các Hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết như Liên minh
Hải quan, Việt Nam-EU, Việt Nam - Hàn Quốc... Với tiến trình hội nhập này,
các hoạt động giao thương hàng hóa trong nước cũng như xuất khẩu sẽ có
nhiều thay đổi. Các rào cản về mặt thuế quan trong hoạt động xuất nhập khẩu
sẽ được gỡ bỏ, thay vào đó các hàng rào phi thuế quan (chủ yếu là rào cản kỹ
thuật - TBT, biện pháp kiểm dịch động thực vật - SPS) sẽ được thiết lập. Do
đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa của Việt Nam bên cạnh thuận lợi về
thuế suất nhập khẩu, sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải vượt qua các hàng rào về
mặt kỹ thuật.
Việc tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật có thể cản trở thương mại quốc tế.
Đặc biệt nếu sản phẩm được xuất khẩu tới nhiều thị trường, đòi hỏi phải thử
nghiệm nhiều lần. Nhà sản xuất có thể gặp khó khăn trong việc đảm bảo sự
chấp nhận cho sản phẩm của họ tại các thị trường nước ngoài. Một trong
những khó khăn chính mà các nhà xuất khẩu đối mặt là chi phí thử nghiệm
hoặc chứng nhận. Các chi phí này có thể cắt giảm đáng kể nếu một sản phẩm
có thể được thử nghiệm một lần và kết quả thử nghiệm hay chứng nhận của
37
nó được chấp nhận ở tất cả các thị trường. Khái niệm quốc tế hiện nay là
“Chứng nhận một lần, được chấp nhận ở mọi nơi”. Điều này có thể đạt được
thông qua mạng lưới ngày càng gia tăng các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau
(MRA) giữa các nhà quản lý và các tổ chức công nhận quốc tế.
Thừa nhận lẫn nhau sẽ thúc đẩy việc tiếp cận các thị trường quốc tế; tạo
nền tảng kỹ thuật cho thương mại quốc tế bằng việc nâng cao tin tưởng và
chấp nhận các bên liên quan đối với kết quả chứng nhận và dữ liệu thử
nghiệm đã được công nhận. Hiệp định rào cản kỹ thuật trong thương mại của
Tổ chức Thương mại thế giới (TBT/WTO) Việt Nam tham gia thúc đẩy việc
thừa nhận các kết quả đánh giá sự phù hợp của nhau như một biện pháp giảm
rào cản trong thương mại. Hiệp định nhấn mạnh rằng sự tin tưởng vào độ
chính xác của các kết quả đánh giá sự phù hợp là điều kiện tiên quyết cho việc
thừa nhận các đánh giá đó.
Nhà nước đã ban hành hoàng loạt các quy định về đánh giá sự phù hợp
nhằm đáp ứng nhu cầu về quản lý chất lượng như: Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007;
Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 08/4/2009 của Bộ Khoa học và Công
nghệ Hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù
hợp; Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và
Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức
đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;…
Thời gian qua, hoạt động đánh giá sự phù hợp, bao gồm công nhận,
chứng nhận, giám định, thử nghiệm ngày càng đi vào nề nếp. Từ năm 1995
đến 2015, Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA) - Bộ Khoa học và Công
nghệ đã đánh giá, công nhận được hơn 900 tổ chức đánh giá sự phù hợp bao
gồm: phòng thử nghiệm và phòng hiệu chuẩn; phòng thí nghiệm y tế; tổ chức
chứng nhận và tổ chức giám định theo tiêu chuẩn quốc tế. Các tổ chức được
công nhận thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: cơ quan quản lý
38
nhà nước; Viện nghiên cứu; trường đại học; doanh nghiệp nhà nước; doanh
nghiệp tư nhân; công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài. Hệ
thống các phòng thử nghiệm của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng,
các cơ quan quản lý chuyên ngành có khả năng thử nghiệm được nhiều chỉ
tiêu chất lượng, vệ sinh an toàn của nhiều loại sản phẩm hàng hóa như thực
phẩm, cơ khí, điện-điện tử, cao su, nhựa, vải sợi, giấy, xăng dầu, vật liệu xây
dựng và công trình, thuốc chữa bệnh cho người, thuốc thú y, chất bảo quản và
phòng trừ dịch hại, cây trồng, môi trường... với các trang thiết bị tin cậy,
chính xác, nhiều thiết bị thuộc loại thế hệ mới, tiên tiến ngang với trình độ
quốc tế. Hoạt động chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy, công bố hợp
chuẩn, công bố hợp quy được triển khai theo quy định.
Hoạt động công nhận là một biện pháp để giúp cho việc thừa nhận lẫn
nhau kết quả thử nghiệm/hiệu chuẩn, giám định chất lượng và chứng nhận
chất lượng, để các tổ chức có sự tin tưởng vào độ chính xác của các kết quả
đanh giá sự phù hợp. Khoản 10 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật năm 2006 giải thích: “Công nhận là việc xác nhận phòng thử nghiệm,
phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức giám định có
năng lực phù hợp với các tiêu chuẩn tương ứng.” Công nhận năng lực của các
tổ chức đánh giá sự phù hợp được xem là một trong những trụ cột trong đánh
giá sự phù hợp.
Hoạt động công nhận các phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức
chứng nhận, tổ chức giám định trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế cũng được
tiến hành trên phạm vi cả nước, nhằm nâng cao độ tin cậy của các kết quả đo
lường, thử nghiệm, chứng nhận, giám định do các phòng thí nghiệm, tổ chức
chứng nhận, giám định cung cấp, đặc biệt là chuẩn bị điều kiện để hội nhập và
thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhận, thử nghiệm.
Tuy nhiên, việc đánh giá sự phù hợp của nước ta còn tồn tại không ít
hạn chế trong quy định quản lý gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng
39
sản phẩm, hàng hóa. Cụ thể:
Trong hoạt động giám định:
Phát hiện hàng giả, hàng nhái trên thị trường không khó vì chúng được
bày bán khá công khai tại những nơi công cộng, nhiều loại chỉ cần nhìn mắt
thường cũng biết là hàng giả, nhưng để khẳng định đó là hàng giả trước khi
xử lý lại không dễ chút nào. Theo quy định của pháp luật, để xử lý được hàng
giả thì bắt buộc phải có giám định kết luận hàng giả. Nhiều mặt hàng giả,
hàng kém chất lượng, chi phí giám định rất đắt, khi đưa đi giám định buộc lực
lượng thực thi phải tạm ứng kinh phí giám định, nếu đúng là hàng giả thì phải
tiêu hủy. Theo quy định của pháp luật thì chính đương sự vi phạm phải nộp
khoản tiền giám định đó nhưng hầu như không có đương sự nào tự nguyệt
chịu nộp và việc cưỡng chế thi hành cũng khó khăn. Mặt khác, muốn giám
định hàng giả, hàng nhái, lực lượng quản lý phải có yêu cầu từ chủ sở hữu
thương hiệu bị làm giả, làm nhái. Tuy nhiên, đối với hàng hóa có nguồn gốc
từ các nước không đăng ký chất lượng tại Việt Nam, hàng hóa không có ai
xác nhận là hàng giả vì không có cơ quan đại diện của nhà sản xuất tại Việt
Nam khi xảy ra vi phạm khó có thể giám định được.
Trong hoạt động công nhận:
Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/7/2009 ban hành Danh mục
các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức KHCN (sau đây viết tắt là Quyết
định số 97) gây nhầm lẫn khi quy định cá nhân được phép thành lập tổ chức
KHCN để nghiên cứu các lĩnh vực, trong đó có “dịch vụ công nhận phòng
thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận hệ
thống, tổ chức chứng nhận sản phẩm”. Sau khi được ban hành, Quyết định số
97 đã gây hiểu nhầm việc cá nhân được thành lập tổ chức KHCN để thực hiện
các hoạt động công nhận phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức giám
định, tổ chức chứng nhận hệ thống, tổ chức chứng nhận sản phẩm như là tổ
chức thực hiện hoạt động công nhận theo Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
40
thuật. Từ sự hiểu nhầm này đã hình thành thêm tổ chức công nhận được thành
lập theo Luật Doanh nghiệp, điển hình là Công ty Cổ phần Công nhận quốc tế
- AoV đã thực hiện hoạt động công nhận phòng thử nghiệm.
Căn cứ vào các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật Tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật và Luật Khoa học Công nghệ, thực tế cho thấy AoV chỉ là
một doanh nghiệp, không phải là tổ chức khoa học công nghệ, không phải là
tổ chức công nhận. Mà theo quy định của pháp luật thì chỉ có tổ chức công
nhận được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật về khoa học
công nghệ, đồng thời phải đáp ứng đủ các điều kiện và đăng ký hoạt động
theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật mới được
phép hoạt động công nhận. Như vậy, AoV không đáp ứng được các điều kiện
của pháp luật để có thể tiến hành các hoạt động công nhận.
Một bất cập khác có thể kể đến là sự không đồng nhất giữa các văn
bản. Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật ban hành năm 2006 và có hiệu
lực từ ngày 1/1/2007 quy định tổ chức công nhận là đơn vị sự nghiệp khoa
học thực hiện đánh giá, công nhận năng lực của phòng thử nghiệm/hiệu
chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức giám định. Tuy nhiên, theo
Luật KHCN năm 2013 thì không còn khái niệm đơn vị sự nghiệp khoa học,
theo đó tổ chức KHCN bao gồm 3 loại hình: tổ chức KHCN công lập, tổ chức
KHCN ngoài công lập, tổ chức KHCN có vốn nước ngoài. Vì vậy, cần phải
sửa đổi quy định để có sự đồng nhất [17].
2.2.4. Kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa
Kiểm tra, thanh tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một trong những
biện pháp quan trọng của công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Hoạt động này được thực hiện dựa trên hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật và hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành đã
ban hành nhiều văn bản quy định về kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa
41
trong sản xuất, lưu thông trên thị trường. Cụ thể, việc kiểm tra được quy định
trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Luật Tiêu chuẩn và
Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Thanh tra năm 2010; Chính phủ ban hành
Danh mục sản phẩm, hàng hóa phải kiểm tra về chất lượng kèm theo Quyết
định 50/2006/QĐ-TTg của Chính phủ về việc ban hành Danh mục sản phẩm,
hàng hóa phải kiểm tra về chất lượng; Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành
Thông tư 26/2012/TT-BKHCN quy định việc kiểm tra Nhà nước về chất
lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường; Quyết định số 1171/QĐ-BKHCN
ngày 27/5/2015 về việc công bố Danh mục hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra
chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trước khi thông quan thuộc trách
nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Công Thương cũng ban
hành Thông tư số 46/2015/TT-BCT quy định kiểm tra về chất lượng sản
phẩm trong sản xuất thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương,…
Nhà nước đã có những quan tâm đúng mức đến công tác thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, thực
hiện các biện pháp xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng và môi trường sống. Tuy nhiên công tác thanh tra, kiểm tra
vẫn tồn tại nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh, cụ
thể:
Số lượng cơ sở, mặt hàng được kiểm tra hàng năm còn hạn chế, chỉ
chiểm khoảng 2,5% tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh sản phẩm, hàng hóa có
nguy cơ gây mất an toàn (nhóm 2) cần phải kiểm tra. Trong khi đó, nhiều
doanh nghiệp khi đăng ký chứng nhận hợp quy thì sản phẩm đảm bảo phù
hợp quy chuẩn kỹ thuật nhưng khi đưa hàng hóa ra lưu thông lại không đạt
chuẩn.[21] Nhiều vụ việc khi xảy ra những hậu quả nghiêm trọng thì cơ quan
chức năng mới tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra. Điển hình trong thời
gian vừa qua, trên địa bàn cả nước đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm do
sử dụng rượu không rõ nguồn gốc, không phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc
42
gia, không bảo đảm an toàn thực phẩm, đặc biệt là vụ ngộ độc nghiêm trọng
tại huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu ngày 13/2/2017 đã làm 69 người bị ngộ
độc, trong đó có 9 người bị tử vong [23].
Công tác xử lý vi phạm còn hạn chế, mức độ xử lý không đảm bảo
được tính răn đe, các quy định xử lý vi phạm còn chồng chéo, gây khó khăn
cho việc thực hiện trên thực tế. Cụ thể việc thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm
trong lĩnh vực xăng dầu cũng gặp khó khăn do có sự chồng chéo về xử lý vi
phạm hành chính giữa Nghị định 97/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa
lỏng (sau đây viết tắt là Nghị định 97) và Nghị định 80/2013/NĐ-CP quy định
về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản
phẩm, hàng hóa (sau đây viết tắt là Nghị định 80) đối với đo lường chất lượng
xăng dầu.
Điều 10 Nghị định 80 quy định mức phạt thấp nhất là 200.000 đồng,
cao nhất tới 100 triệu đồng, đối với các hành vi như : “Không có chứng chỉ
kiểm định; sử dụng chứng chỉ kiểm định đã hết hiệu lực; tự ý tháo dỡ niêm
phong, kẹp chì, dấu kiểm định, tem kiểm định trên phương tiện đo; làm thay
đổi cấu trúc kỹ thuật, đặc tính kỹ thuật đo lường của phương tiện đo; tác
động, điều chỉnh, sửa chữa, lắp thêm, rút bớt, thay thế cấu trúc kỹ thuật của
phương tiện đo làm sai lệch kết quả đo hoặc sử dụng các thiết bị khác để điều
chỉnh sai số của phương tiện đo vượt quá giới hạn sai số cho phép…”.
Cũng trong lĩnh vực này, tại Điều 22 của Nghị định 97 quy định hành
vi gian lận về sử dụng phương tiện đo lường trong kinh doanh xăng dầu cũng
nêu rõ những hành vi vi phạm tương tự. Cụ thể: Không có chứng chỉ kiểm
định; sử dụng chứng chỉ kiểm định đã hết hiệu lực;… Hành vi làm thay đổi
cấu trúc kỹ thuật, đặc tính kỹ thuật đo lường của phương tiện đo; tác động,
điều chỉnh, sửa chữa, lắp thêm, rút bớt, thay thế cấu trúc kỹ thuật của phương
tiện đo làm sai lệch kết quả đo hoặc sử dụng các thiết bị khác để điều chỉnh
43
sai số của phương tiện đo vượt quá giới hạn sai số cho phép. Với những hành
vi này, mức phạt hành chính thấp nhất 5 triệu đồng và cao nhất là 50 triệu
đồng.
Một quy định khác tại khoản 7, Điều 20 của Nghị định 80 quy định xử
phạt hành chính đối với hành vi vi phạm về chất lượng hàng hóa lưu thông
trên thị trường (trong đó có xăng dầu), mức phạt tiền từ 3 lần đến 5 lần tổng
giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm tại thời điểm đối với các hành vi bán sản
phẩm, hàng hóa có chất lượng không phù hợp với quy định của quy chuẩn kỹ
thuật tương ứng; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia,
pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với quy định
của quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Trong khi đó, Điều 23 của Nghị định 97 quy định xử phạt hành đối với
các hành vi vi phạm quy định về chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị
trường, như: “pha trộn chất phụ gia hoặc các chất khác vào xăng dầu làm thay
đổi chất lượng xăng dầu hoặc chất lượng xăng dầu không phù hợp với quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia; mua bán xăng dầu có chất lượng không phù hợp quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn công bố áp dụng…”, mức phạt từ 1 lần
đến 2,5 lần giá trị hàng hóa.
Như vậy, cùng một lĩnh vực đo lường, chất lượng hàng hóa thì các quy
định về hành vi vi phạm và mức xử phạt hành chính của Nghị định 97 đã có
sự chồng chéo, thiếu thống nhất so với Nghị định 80/2013 ban hành ngày
19/7/2013 (cụ thể trùng về hành vi nhưng Nghị định 97 có mức phạt thấp
hơn). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần sớm thống nhất các quy định về xử phạt.
2.3. Về trách nhiệm quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa
diễn ra ở hầu hết các Bộ, ngành. Do vậy, ngoài quy định trách nhiệm của Bộ
Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa,
44
còn quy định cụ thể trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác. Theo đó, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực
có trách nhiệm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
cụ thể của Bộ, ngành; tổ chức và chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm trong sản xuất… Đặc biệt đã quy định cụ thể về trách nhiệm
quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng có khả năng gây mất an
toàn, cụ thể như sau:
Bộ Y tế chịu trách nhiệm đối với thực phẩm, dược phẩm, vắc xin, sinh
phẩm y tế, mỹ phẩm, nguyên liệu sản xuất thuốc và thuốc cho mọi người, hóa
chất gia dụng, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn, trang thiết bị y tế;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm đối với cây
trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú
y, chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công
trình thủy lợi, đê điều;
Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm đối với phương tiện giao thông
vận tải, phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công vận tải chuyên dùng, phương
tiện, thiết bị thăm dò, khai thác trên biển, công trình hạ tầng giao thông;
Bộ Công Thương chịu trách nhiệm đối với thiết bị áp lực, thiết bị nâng
đặc thù chuyên ngành công nghiệp, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, trang
thiết bị khai thác mỏ, dầu khí, trừ các thiết bị, phương tiện thăm dò, khai thác
trên biển;
Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm đối với công trình dân dụng, công trình
công nghiệp, công trình hạ tầng kỹ thuật;
Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm đối với phương tiện, trang thiết bị
quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng, công trình
45
quốc phòng;
Bộ Công an chịu trách nhiệm đối với trang thiết bị phòng cháy, chữa
cháy; trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí đạn dược, khí tài, công cụ hỗ trợ, trừ
phương tiện, trang thiết bị quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục
vụ quốc phòng, công trình quốc phòng.
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và Nghị định số
132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định cụ thể trách
nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong
sản xuất, trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường,
trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, quy định trong quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của nhà nước còn hạn chế trong việc phân công trách nhiệm
quản lý giữa các Bộ, ngành, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008
chưa phân định rõ ràng về đối với một số sản phẩm, hàng hóa của một số Bộ,
ngành, ví dụ như: giữa Bộ Y tế với Bộ Công Thương; giữa Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn với Bộ Y tế; giữa Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội với Bộ Công Thương... . Cụ thể, Điều 32 Nghị định 132/2008/NĐ-CP quy
định Bộ Công Thương và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đều có trách
nhiệm quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa đối với máy móc, thiết bị có
yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, gây khó khăn trong việc xác định
cơ quan chịu trách nhiệm chính, khả năng có quy định chồng chéo, trùng lặp
cao dẫn đến các thủ tục xem xét sau đó gây mất thời gian cho việc thực hiện
các quy định trên thực tế. Theo đó, cần phải sớm quy định rõ ràng trách
nhiệm của các Bộ, ngành, đảm bảo hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm,
46
hàng hóa trên thực tế.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Để triển khai Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và Nghị
định số 132/2008/NĐ-CP, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực, trong đó có Bộ
Khoa học và Công nghệ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn và tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biết, hướng dẫn thực
hiện.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa được ban hành khá đầy đủ. Các văn bản quy phạm pháp luật ban
hành là hành lang pháp lý quan trọng, tạo sự thống nhất và đồng bộ cho việc
triển khai hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa (trong sản xuất,
xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng).
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm
2007, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ và các
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, việc
thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn một số vướng mắc, cần
xem xét sửa đổi, bổ sung này trong thời gian tới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, một số sản phẩm, hàng hóa chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia điều chỉnh tương ứng.
Cụ thể, tại Điều 32 Nghị định 132/2008/NĐ- CP ngày 31/12/2008 của
Chính phủ quy định trách nhiệm của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quản lý
nhà nước về chất lượng sản phẩm, trong đó có quy định trách nhiệm của Bộ
Công Thương. Hiện Bộ Công Thương đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia, nhưng còn một số sản phẩm, hàng hóa thuộc trách nhiệm quản lý
của ngành Công Thương vẫn chưa có các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia điều
chỉnh như phân bón vô cơ các loại, sản phẩm dệt may các loại, thiết bị thông
tin phòng nổ,…
Thứ hai, có sự chồng chéo trong xử lý vi phạm và trách nhiệm giữa các
47
cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý chất lượng. Cụ thể:
Về xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Điều 22, 23 Nghị
định số 97/2013/NĐ-CP ngày 27/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ
hóa lỏng, đã quy định hành vi gian lận về sử dụng phương tiện đo lường trong
kinh doanh xăng dầu và hành vi vi phạm quy định về chất lượng xăng dầu lưu
thông trên thị trường. Việc quy định về xử phạt hành hành vi nêu trên tại Nghị
định số 97/2013/NĐ-CP về bản chất là tương tự với xử phạt hành vi quy định
tại Điều 10 (vi phạm trong sử dụng phương tiện đo nhóm 2) và Điều 20 (vi
phạm về chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường) của Nghị định số
80/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu
chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Quy định này đã dẫn đến
tình trạng cùng một hành vi vi phạm về sử dụng phương tiện đo; về chất
lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường lại được điều chỉnh bởi 02 Nghị
định xử phạt với chế tài hành chính khác nhau áp dụng đối với người thực
hiện hành vi vi phạm.
Trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý chất
lượng sản phẩm cũng có sự chồng chéo, theo Nghị định số 132/2008/NĐ-CP
của Chính phủ có 15 Bộ được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về chất lượng
sản phẩm trong sản xuất, trong đó có Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ Khoa
học và Công nghệ…, do đó khó có thể xác định chính xác cơ quan chịu trách
nhiệm chính, nhất là khi thực hiện quản lý một lĩnh vực cụ thể.
Trong danh mục hàng hóa có sự chồng chéo khi các hàng hóa thuộc
diện điều chỉnh của nhiều luật chuyên ngành dẫn đến một mặt hàng phải thực
hiện đồng thời nhiều thủ tục nên khó khăn, mất thời gian, tốn chi phí. Chẳng
hạn, nồi cơm điện có ba luật điều chỉnh và có ba Bộ khác nhau quản lý. Kiểm
tra chất lượng điện thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Chất lượng sản phẩm
48
hàng hóa, kiểm tra dán tem năng lượng trong Luật Sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả điều chỉnh và nồi dùng để nấu cơm nên có Luật Vệ sinh an
toàn thực phẩm điều chỉnh.
Thứ ba, về quy định nhãn hàng hóa: Việc quy định ghi “số Giấy tiếp
nhận công bố hợp quy hoặc xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực
phẩm” đối với phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm nhập khẩu
để chế biến sản phẩm thủy sản xuất khẩu hoặc làm nguyên liệu sản xuất tiếp
là không phù hợp.
Thứ tư, mức xử lý vi phạm trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng
hóa còn thấp. Nghị định số 80/2013/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa có mức
phạt một số vi phạm hành chính còn thấp không đủ răn đe nên dẫn đến khó
khăn cho cơ quan có thẩm quyền khi xử lý vi phạm, ví dụ mức phạt về nhãn
hàng hóa, một số hành vi vi phạm về mã số mã vạch..
Thứ năm, không đồng nhất giữa các văn bản pháp luật.
Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật ban hành năm 2006 không đồng
nhất với Luật KH&CN năm 2013 khi quy định về đơn vị sự nghiệp. Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật quy định tổ chức công nhận là đơn vị sự nghiệp
khoa học, trong khi Luật KH&CN năm 2013 thì không còn khái niệm đơn vị
sự nghiệp khoa học, mà tổ chức KH&CN bao gồm 3 loại hình: tổ chức
KH&CN công lập, tổ chức KHCN ngoài công lập, tổ chức KH&CN có vốn
49
nước ngoài.
CHƯƠNG 3.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa ở Việt Nam
Trong xu thế phát triển và hội nhập của nền kinh tế, kinh tế Việt Nam
đang hòa cùng với nền kinh tế thế giới điều đó đòi hỏi ngày càng cao của thị
trường trong nước và ngoài nước. Để cạnh tranh được các doanh nghiệp cần
quan tâm đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Vì vấn đề chất lượng là một
trong những yếu tố quyết định sự tồn tại phát triển của các doanh nghiệp Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là vấn đề được
quan tâm hàng đầu, là khuôn khổ pháp lý cần thiết để đảm bảo hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Tuy
nhiên, về vấn đề này, pháp luật Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc thiếu cũng
như chồng chéo trong các quy định gây khó khăn cho hoạt động thực thi, ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và lợi ích của người tiêu
dùng. Vì vậy, hệ thống pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
cần được bổ sung, hoàn thiện.
Những phương hướng để hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa:
Một là, đảm bảo thực hiện theo đúng nguyên tắc xây dựng pháp luật về
quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đó là đảm bảo quản lý nhà nước, vừa
tạo thuận lợi cho thương mại, bảo vệ người tiêu dùng, nghiêm cấm lợi dụng
hoạt động quản lý chuyên ngành để cản trở bất hợp pháp, gây phiền hà, sách
50
nhiễu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật của Việt
Nam hài hòa với các tiêu chuẩn của quốc tế ở mức độ hợp lý.
Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện nay, pháp luật về chất lượng
sản phẩm, hàng hóa cần phải phù hợp với các công ước, điều ước và thông lệ
quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Pháp luật quốc gia phải được
xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ
quốc tế, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp
luật của các nước khác trên thế giới.
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là cơ sở để quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa, vì vậy, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
Việt Nam là yêu cầu cần thiết. TCVN cần được sử dụng làm căn cứ kỹ thuật
cho việc xây dựng QCVN. Các TCVN quy định nội dung kỹ thuật đo lường
và thử nghiệm có thể được sử dụng trong quá trình đánh giá sự phù hợp so
với yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật.
Ba là, bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ giữa các quy định của Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Điều này thể hiện sự thống nhất ở hai cấp độ. Ở cấp độ chung, sự đồng
bộ giữa các ngành luật với nhau. Ở cấp độ cụ thể đó là thể hiện sự thống nhất,
không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi ngành Luật.
Hơn nữa, tính toàn diện, đồng bộ còn thể hiện ở việc ban hành đầy đủ
các văn bản quy định chi tiết các văn bản, quy định pháp luật về quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa trong những trường hợp cần có sự quy định chi
tiết, để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để
có thể được tổ chức thực hiện ngay trên thực tế. Bảo đảm có đầy đủ các quy
định cần thiết, rõ ràng và chặt chẽ về quản quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa, tổ chức đánh giá sự phù hợp được chỉ định và giải thưởng chất lượng
51
quốc gia...
Bốn là, bảo đảm hệ thống pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa luôn thống nhất.
Sự thống nhất của pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính
thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp
luật. Tính thống nhất của pháp luật được thể hiện giữa các ngành luật trong hệ
thống pháp luật; giữa các chế định pháp luật trong cùng một ngành luật; giữa
các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống nhất.
Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các
quy phạm pháp luật trong mỗi ngành và trong các ngành khác nhau. Điều này
đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự
thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi
văn bản về giá trị pháp lý của chúng.
Năm là, pháp luật phải phù hợp với kinh tế, chính trị, xã hội đất nước.
Trước hết các quy định pháp luật phải phản ánh được những quy luật
kinh tế của đất nước, đảm bảo phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nó
phải tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh, bền vững
của kinh tế đất nước.
Tiếp đến là sự phù hợp của pháp luật với điều kiện chính trị của đất
nước, mà quan trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng.
Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam phải thể
chế hoá cương lĩnh chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội của Đảng
trong điều kiện đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, mở cửa, hội nhập quốc tế. Hơn nữa, xã hội Việt
Nam hiện nay tồn tại nhiều giai tầng khác nhau và lợi ích của mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng, giai tầng cũng có sự khác nhau. Để bảo đảm cho xã hội phát
52
triển ổn định thì đòi hỏi pháp luật phải quy định đảm bảo sự hài hoà về lợi ích
cơ bản của tất cả các tầng lớp chủ yếu trong xã hội sao cho có thể chấp nhận
được.
Trong xã hội ngoài pháp luật còn có những công cụ khác như đạo đức,
phong tục tập quán, tín điều tôn giáo..., những công cụ này cùng với pháp luật
luôn có tác động rất lớn lên các quan hệ xã hội và có quan hệ qua lại lẫn nhau.
Để phát huy vai trò của mình một cách tốt nhất, pháp luật phải phù hợp với
các quy phạm xã hội này. Do vậy, pháp luật về quản lý chất lượng, sản phẩm
cũng phải phù hợp với phong tục, tập quán, những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hoá của nhân dân các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước.
Sáu là, các quy định của pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa phải đáp ứng những nhu cầu cuộc sống và phù hợp với cơ chế thực
hiện và áp dụng pháp luật hiện hành.
Pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội hiện tại, tức là quy định pháp luật phải phù hợp với trình độ
phát triển của đất nước. Các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc,
kịp thời đáp ứng những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù
hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành pháp
luật phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có
cho phép thực hiện được quy định không, đồng thời phải tính đến các điều
kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận
quy định hoặc văn bản pháp luật đó…
Bảy là, nâng cao hệ thống kiểm tra chất lượng và kiểm soát.
Việc hợp lý hóa, nâng cao và phát triển hệ thống kiểm tra chất lượng
quốc gia là một nhu cầu tất yếu và cấp thiết, các cơ quan đo lường, kiểm tra
chất lượng luôn giữ vị trí then chốt trong hoạt động quản lý chất lượng, thực
53
hiện các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Tám là, nâng cao năng lực cán bộ và năng lực kỹ thuật.
Con người luôn là nhân tố quan trọng trong mọi hoạt động. Một hệ
thống dù được thiết kế tốt và xây dựng công phu nhưng cán bộ, nhân viên
không quan tâm và thực hiện nghiêm túc sẽ không mang lại kết quả như mong
muốn. Hơn nữa, việc xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, ...đòi
hỏi người phải có trách nhiệm cao, có trình độ, chuyên môn cao, phong cách
làm việc chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ tốt, do đó, năng lực của cán bộ,
nhân viên cần được nâng cao.
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam
3.2.1. Về các quy định pháp luật
Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy định pháp
luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, không đồng nhất.
Các Bộ, ban, ngành khi ban hành văn bản cần tránh sự chồng chéo,
thiếu rõ ràng; thường xuyên rà soát và hệ thống hoá để công bố tính hiệu lực
của các văn bản thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý. Để nâng cao chất lượng
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, các cơ quan trung
ương khi ban hành văn bản phải chú trọng hơn đến tính khả thi, tính đồng bộ
trong các quy định, nhất là các văn bản giữa các bộ, ngành với nhau để cho
địa phương thuận lợi hơn trong việc triển khai thực hiện. Đồng thời loại bỏ
các điều khoản quy định bị chồng chéo với quy định của pháp luật khác, trừ
các những quy định cơ bản, cần thiết, buộc phải có đối với quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa.
Hai là, cần tiến hành rà soát, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia,
quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp, hài hòa với tiêu chuẩn
54
quốc tế và đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TBT. Nhà nước cần thiết lập mối
quan hệ giữa quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn. Việc ban hành tiêu chuẩn, quy
chuẩn phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và có tính khả thi. Phải đảm
bảo tính thống nhất giữa các cơ quan trung ương và địa phương trong việc
soạn thảo, ban hành và áp dụng các văn bản pháp quy kỹ thuật và thủ tục đánh
giá sự phù hợp. Khi ban hành cần chú trọng đến tính khả thi, khả năng áp
dụng của chúng.
3.2.2. Về tổ chức thực hiện
Một là, cần nghiên cứu và thực hiện công cụ quản lý sản phẩm, kiểm
tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu, lập phương án kiểm soát tại cửa khẩu và
ngăn ngừa hàng hóa kém chất lượng thâm nhập vào thị trường Việt Nam, vừa
bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước, bảo vệ
người tiêu dùng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu hàng hóa phục vụ
sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Hai là, các bộ, ngành và địa phương cần triển khai các phương án huy
động các nguồn lực, đầu tư tăng cường năng lực vật chất, kỹ thuật phục vụ
hoạt động đánh giá sự phù hợp ở nước ta. Đặc biệt, các Bộ, ngành, địa
phương cần quan tâm đầu tư các phòng thí nghiệm đủ năng lực thử nghiệm,
đánh giá chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
tương ứng để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra chất lượng sản
phẩm, hàng hóa, nhất là khi các thử nghiệm đối chứng hiện nay, có nhiều
chủng loại sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 đã được các Bộ ban hành quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia, tuy nhiên các tổ chức đánh giá sự phù hợp được chỉ định để
thử nghiệm còn ít. Nhiều hàng hóa ở miền bắc mới có 01 đơn vị được chỉ
định như thiết bị điện, xăng dầu.
Ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn trong nước, các tổ chức đánh giá sự
phù hợp cần nâng cao năng lực đánh giá, làm cơ sở để thực hiện hoạt động
công nhận kết quả đánh giá sự phù hợp lẫn nhau. Vì vậy, Nhà nước cần xem
55
xét đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động tiêu chuẩn và đánh giá sự phù
hợp ngang tầm khu vực và thế giới, thông qua các nguồn ngân sách cũng như
các chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu WTO.
Ba là, để nâng cao chất lượng quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có đủ năng lực, trình độ chuyên
môn và có phẩm chất đạo đức.Theo đó, cần tổ chức các lớp tập huấn nghiệp
vụ liên quan đến lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đặc biệt quan tâm
đến các thỏa thuận quốc tế về hàng rào kỹ thuật như Hiệp định TBT. Đồng
thời thực hiện tuyên truyền, đào tạo nghiên cứu tác động, rà soát văn bản, tìm
56
hiểu văn bản pháp quy kỹ thuật.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trên cơ sở lý luận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, thực
trạng pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam, khóa luận đưa
ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa và đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý
chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm,
hàng hóa ở Việt Nam bao gồm: đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc xây dựng
pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa; hoàn thiện hệ thống
TCVN và QCVN hài hòa với các tiêu chuẩn của quốc tế ở mức độ hợp lý; bảo
đảm tính toàn diện, đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm
thống nhất hệ thống pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa; đảm
bảo sự phù hợp với kinh tế, chính trị, xã hội đất nước; các quy định phải đáp
ứng những nhu cầu cuộc sống và cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện
hành; nâng cao hệ thống kiểm tra chất lượng và kiểm soát; nâng cao năng lực
cán bộ và năng lực kỹ thuật.
Dựa trên phương hướng trên, khóa luận đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Về quy định pháp luật: Rà soát và hoàn thiện các quy định pháp luật về
quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa; xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu
chuẩn và quy định kỹ thuật của Việt Nam phù hợp và hài hòa với các tiêu
chuẩn của quốc tế.
Về tổ chức thực hiện: Nâng cao hệ thống kiểm tra chất lượng và kiểm
soát hàng nhập khẩu; đầu tư cơ sở kỹ thuật, nâng cao năng lực của các tổ chức
đánh giá sự phù hợp; nâng cao năng lực cán bộ, nhân viên quản lý chất lượng
57
sản phẩm, hàng hóa.
KẾT LUẬN
Đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng đối
với người sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, đối với phát triển kinh tế -
xã hội, đảm bảo an ninh, lợi ích quốc gia. Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm
hàng hóa gắn liền với trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh và nhà
nước, trong đó người sản xuất chịu trách nhiệm chủ yếu, nhà nước tuy có vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa nhưng
không can thiệp trực tiếp quá nhiều vào hoạt động của doanh nghiệp. Nhà
nước thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu
chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật để đảm bảo an toàn cho sản phẩm, hàng
hóa đưa ra thị trường sử dụng.
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, bên cạnh việc tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại, Việt Nam còn cần phải đảm bảo
an toàn về mặt sản phẩm, hàng hóa, ngăn cản các loại hàng giả, hàng kém
chất lượng để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước
và lợi ích quốc gia. Với yêu cầu này, trong những năm gần đây, Nhà nước đã
ban hành và triển khai hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành là
hành lang pháp lý quan trọng, tạo sự thống nhất và đồng bộ cho việc triển
khai hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về quản lý
chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn nhiều hạn chế cần được bổ sung và giải
quyết.
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp hệ thống hóa; phương pháp phân
tích, tổng hợp cùng với kết cấu 3 chương, khóa luận đã làm rõ được một số
vấn đề như sau:
- Hệ thống hóa lý thuyết và các quy định về pháp luật về quản lý chất
58
lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam
- Nghiên cứu và tìm ra thực trạng của pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam: các quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn,
chưa rõ ràng; các quy chuẩn kỹ thuật còn thiếu; việc kiểm tra, giám sát thực
hiện các quy định còn lỏng lẻo dẫn đến các sản phẩm kém chất lượng vẫn tràn
lan trên thị trường, các sản phẩm nước ngoài không đủ tiêu chuẩn nhập khẩu
vẫn có thể thâm nhập vào thị trường trong nước.
- Tác giả đã đề xuất một số phương hướng và kiến nghị cụ thể nhằm
hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam.
Kiến nghị gồm các nội dung về hoàn thiện các quy định pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Về các quy định pháp luật: Rà soát và hoàn thiện các quy định pháp luật
về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa; xây dựng và hoàn thiện hệ thống
tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật của Việt Nam phù hợp và hài hòa với các tiêu
chuẩn của quốc tế.
Về tổ chức thực hiện: Nâng cao hệ thống kiểm tra chất lượng và kiểm
soát hàng nhập khẩu; đầu tư cơ sở kỹ thuật, nâng cao năng lực của các tổ chức
đánh giá sự phù hợp; nâng cao năng lực cán bộ, nhân viên quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa.
Như vậy, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là quan trọng và cần
thiết. Trong thời gian tới, nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đáp
59
ứng yêu cầu đặt ra./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thương (2015), Thông tư số 41/2015/TT-BCT ngày 24/11/2015
của Bộ Công Thương Thông tư quy định Danh mục sản phẩm, hàng hóa
có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công
Thương.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Thông tư số 21/2007/TT-BKHCN
ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc Hướng dẫn xây
dựng và áp dụng tiêu chuẩn.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 26/2012/TT-BKHCN
ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định việc kiểm tra
nhà nước về chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 27/2012/TT-BKHCN
ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định việc kiểm tra
nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập khẩu thuộc trách nhiệm quản lý
của Bộ Khoa học và Công nghệ.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN
ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về công bố
hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
6. Bộ Y tế - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Bộ Công thương
(2014), Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT
hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm và
chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bao gói sẵn.
7. Chính phủ (2006), Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của
60
Chính phủ về nhãn hàng hoá.
8. Chính phủ (2008), Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hoá.
9. Chính phủ (2008), Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu
chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
10. Chính phủ (2013), Nghị định số 97/2013/NĐ-CP ngày 27/8/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí,
kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng.
11. Chính phủ (2017), Nghị định 43/2017/NĐ-CP của Chính phủ về nhãn
hàng hóa
12. Nguyễn Quốc Cừ (1998), Quản lý chất lượng sản phẩm, NXB Khoa học
và Kỹ thuật, tr.5.
13. Đặng Đức Dũng (2001), Quản lý chất lượng sản phẩm, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, tr.19.
14. International Standard (2015), ISO 9000:2015 Quality management
systemFundamentals and vocabulary (Bản song ngữ Anh - Việt)
cập ngày 20/4/2017].
15. Chu Đức Nhuận (2008), “Vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy
định của pháp luật”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 124 tháng 6/2008;
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/08/25/1576/ [Truy cập ngày
15/4/2017].
16. Nguyễn Đình Phan (2005), Giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ
61
chức, NXB Lao động xã hội, tr. 9-13.
17. Đoàn Thanh Thọ (2016), “Những vấn đề đặt ra trong công tác nhà nước
đối với hoạt động công nhận”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
số 8 năm 2016, tr.9-11.
18. Quốc Hội (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật ngày
29/6/2006.
19. Quốc Hội (2007), Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày 21/11/2007.
20. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (2008), Tiêu chuẩn, đo lường,
đánh giá sự phù hợp và Hiệp định TBT, Sổ tay tham khảo.
21. Trần Quốc Tuấn (2015), “Kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa –
những khó khăn cần tháo gỡ”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
số 2 năm 2015, tr.17-19.
22. WTO (2010), Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại của
WTO thuat-doi-voi-thuong-mai> [Truy cập ngày 21/4/2017]. Trang web: 23. Cục quản lý thị trường - Bộ Công thương: http://www.qltt.gov.vn/ 24. Petro times – Hội dầu khí Việt Nam: http://petrotimes.vn/ 25. Văn phòng công nhận chất lượng Việt Nam (BoA): http://www.boa.gov.vn/ 62 26. Viện Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam (VSQI): http://www.vsqi.gov.vn/