ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Phương Nhung
TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khoá học: QH-2013-L
Hà Nội, 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Phương Nhung
TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khoá học: QH-2013-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. Vũ Công Giao
Hà Nội, 2017
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 4
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 5
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ....................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài ....................................................... 7
7. Cấu trúc của khoá luận................................................................................ 7
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan
theo pháp luật Việt Nam ..................................................................................... 8
1.1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan .............................. 8
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan ........................................ 8
1.1.2. Các điều kiện bảo hộ đối với quyền tác giả và quyền liên quan......... 12
1.1.3. Nội dung, giới hạn quyền đối với quyền tác giả và quyền liên quan . 20
1.1.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ............................ 26
1.2. Xử lý vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt
Nam.................................................................................................................. 30
1.2.1. Khái niệm vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan ........................ 30
1.2.2. Chế tài với vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật
hiện hành của Việt Nam ............................................................................... 33
Chương 2. Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt
Nam ..................................................................................................................... 37
2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật
Việt Nam ......................................................................................................... 37
2
2.1.1. Các biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu ............................................ 37
2.1.2. Các biện pháp pháp lý......................................................................... 38
2.1.3. Các biện pháp thương mại do nhà nước thực hiện ............................. 42
2.2. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam .... 43
2.2.1. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo vệ quyền tác giả
và quyền liên quan ........................................................................................ 43
2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 46
2.2.3. Kết luận và những vấn đề đặt ra với việc bảo vệ quyền tác giả và
quyền liên quan ở Việt Nam hiện nay .......................................................... 53
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam hiện nay ................................................................................ 57
3.1. Các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật ................................... 57
3.1.1. Hoàn thiện chính sách về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên
quan............................................................................................................... 57
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền tác giả,
quyền liên quan ............................................................................................. 58
3.1.3. Hoàn thiện cơ chế tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về bảo hộ và
thực thi quyền tác giả, quyền liên quan ........................................................ 59
3.2. Giải pháp nâng cao nhận thức của chủ sở hữu quyền ......................... 60
Kết luận chung ................................................................................................... 61
Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................... 62
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin và số
liệu mà tác giả sử dụng trong khoá luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu được
trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân
tôi.
Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2017
TÁC GIẢ KHOÁ LUẬN
Nguyễn Phương Nhung
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ
đặc biệt là quyền tác giả và quyền liên quan ngày càng nhận được nhiều sự quan
tâm. Tại Việt Nam, sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009
đã đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là
trong vấn đề bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.
Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác
giả và quyền liên quan ngày càng có giá trị cao, đặc biệt khi chủ sở hữu quyền có
nhận thức được về giá trị quyền. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế bảo hộ khả thi
và hiệu quả, đảm bảo quyền và các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả,
quyền liên quan đã trở thành một vấn đề cấp thiết. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng
pháp luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn còn là một thách thức lớn dù Nhà nước
đã có nhiều nỗ lực cải cách chính sách và pháp luật. Hiện tượng vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ, đặc biệt là vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan vẫn còn diễn ra
phổ biến, tràn lan.
Từ đó, việc nghiên cứu, phát hiện những tồn tại để đề ra giải pháp khắc phục các
bất cập của pháp luật trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan sẽ góp phần
cải thiện thực tiễn áp dụng và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo cơ chế và nâng cao
năng lực giải quyết tranh chấp của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực bảo hộ
quyền tác giả, quyền liên quan. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả xin lựa chọn đề
tài: “Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý về quyền tác
giả và một số bài báo, luận văn nghiên cứu các khía cạnh của quyền liên quan.
Tuy nhiên đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp, các phân tích cụ thể về các vấn
5
đề còn tồn tại hiện nay và giải pháp hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật vẫn
là một vấn đề cần thêm nhiều đóng góp để cải thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Phân tích các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, để từ đó đánh giá
hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn. Các tranh chấp thực tế
cũng được phân tích nhằm làm nổi bật các vấn đề thực tế gặp phải trong quá trình
thực thi pháp luật và từ đó đề ra các biện pháp cải thiện cụ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bởi giới hạn về thời gian và dung lượng của khoá luận tốt nghiệp, tác giả tập trung
nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam cùng các điều ước
quốc tế để từ đó tìm ra những mâu thuẫn và các hạn chế trong việc bảo hộ quyền
tác giả, quyền liên quan. Phạm vi nghiên cứu đề tài gồm những nội dung như sau:
- Nghiên cứu sâu các quy định pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ.
- So sánh quy định pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ
mà Việt Nam là thành viên.
- Phân tích những vụ việc cụ thể để làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật, nhận
biết các tồn tại và đề ra phương hướng giải quyết.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau
như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, … Luận văn sử dụng
thêm phương pháp nghiên cứu tình huống thực tế tiêu biểu liên quan tới tranh chấp
quyền tác giả, quyền liên quan với mong muốn có thể rút ra kinh nghiệm cho chủ
sở hữu quyền trong việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối với sản phẩm trí tuệ
của mình.
6
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài
Luận văn bao gồm một số kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác
giả và quyền liên quan, với mong muốn góp phần hoàn thiện chính sách và quy
định pháp luật Việt Nam, cũng như hỗ trợ chủ sở hữu quyền trong việc bảo vệ
quyền lợi của mình. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu về pháp luật, giúp ích cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan
và đóng góp nhỏ trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
7. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan
theo pháp luật Việt Nam
Chương 2: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam hiện nay
7
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan
theo pháp luật Việt Nam
1.1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan
• Khái niệm quyền tác giả trên thế giới
Khái niệm quyền tác giả đã nhen nhóm được hình thành từ khi phát minh in ra đời,
khi con người nhận thấy sự bất công khi tác phẩm của mình sáng tạo bị sao chép,
in lại và chào bán với giá rẻ hơn. Nhằm bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo ra tác
phẩm, luật về quyền tác giả đã dần được hình thành. Văn bản pháp luật đầu tiên
trên thế giới về quyền tác giả là Đạo luật Anne, được ban hành tại Anh vào năm
1710. Đạo luật này lần đầu tiên giới thiệu quyền của tác giả cho tác phẩm của riêng
mình và đề ra những điều khoản để bảo vệ quyền đó. Cũng theo đạo luật này, lần
đầu tiên quyền của tác giả đối với tác phẩm được coi trọng và bảo vệ hơn quyền
của những nhà xuất bản, cho phép tác giả kiểm soát được việc tái sản xuất tác
phẩm của họ sau khi xuất bản. Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu được thống
nhất trong Chỉ thị phần mềm ra đời vào năm 1991, theo đó thì các chương trình
máy tính được bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả.
Còn theo công ước Berne, quyền tác giả là tự động, không cần phải đăng ký tác
quyền, không cần phải viết trong thông báo tác quyền.
Định nghĩa về quyền tác giả của WIPO – Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới có thể
được coi là định nghĩa chung và chuẩn xác nhất: “Quyền tác giả là phần cốt lõi
của pháp luật nhằm trao cho tác giả, nghệ sỹ và các nhà sáng tạo khác sự bảo hộ
cho những sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ - gọi chung là tác phẩm. Các tác
phẩm đủ điều kiện bảo hộ quyền tác giả là các sáng tạo trí tuệ gốc. Chúng được
bảo hộ bất kể chất lượng của chúng và bao gồm các hướng dẫn kỹ thuật hoặc các
hình vẽ kỹ thuật đơn thuần. Nhìn chung, pháp luật về quyền tác giả không liệt kê
8
danh mục đầy đủ các loại tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, nhưng trên thực
tiễn pháp luật của tất cả quốc gia đều quy định sự bảo hộ cho các đối tượng: Tác
phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc, Tác phẩm nghệ thuật, Bản đồ và các bản vẽ kỹ
thuật, Các tác phẩm nhiếp ảnh, Tác phẩm điện ảnh, Chương trình máy tính, Các
sản phẩm đa phương tiện”.
Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện
và không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm
toán học [5, Điều 9.2]. Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay
mã máy, đều phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học [5, Điều
10.1]. Các cơ sở dữ liệu, bộ sư tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ
quyền tác giả thậm chí cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền
tác giả [5, Điều 10.2]. Ít nhất là đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện
ảnh, các nước thành viên phải dành cho tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ
quyền cho phép hoặc cấm việc cho công chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác
phẩm của họ nhằm mục đích thương mại [5, Điều 11].
Điều 4 Chương II Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định như sau:
“Mọi loại chương trình máy tính đều được coi là các tác phẩm viết theo nghĩa quy
định tại Công ước Berne và bảo hộ các đối tượng này như tác phẩm viết. Mọi sưu
tập dữ liệu hoặc sưu tập tư liệu khác, bất kể dưới dạng có thể đọc được bằng máy
hoặc dưới dạng khác, mà việc lựa chọn và sắp xếp nội dung là sự sáng tạo trí tuệ,
đều được bảo hộ như tác phẩm”.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra “quyền tác giả” là quyền được pháp luật, xã
hội, quần chúng, … công nhận cho cá nhân, tập thể, tổ chức đối với một tác phẩm
văn học, khoa học, phần mềm, … do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm
đó phải là sản phẩm trí óc của tác giả mà không đơn thuần là sự sao chép từ nguồn
đã biết.
• Định nghĩa quyền tác giả tại Việt Nam
9
Khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Quyền
tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc
sở hữu.”
Như vậy, Việt Nam cũng thống nhất quan điểm với các nước trên thế giới về quyền
tác giả là quyền của cá nhân, tổ chức được xã hội, pháp luật công nhận cho các tác
phẩm do chính mình sáng tạo ra và sở hữu, dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần
có tính chất văn hoá không bị vi phạm bản quyền, bảo vệ các quyền lợi cá nhân
và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm.
• Khái niệm quyền liên quan trên thế giới
Ngày nay, lĩnh vực mới về các quyền liên quan đến quyền tác giả đã phát triển rất
nhanh chóng. Những quyền được gọi là “Quyền liên quan” ngày càng gia tăng
xung quanh các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả và tạo ra các quyền tương tự.
Theo WIPO, quyền này dành cho Nghệ sỹ biểu diễn trong hoạt động ghi âm của
họ, Nhà sản xuất bản ghi âm trong hoạt động ghi âm của họ, Tổ chức phát sóng
trong các chương trình phát thanh và truyền hình của họ. “Quyền liên quan” khác
với “quyền tác giả” vì chúng thuộc sở hữu của những người được coi là trung gian
trong quá trình sản xuất, ghi âm và phổ biến tác phẩm. Sự liên quan đến quyền tác
giả được thể hiện ở ba loại quyền liên quan là sự tương hỗ trong quá trình sáng tạo
và phổ biến trí tuệ vì chúng hỗ trợ các tác giả sáng tạo trong quá trình quyền tải
tác phẩm đến với công chúng. Một nhạc công thể hiện một tác phảm âm nhạc do
một nhạc sỹ sáng tác; một diễn viên vào vai trong vở kịch được sáng tác bởi một
nhà viết kịch, một nhà sản xuất bản ghi âm – hay thường được gọi là “ngành công
nghiệp ghi âm” – ghi âm hoặc sản xuất bài hát và bản nhạc do nhà thơ và nhạc sỹ
sáng tác, được nhạc công hoặc ca sỹ thể hiện; tổ chức phát sóng phát sóng các tác
phẩm và bản ghi âm trên các đài phát thanh và/hoặc truyền hình của họ.
Theo hiệp định TRIPS, người biểu diễn có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc
biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền ghi thu, lưu định của người biểu diễn
10
chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan đến cả âm thanh và hình ảnh.
Người biểu diễn còn có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân bản bản ghi âm. Người biểu
diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô tuyến và truyền cho công
chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ [5, Điều 14.1]. Hiệp định TRIPS yêu cầu các
nước thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền sao chép các
bản ghi âm của họ [5, Điều 14.2]. Thêm vào đó, theo Điều 14.4, nhà sản xuất bản
ghi âm còn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát thanh, truyền hình
phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà không được họ cho
phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vô tuyến chương trình, cũng
như truyền hình cho công chúng các chương trình [5, Điều 14.3].
• Định nghĩa quyền liên quan tại Việt Nam
Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập đến
một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra
tại Khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) như sau:
“Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của
tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và
quyền liên quan cũng đã giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại Khoản 2 Điều
3 về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là
“các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được quy định tại Điều
745, 746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở
hữu trí tuệ ”.
11
Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các
điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và
bản ghi âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong
pháp luật Việt Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản
ghi hình và quyền của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa. Điều này không trực tiếp phản ánh năng lực bảo hộ của pháp
luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn
đề quan điểm lập pháp cũng như đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước.
1.1.2. Các điều kiện bảo hộ đối với quyền tác giả và quyền liên quan
• Điều kiện bảo hộ quyền tác giả
Điều 13, 14, 15 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định
về điều kiện bảo hộ quyền tác giả cụ thể như sau:
“Điều 13. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả
1. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp
sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều
37 đến Điều 42 của Luật này.
2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức,
cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần
đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công
bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó
được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm
được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
12
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được
thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau
đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình
khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu
không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác
phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác
giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác
phẩm của người khác.
4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1
Điều này.
Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
1. Tin tức thời sự thuần túy đưa tin.
2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực
tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
13
3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.”
Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
và khoa học. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm là sản phẩm sáng
tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương
tiện hay hình thức nào.
Như vậy, sản phẩm lao động trí tuệ của con người trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật và khoa học được công nhận là tác phẩm khi thỏa mãn 2 điều kiện: (a) mang
tính sáng tạo; (b) được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Khi ý tưởng
sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học có chứa đựng yếu tố sáng
tạo và được thể hiện dưới hình thức vật chất được công nhận là tác phẩm và được
bảo hộ tự động chứ không bắt buộc phải thông qua thủ tục đăng ký như các đối
tượng sở hữu công nghiệp. Do đó đây cũng chính là hai điều kiện để tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả.
• Điều kiện bảo hộ quyền liên quan
Điều 16, 17 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định rõ điều kiện
bảo hộ quyền liên quan như sau:
“Điều 16. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan
1. Diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm
văn học, nghệ thuật (sau đây gọi chung là người biểu diễn).
2. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn quy định tại khoản 1 Điều 44
của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc
các âm thanh, hình ảnh khác (sau đây gọi là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình).
4. Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (sau đây gọi là tổ chức phát
sóng).
Điều 17. Các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ
1. Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
14
a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài;
b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy
định tại Điều 30 của Luật này;
d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng
được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;
đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt
Nam;
b) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được
bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của
tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam;
b) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của
tổ chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa chỉ được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1,
2 và 3 Điều này với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.”
Từ điều 16 cũng như các quy định cụ thể khác về quyền liên quan, có thể thấy
pháp luật Việt Nam phân biệt chủ thể quyền liên quan thành ba loại cơ bản:
- Người biểu diễn: So với những chủ thể quyền liên quan khác, có thể nói người
biểu diễn là nhóm chủ thể được ghi nhận và bảo vệ quyền liên quan sớm nhất, và
15
dường như cũng là nhóm chủ thể được quan tâm chú ý nhiều nhất. Trước đây,
pháp luật Việt Nam định nghĩa trực tiếp người biểu diễn. Cụ thể, Điều 773 Bộ luật
dân sự 1995 quy định: “Người biểu diễn bao gồm các cá nhân, tổ chức biểu diễn,
người dàn dựng, đạo diễn chương trình ca, múa nhạc, chương trình phát thanh -
truyền hình, đạo diễn, diễn viên sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật
khác”. Tuy nhiên, hiện nay, Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) không
có quy định nào nêu ra khái niệm người biểu diễn với tư cách chủ thể quyền liên
quan, cũng không chỉ rõ người đạo diễn, dàn dựng chương trình cũng được coi là
người biểu diễn. Dựa trên Khoản 1 Điều 16 nói trên, có thể hiểu người biểu diễn
theo pháp luật Việt Nam hiện hành là những người “trình bày tác phẩm văn học
nghệ thuật”, bao gồm diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công... Như vậy, người biểu
diễn được hiểu là những người sử dụng tác phẩm của người khác một cách sáng
tạo trong sự thể hiện các tác phẩm văn học nghệ thuật, truyền đạt tác phẩm tới
công chúng. Cách quy định này tỏ ra phù hợp với Công ước Rome và các điều ước
quốc tế khác về quyền liên quan.
- “Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình” được hiểu là “tổ chức, cá nhân định hình
lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác”.
Một điểm cần lưu ý là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình không đồng nhất với chủ
sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó. Theo Khoản 2 Điểu 44 Luật sở hữu trí tuệ,
“tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật
của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình là chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi
hình đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan”. Như vậy, nếu tổ
chức, cá nhân là người “định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc
âm thanh, hình ảnh khác” nhưng công việc này của họ được tiến hành trên cơ sở
một hợp đồng với chủ thể khác, họ chỉ thực hiện việc định hình với các thao tác
mang tính chất kỹ thuật và được nhận thù lao từ việc định hình của mình theo hợp
16
đồng đó, thì không được coi là chủ sở hữu bản ghi âm, ghi hình đó - chủ sở hữu ở
đây chính là đối tác đã thuê và trả thù lao cho việc định hình nói trên.
- Tổ chức phát sóng: Quyền liên quan chỉ dành sự bảo hộ cho những chủ thể là tổ
chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng, bao gồm các tổ chức phát thanh, tổ
chức truyền hình, phát tín hiệu vệ tinh. Sự giới hạn này là kết quả của việc cân
nhắc đến tính “nguyên gốc” của chương trình phát sóng. Bởi chỉ có tổ chức khởi
xướng và thực hiện việc phát sóng mới là chủ thể có quyền lợi cần được bảo hộ
trong việc chống lại việc phát sóng lại, tái tạo, nhân bản, và truyền đạt tới công
chúng những chương trình phát sóng tốn kém của họ. Việc phát sóng lại hay việc
ghi thu các chương trình vô tuyến tại những nơi công cộng có thể đem lại rất nhiều
lợi nhuận, đặc biệt là khi chủ đề của chương trình phát sóng gốc là một sự kiện
nổi bật. Tuy nhiên, tổ chức phát sóng không luôn luôn là chủ sở hữu chương trình
phát sóng. Khoản 3 Điều 44 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức phát sóng là
chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác với bên liên quan”, và Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định tại Điều 36:
“Chủ sở hữu chương trình phát sóng quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật sở
hữu trí tuệ là tổ chức phát sóng đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của
mình để phát sóng”. Như vậy vẫn có thể tồn tại khả năng tổ chức phát sóng và chủ
sở hữu đối với chương trình phát sóng là hai chủ thể riêng biệt, nhưng trên thực tế
trường hợp này không nhiều.
Từ đó, ta có thể hiểu các điều kiện bảo hộ quyền liên quan như sau:
- Điều kiện bảo hộ đầu tiên: Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng được định hình hoặc thực hiện lần đầu (điều kiện về định hình hoặc thực
hiện). Định hình bản ghi âm, ghi hình là sự biểu hiện bằng âm thanh, hình ảnh
hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể
nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt. Chương trình phát sóng phát sinh quyền khi
được thực hiện phát sóng lần đầu bởi chính tổ chức phát sóng có quyền phát sóng
17
chương trình phát sóng đó. Điều này thể hiện tính nguyên gốc của tác phẩm, được
xem xét trên hai phương diện chủ yếu sau.
Thứ nhất, tính nguyên gốc xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu ấn cá
nhân của chủ thể. Việc quyền liên quan phát sinh trên cơ sở hành vi sử dụng tác
phẩm đã có từ trước không ảnh hưởng tới tính nguyên gốc của các đối tượng mà
nó bảo hộ. Không khó để nhận ra rằng, sự trình diễn của người nghệ sĩ là kết quả
của những cống hiến nghệ thuật mang tính chất sáng tạo của họ. Cùng là một tác
phẩm, nhưng mỗi người biểu diễn sẽ thể hiện theo cách của riêng mình, thậm chí
cũng chính người nghệ sĩ ấy nhưng mỗi lần biểu diễn lại đem đến những cảm nhận
riêng cho khán giả. Chính sự sử dụng tác phẩm một cách sáng tạo và mang đậm
dấu ấn cá nhân của chủ thể quyền liên quan đòi hỏi việc sử dụng ấy cũng phải
được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, tính nguyên gốc được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định
theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên. Việc xác định
tính nguyên gốc từ góc độ này thường được áp dụng đối với các bản ghi, chương
trình phát thanh truyền hình. Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình
chỉ được xác định cho người tạo ra bản ghi âm, ghi hình lần đầu âm thanh, hình
ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác; quyền liên quan đối với
tổ chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc
phát sóng. Theo đó, trong trường hợp: một công ty ghi âm ký hợp đồng thu âm
phần biểu diễn của ca sĩ dưới dạng đĩa CD (compact disc), sau đó một công ty
khác sao chép lại đĩa CD đó và cũng đưa ra thị trường, thì ta sẽ có hai dạng bản
ghi âm cho cùng một phần trình diễn gốc, tuy nhiên, chỉ dạng bản ghi thứ nhất
được coi là có tính nguyên gốc (là sự định hình lần đầu) và là đối tượng bảo hộ
của quyền liên quan, dạng bản ghi thứ hai không đảm bảo tính nguyên gốc và
không những không được bảo hộ mà còn bị coi là hành vi xâm phạm quyền liên
quan và tuỳ theo tính chất, mức độ của sự xâm phạm mà sẽ bị xử lý theo quy định
18
pháp luật. Tương tự, một tổ chức phát sóng đã đầu tư tài chính và các điều kiện
cần thiết để làm một chương trình truyền hình, hoặc đã mua bản quyền phát sóng
trực tiếp một sự kiện văn hoá nào đó... thì việc phát sóng các chương trình đó của
họ được xác định là thoả mãn điều kiện về tính nguyên gốc của đối tượng quyền
liên quan, và nếu tổ chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng
thời, hoặc phát lại các chương trình này thì việc phát sóng của tổ chức thứ hai này
là không có tính nguyên gốc và cũng như trường hợp trên, có thể bị xác định là
hành vi xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ.
Nếu như đặc trưng thứ nhất của quyền liên quan (tính chất sử dụng các tác phẩm
đã có) là điểm quan trọng phân biệt nó với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, thì
tính nguyên gốc của quyền liên quan cho phép xác định đâu là quyền liên quan
được pháp luật bảo hộ, và khi nào xảy ra sự xâm phạm quyền liên quan. Khi tính
nguyên gốc được thoả mãn, ta có thể xác định được đối tượng được bảo hộ bởi
quyền liên quan, chủ thể của quyền liên quan, và ngược lại, việc không đảm bảo
tính nguyên gốc đó là căn cứ để nhận định đã có hành vi xâm phạm đến quyền liên
quan.
- Điều kiện bảo hộ thứ hai: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được bảo hộ khi cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa được thực hiện bởi công dân, tổ chức mang quốc tịch Việt Nam
[16, điểm a khoản 1,2,3 Điều 17].
- Điều kiện bảo hộ thứ ba: đối tượng của quyền liên quan được bảo hộ theo pháp
luật Việt Nam khi đối tượng đó được phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam (cuộc biểu
diễn). Cuộc biểu diễn được thực hiện tại Việt Nam sẽ được pháp luật Việt Nam
bảo hộ là đối tượng của quyền liên quan [16, điểm a, b khoản 1 Điều 17], cho dù
chủ thể thực hiện cuộc biểu diễn là công dân Việt Nam hay người nước ngoài.
19
- Điều kiện bảo hộ thứ tư: cuộc biểu diễn của chủ sở hữu, cuộc biểu diễn bản ghi
âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá của tổ chức phát sóng còn được bảo
hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
nếu cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hoá đáp ứng được các qui định về điều kiện bảo hộ
của các điều ước quốc tế [16, điểm đ khoản 1; điểm b khoản 2,3 Điều 17]
1.1.3. Nội dung, giới hạn quyền đối với quyền tác giả và quyền liên quan
• Đối với quyền tác giả
Nội dung: Theo quy định tại Điều 19, 20 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, nội
dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
a. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền của tác giả, mang lại giá trị tinh thần cho tác giả, được
bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm), không được chuyển giao hay để
lại thừa kế (trừ quyền công bố tác phẩm). Quyền nhân thân bao gồm:
– Quyền đặt tên cho tác phẩm: Tên tác phẩm có ý nghĩa cá biệt hóa tác phẩm, thể
hiện dấu ấn sáng tạo cá nhân của tác giả, nên quyền đặt tên cho tác phẩm chỉ thuộc
về tác giả của tác phẩm. Tác giả của tác phẩm dịch không có quyền đặt tên cho tác
phẩm dịch mà phải tôn trọng tên của tác phẩm gốc.
– Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm: tác giả đứng tên trên tác phẩm
bằng tên thật hoặc bút danh của tác giả.
– Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm: Công bố
tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng. Công bố tác phẩm không bao gồm việc
trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một
20
tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm
tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.
– Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt
xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả.
b. Quyền tài sản
Quyền tài sản thuộc quyền tác giả là những quyền của chủ sở hữu quyền tác giả,
mang lại giá trị vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả, được bảo hộ có thời hạn; là
đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả hoặc hợp đồng sử dụng
quyền tác giả. Quyền tài sản bao gồm:
– Quyền làm tác phẩm phái sinh: tác giả có quyền tạo ra sản phẩm phái sinh trên
cơ sở tác phẩm gốc nhưng với hình thức, cách thức trình bày mới so với tác phẩm
khác; như: dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác.
– Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng: tác giả độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện biểu diễn tác phẩm một cách trực tiếp hoặc thông
qua ghi âm, ghi hình hoặc bất kì phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể
tiếp cận được.
– Quyền sao chép: tác giả thực hiện hoặc cho người khác thực hiện việc tạo ra bản
sao tác phẩm.
– Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm: tác giả độc quyền thực hiện
hoặc cho phép người khác dùng bất kì cách thức nào để bán, cho thuê, chuyển
nhượng bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
– Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác: tác giả
thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm
đến công chúng bằng bất kỳ cách thức nào.
21
– Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Không áp dụng quyền cho thuê đối với chương trình máy tính, … khi bản thân
chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương trình
máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông.
Giới hạn quyền tác giả:
Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 xác định giới hạn quyền tác
giả bằng việc quy định các trường hợp như sau:
– Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải
trả tiền nhuận bút, thù lao, bao gồm:
+ Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá
nhân.
+ Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh
họa cho tác phẩm của mình.
+ Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm
định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.
+ Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả,
không nhằm mục đích thương mại.
+ Sao chép một bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu.
+ Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi
sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
+ Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
+ Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng
dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
+ Chuyển tác phẩm sang chứ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
+ Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
– Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao. Cụ thể như sau:
22
+ Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận
bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thỏa
thuận (không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh).
+ Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm theo quy định trên không được làm ảnh
hướng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại các quyền
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác phẩm.
Giới hạn quyền tác giả giúp cho công chúng có khả năng khai thác, sử dụng các
tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học vào mục đích phi thương mại dễ dàng
hơn.
• Đối với quyền liên quan
Nội dung: Điều 29, 30, 31 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung quy định rõ nội dung
quyền liên quan như sau:
- Quyền của người biểu diễn bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền
nhân thân gồm:
+ Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình,
phát sóng cuộc biểu diễn [16, điểm a khoản 2 Điều 29]. Đây là quyền nhân thân
gắn bó chặt chẽ với người biểu diễn, danh tiếng của một diễn viên, ca sỹ, nhạc
công, vũ công và các nghệ sĩ khác chỉ được công chúng biết đến khi tên của họ
được giới thiệu thông qua các cuộc biểu diễn.
+ Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và
uy tín của người biểu diễn [16, điểm b khoản 2 Điều 29]. Hình tượng người biểu
diễn có thể được hiểu là hình ảnh được tạo nên bởi nhiều yếu tố khác nhau như
phong cách biểu diễn, chất lượng, thái độ, cử chỉ, ....
23
Quyền tài sản gồm các quyền mà người biểu diễn được độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện, cụ thể:
+ Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình [16,
điểm a khoản 3 Điều 29]: Nghĩa là người biểu diễn được phép ghi âm, ghi hình
cuộc biểu diễn của mình một cách trực tiếp
+ Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định
hình trên bản ghi âm, ghi hình [16, điểm b khoản 3 Điều 29]: nghĩa là người biểu
diễn được phép sao chép, tạo ra bản sao ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn của mình.
+ Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp
cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng [16, điểm c khoản 3 Điều 29].
+ Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình
thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được [16, điểm d khoản 3 Điều 29].
- Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình
Theo Điều 30 Luật SHTT nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có các quyền như sau:
a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác sao chép trực tiếp hoặc gián
tiếp bản ghi âm, ghi hình. b) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác phân
phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình thông qua hình thức
bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào mà công chúng
có thể tiếp cận được. Và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hưởng quyền lợi
vật chất khi bản ghi âm, ghi hình được phân phối đến công chúng.
- Quyền của tổ chức phát sóng: Điều 31 Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền của tổ
chức phát sóng gồm: a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện
phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình; b) Độc quyền phân phối
hoặc cho phép người khác phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của
mình; 14 c) Độc quyền định hình hoặc cho phép người khác định hình chương
24
trình phát sóng của mình; d) Độc quyền sao chép hoặc cho phép người khác sao
chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.
Giới hạn quyền liên quan:
Điều 32 Luật SHTT quy định các trường hợp sử dụng quyền liên quan
không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: a) Tự sao
chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân. b) Tự sao chép
một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy. c) Trích dẫn hợp lý
nhằm mục đích cung cấp thông tin. Theo qui định tại khoản 1 điều 24 Nghị định
100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006, trích dẫn hợp lý là việc sử dụng các trích đoạn
nhằm mục đích thuần tuý đưa tin, phải phù hợp với các điều kiện sau: Phần trích
dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong việc
cung cấp thông tin; Số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng không gây phương hại đến quyền
của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ
chức phát sóng đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được sử dụng để trích dẫn. d)
Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền
phát sóng. Bản sao tạm thời là bản định hình có thời hạn, do tổ chức phát sóng
thực hiện bằng các phương tiện, thiết bị của mình, nhằm phục vụ cho buổi phát
sóng ngay sau đó của chính tổ chức phát sóng. Trong trường hợp đặc biệt thì bản
sao đó được lưu trữ trong trung tâm lưu trữ chính thức.
Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong các trường hợp sau đây
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình,
tổ chức phát sóng: a) Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi
25
âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng;
trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc
khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân sử dụng trực
tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để
phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức
nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ [16, khoản 1 Điều 35],
b) Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh
doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp không
thoả thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà
án theo quy định của pháp luật [16, khoản 2 Điều 35].
1.1.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan
• Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả như sau:
“1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được
bảo hộ vô thời hạn.
2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại
Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:
a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có
thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu
26
tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố
trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn
bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm
khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính
theo quy định tại điểm b khoản này;
b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo
hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường
hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi
sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời
điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.”
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản – theo điều 18 – Luật sở
hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên, đối với từng loại quyền khác nhau thì thời
hạn bảo hộ là khác nhau kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu. Các quyền sẽ
được bảo hộ vô thời hạn đó là:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm;
- Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự
và uy tín của tác giả.
Các quyền được bảo hộ có thời hạn là:
- Quyền nhân thân: quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố
tác phẩm đây sẽ là quyền được bảo hộ trong thời hạn 50 năm. Đây cũng là điểm
khác so với các quyền nhân thân còn lại của quyền tác giả.
27
- Quyền tài sản: bao gồm nhiều loại khác nhau nhưng thời hạn bảo hộ là khác
nhau. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các quyền tài sản mà pháp luật quy định
thời hạn bảo hộ dài ngắn là khác nhau:
Thứ nhất, tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm
khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công
bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác
phẩm sân khấu được định hình thì:
+) Nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được
định hình.
+) Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì
thời hạn bảo hộ được tính như sau: suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo, trong
trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ
năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết [16, điểm b, khoản 2, điều 27].
Đối với những tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác
phẩm khuyết danh được công bố thời hạn bảo hộ sẽ dài hơn so với tác phẩm không
được công bố. Khi được công bố thì sẽ tính từ thời điểm tác phẩm được công bố,
còn không được công bố tính từ thời điểm tác phấm được hình thành. Đây chính
là thời điểm khác nhau xác định thời điểm bảo hộ ở trường hợp này.
Thứ hai, tác phẩm không thuộc loại hình nêu trên thì có thời hạn bảo hộ là suốt
cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Trong trường hợp
tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau
năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Những tác phẩm có đặc điểm khác nhau về quá trình hình thành, giá trị khác nhau
nên thời hạn bảo hộ cũng khác nhau. Như vậy đảm bảo thời hạn bảo hộ hiệu quả
cho từng loại tác phẩm.
• Thời hạn bảo hộ quyền liên quan
28
Điều 34 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ quyền liên quan
như sau:
“1. Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo
năm cuộc biểu diễn được định hình.
2. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm tính
từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản
ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.
3. Quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo
năm chương trình phát sóng được thực hiện.
4. Thời hạn bảo hộ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này chấm dứt vào thời
điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên
quan.”
Quyền của người biểu diễn bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Các quyền
của người biểu diễn được bảo hộ theo qui định tại khoản 1 Điều 34 Luật SHTT
“Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo
năm cuộc biểu diễn được định hình”. Tuy nhiên, cả hai quyền này pháp luật hiện
hành qui định thời hạn bảo hộ là cùng là năm mươi năm [16, khoản 1 Điều 34]. Vì
giả sử rằng khi người biểu diễn chỉ có quyền nhân thân mà không có quyền tài sản
thì cũng chỉ có thể áp dụng thời hạn bảo hộ qui định tại khoản 1 Điều 34. Thời hạn
bảo hộ quyền liên quan không có sự phân biệt như trong các qui định về thời hạn
bảo hộ của quyền tác giả. Đây là điểm khác so với quyền tác giả vì trong quyền
tác giả thời hạn bảo hộ quyền nhân thân là không chuyển dịch và vô thời hạn [16,
khoản 1 Điều 27]. Quy định này thể hiện sự chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay
và quy định về thời hạn bảo hộ quyền nhân thân trong quyền tác giả. Bởi quyền
nhân thân trong quyền tác giả, ví dụ như quyền “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình
thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” được pháp luật bảo
29
vệ vô thời hạn theo khoản 1 điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ, thì quyền liên quan lại
chỉ được bảo hộ năm mươi năm.
1.2. Xử lý vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam
1.2.1. Khái niệm vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan
Các văn bản pháp luật được ban hành trước Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ
sung 2009 không quy định riêng về hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên
quan. Trước đây, việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
dựa vào các quy định về quyền tác giả, quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền
liên quan. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, việc xác định hành vi xâm phạm
quyền tác giả, quyền liên quan gặp khó khăn, vướng mắc do thiếu cơ sở pháp lí rõ
ràng. Do đó, quy định về hành vi xâm phạm và yếu tố xâm phạm quyền tác giả,
quyền liên quan trong Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung và Nghị định
105/2006/NĐ-CP tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lí các hành vi xâm phạm
quyền tác giả.
Theo quy định tại Điều 28 Luật sở hữu trí tuệ, các hành vi sau đây bị coi là hành
vi xâm phạm quyền tác giả:
“1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
4. Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng
tác giả đó.
5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.
30
7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy
định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.
8. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không
trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật,
trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.
9. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất
khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
10. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm
đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không
được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
11. Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
12. Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác
giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
13. Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác
phẩm.
14. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho
thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ
thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm của mình.
15. Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
16. Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của
chủ sở hữu quyền tác giả.”
Yếu tố xâm phạm quyền tác giả có thể thuộc một trong các dạng sau đây: (Theo
Khoản 1 điều 7 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP):
a) Bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép;
b) Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;
31
c) Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền tác
giả;
d) Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép;
đ) Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hoá trái phép.
Sản phẩm có yếu tố xâm phạm quy định tại khoản này bị coi là sản phẩm xâm
phạm quyền tác giả.
Theo quy định tại Điều 35 Luật sở hữu trí tuệ, hành vi xâm phạm quyền liên quan
bao gồm:
“1. Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ
chức phát sóng.
2. Mạo danh người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát
sóng.
3. Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
4. Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn
gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
5. Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
6. Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không
được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
7. Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền liên
quan thực hiện để bảo vệ quyền liên quan của mình.
8. Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn,
bản sao cuộc biểu diễn đã được định hình hoặc bản ghi âm, ghi hình khi biết hoặc
32
có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc
đã bị thay đổi mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
9. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê
thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải mã trái phép một tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hóa.
10. Cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được
mã hóa khi tín hiệu đã được giải mã mà không được phép của người phân phối
hợp pháp.”
Yếu tố xâm phạm quyền liên quan có thể thuộc một trong các dạng sau đây, dựa
theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP:
a) Bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn được tạo ra một cách trái phép;
b) Bản sao bản định hình cuộc biểu diễn, bản sao bản ghi âm, ghi hình, bản sao
chương trình phát sóng được tạo ra một cách trái phép;
c) Một phần hoặc toàn bộ cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng bị sao chép, trích ghép trái phép; một phần hoặc toàn bộ
chương trình phát sóng bị thu, giải mã và phân phối trái phép;
d) Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền liên quan bị vô hiệu hoá trái
phép; bản định hình cuộc biểu diễn bị dỡ bỏ hoặc bị thay đổi một cách trái phép
thông tin về quản lý quyền liên quan.
Sản phẩm có chứa yếu tố xâm phạm quy định như trên bị coi là sản phẩm xâm
phạm quyền liên quan.
1.2.2. Chế tài với vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật hiện
hành của Việt Nam
Quy trình và thẩm quyền xử lý vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan phụ thuộc
vào mức độ và hành vi vi phạm bản quyền tác giả của bên vi phạm. Theo đó, xử
lý vi phạm quyền tác giả, vi phạm quyền liên quan được quy định tại Nghị định
33
131/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền
liên quan và Bộ luật Hình sự 2015.
1.2.2.1. Chế tài hành chính
Thẩm quyền: Thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định tại Nghị định
131/2013/NĐ-CP gồm nhiều cơ quan ban ngành khác nhau như: Chủ tịch UBND
các cấp, Thanh tra văn hóa, thể thao và du lịch và Thanh tra chuyên ngành khác,
Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan và Quản lý thị
trường.
Các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan sẽ bị xử lý hành chính là:
- Hành vi vi phạm quy định về đăng ký, quy định về hoạt động của tổ chức đại
diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, quy định về giám định quyền tác giả,
quyền liên quan, quy định về hoạt động của tổ chức tư vấn, dịch vụ;
- Hành vi vận chuyển, tàng trữ hàng hóa sao chép lậu,
- Hành vi xâm phạm quyền đứng tên, đặt tên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm, quyền công bố tác phẩm, quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền cho
phép biểu diễn tác phẩm trước công chúng, quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao
tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, quyền phân phối tác phẩm, quyền nhập
khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng,
quyền sao chép tác phẩm;
- Hành vi giả mạo chữ ký của tác giả trên tác phẩm,
- Hành vi xâm phạm quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ quyền tác
giả, quyền được giới thiệu tên của người biểu diễn, quyền bảo vệ sự toàn vẹn hình
tượng biểu diễn, quyền định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của người biểu diễn,
quyền sao chép cuộc biểu diễn, quyền phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến
công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình, quyền phân phối đến công chúng
bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn, quyền sao chép bản ghi âm, ghi hình, quyền
phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình;
34
- Hành vi sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại,
- Hành vi xâm phạm quyền phát sóng, tái phát sóng, phân phối, định hình, sao
chép chương trình phát sóng, Hành vi trích ghép bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ quyền liên quan.
Các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể được quy định từ điều
4 đến điều 35 nghị định số 131/2013/NĐ-CP. Tuỳ từng hành vi vi phạm mà mức
phạt có thể từ 2.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng. Vì giới hạn độ dài của khoá
luận và mục đích của khoá luận nên người viết không đề cập rõ từng mức phạt
hành chính cụ thể cho từng hành vi vi phạm.
1.2.2.2. Chế tài hình sự
Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự đối với các hành vi vi phạm quyền tác
giả, quyền liên quan theo quy định của Bộ luật hình sự. Cụ thể các hành vi sẽ bị xử
lý vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan được quy định tại điều 225 Bộ luật Hình
sự 2015 như sau:
“1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà
cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên
quan đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến
dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên
quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị
giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản
ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
35
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở
lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Pháp nhân thương mại thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ
1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
từ 06 tháng đến 02 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất
định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”
Như vậy, qua chương 1, các khái niệm, định nghĩa liên quan đến quyền tác giả,
quyền liên quan; các điều kiện bảo hộ, nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ
và các chế tài xử lý vi phạm quyền đã được nêu và phân tích. Chương 1 bao gồm
những kiến thức cơ bản, là cơ sở lý luận để phân tích sâu hơn ở các chương sau.
36
Chương 2. Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam
2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật
Việt Nam
2.1.1. Các biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu
Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của
pháp luật Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2015 và được
cụ thể hóa tại Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi.
Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được áp
dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp mà chủ
thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể lựa chọn để áp dụng là: ngăn ngừa
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm
phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải
xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải bồi thường
thiệt hại; yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có tòa án và trọng
tài bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình [16, Khoản 1 điều 198]. Chủ thể bị xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể sử dụng các biện pháp này bằng cách trực tiếp
gặp chủ thể vi phạm hoặc sử dụng các phương thức khác như: gọi điện thoại, gửi
thư qua bưu điện, gửi thư điện tử, FAX hoặc tiến hành những hành vi cụ thể để
bảo vệ quyền sở hữu của mình. Người bị xâm phạm quyền sở hữu có thể lựa chọn
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
của mình. Tuy nhiên, việc chủ thể áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền tác
giả, quyền liên quan của mình không được trái với quy định của pháp luật và đạo
đức xã hội.
Trong thực tế, khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, biện pháp bảo vệ quyền đầu
tiên được áp dụng là tự bảo vệ. Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền tự định
37
đoạt của chủ thể. Hơn nữa, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng giúp
nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm.
2.1.2. Các biện pháp pháp lý
• Biện pháp hành chính
Xử lí vi phạm hành chính đối với quyền sở hữu trí tuệ là việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp nhất định xử lí các hành vi xâm phạm quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng của cá nhân,
tổ chức mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử lí hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bằng
biện pháp hành chính được quy định tại Mục 1 Chương XVIII Luật sở hữu trí tuệ,
Chương IV Nghị định của Chính phủ số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lí nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ rất phong phú. Cụ thể, bao gồm các hình thức xử phạt hành
chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung) và các
biện pháp khắc phục hậu quả. Cảnh cáo và phạt tiền là hai hình thức xử phạt chính.
Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, người xâm phạm còn có thể
bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như sau: tịch thu hàng hoá
giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu
để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; đình chỉ hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm trong một thời hạn nhất định. Tuỳ
từng trường hợp, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn phải chịu
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như sau: buộc tiêu huỷ hoặc
phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng
38
hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng tới quyền sở hữu
trí tuệ; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ,
phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất,
kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi
phạm trên hàng hoá.
Để bảo đảm việc xử lí các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng các biện
pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật sở hữu trí tuệ cho phép cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Các
biện pháp cụ thể là: tạm giữ người, tạm giữ hàng hoá, tang vật, phương tiện vi
phạm; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật, khám nơi cất giấu hàng hoá,
tang vật, phương tiện vi phạm về sở hữu trí tuệ; một số biện pháp khác theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng
các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp
nhất định theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 215 Luật sở hữu trí tuệ. Theo
Điều 211 Luật sở hữu trí tuệ, biện pháp hành chính áp dụng để xử lí những hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đến mức gây thiệt hại cho người tiêu dùng, cho
xã hội.
Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ yêu cầu cơ quan
nào xử lí hành vi xâm phạm quyền sở hũu trí tuệ theo thủ tục hành chính cũng là
một vấn đề lớn cần phải xem xét để hoàn thiện. Một vài giải pháp để giải quyết
vấn đề này xin được đề cập ở chương 3.
• Biện pháp hình sự
Khi hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng của cá nhân, tổ chức là hành vi nguy hiểm cho xã hội cấu thành
tội phạm thì cá nhân, tổ chức đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng
biện pháp hình sự thuộc thẩm quyền của toà án.
39
Bộ luật hình sự quy định các tội danh và hình phạt tương ứng nhằm bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ. Để bảo vệ quyền tác giả, Bộ luật hình sự 2015 quy định hai tội: tội
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan [19, Điều 225] và tội vi phạm các quy
định về hoạt động xuất bản [19, Điều 344].
• Biện pháp dân sự
Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lí hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm
phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lí bằng biện pháp hành chính
hoặc biện pháp hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự.
Các tranh chấp sở hữu trí tuệ là loại tranh chấp dân sự, bởi vậy về nguyên tắc tranh
chấp sở hữu trí tuệ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự của Bộ luật tố tụng
dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều
đặc thù của vi phạm, tranh chấp sở hữu trí tuệ, Luật sở hữu trí tuệ quy định nhiều
nội dung cụ thể hơn so với Bộ luật tố tụng dân sự với mục đích giải quyết tốt loại
vi phạm, tranh chấp này.
Khi bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học và tác giả, chủ sở hữu các quyền liên quan có quyền yêu cầu
toà án bảo vệ quyền của mình. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2014
(Điều 255, Điều 259, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sở
hữu trí tuệ được xác định như sau:
a. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực
hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
40
b. Quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp. Khi thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền
yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu
không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ
thuật, cũng như các chủ thể có quyền liên quan khác được quyền khởi kiện yêu
cầu toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm quyền
tác giả, quyền liên quan phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi
xâm phạm phải bổi thường thiệt hại, phải thực hiện nghĩa vụ, phải xin lỗi, cải chính
công khai; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm
mục đích thương mại các tác phẩm với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả
năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Theo biện pháp dân sự, tòa án buộc cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ phải bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho các chủ thể
quyền tác giả nói riêng và các quyền sở hữu trí tuệ nói chung. Tuy nhiên, khoản
bù đắp tổn thất tinh thần chỉ dành cho tác giả các tác phẩm vãn học, nghệ thuật,
khoa học, người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trí, giống cây trồng mà không dành cho chủ sở hữu các đối tượng này. Mức bồi
thường thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ 2005,
sửa đổi bổ sung 2009.
Trong trường hợp không xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất thì
toà án có thẩm quyền ấn định mức bồi thường tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại
nhưng không quá năm trăm triệu đồng (500.000.000. đồng). Mức bồi thường về
tinh thần trong giới hạn từ năm triệu đồng (5.000.000 đồng) đến năm mươi triệu
đồng (50.000.000 đồng).
41
Để bảo vệ quyền lợi các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật quy định cho
những chủ thể quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời [16, Điều 206]. Biện pháp khẩn cấp tạm thời được toà án áp
dụng theo thủ tục tố tụng dân sự. Luật sở hữu trí tuệ quy định các biện pháp tạm
thời gồm: thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển;
cấm dịch chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên, cũng như việc áp dụng các biện pháp
bảo đảm ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính, toà án chỉ ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những trường hợp nhất định [16, điểm a,
b khoản 1 Điều 206]. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự [20, Chương VIII, Phần thứ
nhất].
2.1.3. Các biện pháp thương mại do nhà nước thực hiện
Biện pháp thương mại do nhà nước thực hiện là biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ. Cơ quan hải quan có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu
trí tuệ. Cụ thể, cơ quan hải quan áp dụng hai loại biện pháp sau: tạm dừng làm thủ
tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; kiểm
tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Theo Điều 73 Luật hải quan năm 2014: “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo
hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ có quyền đề nghị cơ quan hải
quan áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát hoặc tạm dừng làm thủ tục hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ. Cơ quan hải quan chỉ quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc người được
ủy quyền hợp pháp có đơn đề nghị, bằng chứng về sở hữu hợp pháp quyền sở hữu
trí tuệ, bằng chứng về việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và đã nộp một khoản tiền
hoặc chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm bồi thường thiệt hại và
42
các chi phí phát sinh theo quy định của pháp luật do việc đề nghị tạm dừng làm
thủ tục hải quan không đúng.” Thủ tục cụ thể được quy định rõ tại điều 76 Luật
Hải quan 2014.
2.2. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam
2.2.1. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo vệ quyền tác giả và
quyền liên quan
• Các văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay về Sở hữu trí tuệ
Nhận thức được tầm quan trọng của tài sản trí tuệ trong đời sống xã hội hiện đại
ngày nay cùng sự phát triển kinh tế quốc tế, Nhà nước đã đã quan tâm hơn tới việc
ban hành các văn bản pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý để tài sản trí tuệ được
phát triển, tạo động lực cho chủ sở hữu tiếp tục sáng tạo. Sau những văn bản có
tính chất nền móng như Nghị định 142-HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ
trưởng quy định về quyền tác giả, Hiến pháp 1992 cũng có những quy định nền
tảng cho pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tiếp theo đó, Hiến pháp hiện hành 2013 cũng
dựa trên nền móng của hiến pháp và pháp luật trước đó, hỗ trợ và khuyến khích
sáng tạo, khẳng định sự bảo hộ mang tính hiến định của nhà nước với tài sản trí
tuệ. Cụ thể, Điều 40, khoản 2 điều 62 Hiến pháp 2013 quy định:
- “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ
thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.”
- “Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu,
phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ;
bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.”
Điều trên xuất phát từ mục đích: “Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật
nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển
các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân
dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [21, Điều 60].
43
Như vậy, hiến pháp hiện hành bảo vệ quyền thực hiện các hoạt động tạo ra tài sản
trí tuệ của công dân, và bảo hộ quyền của công dân đối với tài sản trí tuệ đó.
Để thực hiện có hệ thống các nguyên tắc hiến định trên, pháp luật Việt Nam có
nhiều văn bản quy định rõ hơn về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và
bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng. Các văn bản Luật gồm có: Luật
sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 với một số văn bản hướng dẫn như: Nghị
định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu
trí tuệ; Luật xuất bản 2012, Bộ luật Dân sự, Bộ luật hình sự hướng dẫn xử lý vi
phạm về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả, quyền liên quan nói
riêng, …
• Hội nhập quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan
Với chính sách hội nhập của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã và đang hợp tác,
hội nhập quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó có những điều ước
quốc tế đa phương, song phương, các Hiệp định về kinh tế, thương mại.
Các điều ước quốc tế đa phương nổi bật có thể kể đến là:
- Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, có hiệu lực tại Việt
Nam ngày 26/10/2004, hiện có 165 quốc gia thành viên.
- Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép trái
phép bản ghi âm của họ, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 6/7/2005, hiện có 77 quốc
gia thành viên.
- Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức
phát sóng, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 1/3/2007, hiện có 91 quốc gia thành viên.
- Hiệp định TRIPS về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 11/1/2007, kể từ khi Việt Nam là thành viên
của WTO, hiện có 157 quốc gia thành viên.
Các điều ước quốc tế song phương nổi bật:
44
- Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả, có hiệu lực ngày
23/12/1998.
- Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
Liên bang Thuỵ Sỹ về bảo hộ Sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực Sở hữu trí
tuệ, có hiệu lực ngày 8/6/2000;
- Hiệp định Thương mại giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ, có hiệu lực ngày 11/12/2001.
Một số Hiệp định về kinh tế, thương mại có các cam kết về Sở hữu trí tuệ nói
chung, quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng:
- Hiệp định khung về thương mại và đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ (TIFA), ký ngày
21/6/2007
- Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản, ký ngày 8/10/2003
- Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Liên bang Nga về hợp tác trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, có hiệu
lực từ 22/2/2010.
- Các cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO;
- Cam kết của các nhà lãnh đạo tại các Hội nghị của APEC.
• Nhận xét, đánh giá
- Hầu hết các cam kết tại các điều ước quốc tế về cơ bản phù hợp với hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện hành, vì Việt Nam đã có bước tiến bộ mới trong hoạt
động lập pháp về lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan trong những năm qua,
đảm bảo cơ sở pháp lý cho hội nhập. Các luật chuyên ngành như Luật Xuất bản,
Luật Báo chí, Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh Quảng cáo và Pháp
lệnh Thư viện có các quy định liên quan, phù hợp với từng ngành. Bộ luật Hình
sự, Luật Hải quan, Pháp lệnh Xử phạt hành chính cũng có các quy định quan hệ
tới quyền tác giả và quyền liên quan tùy theo tính chất và phạm vi điều chỉnh của
45
mỗi luật. Như vậy, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả và
quyền liên quan đã được ban hành tương đối đồng bộ, có hệ thống, đủ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội về quyền tác giả và quyền liên quan tại nước mình và
tạo môi trường pháp lý cho hội nhập quốc tế.
- Các cam kết quốc tế đã tác động sâu sắc đến toàn bộ hoạt động văn hóa, nghệ
thuật và khoa học. Nó có tác động tích cực song cũng có những hạn chế bắt
nguồn từ điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam đang trong quá trình chuyển
đổi.
- Các cam kết tại các điều ước quốc tế đã tạo ra cơ sở pháp lý về việc hưởng
quyền và thực hiện nghĩa vụ cho các nước thành viên. Việt Nam là nước đang
phát triển, lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan lại rất mới mẻ và phức tạp, vì
vậy việc thực hiện cam kết là một “gánh nặng” đối với các cơ quan, tổ chức và
công dân. Hiện tại ở Việt Nam có 5 tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền
liên quan, gồm: Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Hiệp hội
Công nghiệp ghi âm Việt Nam, Hội Bảo vệ quyền của nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc
Việt Nam, Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam và Hiệp hội Quyền sao
chép Việt Nam. Cũng theo đại diện các tổ chức này, nhiều năm qua, việc triển
khai thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn khó khăn.
- Việt Nam phải đầu tư nhiều nguồn lực mới bảo đảm thi hành tốt các cam kết
trong khuôn khổ TRIPS, BTA, WTO và các điều ước đa phương, song phương
mà Việt Nam đã ký kết, tham gia.
2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan ở
Việt Nam hiện nay
2.2.2.1. Thực trạng
Trong những năm qua, chính sách bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đã phát
huy tác dụng tích cực. Hầu hết các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - thông tin,
từ báo chí, xuất bản, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật tạo hình đến phát
46
thanh, truyền hình đều đã có ý thức tôn trọng quyền tác giả và quyền liên quan khi
khai thác, sử dụng tác phẩm. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã có các chương trình
triển khai thực thi cụ thể, hiệu quả. Nhiều chủ thể quyền đã áp dụng các biện pháp
để tự bảo vệ quyền của mình. Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền
liên quan đã được hình thành và đã có các hoạt động tích cực, hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay, tại Việt Nam, mức độ vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan
vẫn còn cao. Các hành vi in lậu văn hóa phẩm, sử dụng các tác phẩm âm nhạc mà
không trả tiền cho chủ sở hữu, sử dụng các chương trình máy tính không có bản
quyền và các hành vi xâm phạm tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã
hóa, và những hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan khác vẫn diễn ra
tương đối thường xuyên. Tình trạng vi phạm bản quyền này đã gây thiệt hại cho
chủ thể quyền và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo và ảnh hưởng đến
môi trường đầu tư, hợp tác kinh tế - văn hoá với các nước trên thế giới. Vi phạm
bản quyền trong tất cả các lĩnh vực đang diễn ra rất phức tạp. Theo đánh giá của
một số tổ chức theo dõi về sở hữu trí tuệ của thế giới thì tỷ lệ vi phạm bản quyền
tại Việt Nam còn cao, nhất là trong các lĩnh vực băng đĩa âm nhạc, phần mềm máy
tính và xuất bản.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên trước hết là do nhận thức về quyền tác giả,
quyền liên quan của của nhiều tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng tác phẩm
còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ý thức chấp hành pháp luật quyền tác giả, quyền liên
quan chưa nghiêm túc. Ngoài ra, hệ thống thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền
liên quan của các cấp, các ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu theo quy định của
pháp luật.
2.2.2.2. Vụ việc tranh chấp quyền tác giả: Vụ việc nhạc sỹ Trần Tiến
- Tóm tắt vụ việc:
Tháng 5.1996, sau khi Sài Gòn Video sản xuất băng cassette có tựa đề “Tình khúc
Trần tiến – Tạm biệt chim én” và tung ra thị trường, nhạc sỹ Trần Tiến đã có đơn
47
khiếu nại gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc Sài Gòn Video đã
sử dụng 10 ca khúc của ông để sản xuất kinh doanh mà không hề xin phép, không
trả tiền nhuận bút; tự ý cắt bỏ lời 3 của bài hát “Tạm biệt chim én”, bỏ một câu kết
của bài “Cô bé vô tư”, sử dụng ba câu trong hai bài “Ngọn lửa cao nguyên” và
“Chiếc vòng cầu hôn”, để ca sỹ Trung Đức hát sai một nốt nhạc trong bài “Tùy
hứng lí qua cầu” và thay đổi tiết tấu trong bài “Vết chân tròn trên cát”; ngoài ra
còn in ở bìa trang 2 hình ảnh cô gái ăn mặc hở hang, làm xuyên tạc nội dung ca
khúc của ông.
Trong đơn khởi kiện của mình, nhạc sỹ đã yêu cầu Sài Gòn Video phải công khai
xin lỗi ông trên các phương tiện thông tin đại chúng về các hành vi vi phạm trên,
đồng thời phải bồi thường cho ông 50 triệu đồng (gồm tiền nhuận bút, tiền bồi
thường tổn hại về vật chất và tinh thần, trong đó có khiến cho hợp đồng giữa nhạc
sỹ Trần Tiến và Công ty vật phẩm văn hóa Thành phố Hồ chí Minh (kí ngày
16.4.1996) về việc sử dụng một số ca khúc của ông đã không thực hiện được).
Sau phiên tranh luận tại tòa án, Hội đồng xét xử TAND Thành phố Hồ Chí Minh
đã căn cứ vào Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả về quyền tác giả năm 1994 (gọi tắt
là Pháp lệnh) và các văn bản pháp luật có liên quan và tuyên bố:
+ Chấp nhận một phần yêu cầu của nhạc sỹ Trần Tiến buộc Sài Gòn Video phải
xin lỗi công khai nhạc sỹ trên các phương tiện thông tin đại chúng vì các hành vi
vi phạm trên.
+ Buộc Sài Gòn Video phải trả thù lao sử dụng 10 bài hát của nhạc sỹ và bồi
thường thiệt hại hợp đồng đã ký giữa nhạc sỹ và Công ty vật phẩm văn hóa Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phân tích:
Vụ kiện của nhạc sỹ Trần Tiến với Sài Gòn Video là một trong những vụ kiện khá
nổi bật về quyền tác giả trong lĩnh vực âm nhạc ở Việt Nam. Phán quyết của Toà
án phù hợp với quy định của pháp luật về quyền tác giả vào thời điểm bấy giờ.
48
Các vi phạm của Sài Gòn video là: đã sử dụng 10 bài hát của nhạc sỹ trần Tiến mà
không xin phép, không trả nhuận bút, thù lao. Hành vi này của Sài Gòn Video đã
xâm phạm đến các quyền pháp lý mà tác giả được hưởng theo quy định tại điểm
khoản 5 và 6 Điều 10 của Pháp lệnh: “Tác giả có quyền sau đây: …
5. Hưởng nhuận bút hoặc thù lao khi tác phẩm được sử dụng
6. Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình và được hưởng lợi
ích vật chất từ việc cho sử dụng tác phẩm”.
Bên cạnh đó, hành vi xâm phạm của Sài Gòn Video còn làm tổn hại tới lợi ích của
nhạc sỹ Trần Tiến và Công ty vật phẩm văn hoá TPHCM, cụ thể là khiến cho hợp
đồng giữa nhạc sỹ và công ty không thực hiện được. Bởi hai lý do trên, việc nhạc
sỹ Trần Tiến yêu cầu Sài Gòn Video bồi thường cho thiệt hại này là hoàn toàn có
cơ sở pháp lý.
Ngoài ra, Sài Gòn Video còn xâm phạm quyền “được bảo hộ sự toàn vẹn tác phẩm,
cho hoặc không cho người khác sửa đổi tác phẩm của mình” (khoản 3, Điều 10
Pháp lệnh) của nhạc sỹ Trần Tiến khi tự ý cắt sửa lời, sửa tiết tấu của một số ca
khúc mà chưa được sự đồng ý của tác giả. Như vậy, với những hành vi nêu trên,
có thể khẳng định rằng Sài Gòn Video đã xâm phạm nghiêm trọng quyền tác giả
của nhạc sỹ Trần Tiến. Chính vì vậy, phán quyết của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh về các chế tài đối với đơn vị kinh doanh này là có cơ sở pháp lý.
Sài Gòn Video có thể lấy lí do “sản xuất chương trình” để không phải xin phép tác
giả theo quy định tại khoản 2 Điều 33 Pháp lệnh, cụ thể: “Tổ chức sản xuất băng
âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình khi sử dụng tác phẩm của người khác
để sản xuất chương trình phải thực hiện các quy định sau đây: …
2. Đối với tác phẩm đã công bố, không phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu
quyền tác giả, nhưng phải ghi tên tác giả, người biểu diễn, bảo đảm sự toàn vẹn
của tác phẩm và trả thù lao”
49
Tuy nhiên, trong trường hợp này, Sài Gòn Video đã sử dụng các tác phẩm của
nhạc sỹ Trần Tiến để sản xuất băng cassette và bán ra thị trường nhằm mục đích
kinh doanh thu lợi nhuận nên không thể được coi là “để sản xuất chương trình”.
Do đó, quy định này không áp dụng được với Sài Gòn Videos.
Qua thực tiễn xét xử vụ án này, có thể nhận thấy sự thiếu xót của Pháp lệnh trong
việc quy định rõ khái niệm thế nào là “sản xuất băng âm thanh… để sản xuất
chương trình”, vì vậy thực tế đã xảy ra việc lạm dụng quy định thiếu chặt chẽ của
pháp luật để trục lợi và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của chủ sở hữu
quyền tác giả. Qua quá trình áp dụng trong thực tiễn quy định trên, các nhà làm
luật cũng đã nhận ra và sửa chữa kẽ hở pháp lý này và hiện tại các văn bản pháp
luật về sở hữu trí tuệ, quy định này cũng đã không còn nữa.
2.2.2.3. Vụ việc tranh chấp quyền liên quan: Tranh chấp bản quyền phát sóng giải
bóng đá Ngoại hạng Anh
- Tóm tắt vụ việc:
Khoảng giữa tháng 07/2010 kênh truyền hình K + (“đứa con chung” giữa đài
truyền hình VTV/VCTV và Hãng truyền hình Canal + Canal Overseas) tuyên bố
đã có trong tay bản hợp đồng với nhà cung cấp để độc quyền phát sóng giải bóng
đá Ngoại hạng Anh vào ngày Chủ nhật trên lãnh thổ Việt Nam. Sau khi K + tuyên
bố, rất nhiều nhà đài đã phản ứng và xem đây là hành vi thể hiện sự độc quyền của
K +. Nhiều người hâm mộ cũng lên tiếng phản đối vì phải tốn khá nhiều chi phí
(mua đầu thu và trả phí hàng tháng cho K +) để xem được các trận đấu ngày Chủ
nhật. Bộ công thương đã yêu cầu K+ đàm phán với các đài khác để giải quyết,
nhưng khi việc đàm phán giữa các đài truyền hình theo chỉ đạo của Bộ TT &TT
chưa tiến triển được bao nhiêu thì K + lên tiếng tố một số nhà đài đã vi phạm bản
quyền khi phát sóng các trận đấu của giải Ngoại hạng Anh vào ngày Chủ nhật khi
đơn vị này đang giữ độc quyền, đặc biệt là Truyền hình cáp Hà Nội (HCTV). Phía
HCTV lại cho biết, họ đã mua được bản quyền từ kênh truyền hình True Sport
50
(Thái Lan) để phát. Ngày 26/8, Bộ Thông tin - Truyền thông đã tổ chức cuộc họp
giữa đại diện K+, MP & Silva. Đại diện HCTV không tới dự. Tại cuộc họp, K+ và
MP & Silva đã công khai bản hợp đồng hai bên đã kí. Cục trưởng Cục Phát thanh
truyền hình và Thông tin điện tử - ông Lưu Vũ Hải - đã xác nhận, bản hợp đồng
độc quyền phát sóng gói Super Sunday của K+ với đối tác MP & Silva là hợp
pháp, đồng thời yêu cầu các đài trong nước dừng việc phát sóng các trận đấu EPL
ngay ở lượt trận thứ ba. Trong công văn mới nhất mà lãnh đạo True Vision - đơn
vị sở hữu kênh True Sport - gửi cho Bộ Thông tin - Truyền thông đã khẳng định:
"Các kênh True Sports chỉ để phục vụ khán giả tại Thái Lan. Tuy nhiên, có thể
xảy ra việc tràn tín hiệu sang lãnh thổ cận kề Thái Lan. True Vision chưa bao giờ
bán thuê bao hay đầu thu để xem các kênh True Sport tại Việt Nam”. Ngày 27-8,
ban tổ chức giải ngoại hạng Anh cũng đã gửi đi thông cáo nhằm ngăn chặn việc
phát sóng trái phép EPL tại Việt Nam. Thông cáo nêu rõ: "Việc các đài truyền
hình ở Việt Nam thu sóng từ True Sports rồi phát trên hệ thống của mình là vi
phạm bản quyền giải ngoại hạng Anh tại cả Thái Lan và Việt Nam. Bất kì đài
truyền hình nào phát sóng EPL tại Việt Nam mà chưa được sự đồng ý của K+ đều
là không hợp lệ". Tới thời điểm này, K+ vẫn là đơn vị duy nhất có bản quyền phát
sóng EPL ngày chủ nhật. Hiện tại HCTV đã ngừng phát sóng các trận đấu ngoại
hạng Anh từ True Sports.
- Phân tích
Trước hết, đây là một vụ việc tranh chấp bản quyền phát sóng. Khoản 3 Điều 35
Luật sở hữu trí tuệ có quy định, hành vi “Công bố, sản xuất và phân phối cuộc
biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà
không được phép của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng” là một hành vi vi phạm quyền liên quan được pháp luật sở hữu trí tuệ
bảo vệ. Trong trường hợp này, có các hành vi sau được pháp luật quy định là hành
vi xâm phạm quyền liên quan. Thứ nhất, các đài khác không mua hợp pháp tín
51
hiệu phát sóng mà vẫn thực hiện việc thu phát giải bóng đá ngoại hạng Anh là vi
phạm pháp luật sở hữu trí tuệ. Thứ hai, việc các đài truyền hình ở Việt Nam thu
sóng từ True Sports rồi phát trên hệ thống của mình là vi phạm bản quyền giải
ngoại hạng Anh tại cả Thái Lan và Việt Nam. Việc làm trái pháp luật kể trên xâm
phạm nghiêm trọng tới quyền của tổ chức phát sóng được quy định tại điều 31
Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, các kênh này phải dừng việc thu phát chương trình
này là hoàn toàn hợp lí.
Về phía K+, theo như thông báo của ban tổ chức giải bóng đá ngoại hạng Anh, K+
là đơn vị duy nhất có bản quyền phát sóng EPL ngày chủ nhật. Vì thế, theo khoản
20 Luật Sở hữu trí tuệ thì K+ có quyền độc quyền thực hiện hoặc cho phép người
khác thực hiện chương trình phát sóng đó. Nếu tổ chức, cá nhân nào khai thác, sử
dụng quyền tài sản kể trên của K+ thì buộc phải xin phép, trả các quyền lợi vật
chất cho chủ sở hữu. Vì vậy, yêu cầu các đài khác không được tiếp tục phát giải
bóng đá ngoại hạng Anh là một yêu cầu hợp pháp.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng K+ đã vi phạm luật cạnh tranh khi tiếp tục giữ độc
quyền phát sóng giải bóng đá ngoại hạng Anh, bởi phát thanh, truyền hình là lĩnh
vực độc quyền nhà nước vì vậy nhà nước có quyền kiểm soát hoạt động của K+,
có thể buộc K+ phải chia sẻ sự độc quyền của mình với các đài khác. Ý kiến trên
là không đúng theo quy định của pháp luật. Ngoài dự thảo Danh mục hàng hóa,
dịch vụ hoặc địa bàn thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại,
ban kèm theo Nghị định về hàng hoá, dịch vụ, địa bàn thực hiện độc quyền trong
hoạt động thương mại, thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ về các loại
hàng hoá dịch vụ nào thuộc độc quyền nhà nước. Hơn nữa, phát thanh, truyền hình
cũng không nằm trong danh mục, vì vậy không thể nói đây là ngành dịch vụ nằm
trong sự kiểm soát độc quyền của nhà nước. K+ có thể được phát sóng độc quyền
chương trình trên theo như thoả thuận trong hợp đồng giữa K+ và MP&Silva, đã
52
được Cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử xác nhận là hợp
pháp.
Từ thực tiễn vụ việc kể trên, có thể thấy pháp luật sở hữu trí tuệ của nước ta nói
chung và các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng vẫn còn rất
nhiều những thiếu xót, bất cập cần sớm có những điều chỉnh chi tiết, cụ thể và
đúng đắn. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lí nhà nước cần có sự quản lí tốt hơn để
đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp cũng như quyền lợi của người dân.
2.2.3. Kết luận và những vấn đề đặt ra với việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam hiện nay
• Kết quả đạt được
Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về thực thi quyền tác giả và quyền
liên quan đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý nền móng cho việc bảo vệ quyền tác giả
và quyền liên quan ở nước ta. Pháp luật quy định về quyền tác giả và quyền liên
quan bao gồm những nội dung thiết yếu cho việc thực thi quyền tác giả, quyền liên
quan của chủ sở hữu, cụ thể: Các quy định về hành vi vi phạm quyền tác giả và
quyền liên quan; các biện pháp thực thi quyền tác giả, quyền liên quan; hệ thống
các cơ quan bảo đảm thực thi quyền tác giả, quyền liên quan. Những quy định này
đã góp phần hình thành một cơ chế bảo đảm và một hành lang pháp lý cơ bản để
thực thi quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam. Trước Bộ luật tố tụng dân
sự 2015 và Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung, các quy định về thực thi quyền tác
giả và quyền liên quan còn chưa có tính hệ thống, thống nhất cao. Tuy nhiên văn
bản pháp luật mới đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn ví dụ như các tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ cụ thể nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nào theo
thủ tục tố tụng dân sự. Những quy định cụ thể này giúp chủ sở hữu quyền dễ dàng
hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, giảm bớt gánh nặng cho cơ quan nhà
nước khi hỗ trợ, giải quyết các tranh chấp. Hơn nữa, hầu hết các quy định về thực
53
thi quyền tác giả, quyền liên quan của pháp luật Việt Nam tương thích với các
Công ước quốc tế quan trọng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, quyền liên
quan mà chúng ta đã ký kết và đang là thành viên như: Công ước Berne, Hiệp định
TRIPs.
• Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ nói
chung và quy định về quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng vẫn còn những tồn
tại sau đây.
Thứ nhất, quy định về nguyên đơn trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 chỉ nói chung
về các nguyên đơn trong vụ án dân sự, không quy định rõ ai là người có quyền
khởi kiện tranh chấp về sở hữu trí tuệ. Cụ thể pháp luật quy định: “Nguyên đơn
trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức
do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên
đơn.” [20, khoán 2, điều 68]. Điều này dẫn tới hệ quả là trên thực tế, người có
quyền khởi kiện đôi khi không hiểu rõ quyền lợi của mình mà bỏ mất quyền khởi
kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại hiểu nhầm và khởi kiện nên không
được Toà án giải quyết.
Thứ hai, quy định về chứng cứ trong tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ nói chung và
quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng chưa được quy định rõ ràng. Khi giải
quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cũng như đối với các vụ án dân sự khác,
“đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa
ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự
phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là
có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” theo quy định của Điều 71 Bộ
54
luật Tố tụng dân sự 2015. Tuy nhiên ngoài quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 về chín nguồn chứng cứ mà đương sự được sử dụng để đảm bảo
nghĩa vụ chứng minh của mình thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định về
chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Điều này
khiến việc chứng minh trong vụ án về quyền tác giả, quyền liên quan thường khó
khăn hơn nhiều so với vụ án dân sự khác.
Thứ ba, các văn bản pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ như Luật cạnh tranh
cũng cần được điều chỉnh cho thống nhất và rõ ràng hơn, tránh việc lợi dụng kẽ
hở pháp luật để trục lợi. Cụ thể qua vụ việc tranh chấp quyền phát sóng giải bóng
đá ngoại hạng Anh, pháp luật cần sớm quy định rõ và đồng nhất danh mục các
hàng hoá, dịch vụ do nhà nước độc quyền để ngăn chặn việc lợi dụng kẽ hở pháp
luật để thu lợi. Dự thảo nghị định về hàng hoá, dịch vụ, địa bàn thực hiện độc
quyền trong hoạt động thương mại đã có, tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều tranh cãi
và bất đồng quan điểm liên quan đến danh mục 20 hàng hoá và dịch vụ độc quyền
nhà nước, khiến cho dự thảo chưa được thông qua và đưa vào thực tiễn áp dụng.
• Vấn đề, thách thức hiện nay
Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa về kinh tế, văn hóa và cũng là thời
đại bùng nổ thông tin và công nghệ, mà ở đó các loại hình tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học được pháp luật bảo hộ đều có thể tồn tại trong môi trường kỹ
thuật số nên người ta dễ dàng sao chép, dễ dàng phổ biến và dễ dàng lưu trữ chúng.
Cuộc cách mạng kỹ thuật trong phương thức tái bản, sao chép, lưu trữ thông tin
bằng số hóa bao gồm cả các tác phẩm được bảo hộ quyền đã tạo ra hai mặt đối lập
nhau. Một mặt, nó giúp cho tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đông
đảo công chúng một cách nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với
trước đây. Mặt khác, tiến bộ công nghệ này cũng tạo cơ hội cho việc phát sinh các
hình thức khai thác và sử dụng bất hợp pháp mới. Thách thức trong vấn đề bản
quyền ở kỷ nguyên kỹ thuật số là làm sao có thể bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu
55
quyền tác giả và quyền liên quan trong việc sử dụng công nghệ mới để sản xuất
và tiêu thụ các sản phẩm của mình trong khi phải đối mặt với nạn khai thác và
cạnh tranh bất hợp pháp ở khắp mọi nơi. Đó cũng là thách thức trong việc tự bảo
vệ quyền của các chủ thể quyền, đồng thời cũng là thách thức đối với các cơ quan
quản lý và thực thi về bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.
Như vậy, chương 2 bao gồm nội dung về các biện pháp bảo vệ quyền tác giả,
quyền liên quan và thực trạng bảo hộ quyền ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn thi
hành pháp luật được thể hiện một phần thông qua hai vụ việc của nhạc sỹ Trần
Tiến và vụ việc tranh chấp bản quyền phát sóng giải bóng đá ngoại hạng Anh. Từ
đó, có thể thấy rằng vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan hiện nay ở Việt
Nam đã có sự chuyển biến, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Để bảo hộ tốt quyền
tác giả, quyền liên quan không những đòi hỏi chính quyền cần có những biện pháp
cụ thể, hiệu quả hơn, mà chính chủ sở hữu quyền cũng cần phải nâng cao nhận
thức của mình để tự bảo vệ quyền lợi của bản thân.
56
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam hiện nay
3.1. Các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật
3.1.1. Hoàn thiện chính sách về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan
Đối với nước ta quyền tác giả, quyền liên quan là một lĩnh vực phức tạp và còn
mới mẻ, nhưng các chính sách, quy định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả về
cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả nói chung và thực thi các
hiệp định song phương về quyền tác giả, hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ nói riêng. Nó đã xác lập được hành lang pháp lý an toàn, khuyến khích các
hoạt động sáng tạo, bảo hộ quyền tác giả của những tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học do lao động của tư duy sáng tạo ra. Nó bảo đảm việc điều chỉnh hầu
hết các quan hệ xã hội ở lĩnh vực này, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc
tế, dự báo được xu thế phát triển trong nước và trên trường quốc tế. Vì vậy, nó thể
hiện tư tưởng tiến bộ, nhân văn về quyền con người của Nhà nước Việt Nam.
Trong những năm qua, pháp luật về quyền tác giả đã phát huy tác dụng tích cực
trên các mặt. Pháp luật đã tạo lập môi trường khuyến khích tự do sáng tạo các giá
trị văn học, nghệ thuật và khoa học, thúc đẩy phong trào nghiên cứu, sáng tạo nói
chung, trong giới trí thức, văn nghệ sĩ nói riêng. Pháp luật là phương tiện để tác
giả bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, là công cụ để quản lý, giữ gìn trật tự xã hội
về quyền tác giả, ngăn chặn những sản phẩm văn hóa độc hại, bất lợi cho cộng
đồng và lợi ích quốc gia. Ở hầu hết các lĩnh vực, từ báo chí, xuất bản, điện ảnh,
nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật tạo hình đến phát thanh, truyền hình đều tôn trọng
các quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên tác giả trên tác phẩm, quyền cho phép
khai thác, sử dụng tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm và quyền được
hưởng nhuận bút, thù lao và các lợi ích vật chất khác phát sinh từ việc cho phép
khai thác, sử dụng tác phẩm của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Tuy nhiên, tình
57
trạng vi phạm quyền tác giả cũng đã diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực kể trên, có vụ
việc nghiêm trọng. Thị trường băng, đĩa âm thanh, băng, đĩa hình được báo động
về tình trạng nhập lậu qua biên giới, sao chép tùy tiện không phép đã gây thiệt hại
cho các chủ sở hữu tác phẩm. Việc sử dụng tác phẩm không xin phép tác giả, chủ
sở hữu tác phẩm vẫn diễn ra, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất băng âm thanh, đĩa
âm thanh, băng hình, đĩa hình. Tình trạng in lậu sách vẫn chưa được chấm dứt.
Việc sao chép, sử dụng không phép các chương trình phần mềm đang là vấn đề
gây ảnh hưởng đến chính sách đầu tư phát triển công nghệ thông tin của Nhà nước,
làm thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Việt Nam đã tham gia công ước
Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Để trở thành thành
viên của tổ chức thương mại Thế giới (WTO), việc tham gia hiệp định TRIPS, về
các khía cạnh kinh tế của quyền sở hữu trí tuệ là yêu cầu bắt buộc của lộ trình này.
Công ước Rome 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức
phát sóng. Công ước Geneva 1971 về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, chống lại
việc sao chép trái phép. Công ước Brussles 1974 về phân phối các tín hiệu mang
chương trình truyền qua vệ tinh. Để tăng cường bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam
và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về vấn đề này, mỗi cá nhân, tổ chức, cơ quan
đều cần góp phần tích cực “thực hiện chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” đã
được Đại hội IX của Đảng xác định.
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền
liên quan
Dựa trên những vấn đề được đề cập ở trên, có thể thấy rằng việc sửa đổi bổ
sung một số quy định pháp luật là cần thiết để tránh các mâu thuẫn, tranh chấp
không đáng có. Qua vụ việc tranh chấp bản quyền phát sóng giải bóng đá ngoại
hạng Anh, một vấn đề nổi bật được đặt ra là làm thế nào để bảo vệ quyền của tổ
chức phát sóng một cách triệt để nhất. Cũng giống như các chủ thể quyền liên quan
khác, quyền tự bảo vệ của tổ chức phát sóng được pháp luật quy định là biện pháp
58
đầu tiên được nhắc tới khi quyền của tổ chức phát sóng bị xâm phạm. Khi quyền
của tổ chức phát sóng bị xâm phạm, thì trước hết tự thân tổ chức phải thực hiện
quyền tự bảo vệ mình trước hành vi xâm phạm đó để ngăn chặn hành vi, yêu cầu
bên xâm phạm dừng ngay việc vi pham của mình và đền bù thiệt hại nếu có. Nếu
tổ chức phát sóng không thể tự mình bảo vệ được quyền của mình thì có thể yêu
cầu các cơ quan chức năng can thiệp. Điều 35 Luật Sở hữu trí tuệ quy định “hành
vi xâm phạm quyền của tổ chức phát sóng là công bố, sản xuất, phân phối, sao
chép, trích ghép, phát sóng, tái phát sóng chương trình mà không được sự đồng ý
của tổ chức phát sóng”. Vì vậy để tránh tranh chấp xảy ra, tổ chức phát sóng cần
phải thực hiện các hợp đồng với đối tác cung cấp chương trình phát sóng một cách
chặt chẽ, cũng như minh bạch với các tổ chức phát sóng khác, nếu như muốn độc
quyền phát sóng một chương trình thì càng phải nhận thức rõ điều này để đảm bảo
vị thế của mình trên thị trường. Trong trường hợp tổ chức phát sóng muốn chuyển
nhượng hay chuyển quyền sử dụng đối với quyền phát sóng thì điều quan trọng là
phải thực hiện hợp đồng phát sóng với các bên một cách chặt chẽ. Pháp luật cũng
có quy định về việc chuyển nhượng và chuyển quyền sử dụng chung cho cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình và chương trình phát sóng, tuy nhiên chưa có quy định
cụ thể cho từng đối tượng. Do vậy để tránh những tranh chấp không đáng có xảy
ra, pháp luật nên quy định chi tiết thêm về hợp đồng chuyển nhượng và hợp đồng
chuyển quyền sử dụng cho từng quyền liên quan.
3.1.3. Hoàn thiện cơ chế tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về bảo hộ và thực
thi quyền tác giả, quyền liên quan
Hiện nay, pháp luật quy định thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính cho rất
nhiều cơ quan. Trong thực tế, các cơ quan này đôi khi hoạt động chồng chéo, đôi
khi lại không cơ quan nào xử lí hành vi vi phạm. Chính vì vậy, để việc xử lí các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cơ quan này
59
phải độc lập với nhau nhưng đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình
hoạt động.
Để hoàn thiện được cơ chế tổ chức thực thi pháp luật, cần tăng cường sự
phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành hữu quan, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm
tra và xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, nhất là ở các
tỉnh, thành phố lớn, và các tỉnh có đường biên giới quốc gia; cần kiên quyết xử lý
những trường hợp vi phạm, có thể đưa ra Toà án một số vụ vi phạm nghiêm trọng,
truy cứu trách nhiệm hình sự để răn đe. Bên cạnh đó, cần tăng cường cán bộ chuyên
gia về quyền tác giả, quyền liên quan cho các cơ quan quản lý và thực thi quyền
tác giả, quyền liên quan. Cần tăng cường năng lực quản lý tập thể và thực thi của
các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, đồng thời xúc tiến việc
triển khai thành lập Hiệp hội Bản quyền Việt Nam và các tổ chức đại diện quyền
tác giả khác để hỗ trợ cho công tác thực thi quyền tác giả, quyền liên quan; Thực
hiện nghiêm túc các Điều ước quốc tế đa phương và song phương mà Việt Nam
đã ký kết hoặc gia nhập; Có chính sách thi đua, khen thưởng kịp thời cho các cán
bộ, công chức có thành tích cao trong công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên
quan.
3.2. Giải pháp nâng cao nhận thức của chủ sở hữu quyền
Để bảo hộ tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả,
quyền liên quan, việc trước hết là cần tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp
luật về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng tới chủ
sở hữu quyền và các đối tượng liên quan khác. Khi chủ sở hữu nhận thức được
quyền và lợi ích của mình, họ sẽ biết cách tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình một
cách hợp pháp và từ đó công tác bảo hộ quyền mới đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó,
việc tuyên truyền các quy định pháp luật nêu trên cũng hình thành ý thức tôn trọng
của các chủ thể khác đối với quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác
giả, quyền liên quan. Pháp luật cũng quy định biện pháp tự bảo vệ là biện pháp
60
đầu tiên khi quyền tác giả, quyền liên quan bị xâm phạm, vì vậy chỉ khi chủ sở
hữu nhận thức được rõ quyền của mình và cách để tự bảo vệ, thì việc ăn cắp tài
sản trí tuệ sẽ ngày càng được giảm thiểu, môi trường sở hữu trí tuệ và cạnh tranh
lành mạnh sẽ phát triển, từ đó ngày càng thúc đẩy sự sáng tạo của con người.
Kết luận chung
Tóm lại, vấn đề bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng và quyền sở hữu
trí tuệ nói chung hiện đang là vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm trên bình
diện quốc gia lẫn quốc tế. Đi cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, Việt
Nam cũng đã tích cực, chủ động hơn trong việc nắm bắt tình hình thực tế, tạo ra
một hành lang pháp lý tốt để các tài sản trí tuệ ngày càng được bảo vệ hiệu quả
hơn, tạo động lực để con người sáng tạo hơn nữa và đưa đất nước đi lên. Tuy
nhiên, thực tế cũng cho thấy, việc thực thi pháp luật vẫn còn gặp nhiều khó khăn
và hạn chế do sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật trong nước, mâu thuẫn
giữa pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đang là thành viên.
Bên cạnh đó, sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, nhận thức về việc
tự bảo vệ quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan chưa cao cũng là
nguyên nhân dẫn tới việc qsuyền sở hữu trí tuệ chưa được bảo hộ hiệu quả. Trong
phạm vi luận văn này, tác giả đề xuất một số kiến nghị để tăng cường hiệu quả bảo
vệ quyền tác giả, quyền liên quan gồm các giải pháp hoàn thiện chính sách, các
quy định pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan cũng như
cơ chế tổ chức thực thi các chính sách đó; và đặc biệt quan trọng hơn là nâng cao
nhận thức của chủ sở hữu quyền trong việc tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình.
61
Danh mục tài liệu tham khảo
1. "copyright." Ask a Lawyer - Questions and Answers. 2000 - 2008.
WORLDLawDirect.com, Inc. 30 Apr. 2017 http://legal-
dictionary.thefreedictionary.com/copyright
2. Công ước Bern (1971) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật.
3. Công ước quốc tế Rome (1961) bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi
âm, tổ chức phát sóng.
4. Hiệp định song phương Việt – Mỹ (BTA).
5. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS).
6. Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) (1996).
7. Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (WCT).
8. TS. Lê Nết, Quyền Sở hữu trí tuệ (Tài liệu bài giảng)
9. Nghị định 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước
về Sở hữu trí tuệ.
10. Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về
quyền tác giả, quyền liên quan
11. Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan
12. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà
Nội.
13. Quốc hội (1995) Bộ luật Dân sự, Hà Nội
14. Quốc hội (2004), Luật Cạnh tranh, Hà Nội
15. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
16. Quốc hội (2009), Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung, Hà Nội
62
17. Quốc hội (2014), Luật Hải quan, Hà Nội
18. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội
20. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội
21. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
22. Quốc hội (1994), Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả về quyền tác giả, Hà Nội
22. The Statute of Anne, 1710, pp.1.
23. Trung tâm Thương mại quốc tế UNCTAD/WTO và Tổ chức Sở hữu trí tuệ
thế giới (WIPO) (2008), “Những điều chưa biết về sở hữu trí tuệ - Tài liệu
hướng dẫn dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ”.
24. Trịnh Văn Tú (2012), “Bảo hộ quyền liên quan theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ ngành Luật dân sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, NXB
Công an Nhân dân