TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC ------------

ĐỖ TUỆ QUYÊN

TÌM HIỂU NGHI LỄ CẦU AN QUA KHẢO CỨU

MỘT SỐ NGÔI CHÙA Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

Giảng viên hướng dẫn : TS.Nguyễn Thị Tố Uyên

Hà Nội – 2019

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn

sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập

tại khoa, tại trường.

Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Tố

Uyên đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn

thiện khóa luận tốt nghiệp này.

Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi

những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của

các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019.

Sinh viên

Đỗ Tuệ Quyên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................. 4

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 4

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 5

5. Phạm vi nghiên cứu : ................................................................................ 5

6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5

CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHI LỄ CẦU AN .................. 7

1.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 7

1.2. Nghi lễ cầu an trong kinh điển của Phật giáo Đại Thừa ............... 11

1.2.1. Nội dung và cách thực hành nghi lễ cầu an theo quan niệm của Phật giáo Đại Thừa .............................. …………………....................... 11

1.2.2. Đặc điểm nghi lễ cầu an của Phật giáo Đại Thừa theo kinh điển .... 24

TIỂU KẾT CHƯƠNG I ................................................................................ 29

CHƯƠNG 2: NGHI LỄ CẦU AN Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY ............................................................................ 30

2.1. Sơ lược địa bàn nghiên cứu ............................................................. 30

2.1.1. Chùa Phúc Khánh ....................................................................... 31

2.1.2. Chùa Quán Sứ ............................................................................. 33

2.1.3. Chùa Bằng ................................................................................... 35

2.2. Thực trạng nghi lễ cầu an trên địa bàn Hà Nội hiện nay ............. 37

2.2.1. Tình hình thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Phúc Khánh ....... 37

2.2.2. Thực trạng thực hành nghi lễ cầu an tại chùa Quán Sứ ......... 41

2.2.3. Thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Bằng .................................... 44

TIỂU KẾT CHƯƠNG II .............................................................................. 49

KẾT LUẬN .................................................................................................... 50

Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................... 54

1

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 56

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tôn giáo hiện đại đã và đang là một vấn đề mang tính thời sự nóng hổi,

nó cũng luôn đáp ứng được mọi nhu cầu của con người, giải quyết được

những vấn đề mà khoa học chưa lý giải được. Nhắc đến tôn giáo Việt Nam

không thể nào không nhắc đến Phật giáo. Bởi lẽ trong suốt quá trình tồn tại và

phát triển, Phật giáo Việt Nam đã góp phần quan trọng đối với văn hóa cộng

đồng, với việc nhận thức về thế giới, về xã hội và về con người, đặc biệt là

việc đề cao trách nhiệm của chính con người và của cả dân tộc trong suốt

chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, tạo sự gắn kết cộng đồng, tạo sức

mạnh chung cho cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây

dựng và phát triển đất nước. Do vậy, nói đến lịch sử dân tộc Việt Nam không

thể không nói đến Phật giáo Việt Nam và ngược lại. Sau khi nước nhà được

thống nhất, Phật giáo Việt Nam đã ổn định và phát triển trong ngôi nhà

chung: Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong sự đồng hành cùng dân tộc, trong

sự đổi mới và phát triển đất nước, trong sự hội nhập và phát triển. Có thể nói,

Phật giáo Việt Nam đã có sự lớn mạnh cả về chất và lượng. Theo Tổng Ðiều

tra Dân số và nhà ở năm 2009 thì Phật giáo có khoảng 6,8 triệu tín đồ [Hội

đồng trị sự trung ương, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 2014]. Ðây là một con

số khá khiêm tốn, bởi lẽ bên cạnh số tín đồ chính thức của Phật giáo, những

người có cảm tình với đạo Phật, tham gia vào các nghi lễ Phật giáo chiếm một

số lượng rất lớn. Với truyền thống gắn đạo với đời, đạo pháp với dân tộc,Phật

giáo đã tham gia vào nhiều hoạt động xã hội như: Cứu giúp người nghèo,

người cô đơn cỡ nhỡ, nuôi dạy trẻ mồ côi... Phật giáo Việt Nam ngày càng

khởi sắc không chỉ ở số lượng và quy mô các lễ hội, ở việc xây dựng, tu bổ,

tôn tạo cơ sở thờ tự mà còn ở việc nâng cao sự nhận thức về Phật học và thế

học cho các tăng ni, ở việc tổ chức các hội thảo về Phật giáo trong lịch sử và

2

hiện tại.

Trong thời đại công nghệ mới con người đối mặt bối cảnh đô thị hóa, xã

hội biến động, hệ giá trị thay đổi, nguy cơ đối với con người có xu hướng

tăng lên. Trầm cảm, tự tử, con người tâm không định, hoang mang, dễ khủng

hoảng là những vấn nạn lớn của loài người. Đời sống nhân sinh là tập hợp của

những nỗi thống khổ, cái khổ có xu hướng ngày càng đa dạng. Kinh tế thị

trường khuếch đại nhân dục và gia tăng cạnh tranh. Nhân dục tăng lên tức là

cầu bất đắc khổ gia tăng. Nguy cơ đối với đời sống con người tăng lên. Chính

vì điều này, người dân đã tìm đến tôn giáo như một liều thuốc tinh thần thông

qua những nghi lễ để xoa dịu những lo âu, bất an của họ. Đối với trường phái

lý thuyết chức năng, Malinowski nhấn mạnh đến chức năng tâm sinh lý của lễ

nghi. Từ ví dụ nổi tiếng của Malinowski về đời sống của người Trobriand ở

một đảo của Thái Bình Dương đã rút ra nhận định là phù phép để trấn an

chính con người về mặt tâm lý, mong được an toàn… Lý thuyết Malinowski

đưa ra giả thuyết là môi trường càng bất trắc và kết quả càng bấp bênh thì con

người càng cần đến lễ nghi phù phép.

Trong xã hội và con người của thời đại số hóa như vậy, cách nhìn thế

giới và con người giác ngộ nhân tâm của Phật giáo, cách thức nhập thế của

Phật giáo cần có những thuyên thích và định hướng mới. Phật giáo cũng cần

có những cửa phương tiện mới phù hợp với thời đại. Ngày nay trước những

vấn nạn mới của con người, của xã hội và đời sống hiện đại, Phật giáo cần thể

hiện vai trò và vị thế mới, phát huy yếu tố nhân văn, vị tha, bác ái truyền

thống trong cảnh huống mới và bằng những cách thức mới. Để đáp ứng được

nhu cầu tinh thần và không phụ lòng tin tưởng của đại chúng, Phật giáo đã

đưa đến những nghi lễ, cách thức phù hợp với từng nhu cầu căn bản thiết yếu

nhất của Phật tử như : cầu siêu, cầu an, vu lan báo hiếu,….

Trong bối cảnh như vậy, việc tiếp cận nghiên cứu về nghi lễ cầu an của

Phật giáo để tìm hiểu và giải thích những yếu tố ảnh hưởng đến với đạo Phật,

3

hoạt động nghi lễ và hoạt động xã hội, đánh giá niềm tin tôn giáo và ảnh

hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội. Vì những lý do trên tôi

quyết định chọn đềtài nghiên cứu “Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một

số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp

của mình góp phần nhận diện phần phác họa, miêu tả những hoạt động nghi

lễ cầu an của Phật giáo Đại Thừa, từ đó có thể đánh giá được niềm tin và sự

gắn bó với Phật giáo trong đời sống Phật tử, đại chúng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vê Phật giáo ở Việt Nam tư cách là những thiết chế xã hội đã có nhiều

công trình nghiên cứu cơ bản, dưới nhiều góc độ như tôn giáo, triết học, xã

hội học,… Rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề nghi lễ Phật giáo

tiêu biểu như :

Nguyễn Đình Lâm,(2008), Diễn xướng thanh nhạc trong nghi lễ Phật

giáo (Trường hợp cầu siêu), Nghiên cứu Tôn giáo (số 12).

Phan Thị Yến Tuyết,(2005), Nghi lễ cầu siêu – cầu an trong cồng đồng

các dân tộc tại Nam Bộ , Nghiên cứu Tôn giáo ( số 4).

Nguyễn Tất Đạt,(2013), Công tác nghi lễ của Giáo Hội Phật Giáo Việt

Nam. Nguyễn Hữu Sử,(2014), Trai đàn Chẩn Tế Triều Nguyễn, Nghiên cứu

Tôn giáo, (số 7).

Nhìn chung những nghiên cứu này đều đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của nghi lễ Phật giáo, đã chạm đến những nét căn bản trong từng nghi lễ qua nhiều chiều cạnh khác nhau. Những nghiên cứu này rất bổ ích không chỉ trong việc xem xét và lý giải những nghi thức nghi lễ tôn giáo Việt Nam khoảng hai thập kỷ gần đây, mà còn làm rõ sự ảnh hưởng của những nghi lễ tôn giáo đến đời sống con người và ngược lại. Tuy nhiên, trong những công trình này, một số nhấn mạnh đến lý luận cơ bản, đưa ra những cái chung nhất mà chưa đi tới cái cụ thể. Chính vì thế việc nghiên cứ đề tài “Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay” là rất cần thiết.

4

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu hướng tới sự tham gia hoạt động nghi lễ cầu an đầu

năm của Phật tử tại Hà Nội hiện nay qua nghiên cứu trường hợp tại chùa Phúc

Khánh, chùa Bằng và chùa Quán Sứ. Từđó xem xét phân tích thực trạng thực

hành nghi lễ cầu an tại Hà Nội hiện nay.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ khái niệm, ý nghĩa, cung cách thực hiện của nghi lễ cầu an của

Phật giáo Đại Thừa.

Mô tả các hoạt động nghi lễ cầu an Phật giáo ở chùa Phúc Khánh, chùa

Bằng và chùa Quán Sứ hiện nay.

Tìm hiểu sự tham gia của Phật tử chùa Phúc Khánh, chùa Bằng và chùa

Quán Sứ trong nghi lễ cầu an: tần suất tham dự, cung cách tham gia.

5. Phạm vi nghiên cứu :

Không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu nghi lễ cầu an ở

một số ngôi chùa trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Cụ thể là chùa Phúc Khánh;

chùa Quán Sứ và chùa Bằng.

Thời gian nghiên cứu: Trong khoảng vài năm trở lại đây

Nội dung nghiên cứu: Vì các ngôi chùa ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ nói

chung và ở Hà Nội nói riêng chủ yếu theo Phật giáo Đại Thừa, nên có nhiều

nghi lễ khác nhau. Vì thế, ở đề tài này, chúng tôi chỉ chọn Nghi lễ cầu an làm

đối tượng nghiên cứu chính.

6. Phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước

Việt Nam về tôn giáo. Căn cứ Hiến pháp năm 2013 của Quốc hội.

5

Phương pháp nghiên cứu :

Phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin nhằm tìm ra

và phân tích được bản chất, ý nghĩa thực sự của nghi lễ cầu an đầu năm

Phương pháp phân tích so sánh: nhằm làm rõ nét tương đồng, sự khác

biệt của nghi lễ cầu an so với giai đoạn trước đó; làm rõ những đặc trưng

riêng của nghi lễ này só với các nghi lễ khác trong Phật giáo.

Phương pháp thu thập thông tin định tính: bao gồm các phương pháp như

quan sát, phỏng vấn sâu, phân tích các văn bản như tài liệu, tranh, ảnh,

tượng... Phương pháp này cho phép đề tài mô tả bối cảnh nghiên cứu, sự linh

hoạt để phát hiện vấn đềnhằm bổ sung, lý giải cho những vấn đề chưa rõ trong

nghi lễ cầu an. Đề tài sử dụng phương pháp này ở ba ngôi chùa bao gồm nội

thành và ngoại thành, mỗi ngôi chùa dự kiến quan sát phỏng vấn từ 5 đến 10

tín đồ và chức sắc Phật giáo nhằm phục vụ những luận cứ khoa học cho đề

tài.

Ngoài ra, đề tài này chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên

cứu liên quan nhằm làm rõ thực trạng nghi lễ cầu an trên địa bàn Hà Nội hiện

6

nay.

CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHI LỄ CẦU AN

1.1. Một số khái niệm cơ bản

Khi nói đến “nghi lễ” chúng ta cần phải hiểu qua về ý nghĩa của nó. Hai

chữ “nghi lễ” mang trên mình rất nhiều ý nghĩa nội hàm.

Nghi : nghi thức , lễ nghi, lễ phép, khuôn phép, oai nghi,..

Lễ : lễ giáo, lễ nhạc, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính,..

Có thể nói, “nghi lễ” là chỉ chung cho những nghi thức tụng niệm hành

lễ, sinh hoạt trong phạm vi tín nghưỡng thờ phụng của một tôn giáo.

Theo Sabino Acquaviva Enzo Place nghi lễ hay còn gọi là sự thực hành

tôn giáo: là một tín đồ thực hiện một tập hợp những quy định về nghi thức mà

một ng thời gian và chỉ được thực hành ở những không gian thiêng liêng đặc

biệt.

Trong cuốn “Xã hội học” của tác giả Richard T.Schaefer, nghi lễ hay

các nghi thức tôn giáo (religious rituals) là tín ngưỡng tôn giáo nào đó, ít hay

nhiều thể chế hóa, bắt phải thực hiện để cho việc theo tín ngưỡng đó có thể

nhìn thấy và kiểm tra được [1]. Về mặt khái niệm, những yếu tố tham gia thực

hành nghi lễ thường nằm theo thứ tự sau đây: có một uy quyền tôn giáo giữ

được sự cố kết giữa các thái độ tín ngưỡng và các ứng xử nghi thức bắt nguồn

từ các thái độ đó; có một quy định về những nghi thức lặp đi lặp lại trong

những thực tiễn cần thiết hay được cho là các thành viên của một đức tin thì

phải có các nghi lễ thường là để tôn vinh quyền năng thần thánh được các tín

đồ kính trọng; chúng cũng nhắc những người đi theo nhớ bổn phận và trách

nhiệm tôn giáo của mình. Nghi lễ và tín ngưỡng có thể liên thuộc với nhau;

các nghi lễ nói chung bao gồm sự khẳng định, tin tưởng [21,45].

Bất cứ một tôn giáo nào đều phải có những hình thức nghi lễ để tiêu biểu

7

tinh thần đạo vị của mình. Mặc dù trên thể thức và âm điệu của mỗi đạo giáo

có phần sai khác nhưng mục đích vẫn là chí thành cầu nguyện tán than công

đức vị giáo chủ mà mình đa quy ngưỡng tôn thờ.

Chính vì thế mà nghi lễ vốn là vấn đề quan trọng và có nhiều lợi ích

trong đạo phật. Cũng vì vậy nên kẻ hành giả cần phải học tập và hiểu rõ ý

nghĩa những vấn đề thuộc về nghi lễ trước khi hành lễ.

Nghi lễ Phật giáo chính là sự thực hành nghi thức tôn giáo mang đặc

trưng của đạo Phật. Theo tác giả Hoằng Quảng lễ nghi được hiểu ở đây là

những quy định, thiết chế mang tính khuôn mẫu, từ thường được dùng trong

kinh điển là các học pháp mà người đệtử Phật cần phải tuân theo, vâng làm.

Và như vậy, lễ nghi tương đồng với giới luật. [14] Theo Phật giáo, một người

sơ cơ quy y Tam bảo thì cần phải dạy họ nói năng thế nào, đi đứng ra sao, lễ

bái thế nào... Một đời sống chuẩn mực phải là một đời sống thấm nhuần về

đạo đức; mà muốn có đạo đức thì phải sống theo giới luật. Và sự hiện hữu của

giới luật đã đồng thời xác tín sự xuất hiện của nghi lễ. Với một người cư sĩ

nói chung, thì sống và hành xử theo những thiết chế lễ nghi được Đức Phật

minh định có thể coi là một nét đẹp của đời sống và là phương thức sống văn

minh tiến bộ.

Hoạt động của nghi lễ Phật giáo là sự thực hành nghi lễ Phật giáo mang

tính khuôn mẫu theo quy định của pháp tu hoặc tại mỗi ngôi chùa, ngoài tham

gia những hoạt động Phật giáo, Phật tử còn tham gia những hoạt động thiện

nguyện được tổ chức bởi các ngôi chùa mà mình tín tâm.

Đạo phật tuy không phải là một tôn giáo chỉ chú trọng về phương diện

nghi lễ mà đưa người vào đạo phật một cách dễ dàng. Ví dụ : cầu an cho

người bị hoạn, tai nạn. Cầu siêu bạt độ cho kẻ lâm chung,.. Đó là những

phương tiện thực tế để điều hòa lý trí, gieo rắc tình cảm cho con người, an ủi

8

tinh thần cho người còn cũng như kẻ mất.

Tiếp đến là khái niệm của từ “cầu an”, từ “cầu” có nghĩa là theo đuổi,

tìm kiếm, mong ước, cầu xin, thỉnh cầu, theo đuổi công việc hết sức trọn vẹn,

kết thúc hoàn chỉnh hoàn thành.[5,55]. Theo Phật giáo thì từ “Cầu” ở đây

không phải là cầu xin, là van xin, là quỵ lụy trước một đấng thần siêu hình có

khả năng hô mưa gọi gió, ban ơn giáng nạn mà được hiểu trong từ cầu

nguyện, cầu xin hay ước nguyện - một trạng thái tâm lý mong mỏi một điều gì

đó sẽ được thực hiện, sẽ được thành tựu hay diễn ra theo chủ ý của người

mong đợi. Nó phản ánh một thái độ mong chờ một sự kiện diễn ra theo chủ ý

của người có ước mong. Còn từ “an” thường được hiểu là an yên, bình an, an

lành,… – là một trạng thái tâm lý mà ở đó tâm ta được thấy thanh thản, không

lăn tăn suy nghĩ, lo sợ về miếng cơm, manh áo, được an yên về cả thể chất lẫn

tinh thần. “An” ở mỗi con người là thân an, có nghĩa là khỏe mạnh, sống lâu,

không bệnh tật, không tai nạn, rủi ro…, tâm an - trạng thái tinh thần thanh

thản, thoải mái, không lo âu phiền muộn, không sợ hãi, khủng hoảng, không

căng thẳng bức bối…, hoàn cảnh an - gia đình ấm no hạnh phúc, điều kiện

sống, hoàn cảnh sống tốt, các mối quan hệ tốt đẹp, gặp nhiều thuận duyên

trong cuộc sống…

Ví dụ như ai đó mơ ước học giỏi thì không thể chỉ ngồi đó mà ảo vọng từ

năm này qua năm khác, mà phải cần nỗ lực học tập thì ước mơ đó mới có thể

thành sự thật; hay ai đó mong muốn có một cuộc sống đầy đủ thì không thể

lười biếng, phải hết lòng làm việc dựa trên khả năng, sức lực và nhân đức của

mình thì mong muốn ấy mới không còn là giấc mơ, nó sẽ thành sự thật, ai

đómong muốn có một cuộc sống đầy đủ thì không thể lười biếng, phải hết

lòng làm việc dựa trên khả năng, sức lực và nhân đức của mình thì mong

muốn ấy mới không còn là giấc mơ, nó sẽ thành sự thật. Cũng như vậy, khi

nguyện vọng, ao ước về một cuộc đời bình an cả vật chất lẫn tinh thần thì

mình phải biết cách sống trọn vẹn với tâm nguyện đó. Phật tử phải thành tâm

9

sám hối, bỏ ác làm lành, làm nhiều phật sự và thiện sự như phóng sinh, bố thí,

cúng dường Tam bảo,... hồi hướng công đức ấy cho việc gia đình và bản thân

tai qua nạn khỏi, khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm.

Có thể nói cầu an chính là cầu nguyện cho người thân, cho chúng sinh và

cho bản thân mình được yên lành, an vui, không bệnh tật hoạn nạn, khổ não.

Để có được những điều đó, theo đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời

sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an

yên, chính niệm và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại. Không hoài

vọng về quá khứ để thoát khỏi thế giới kinh nghiệm đau thương. Không hoài

vọng về tương lai để không lo âu và sợ sệt. Sống một cách sáng suốt, bình

thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống được như vậy

thì lúc nào cũng "an" lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc, không cần

cầu nguyện và mong mỏi cũng được. Trái lại, nếu chúng ta sống buông lung,

sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các điều thiện, trái lại rơi vào con đường tội

lỗi thì dù có cầu nguyện bao nhiêu cũng không thể an ổn được.

Theo một số tín đồ Phật giáo, nếu như cầu an không đúng pháp là cầu an,

chỉ cầu cho vui lòng thân nhân của người bệnh, hay làm lấy lệ bài bản theo

nghi lễ cầu an cho xong chuyện. Trong lúc vị chủ lễ dâng lời cầu nguyện thì

người tham dự bận lo nghĩ chuyện khác, đủ thứ vọng tưởng chi phối. Đôi khi

họ không biết người bệnh hay người quá cố là ai. Cung cách cầu an hay cầu

siêu này, người đời thường dè bỉu là "cầu an hay cầu siêu xã giao" nghĩa là

làm để trả nợ cho người sống hay làm cho người sống an lòng. Người chủ lễ

và người tham dự cầu an hay cầu siêu không ngoài mục đích là giúp nạn nhân

an tâm thoát khổ vậy mà chính tâm của họ đang bất an, đang nghĩ tưởng lung

tung tạo thành một dòng năng lượng tạp niệm... thì khoá lễ này hoàn toàn thất

bại, không mang sự ích lợi nào cho người bệnh hay người mất.

Ví dụ: Người thân của xếp mình bị bệnh nặng. Sếp thông báo xin Lễ Cầu

An cho thân nhân của xếp tại ngôi chùa nào đó. Mình là nhân viên của sếp

10

hay là người có liên hệ làm ăn với sếp, mình đến tham dự Lễ Cầu An để làm

đẹp lòng sếp. Vì nếu đồng nghiệp đi mà mình không đi thì sợ sếp ghét sẽ "đì"

mình, cho nên mọi người cùng đến tham dự Lễ Cầu An, nhưng bằng cái tâm

hời hợt lo ra như thế thì đâu tạo được năng lượng tốt đẹp gì để giúp cho người

bệnh qua cơn hiểm nghèo.

Một số khác lại cho rằng cầu an là một hình thức tín ngưỡng có từ ngàn

xưa, khắp nơi trên thế giới dưới những biểu hiện khác nhau tùy theo từng

vùng văn hóa và dân tộc. Đối với Phật giáo,việc cầu an chỉ là một hình thức,

quan trọng là mình muốn an thì phải sống bằng cái tâm, bằng con tim yêu

thương, biết giúp đỡ mọi người, sống thiện lương, giữ gìn thân khẩu ý, không

tạo nghiệp, sống một niềm vui chính niệm an lạc trong giây phút hiện tại. Lễ

cầu an có thể diễn ra ở tại gia và mời chư Tăng đến tiến hành nghi thức cầu an

đúng pháp, tụng kinh, niệm Phật. Nghi thức nên đơn giản, không quá cầu

kỳ. Điều quan trọng là người tham gia phải thành tâm sám hối, bỏ ác, làm

lành. Lễ cầu an cũng có thể tổ chức ở chùa, nơi có cảnh trí yên tĩnh, càng làm

cho nội dung của các nghi thức trên thêm phần trang nghiêm và thể hiện lòng

thành tín.

1.2. Nghi lễ cầu an trong kinh điển của Phật giáo Đại Thừa

1.2.1. Nội dung và cách thực hành nghi lễ cầu an theo quan

niệm của Phật giáo Đại Thừa

Lễ nghi trong phật giáo là để bày tỏ lòng thành kính đối với các bậc đáng

tôn kính như Tam Bảo, ông bà , cha mẹ và tất cả những người thân kẻ sở đã

qua đời của mình. Hiến dâng lên lễ vật không cốt mong người đã mất hưởng

mà còn để bày tỏ lòng kính mến của mình để nhớ ơn và để phát nguyện làm

những điều tốt lành mà những người đi trước đã làm. Điều này chỉ là những

biểu hiện tùy theo truyền thống và văn hóa của mỗi dân tộc có ảnh hưởng tư

tưởng hiếu niệm trong Phật giáo. Như thế hình thức này cần nên đơn giản

11

nhưng phải trang nghiêm thành kính.

Nghi thức trong các khóa lễ của phật giáo thường có bốn phần

• Phần 1 : Tách bạch : gồm cả phần niệm hương, cúng dường Tam Bảo.

Phần này như một lời trình về duyên sự của buổi lễ, đây cũng là phần khởi

đầu của tất cả buổi lễ.

• Phần 2 : Lễ Tam Bảo : gồm phần xưng tán và lễ Tam Bảo. Tất cả các

thời khóa đều có phần này dù đầy đủ hay giản lược.

• Phần 3 : Kinh Văn : gồm những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh

thần của các khóa lễ đã xướng trong lời tác bạch. Phần này có thể linh

động. Vị chủ lễ có thể chọn những bài kinh thích hợp với thời giờ, hoàn

cảnh và căn cơ của những người tham dư khóa lễ.

• Phần 4 : Hoàn Kinh : là phần sau cùng của mỗi khóa lễ với Bát Nhã tâm

kinh , hồi hướng, phục nguyện và tự quy tam tự quy y.

Tùy theo mỗi hệ phái phật giáo mà các phần 1,2,4 có thể khác nhau về

những hình thức, lễ nghi có thể khác nhau nhưng nhìn chung vẫn có sự thống

nhất, vẫn giữ được sự trang nghiêm và hướng về phật.

a. Nội dung nghi lễ cầu an của phật giáo Đại Thừa

Nghi lễ cầu an đầu năm là một trong những nghi lễ quan trọng của phật

giáo nên nó cũng không nằm ngoài những nghi quy của phật giáo, nghi lễ cầu

an vẫn phải có đầy đủ bốn phần đầy đủ như những lễ nghi khác của phật giáo

như là tách bạch, lễ tam bảo, kinh văn và hoàn kinh.

Khóa lễ cầu an này thường được tổ chức vào tháng giêng âm lịch. Khóa

lễ được diễn ra một cách uy nghiêm và trang trọng tại ban Tam Bảo và

thường có

• Chủ lễ (chủ sám) : là người hay mặt toàn thể kinh sư và gia chủ thưa

thỉnh, điều khiển buổi lễ. Chủ lễ thường là sư trưởng của chùa, có thể là

12

thượng tọa, bậc đại đức, hòa thượng, trưởng thượng,… Trước khi lễ phải sắp

xếp, kiểm soát kinh sách, kinh sư, gia chủ, lễ vật và sớ điệp với sự phụ giúp

của công văn, phân nhiệm, mời thỉnh hay cắt cử nhân sự cho buổi lễ. Trong

khi hành lễ, chú tâm hướng thượng, quán chiếu, trình thỉnh, tán tụng với lòng

chí thành. Tư cách khiêm cung, kính cẩn, tránh lời nói hay hành động thô,

ngoài cuộc lễ. có trách nhiệm hướng dẫn buổi lễ từ lúc bắt đầu đến lúc hoàn

tất. Một sự việc vô cùng nghiêm trang kính cẩn. Thông thường ở chốn thiền

môn, tịnh viện ngày trước được giao phó cho một số thầy chuyên môn cung

hành nghi lễ, nên việc lễ lạy rất long trọng, hài hòa phát triễn tốt đẹp. Tình

trạng ngày nay, qua chiến tranh lâu dài, chúng ta tỵ nạn nơi xứ lạ quê người.

Phần nghi lễ truyền thống đã phần nào bị biến chất hoặc không được đào

luyện đến nơi đến chốn nên việc hành trì có rất nhiều thiếu sót. Chúng tôi một

số cư sĩ có may mắn học được từ quí thầy nghi lễ ở quê nhà từ xưa. Xin trình

bày một số nét căn bản phải làm của một chủ sám, tạm thời ứng phú đạo

tràng.

• Cử chuông (duy na) : hay còn được biết đến là người đánh chuông

trong buổi lễ. Kiểm soát kinh sách, pháp khí (chuông), chuẩn bị nhang đúng

chỗ, đúng lúc để buổi lễ được uy nghiêm, thanh tịnh. Đại chúng thi lễ theo

tiếng chuông như mệnh lệnh. Tránh điểm tiếng chuông khi chưa dứt câu,

thường gọi là đánh chuông vào họng. Phụ giúp chủ lễ thỉnh diên hai hay phần

duy nguyện, tiếp hơi,…

• Cử mõ (duyệt chúng) : là người đánh mõ trong buổi lễ.Kiểm soát kinh

sách, pháp khí (mõ), chuẩn bị nhang cho chủ lễ. Thông thường duy na đốt

nhang cho chủ lễ, duyệt chúng nhận nhang từ chủ lễ cấm vào lư hương sau

khi chủ lễ kỳ nguyện xong. Tư thế đứng, cầm dùi mõ nghiêm trang. Xử dụng

mõ đúng bài bản; thông thường mõ giữ đều về trường canh và cao độ (lớn

nhỏ), chỉ thay đổi khi cần, không nên tùy tiện làm mất tính cách thiền vị trong

13

buổi lễ. Phụ chủ lễ thỉnh diên ba hay phần duy nguyện, hòa, tiếp hơi...

• Kích tử : là người sử dụng tan, linh,.. Tùy theo bài bản của buổi lễ, mục

đích làm tăng phần uy nghiêm, trang trọng của buổi lễ. Cần được thực tập

nhiều, tránh lắc người, nhảy nhót, đứng nghiêng một bên.

• Công văn : là người có nhiệm vụ thiết lập bàn lễ, sớ điệp.Một chức vụ

nặng về công việc nhưng nhẹ về hình thức, ít ai biết và hiện nay hầu như các

nơi hành lễ đã không mấy để ý phần việc nầy nhiều nên các buổi lễ trở nên

đơn điệu, thiếu sót.Thường công văn phải tìm hiểu hoàn cảnh của gia chủ để

cố vấn cách hành lễ. Sau khi phối hợp bài biện lễ xong, công văn phải hoàn

thành bản văn dâng cúng gọi là sớ, điệp...

• Kinh sư : gồm những người tham gia hộ niệm, góp nguyện lực. hất tâm

thành kính tụng niệm và sẵn sàng giúp đỡ xử dụng pháp khí để buổi lễ tăng

thêm nguyện lực.

Ðể có những buổi lễ trang trọng , chúng ta cần phải có một ban nghi lễ

đơn giản như trên, nhưng phải thành thục khoa nghi.

Ngoài những tổ chức thực hiện khóa lễ cầu an còn có những người

tham dự khóa lễ. Những người này có thể là bất kỳ ai, già trẻ lớn bé,

không kể sang nghèo hay đã quy y hay chưa quy y, tất cả mọi người đều

có thể tham dự khóa lễ này bởi lẽ Phật thương chúng sinh như mẹ thương

con, chúng sinh nhớ Phật như con nhớ mẹ, chính vì vậy nên chỉ cần có

tâm hướng Phật, thành khẩn với đầy đủ đức tin đều có được sự cảm ứng

gia hộ của Chư Phật và Bồ Tát.

Việc sửa soạn đi lễ chùa, sắm lễ vật để đi lễ chùa cũng có những quy

định mà người hành lễ phải tuân thủ như là Đến dâng hương tại các chùa chỉ

được sắm lễ chay: hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè,… Không

được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả,...

14

Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cùng lên bàn thờ Phật. Hoa

tươi lễ Phật là: Hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, không dùng các

loại hoa tạp, hoa dại.

Về hương cúng dàng, người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9)

lúc thắp nhang, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm nhang chứ

không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng,

số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn. Con số 3 thì có nhiều quan niệm

khác nhau: Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) , Tam giới (Dục giới, sắc giới và Vô

sắc giới) , Tam thời (Quá khứ, Hiện tại, Vị lai) ,Tam vô lậu học (Giới, Định,

Tuệ). Nén hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp

hương để nhớ đến sự vô thường. Vô thường là không vĩnh viễn, tất cả đều giả

tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt,

ngắn ngủi vô thường... Tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta chớ để thời gian

trồi qua, uổng phí tháng ngày. Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong

sáu lễ vật dâng cúng, gồm có: Hương, hoa, đăng (đèn), trà, quả, thực (thức

ăn). Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật

nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, không những uổng phí mà lại còn

làm sai lạc ý nghĩa.

Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương

nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá linh đình vì đúng ý nghĩa sự

cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái ngọt, nưóc

trong là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở

trong tâm của con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt

cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén tâm

hương - tức là hương từ trong tâm. Bởi vậy mới có năm thứ hương dùng để

cúng dường chư Phật: Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương

15

và giải thoát tri kiến hương.

b. Nghi thức thực hiện khóa lễ cầu an đầu năm của Phật giáo Đại thừa

Mỗi thầy mỗi phép, mỗi chùa mỗi cách lễ, mỗi khóa lễ lại có những cách

thực hành nghi lễ theo cách khác nhau với những bài kinh kệ phù hợp với

mục đích thực hiện khóa lễ. Tuy nhiên, dù có sự khác nhau giữa các chủ lễ,

giữa các chùa, giữa các vùng nhưng luôn có sự đồng nhất, thống nhất chung

nhất định. Lễ cầu an cũng vậy, tuy mỗi nơi mỗi khác nhưng vẫn luôn tuân thủ

thực hiện đầy đủ nghiêm trang những bước căn bản, cốt lõi của khóa lễ, thời

kinh. Mỗi một nghi lễ sẽ có những văn sớ riêng, tùy theo mục đích của khóa

lễ mà sẽ có thời kinh phù hợp. Khi thực hiện lễ cầu an, chủ lễ có thể đọc kinh

cầu an, kinh Phổ - Môn, kinh dược sư,….nhưng chủ yếu những vị chủ lễ hoặc

chủ sám thường tụng kinh Phổ - Môn, kinh Dược – Sư.

• Khi bước vào buổi lễ, trước hết phải chuẩn bị kỹ càng về nhang, đèn,

hoa quả, mâm chay, đồ lễ,… trên bàn Phật,sau đấy chủ lễ sẽ bắt đầu đỉnh lễ

Tam Bảo với toàn bộ sự cung kính kính lạy Phật pháp tăng ở khắp mười

phương.

• Tiếp đến là dâng hương, hương hay còn được gọi là nhang hoặc thượng

hương, khói hương tỏa nghi ngút làm tăng sự trang nghiêm của ngôi chùa

cũng như buổi lễ. Nhà Phật cho rằng hương có thể làm tăng thiện căn của

chúng sinh, đồng thời mượn khói hương để truyền đạt thông tin đến chư Phật

và chư Bồ Tát, tâm hương chính là dùng cái tâm chí thành của mình để trực

tiếp đối diện với Phật. Trước tiên phải đốt 3 Lần nén hương, dùng ngón giữa

và ngón trỏ của hai bàn tay kẹp lấy phần thân hương, ngón còn lại chống ở

phần cuối cây nhang, đặt nhang trước ngực, đầu nhang hướng về phía tượng

Phật hoặc Bồ Tát, tiếp đó đưa hương lên cao ngang mày rồi đặt về phía trước

ngực, sau đó dùng tay trái phân nhang ra cắm. Cây nhang đầu tiên đặt chính

giữa, khi cắm trong lòng phải thầm niệm: “cúng bái mười phương thế Tam

Bảo” , cây nhang thứ 2 cắm bên phải, lúc cắm thầm niệm : “cúng bái sư

16

trưởng cha mẹ”, cây nhang cuối cùng cắm bên trái, khi cắm thầm niệm :

“cúng bái mười phương pháp giới tất cả chúng sinh”. Tuy nhiên, tùy mỗi

hoàn cảnh, mỗi vị chủ lễ mà nội dung quán trưởng thầm niệm khi dâng hương

khác nhau, có thể có người nén hương đầu cúng Phật, nén thứ 2 cúng pháp,

nén thứ 3 bái tăng,…tất cả đều sử dụng được. Sau khi cắm hương, chắp tay

khấn cầu : “Nguyện rằng làn hương sẽ bay thẳng đến nơi chư Phật cư ngụ,

cầu đại từ bi, ban niềm vui cho chúng sinh” hoặc xướng tụng bài “Hương kệ”.

[8,31]

• Sau đấy đến nghi thức thỉnh chuông mõ hay khai chuông mõ. Ở trong

Chùa chuông luôn luôn để bên tay trái của tượng Phật hay Bồ Tát, mõ bên tay

phải. Người thỉnh chuông sẽ thỉnh 6 tiếng chuông với ý nghĩa giữ cho sáu căn

thanh tịnh để tụng kinh. Mỗi khi người chủ lễ, chủ sám vái hoặc lạy, thỉnh 1

tiếng, khi vị chủ lễ lạy xuống, thỉnh một tiếng chuông và khi trán vị chủ lễ

chạm nền chính điện thì dập chuông (dùng dùi gõ vào vành chuông rồi giữ

dùi chuông lại trên vành chuông, như thế âm thanh của chuông không vang

ra). Khi nghe được tiếng dập chuông thì chủ lễ và đại chúng cùng tham dự

đứng lên.Tiếng chuông phát ra âm thanh lắng động, đêm khuya nghe tiếng

chuông lòng chúng ta sẽ lắng động, thanh thản, phiền não dường như tiêu tan.

Ở trong chùa có bài kệ khi thỉnh chuông như sau:

Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,

Thiết vi u ám tất giai văn,

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,

Nhứt thiết chúng sinh thành chính giác.

Bài kệ đọc khi nghe có tiếng chuông:

Văn chung thinh phiền não khinh,

Trí huệ trưởng Bồ đề sinh,

Ly Địa ngục xuất hỏa khanh

Nguyện thành Phật độ. chúng sinh

17

Án Dà Ra Đế Da Ta Bà Ha (3 lần)

(Nghĩa là: Nguyện cho tiếng chuông này vang khắp nơi, ở Địa ngục u

ám Thiết vi cũng được nghe, ở trần thếđược thanh tịnh chứng quả, hết

thảy chúng sinh đều thành chính giác và bài kệ sau: Nghe tiếng chuông, phiền

não nhẹ đi, trí tuệ tăng trưởng thêm, sinh tâm Bồ đề, rời khỏi địa ngục, không

bị lửa địa ngục thiêu đốt, nguyện thành Phật để độ hết chúng sinh.)

Chuông thỉnh trước: thỉnh 3 tiếng chuông

Mõ gõ sau khi chuông chấm dứt: thỉnh 7 tiếng mõ (bốn tiếng rời, tiếp

theo hai tiếng liền nhau, cuối cùng một tiếng rời ra)

Sau đó chuông mõ hòa nhau như sau: 1 tiếng chuông 1 tiếng mõ 1 tiếng

chuông 1 tiếng mõ 1 tiếng chuông 3 tiếng mõ 1 tiếng chuông

Chuông thỉnh một tiếng rồi mõ tiếp theo một tiếng, chuông đủ ba tiếng

ngưng chờ, mõ đánh thêm tiếng thứ tư, tiếng thứ năm và sáu liền nhau, rồi

chuông dập cùng lúc với tiếng mõ thứ bảy.

• Chủ lễ tụng bài tán Phật với ý nguyện xưng dương công đức của Phật,

tán thân tướng tốt của Phật, xưng dương các thứ mỹ đức của Phật, tán thán

các thứ diệu hạnh của Phật. Như trong kinh có ghi “Bấy giờ vua Ba Tư Nặc

thỉnh Phật và Tăng chúng vào cung thọ trai. Khi ấy có một thầy Tỷ kheo,

miệng thở ra thơm như hoa sen. Vua sinh tâm nghi hoặc, sợ quyến rũ người

trong cung, vua sai bảo thầy Tỷ kheo súc miệng, thầy Tỷ kheo càng xúc

miệng càng thơm. Vua thân hành đến thưa Phật, Phật xác chứng rằng: Trong

vô lượng kiếp về trước, thầy Tỷ kheo này, thường thăng tòa tán thán về công

hạnh chư Phật khắp mười phương, bởi do nhân duyên này, nay được quả báo

thù thắng”. Chúng ta thấy rõ nhân quả rất là tương ứng, khi ta tán thán ca ngợi

công hạnh của người nào đó, bằng vào tấm lòng từ bi - hỷ - xả, thì chính

trong giờ phút thực tại này, từ nơi năng lực của tự thân, phát khởi chất liệu an

vui hạnh phúc, chính nhờ vào năng lực này, nó đi theo chúng ta từ đời này

sang kiếp khác. Đây chính là hạt giống thiện pháp, gieo vào trong tâm thức

của chúng ta. Do đó mỗi một lời nói, một ý nghĩ ta phải luôn luôn chính niệm

18

và tỉnh giác, cẩn trọng trong từng lời nói.

• Tiếp đến là 3 lần Nhất tâm đỉnh lễ với kinh Phổ Môn hoặc 9 lần nhất

tâm đỉnh lễ với kinh Dược Sư - một lòng, với thân, khẩu, ý thanh tịnh con xin

cúi đầu quỳ lạy. Mỗi lần nhất tâm đảnh lễ như vậy xong, chủ sám đứng lên

lạy 1 lạy và tất cả đại chúng đằng sau cũng như vậy, lúc đỉnh lễ 2 tay phải

chắp khép lại như hoa sen búp, tuyệt đối không nên để ở giữa trống. Đại Giải

Thoát Kinh chép: Như hoa sen búp 2 tay chắp khép lại, vô lượng thân nhóm

họp đỉnh lễ 10 phương Phật, đỉnh lễ là để đối trị ngã kiến, ngã mạn của chúng

ta, mượn hình thức bên ngoài để rèn luyện bản thân, khiến cho chúng ta tiêu

trừ kiêu mạn, còn Ấn Quang Đại Sư Văn Sao chép: Cúi đầu đỉnh lễ đây cũng

là một phương pháp tốt để rèn luyện thân, như giảm béo, và giúp cho thân thể

kiện khang, đây cũng chính là tác dụng phụ của việc cúi đầu đảnh lễ.Kính

lễchúng ta thấy chỉ là hình thức bên ngoài nhưng hàm tàng bằng tất cả lòng

thiết tha ngưỡng mộ. Do vậy, khi đỉnh lễ chúng ta phải thể hiện được tinh

thần đó. Đây cũng là một nét đẹp trong tín ngưỡng, đỉnh lễ cũng giúp ta đưa

tâm trở về với thực tại bình an, nhận diện rõ rệt được sự mầu nhiệm của sức

sống nội tâm.

• Trong nghi thức cầu an đầu, mong muốn một năm mới tốt đẹp hơn, yên

hàn về tâm trí lẫn cơ thể, mọi chuyện thuận buồm xuôi gió. Tuy nhiên không

thể thiếu được phần sám hối. Trong suốt năm cũ, bản thân ta đã xảy ra nhiều

va chạm trong cuộc sống để bảo vệ sinh tồn, có thể đã gây ra những sự việc

đáng tiếc, không hay trong thân, khẩu , ý. Sang năm mới, mình sám hối trong

từng ý nghĩ, việc làm, lời nói những việc làm xấu trong năm cũ với cửa Phật,

với tổ tiên, sang năm mới xin không phạm phải những lỗi cũ. Mong tâm niệm

thanh tịnh, cao đẹp, có những ý nghĩ tốt đẹp, nói không với ác khẩu, không

nói vọng ngôn, nói những điều xấu gây chia rẽ nội bộ, chỉ nói lời chính ngữ.

Không sát sinh, sống hòa bình, không phạm tà dâm ngũ giới. Tất cả luôn phải

khắc phục những mầm mống gây họa, luôn phải phòng hộ những điều sai,

không được làm những điều ác, giữ cho mình không được phạm vào 3 nghiệp

19

: thân, khẩu, ý. Nhưng không chỉ sám những việc đã làm sai trong năm cũ,

mong năm mới không phạm phải những lỗi ấy nữa, giữ thân không làm điều

xấu là đủ mà còn phải làm nhiều việc thiện thì mới trọn vẹn.

• Lúc này, khói hương đã bốc nghi ngút, chủ sám sẽ vào bài “Hương tán”

hoặc “Hương kệ” để nói đến hình dạng của khói hương giống như những

đám mây. Trong kinh Phật, “Trong số các loại hương thì hương vân có uy

thần nhất”, nhà Phật luôn cho rẳng hương chính là biểu tượng thành kính nhất

của tín đồ trước Chư Phật và Bồ Tát, thông qua việc đốt hương mà đạt đến

cảnh giới “Chư Phật hiện toàn thân”. Tiếp sẽ tụng những bài chân ngôn, thần

chú làm sạch nghiệp, an thổ địa, phả cúng dàng, … ngoài ra riêng với kinh

Phổ Môn còn tụng thêm chân ngôn như là “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại

Bi Tâm Đà La Ni”, “Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni”, “Tiêu tai cát tường

thần chú”,…

• Khi bắt đầu vào Kệ khai kinh, dù là kinh Phổ Môn hay kinh Dược Sư

trước khi vào bài kinh đều phải có câu dẫn

“Pháp Phật cao sâu rất nhiệm màu

Muôn đời khó gặp dễ hay đâu

Con nay nghe thấy được trì thụ

Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu sâu.

Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.” [9,67]

Lặp lại liên tục 3 lần với thỉnh 3 chuông ở cuối mỗi bài dẫn. Sau đó vị

chủ sám sẽ tụng bài kinh phù hợp với buổi lễ, ví như kinh Phổ Môn thì tụng

“Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” phẩm “Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát” , kinh

Dược Sư thì tụng bài kinh nói về công đức bản nguyện của Đức Dược Sư Lưu

Ly Quang Như Lai.

• Một phần quan trọng trong thời kinh đó là tụng kinh Bát Nhã Ba La

Mật Đa, bản kinh này do Đức Thế Tôn nói mà điều đẩu tiên Ngài nói đến vị

Bồ tát Quán tự tại tức Quán Thế âm rằng Bồ tát do hành trì một cách thâm sâu

phép Bát nhã Ba la mật mà thấy chân tướng của các pháp và đạt được vị quả

20

bồ đề và các chư Phật ba đời đều nương vào pháp Bát nhã Ba la mật đa để đạt

đến giải thoát và giác ngộ tức chứng được quả vô thượng bồ để và khuyên

mọi người con Phật hãy mau mau tu chứng vì kinh và chú Bát nhã rất là diệu

dụng cứu cánh, giúp người tu hành mau lên bờ giác.Có tụng Bát Nhã Tâm

Kinh mới mở lối cho ta sám hối những ác nghiệp trước kia, mới có đủ duyên

để hồi hướng về chư Thiện Thánh hiền, Già lam Hộ pháp, Long thiên và cho

mọi chúng sinh trong tất cả các cõi.

• Tiếp theo là niệm những kệ niệm phù hợp theo từng bài kinh, đối với

kinh Phổ Môn thì là “Kệ niệm Bồ Tát Quán Âm” , kinh Dược Sư là “Kệ niệm

Phật”. Niệm Phật chính là con đường nhanh nhất để thoát khỏi vòng luân hồi

đau khổ của cõi Ta Bà, do đó, phương pháp tu tập này trở thành một trường

phái phổ biến nhất trong Phật giáo hiện đại.

• Sau cùng tất cả, chủ sám cùng toàn thể đại chúng sẽ tụng bài kệ hồi

hướng - có nghĩa là gom về, là một phương pháp đem công đức niệm Phật,

niệm kinh gom về một nơi. Gom về việc cầu sinh về Tây Phương Cực Lạc thế

giới. Vì thế, người học Phật phải nên đem hết công đức hồi hướng vãng sinh

Tây Phương thì lúc lâm chung mới có hy vọng được sinh về Tây Phương Cực

Lạc thế giới. Nhưng niệm bài kệ Hồi Hướng cũng giống như niệm Phật từng

câu phát xuất từ nội tâm, chẳng thể niệm xuông nơi cửa miệng được.

• Phần sau là Tam tự quy và xin lạy Chư Thánh Hiền. Chúng sinh xin

được quy Phật với mong cầu thấu hiểu đạo lớn, phát tâm vô thượng, quy Pháp

với mong cầu thông thuộc Kinh Tạng, trí tuệ như biển và cuối xin được quy

Tăng với mong cầu chúng sinh được hòa hợp đại chúng. Lạy Chư Thánh Hiền

không phải điều gì xa lạ với chúng ta, thậm chí đã trở thành một nhu cầu thiết

yếu trong cuộc sống của những người Phật tử,ta tin Phật, ta cảm mến ân đức

vô lượng của ngài đối với chúng ta, cảm mến trí tuệ tuyệt vời và công đức vô

biên của ngài, mà hằng ngày gần gũi tôn tượng của ngài để lễ lạy và xưng tán,

để tụng đọc kinh văn, làm cho những lời dạy có giá trị vượt thoát thời gian

của Chư Thánh Hiền thấm sâu vào từng tế bào của cơ thể làm nên sự sống

21

tươi đẹp và bình an ngay trong đời sống này.

• Mỗi một người, một gia đình tín chủ khi đăng ký lễ cầu an đều được

chùa viết cho một tấm lá sớ cầu an với văn cầu an , cầu tiêu tai ương, nghiệp

chướng, giảm hết phiền não, tăng tuổi thọ ,… ngoài ra nếu chùa tụng kinh

Dược Sư thì lá sớ cầu an sẽ được thay bằng văn cầu an đảo bệnh với mong

cầu bách bệnh tiêu tán, tự tại an tâm,…

• Sau cùng, kết thúc một khóa lễ được trọn vẹn, các thầy trưởng hoặc vị

chủ lễ sẽ đọc bài tuyên biểu như một lần nữa nhấn mạnh lời thỉnh cầu của

chúng sinh đến với Đức Phật, cầu mong cho được sở nguyện ý cầu, khấn xin

Đức Phật cứu độ chúng sinh.

Khi tham lễ cầu an mọi người sẽ được sống với những phút giây chính

niệm, quán tưởng làm theo những lời răn dạy của Phật,trong giây phút ấy bản

thân mỗi người từ suy nghĩ đến hành động đều một mực giữ gìn, không tạo

những điều xấu, ác để một năm mới được bình an. Biết sống theo lời Đức

Phật dạy chính là đang gieo cái nhân bình an cho cuộc đời chúng ta. Đã gieo

trồng bình an như thế thì cây phước đức của ta sẽ ngày một lớn mạnh hơn.

c. Những điều cần lưu ý khi hành lễ

Trong khi thực hiện nghi lễ có những điều căn bản cần lưu ý đó là cung

cách hành lễ và âm điệu của buổi lễ. Phật giáo luôn có chủ trương tĩnh lặng,

tư duy và chuyển hóa lắng dừng các tư tưởng loạn động, để tập trung vào một

cảnh giới, một đối tượng để chuyển hóa ác nghiệp thành thiện nghiệp, để đạt

tới giác ngộ và giải thoát.

*Âm điệu của buổi lễ cầu an

Để buổi lễ đạt kết quả cao nhất thì âm điệu của buổi lễ phải trầm hùng,

tha thiết và thành khẩn. Âm thanh của pháp khí phải dược điều hòa trầm bổng

để tăng phần trang nghiêm và linh cảm trong buổi lễ cần phải có những pháp

khí để làm phương tiện hỗ trợ trong các buổi lễ như chuông và mõ. Khi nghe

22

được tiếng chuông, mọi người sẽ cảm thấy tinh thần được an lạc, thư thái vì

chuông có năng lực làm cho người sống được an yên, người khuất được siêu

thoát. Tiếng chuông cảnh tình luôn thong thả đều đặn, trầm ấm, nếu tiếng

chuông dồn dập làm tâm loạn thì nhất định đấy không phải tiếng chuông

chùa. Ngoài ra, khi tiếng kinh được hòa theo tiếng mõ, sâu sắc, trầm lắng , đại

chúng sẽ lắng dừng được các si mê vọng tưởng, mở rộng đôi mắt tuệ nhìn

thẳng vào nội tâm của mình để chuyển ác nghiệp thành chất thiện nghiệp, để

biến khổ đau thành an lạc, biến thế gian này thành Niết bàn.

Ngoài những âm điệu của pháp khí, Phật giáo còn rất coi trọng thanh

giọng của đạo tràng. Thanh giọng chính của việc tụng kinh là thanh giọng

trầm. Trong cách hành trì, truyền thống Tịnh độ tong, Mật tông và Thiền tông

đều đã triển khai các phong cách tán tụng và hình thành lên một nền lễ nhạc

Phật giáo phong phú. Căn bản của các điệu tán tụng vẫn là lấy thanh âm trầm

ấm làm âm thanh căn bản và nhịp điệu đều đặn theo nhịp của tim và của hơi

thở trong mục đích an tâm. Thỉnh thoảng cũng có khi vị chủ sám xướng giọng

cao nhưng việc đó chỉ là để gia tăng sự hùng lực của buổi lễ. Khi lên cao

cũng không đến mức là động tâm hay loạn tưởng. Tựu chung lại có một làn

điệu căn bản trong các cách tán của Phật giáo Việt Nam đó chính là làn hơi

trầm ấm nhịp nhàng với âm điệu giải thoát, khiến người nghe tỉnh ngộ, phát

tâm hướng thiện.

* Cung cách hành lễ

Để lời nguyện cầu của chúng ta có thể truyền tải được đến Đức Phật thì

cần phải chú ý rất nhiều trong cung cách hành lễ, cần bày tỏ sự thành tâm, sự

tán thán, sám hối, cầu độ,.. qua nghi lễ truyền thống.

Quý thầy đấp Pháp y vải vàng.Vì ảnh hưởng Lão giáo và Khổng giáo nên

việc hành lễ để được nghiêm trang, hài hòa và có uy tín với triều đình, thần,

23

dân, vua chúa nên dần dà được trang sức: Vị chứng minh đội nón Quan Âm.

Vị chủ sám đội nón Hiệp chưởng hoặc nón Tỳ Lư, tay cầm tích trượng tuỳ

theo buổi lễ.

Cư sĩ mặc áo tràng màu lam hay màu nâu tuỳ theo địa phương, một

phong cách nhu nhã, thanh thảng. Chúng ta nên duy trì trong các buổi lễ, tối

thiểu vị chủ sám và duy na, duyệt chúng (chuông mõ) nên mặc áo tràng.

Ngay khi bắt đầu và xuyên suốt nghi lễ, đại chúng đằng sau chủ lễ với

tâm thế trang nghiêm, thanh tịnh thực hiện nghi lễ theo sự hướng dẫn của chủ

lễ. Chủ lễ đứng phía bên chuông, quay mặt về mõ. Chủ sám luôn trang

nghiêm, thanh tịnh, bình tĩnh giữ chính niệm quán trưởng thích hợp qua từng

đoạn kinh, kệ, chú,… Tránh thái độ vội vàng, khó chịu, bất bình, nhất là hành

động bất kính và ngôn ngữ thô, lớn tiếng, ngoài cuộc lễ. Khi kết thúc, chủ lễ

vái tả hữu để tỏ lòng biết ơn: Long Thiên, Hộ pháp, Thiện thần, quý vị đạo

tràng đã bảo vệ, hộ đàn, giúp đỡ cho buổi lễ thành tựu viên mãn.

1.2.2. Đặc điểm nghi lễ cầu an của Phật giáo Đại Thừa theo

kinh điển

Cầu bình an có hai khuynh hướng: Thứ nhất là cầu an hướng nội tức là

quay về bên trong, mong cho tâm chúng ta được bình an. Thứ hai là cầu an

hướng ngoại là cầu những việc bên ngoài tâm, đó là mong cho công việc, sự

nghiệp, danh vọng, đời sống vật chất của chúng ta được hanh thông tốt đẹp.

Đa số các Phật tử về chùa chỉ để ý cầu an loại thứ hai là mong sao cho gia

đình được hạnh phúc, con cái nên người, sự nghiệp phát triển, lên lương lên

chức, danh vọng cao xa, nổi tiếng trong thiên hạ... mà ít ai để ý đến loại cầu

an thứ nhất là cầu an cho tâm hồn của mình được thanh thản bình an. Như vậy

vô hình chung, chúng ta đã bỏ gốc theo ngọn. Chúng ta quên rằng sự bình an

trong tâm hồn của con người là yếu tố cần thiết để mang lại sự bình an trong

cuộc sống đời mình. Phần đông, người ta mong cầu sự bình an về vật chất, thế

24

mà khi đạt được vật chất rồi, tâm tư của họ vẫn còn lo âu đến sự được mất,

như vậy người đó làm gì có hạnh phúc. Cầu an là tại vì tâm của chúng ta bất

an, mà tâm bất an là khổ. Nhưng tại sao ta lại khổ? Đó là tại chúng ta không

hiểu và không sống đúng với lời Phật dạy. Phật dạy gì? Phật dạy ở đời cái gì

cũng có nguyên nhân gây ra nó. Khổ cũng có nguyên nhân gây ra khổ. Chúng

ta không có tri kiến chân chính để nhìn cuộc đời này vốn vô thường, khổ, vô

ngã, nên chúng ta khổ. Vì không hiểu nên chúng ta sống không đúng với luật

tương quan nhân quả, luôn tạo nhân bất thiện đến khi quả bất thiện trổ thì

chúng ta than khổ.

Hiện nay, rất nhiều người đang có sự lầm lẫn nghi lễ cầu an với nghi

thức dâng sao giải hạn, đây là một sự lầm lẫn hết sức là nghiêm trọng bởi lẽ

hai nghi lễ này hoàn toàn khác nhau và tách biệt. “Giải hạn” là một khái niệm

không hề có trong phật giáo đại thừa cũng như tiểu thừa từ xưa đến nay. “Giải

hạn” là một nghi lễ, nghi thức của đạo giáo. Còn về lễ cúng sao giải hạn:

Hằng năm, cứ vào dịp đầu năm Âm Lịch, nhất là tuần lễ thứ hai trong tháng

Giêng mà cao điểm là ngày Rằm, người Phật tử Việt Nam và Trung Hoa

thường có lệ đi chùa dâng sớ cầu an cúng sao giải hạn. Lễ Rằm Tháng Giêng,

còn gọi là lễ Thượng Nguyên là lễ hội dân gian ở Việt Nam, được du nhập từ

nước láng giềng Trung Hoa phương Bắc. Gọi thượng nguyên là cách phân

chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung nguyên (Rằm

tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo mặt

trăng.

Theo Đường Thư Lịch Chí, quyển 18 thì có chín ngôi sao phát sáng trên

trời. Có sách nói là bảy sao, rồi về sau có sách thêm vào hai sao La Hầu và Kế

Đô. Chín vì sao đó là Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc

Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch

nữa thành mười sao1[39]. Chín vì sao này hay còn gọi là Cửu Diệu là các sao

25

phối trí theo các phương, sắp xếp theo mười hai chi và ngũhành. Theo sách

này cho rằng hàng năm mỗi tuổi âm lịch chịu ảnh hưởng của một vì sao gọi là

sao chiếu mạng.Tử vi dựa theo những chòm sao này mà cho phép luận đoán

cuộc đời con người căn cứ vào sự giao cắt của các chòm sao trong lá số Tử vi.

Theo vòng quay của sao Thái Tuế mà mỗi người sinh ra sẽ có một vì sao

chiếu mệnh tùy theo năm, mỗi năm sẽ căn cứ vào vị trí cát hung của các sao

mà luật ra số phận của người đó vào năm đó, tử vi có thể xấu hoặc có thể tốt.

Những ngôi sao xấu như Kế Đô hay La Hầu - sao xấu, là loại ám hư tinh vì

hai sao này chẳng thấy được mặt trời, những ngôi sao này thường mang lại

những điều hung, tai họa rất lớn nên người ta làm lễ cầu cúng để đề phòng bất

trắc, mong tai qua nạn khỏi.

Lễ cầu an và lễ cúng sao giải hạn là những nghi lễ đáp ứng nhu cầu của

Phật tử nhưng lại mang ý nghĩa cũng như cách thức thực hiện hoàn toàn khác

nhau. Ở mục hướng dẫn cúng sao giải hạn trong cuốn Văn khấn cổ truyền

Việt Nam, Thượng tọa Thích Thanh Duệ-Phó trưởng ban Nghi lễ Trung ương

Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã viết: Người xưa làm lễ dâng sao giải hạn tại

chùa hoặc tại nhà [Thượng Tọa Thích Thanh Duệ, 2010]. Ngoài hương hoa,

phẩm oản, tiền vàng và 36 đồng tiền, mỗi ngôi sao phải dùng số nến (xếp

theo hình sao), bài vị, mũ có màu tương ứng với ngũ hành của từng sao và lễ

theo hướng khác nhau. Ví dụ, sao Thái Dương cúng ngày 27, phải thắp 12

ngọn nến, hướng chính Đông làm lễ. Sao Thái Âm cúng ngày 26 với 7 ngọn

nến, bài vị vàng, mũ vàng, hướng chính Tây. Sao Mộc Đức cúng ngày 29, với

15 ngọn nến, bài vị đỏ, mũ đỏ, hướng Nam. Sao Kế Đô cúng ngày 18, với 21

ngọn nến, bài vịvàng, mũ vàng, hướng chính Tây... Tuy nhiên, theo kinh sách

liễu nghĩa của nhà Phật thì không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà

nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi

là cúng sao giải hạn cho Phật tử. Bởi vì, tất cả họa và phước mà con người có

được đều là do nhân quả của chính người ấy làm nên.Đức Phật dạy chúng ta

26

về nhân quả, ngài dạy rằng không có quả nào từ trên trời rơi xuống, hoặc

dưới đất hiện lên, mà đều do các hành động qua thân, khẩu và ý của con

người tạo ra. Mọi sự thành công hay thất bại trong đời của mỗi người không

phải do ai ban phát cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi

nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta tạo sẽ

trổ quả xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ quả tốt. Như vậy,bên cạnh những

nghi thức thuần túy Phật giáo, mục tiêu cuối cùng cũng vẫn là dùng phương

tiện để hóa độ chúng sinh, từ từ chuyển tâm họ quay về bờ Giác.

Còn nghi lễ cầu an lại đề cao sự giản dị, không được quá cầu kỳ, tuy

nhiên thực hành nghi thức cầu an phải đúng pháp, tụng kinh, niệm Phật ở nơi

có cảnh trí yên tĩnh, càng làm cho nội dung của các nghi thức trên thêm phần

trang nghiêm và thể hiện lòng thành tín như nhà chùa hoặc tại gia nhưng phải

là nơi trang nghiêm nhất trong gia đình. Điều quan trọng là người tham gia

phải thành tâm sám hối, bỏ ác, làm lành.

Nguyên nhân của sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm “cầu an đầu năm” và

“dâng sao giải hạn” ở đây chính là do sự tín trong tư tưởng của người dân

cùng với nhu cầu cho cuộc sống tốt đẹp hơn, khi cuộc sống của người dân gặp

khó khăn , trắc trở hay gặp một sự việc bất hạnh nào đó gây nên một sự bất an

trong tâm trí không thể giải quyết được trong thế giới hiện thực họ liền tìm

đến thế giới tâm linh với mong muốn có một sức mạnh vô hình siêu nhiên nào

đó có thể giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, cải thiện điều bất hạnh, hóa dữ thành

lành. Thuở ban đầu, mỗi khi có việc gì, nhà có đám thường thầy cúng sẽ đứng

ra làm lễ, lập đàn, cầu,cúng,… Nhưng từ khi phật giáo du nhập vào nước ta và

chiếm một vị trí quan trọng trong thế giới tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam

thì người dân ít mời thầy cúng đến nhà, thay vào đó họ thường đến chùa cầu,

cúng, bất kỳ có mong nguyện ý cầu gì đều đến chùa chắp tay cầu khẩn nhà

phật, thành tâm cầu mong phật “phù hộ độ trì”. Khi môi trường càng bất trắc

và kết quả càng bấp bênh thì con người lại càng cần đến lễ nghi, khi lòng bất

27

an mà không đâu giải quyết được theo thói quen người dân tìm đến cửa Phật,

mong nhờ Phật, tăng, sư giúp đỡ , và đến bây giờ khi đến chùa đăng ký làm

lễ, sư , tăng trong chùa thường hỏi “cầu an hay cầu siêu”, chính điều này đã

dẫn đến sự thiếu hiểu biết của nhiều người dân về bản chất của hai nghi thức

này mà gây nên,họ chỉ quan tâm đến bề nổi ý nghĩa của những nghi thức này

dâng sao giải hạn cũng là mong cho một năm bình an , tai qua nạn khỏi và cầu

an cũng là cầu mong một năm an bình mà không hiểu đến những căn nguyên

28

nội hàm của những nghi thức trên.

TIỂU KẾT CHƯƠNG I

Có thể nói cầu an chính là cầu nguyện cho người thân, cho chúng sinh và

cho bản thân mình được yên lành, an vui, không bệnh tật hoạn nạn, khổ não.

Để có được những điều đó, theo đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời

sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an

yên, chính niệm và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại tuy nhiên cũng

phải sống không buông lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, luôn làm những điều

thiện để con người không rơi vào con đường tội lỗi bởi, khi ấy thì dù có cầu

nguyện bao nhiêu cũng không thể an ổn được.

Như chúng ta đã biết, nghiệp lực có sức chiêu cảm rất mạnh mẽ, lôi ké,

dẫn dắt chúng sinh vào thế giới an lạc hay khổ đau. Nghiệp lực của thời quá

khứ định hình cho cuộc sống hiện tại của mỗi con người. Chính sức mạnh của

nghiệp ác trong quá khứ đã đem đến tai nạn cho bản thân hay gia đình trong

hiện tại. Thế nhưng, các việc làm hiện nay như Phật sự, lễ cầu an đều là

nghiệp thiện, lành có sức mạnh tiêu tội lỗi, giảm tai ương. Đối với những

hoàn cảnh đặc biệt như gia đình có người ốm đau, bệnh nặng… thì việc tiến

hành lễ cầu an, và những việc làm thiện khác để mong được phúc, tránh

họa,… là điều càng cần thiết.

Hiện nay, rất nhiều người đang có sự lầm lẫn nghi lễ cầu an với nghi

thức dâng sao giải hạn, đây là một sự lầm lẫn hết sức là nghiêm trọng bởi lẽ

29

hai nghi lễ này hoàn toàn khác nhau và tách biệt.

CHƯƠNG 2: NGHI LỄ CẦU AN Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA TRÊN

ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY

2.1. Sơ lược địa bàn nghiên cứu

Thông cáo báo chí của Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứVII

(tháng 11 năm 2012) đã viết: Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có khoảng

46.495 tăng ni và hàng chục triệu tín đồ Phật tử thuần thành tu học thường

xuyên tại các cơ sở tự viện trong cả nước. Những con số trên còn chưa kể đến

số người có tình cảm yêu mến, gắn bó với đạo Phật do truyền thống, tín

ngưỡng thờ tổ tiên của gia đình. Cũng theo như thông cáo trên, tổng số cơ sở

tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường của cả nước tính tới năm 2012 là

14.778 cơ sở. Hội Phật tửViệt Nam không chỉ bao gồm những người theo

đạo Phật ở trong nước mà còn có cả những người ở nước ngoài như ở Úc,

Pháp, Lào, Séc, Ba Lan, Đức, Hungary, Nga, Ucraina, v.v...

Riêng Phật giáo tại Hà Nội, theo báo cáo tổng kết công tác Phật sự tháng

12 năm 2010 của Thành hội Phật giáo Hà Nôi thì trên địa bàn vào cuối nãm

2010 có 29 đơn vị Phật giáo cấp quận –huyện –thị trực thuộc, số lượng tăng

ni là 2.078 vị, số lượng Tựviện có 2.059 ngôi.Tuy việc quản lý còn gặp nhiều

khó khãn do số lượng tăng ni, tự viện đông như vậy nhưng nhìn chung các

hoạt động Phật sự được tiến hành tương đối bài bản với việc giám sát, báo

cáo hàng năm các công tác tổ chức, tăng sự, an cư kiết hạ, tổ chức giới đàn.

Công tác giáo dục tăng ni và hoằng Pháp cũng đuợc quan tâm với những hoạt

động như đưa tăng ni đi học tập tại Học viện Phật giáo Việt Nam, các lớp giáo

lý cho Phật tử được tổvchức rộng rãi, nhiều lễ cầu nguyện, đêm biểu diễn văn

nghệ mừng ngày lễ của Phật giáo được tổ chức quy mô hoành tráng. Công tác

từ thiện hoạt động mạnh với số tiền làm từ thiện của Ban Từ thiện Thành hội,

Ban Ðại diện Phật giáo các đơn vị quận –huyện –thị và tăng ni trụ trì các cơ

sở tự viện lên tới hàng chục tỷ đồng mỗi năm.Nhìn chung, hoạt động Phật

30

giáo tại Hà Nội hiện nay diễn ra khá mạnh mẽ, với sự đầu tư lớn tiền bạc,

công sức và ngày một thu hút nhiều những người quan tâm và đến với đạo

Phật.

Hà Nội có đến hơn 100 chùa lớn, nhỏ, nằm xen kẽ trong các phố phường

tấp nập như Trấn Quốc, Kim Liên, Một Cột,Quán Sứ, Liên Phái... Chùa nào

cũng mang trên mình những nét riêng, phần thiêng của mình, tuy nhiên bài

nghiên cứu này chúng tôi chọn ra ba địa điểm nghiên cứu : chùa Phúc Khánh,

chùa Quán Sứ và chùa Bằng. Bởi đây là những địa điểm chúng tôi thấy rằng

có số lượng và chất lượng việc tổ chức các nghi lễ tương đối cao để phục vụ

nhu cầu tâm linh cho quần chúng nhân dân, hơn hết vẫn giữ được các nghi

quỹ chung trong thực hiện các nghi lễ Phật giáo Đại Thừa.

2.1.1. Chùa Phúc Khánh

Chùa Phúc Khánh hay còn được gọi là chùa Sở, chùa Thịnh Quang, tọa

lạc tại số 382 phố Tây Sơn, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội.

Chùa Phúc Khánh là một trong những ngôi chùa lâu đời ở Hà Nội, được xây

dựng vào thời Hậu Lê là cơ sở đào tạo tăng tài cho Phật giáo.

Chùa được xây dựng từ cuối đời Trần - đầu thời Lê, là nơi để dạy các

Phật tử tu thành chính quả. Sau đó gặp hỏa hoạn bị hư hỏng hoàn toàn. Có tài

liệu cho rằng chùa nằm trong khu vực diễn ra trận đánh Đống Đa năm 1789

nên bị đổ nát, sau được nhà sư Chiếu Liên xây dựng lại với sự hỗ trợ của Đô

đốc Trần Văn Lễ (thời Tây Sơn) đã từng ém quân ở chùa, ông còn cho đúc

quả đại hồng chung và pho tượng Cửu Long cúng chùa. Do đó chùa Phúc

Khánh là một phần trong sự tích vua Quang Trung đại phá quân Thanh. [28]

Chùa qua nhiều lần trùng tu, xây dựng vào các năm 1853, 1921, 1932, 1935,

1940, 1993, 1996, 1998. Đặc biệt, năm 1940, Hòa thượng trụ trì Thích Trung

Thứ đã cho kiến thiết ngôi chùa, làm cơ sở đào tạo tăng tài, điểm an cư kiết hạ

hàng năm của chư tăng. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa bị phá; năm

31

1950, dân làng lại góp công của xây dựng lại như hiện nay.

Chùa có lịch sử lâu đời với nhiều công trình kiến trúc cổ kính mà vẫn giữ

được nét truyền thống, bình dị tạo cho mọi người đến chùa có cảm giác thân

thương và rất gần gũi. Chùa có công trình kiến trúc thờ Phật kiểu truyền

thống: Tam quan mở 3 cửa vòm giữa là cửa lớn, hai bên nhỏ hơn, trụ đắp hình

con sấu quay đầu vào nhau. Sau là một sân nhỏ dẫn đến tiền đường, tiền

đường và hậu cung thuộc phật điện. Tiền đường có 5 gian, chính giữa bờ nóc

có đắp nổi hình cuốn thư 3 chữ Hán “Hoành Kim Điện” có nghĩa “Điện rồng

vàng”. Tất cả vì kèo và kẻ đều được chạm trổ công phu đề tài là cúc điệp,

tùng hạc, liên áp... Hậu cung gồm 3 gian làm khá đơn giản, điện Mẫu, nhà Tổ

cũng mang một kết cấu vì kèo quá gian. Nhà khách và nhà trai đều làm kiểu

đầu hồi bít ốc. Bài trí thờ tự trong chùa được bố trí theo hướng từ ngoài vào

trong, ở tiền đường có 2 bệ thờ tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác, 2 bệ thờ Đức

ông và Giám trai. Hậu cung đặt tượng Cửu Long, hai bên là tượng Phạm

Thiên và Đế Thích, lớp tượng Quan Âm, tượng Phật Niêm Hoa, A Di Đà Tam

tôn (A Di Đà, Quan Âm, Đại Thế Chí), Tam thế. Nhà Tổ thờ các vị sư từng

trụ trì tại chùa đã viên tịch. Di vật của chùa phong phú với 20 pho tượng được

tạc vào thế kỷ XVIII mang đậm phong cách nghệ thuật Tây Sơn, bia đá 21

tấm, sớm nhất là bia Chính Hòa 19 năm 1698. Chuông đồng 3 quả, 1 quả thời

Cảnh Thịnh 4 năm 1796; cửa võng 14 bộ và một số đồ thờ khác như bát

hương đồng, lư hương đá, nhang án... Chùa đã được công nhận là Di tích lịch

sử - văn hóa Quốc gia năm 1988.

Không chỉ với kiết trúc đồ sộ, bề dày lịch sử mà chùa còn chiếm được

một phần không nhỏ trong lòng rất nhiều người dân bởi nhiều nguyên nhân

khác khiến chùa được nhiều người lựa chọn là nơi lễ Phật cầu an, giải hạn,

Tam Quy, Bán Khoán,…

Chiếm được lòng rất nhiều nhân dân đại chúng, mỗi khóa lễ tại chùa đều

thu hút hàng nghìn người tham dự, người dân tới lễ Phật, đăng ký giải hạn cho

32

bản thân và gia đình. Chùa Phúc Khánh với rất nhiều Phật tử tín Phật một

lòng nhất tâm hướng về Phật, nên mỗi khi có đại lễ, khóa lễ diễn ra dù lượng

khách thập phương lên tới hàng nghìn người hay diện tích chùa có hẹp nhưng

vẫn luôn được diễn ra rất hoàn chỉnh, nghiêm trang theo đúng nghi quy của

nhà Phật.

2.1.2. Chùa Quán Sứ

Một trong những ngôi chùa linh thiêng, nổi tiếng bậc nhất ở Hà Nội

không thể không kể đến đó chính là chùa Quán Sứ. Là trụ sở của Trung ương

hội Phật giáo Việt Nam, chùa Quán Sứ là một phần không thể thiếu của hồn

thiêng Hà Nội, ngôi chùa tọa lạc tại số 73, phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm –

Hà Nội.

Chùa được xây dựng vào thế kỷ 15. Vào thời vua Lê Thế Tông, nguyên

xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa nên nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là

Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Được biết sứ thần các nước

này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong

khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ hay còn có thể nói chùa Quán

Sứ thuở ban đầu chính là một khu nhà cho các sứ thần các nước trú chân trước

khi vào chầu vua nước Việt. Sứ giả các nước Chiêm Thành, Ai Lao, Chà

Và… Vì lẽ này nên ngay từ đầu địa điểm này đã có sự kết hợp của dinh sở và

chùa chiền. Chùa Sứ Quán có thể coi như những sứ quán cổ nhất trong nền

ngoại giao của nước Việt với lân bang.

Qua thời gian và chiến tranh thì khu dinh cơ dành cho các sứ thần sụp đổ

nhưng chùa thì vẫn còn và được tu sửa lại làm chỗ cho các binh sĩ đóng quân

ở một đồn gần đó có nơi bái lễ. Đến năm 1822, chùa được sửa sang thêm các

khu hành lang, tô tượng, đúc chuông để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn

này. Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập chọn lấy chùa làm trụ

sở trung ương. Đến năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế do

33

hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ

Vĩnh Nghiêm duyệt. Chính nơi đây vào ngày 13/5/1951, lần đầu tiên lá cờ

Phật giáo thế giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện

trên bầu trời Hà Nội. [27]

Là trụ sở của một giáo hội lớn, chùa Quán Sứ có những điểm riêng biệt.

Ngôi chùa được xây hai tầng theo kiểu hiện đại đầu tiên trong cả nước. Chùa

là một quần thể kiến trúc rất độc đáo với những sự kết hợp hài hòa giữa

những phần kiến trúc nhỏ lẻ.Tam quan có ba tầng mái, nằm giữa là lầu

chuông. Qua tam quan là đến một sân rộng lát gạch, lên 11 bậc là tới chính

điện cao, hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật gồm các pho tượng

đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy được bày trí trang nghiêm. Ở phía trong

cùng, ba vị Tam thế Phật được thờ trên bậc cao nhất. Gian bên phải chính

điện thờ Lý Quốc Sư - Thiền sư Minh Không với hai thị giả, gian bên trái thờ

tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình. Phía Đại Hùng Bảo Điện

là nhà thờ Tổ, nơi thờ Lịch Đại Tổ Sư của Phật giáo Việt Nam. Vào sâu bên

trong sân chùa chính là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà

khách và tăng phòng. Là một trong những ngôi chùa trung tâm của Phật giáo,

ý thức giữ gìn chính pháp rất cao, trong chùa không có ban thờ “mẫu tam tứ

phủ” vì đó là tín ngưỡng bản địa phát sinh không thuộc Phật giáo, điều khá

hiếm gặp trong hệ thống chùa ở Việt Nam.

Điều đặc biệt hơn nữa, tên chùa cũng như nhiều câu đối trong chùa hầu

hết đều được viết bằng chữ quốc ngữ, điều này là do vào khoảng giữa thế kỷ

20 chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Phân

viện Nghiên cứu Phật học và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình

cũng đặt ở đây. Đồng thời, cũng là nơi đặt văn phòng Hội đồng trị sự, văn

phòng Hội đồng chứng minh và phòng khách quốc tế. Ngoài ra đây là cũng

nơi lưu trữ rất nhiều tài liệu, thư tịch Phật giáo và là một trong những trung

tâm nghiên cứu, giảng dạy, truyền bá Đạo Phật lớn nhất trong cả nước. Các vị

34

hòa thượng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng trị sự Trung ương Giáo

hội Phật giáo Việt Nam cùng các vị thượng tọa, đại đức, tăng ni của văn

phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều làm việc ở chùa Quán

Sứ và các hội nghị Phật giáo ở cấp quốc tế và quốc gia cũng thường được tổ

chức tại đây.

Có thể thấy chùa Quán Sứ đã đang và vẫn làm tốt vị trí là trung tâm Phật

giáo với những hoạt động văn hóa diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau,

các hoạt động thường nhật như: ngày sóc, vọng hoặc các dịp đại lễ như: Lễ

Vu Lan, Lễ Phật Đản. Trong các ngày đại lễ, những hoạt động sinh hoạt văn

hóa của các tín đồ, Tăng, Ni, Phật tử diễn ra sôi nổi vừa mang nét văn hóa

Phật giáo vừa mang hơi thở của thời đại mới nhưng vẫn đảm bảo những

nguyên tắc pháp quy của tôn giáo. Ngoài ra, các hoạt động học tập, nghiên

cứu tại Thư viện, Nhà giảng cũng thu hút các đối tượng khác nhau vừa đến

tìm hiểu văn hóa Phật giáo, được cầu Phật, lễ phật, Thánh; cầu xin cho bản

thân, gia đình, đất nước an khang thịnh vượng. Những hoạt động này có một

vai trò quan trong trong việc phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa Phật

giáo, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của người Việt.

Không những vậy, để những đại lễ được diễn ra thành công tốt đẹp, các

khóa lễ được diễn ra quy củ, những buổi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt đạo

tràng, các tổ kinh,…được diễn ra một cách chỉnh chu nhất thì chùa Quán Sứ

luôn có những phòng ban chuẩn bị kỹ càng, bắt đầu từ ban tiếp lễ, đón tiếp,

ban truyền thông hay ban tri khách,…mỗi ban một việc, điều hành hoàn thiện

đại lễ, khóa lễ một cách nghệ thuật vô cùng độc đáo và hấp dẫn, tràn đầy sắc

thái linh thiêng hay buổi sinh hoạt với nhiều hoạt động sôi nổi và thiết thực,...

2.1.3. Chùa Bằng

Chùa Bằng - Linh Tiên tự tọa lạc tại số 63 phố Bằng Liệt, phường Hoàng

Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Xưa kia dưới thời Hậu Lê thuộc xã

35

Bình Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam. Về niên đại xây

dựng từ thuở ban đầu do thất lạc tài liệu sử sách nên chưa xác định được

chính xác.

Trải qua bao mưa nắng và chiến tranh, không những mất đi những di vật

cổ có giá trị, mà còn tạo nên những ấn tượng riêng với những công trình mới

đậm chất phật giáo được xây dựng như toà Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, Khu

Tháp Tổ, bia đá, chuông đồng, thống đá. Toà thượng điện là công trình chính

của chùa (thượng điện hay chính điện thờ Tam bảo). Trong quá trình trùng tu

đã phát hiện cách xây dựng độc đáo của tiền nhân với hệ thống “móng treo”

rất đặc biệt, bên trong lòng móng có hàng trăm viên gạch “vồ” của thế kỷ 15,

16 .Tuy năm 1945 có trùng tu lại sau khi bị chiến tranh nhưng đó chỉ thay

phần mái gỗ lợp ngói thành bê tông còn hệ thống tường móng giữ nguyên của

đợt đại trùng tu theo bia “Linh Tiên tự ký” (tạo năm 1654). Hiện nay rất ít

công trình kiến trúc đình đền chùa miếu còn loại gạch móng như ở chùa này.

Nhà thờ Tổ được tạo dựng bằng gỗ lim. Ngôi nhà này cũng giữ được vẻ độc

đáo còn lại ở Việt Nam với hệ thống 6 hàng cột. Tấm bia “Linh Tiên tự ký”

được khắc ngày 13 tháng 2 năm Giáp Ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 Triều

Lê Thần Tông (năm 1654) do pháp sư Tự Ngọc Bảo, người huyện Tiên Du -

Bắc Ninh soạn với bút tích của Hoà thượng Pháp Ấn quê làng Phù Lãng,

huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Nội dung ghi công đức của ông,bà Ngô

Vĩnh Đăng, Lưu Thị Lý phát tâm làm chùa. Đại hồng chung (chuông chiêu

mộ): được đúc tháng 6 niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 triều Nguyễn – Đinh Dậu

(1837). Đây là quả chuông (đương thời) to nhất vùng được nhân dân ca ngợi

qua câu: “chuông Bằng, trống Lủ, mõ Đình Công, cồng làng Sét”, trên

chuông ghi công đức của các hội và tín chủ cúng dàng dưới sự chủ trì của

thiền sư Tự Phổ Siêu. Vườn chùa hiện còn 6 ngôi tháp thờ chư vị tổ sư và các

sư giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền Sư Tính

Tuyên; Tháp Từ Quang thờ thiền sư Chiếu Sửu – Trí Điển. [29] Bảo tháp Báo

36

Ân, công trình kế thừa ý nghĩa của Tháp Báo Thiên thời Lý, được xây dựng

nhân lễ kỉ niệm 350 năm ngày đại trùng tu chùa Linh Tiên lần đầu tiên (1654-

2004). Với chiều cao kỷ lục Từ mặt nền, lên đỉnh tháp cao 54,66m.Tháp gồm

13 tầng theo phẩm Phú chúc, kinh Niết bàn. 8 cột trụ ngoài của tháp đều được

làm bằng đá, chạm theo hình long phượng, tượng trưng cho khí âm dương hòa

hợp,đạt kỷ lục Tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam năm 2007. Năm 2010, tháp

xác lập kỉ lục Việt Nam lần 2 với tiêu chí Tháp có nhiều tượng Phật bằng

đồng nhất Việt Nam với 104 tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng

ngồi trên bệ đá. [26] Bên cạnh quy mô tháp Báo Ân là 18 pho tượng La Hán

thẳng hàng được kiến trúc theo dáng mẫu của các vị La Hán chùa Tây Phương

(Hà Nội). Tiếp đó là Quan Âm viên, được tôn trí bởi 45 pho tượng được làm

bằng đá trắng cùng kích cỡ, thể hiện tinh hoa văn hóa của nghệ thuật tạc

tượng Việt Nam.

Với niên đại hơn 400 năm, chùa không chỉ là nơi để tăng ni, phật tử thăm

quan, lễ bái mà còn tổ chức các khóa tu ngắn hạn cho nhân dân, thanh thiếu

niên, sinh viên. Chùa còn là trụ sở tổ chức một số hoạt động của Hội Phật

giáo TP Hà Nội, Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, Chùa Bằng cũng

tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội như Tiếp sức mùa thi,...

2.2. Thực trạng nghi lễ cầu an trên địa bàn Hà Nội hiện nay

2.2.1. Tình hình thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Phúc Khánh

Vốn là một ngôi chùa nổi tiếng ở Hà Nội chính vì vậy lễ cầu an chính thức

đầu năm tại chùa Phúc Khánh luôn thu hút hàng nghìn người về đây dự lễ.

Lễ cầu an đầu năm tại chùa Phúc Khánh thường được diễn ra vào 19 giờ

ngày 14 tháng riêng âm lịch. Chùa cho phát tâm đăng ký cầu an vào 15 tháng

chạp năm trước. Khóa lễ được diễn ra một cách trang nghiêm trong khoảng 45

phút đến 60 phút trong sự quán trưởng của tất cả đại chúng tham dự.

Chủ lễ thường là bậc đại đức như đại đức Thích Minh Đức đứng ra làm

37

lễ, bên cạnh là những vị tăng sư thực hiện việc chuông, mõ, hỗ trợ việc gia trì

thêm cho chủ lễ. Trong suốt buổi lễ, ngoài những vị chủ lễ, tăng sư thực hiện

trì, chú, tụng, niệm còn có những bà vãi hay còn được gọi là tổ kinh của chùa

được ngồi sát chủ lễ và cùng tụng kinh theo các sư thầy, bên ngoài những

người tham dự cũng được phát một quyển sách in các bài cúng để cùng tụng

niệm theo thầy do những phật tử trong chùa phát tâm thực hiện, mỗi năm sẽ

được phát 200 – 300 cuốn, tuy nhiên do số lượng người tham dự đông nên số

lượng sách chỉ có thể đáp ứng cho một phần người tham dự. Ngoài ra, các vị

chủ lễ còn sử dụng thêm loa, mic để khi tụng kinh, niệm đại chung có thể

nghe được dù không được ngồi thầy, để mọi người có thể tung niệm theo

thầy. Tuy nhiên, số lượng người quá đông, dù có loa thì đôi khi không phải ai

cũng có thể nghe hết được những điều thầy tụng, chú. Những người ngồi

ngoài đường, dưới lòng đường cũng khó có thể nghe hết, không những vậy số

lượng người tham dự quá đông khiến không khí buổi lễ có đôi phần bị loãng,

rất khó để nghe được điều gì. Ngoài ra, không phải ai về chùa dự lễ cũng có

thể hiểu hết được khóa lễ sẽ làm những gì, tụng kinh gì hay tụng như thế nào,

dù đã có phát sách kinh để đại chúng có thể tụng theo và hiểu đôi phần nghi

quy nhưng số lượng sách là có hạn so với số lượng khách thập phương về dự

nên trong khi buổi lễ diễn ra, đại chúng thường chỉ nhất tâm tụng niệm tên,

tuổi, địa chỉ gia đình mình cùng với ước nguyện cầu an, cầu sức khỏe,…

thành tâm hướng Phật, một lòng mong được sở nguyện ý cầu.

Thành phần được tham dự có thể là bất kỳ một ai, chỉ cần họ có lòng

hướng về Phật, tin tưởng vào Phật, pháp và tăng đều có thể đến chùa đăng ký

cầu an cho bản thân và người thân. Buổi lễ được thực hiện tại gian Tam Bảo

của chùa trong sự hoan hỉ, thành tâm chiêm bái, khấn Phật của mọi người.

Các khóa lễ được diễn ra trong sự nhất tâm của tất cả mọi người, xuyên

suốt buổi lễ là kinh Phổ Môn, sau đến phần văn sớ cầu an thì chủ lễ không

đọc tên, tuổi, địa chỉ của riêng từng gia chủ hay văn sớ của từng người. Vì số

38

lượng người về tham dự đông nên khi đọc đến tên, tuổi, địa chỉ,.. của gia chủ

thì thầy chủ lễ sẽ để trống và mọi người sẽ tự nhất tâm nguyện tên, tuổi, địa

chỉ,.. gia đình mình với ý nguyện “Nguyện giải hết thảy tai ương nạn, ách

chướng, tật tiêu trừ, phúc thọ tăng duyên, bình yên gia cảnh, khỏe mạnh vui

tươi, hết thảy mọi người, thân tâm an lạc.”[20,90]

Nhà chùa thường cho phát tâm đăng ký lễ cầu an vào 15 tháng chạp hàng

năm, để phục vụ số lượng tín đồ đông đảo, chùa đã sắp xếp nhiều bàn tiếp lễ,

bàn đăng ký. Sau đăng ký làm lễ, nhà chùa sẽ chuẩn bị hương, hoa, trà quả

cùng với lá sớ cho từng người, từng gia đình, người đăng ký chỉ cần gửi lại

tiền đồ lễ, lá sớ mà chùa đã chuẩn bị để làm lễ cho mình là 150.000 nghìn

đồng/ lượt mà không phải chuẩn bị thêm gì, ngoài ra bất kỳ ai cũng có thể

phát tâm cúng dường Tam Bảo tùy tâm, tùy theo điều kiện của mình. Không

những vậy, theo như Đại đức Thích Minh Đức trả lời trên báo điện tử 2thì bất

kỳ ai có nhu cầu nhưng điều kiện không cho phép thì có thể thỉnh cầu với nhà

chùa, nhà chùa sẽ giúp đỡ mà không lấy một đồng nào. [28]

Đến tối đại lễ cầu an mới chính thức được bắt đầu nhưng có rất nhiều

người đã có mặt tại chùa từ rất sớm để có chỗ, có người đến trước giờ lễ tận

tận 7 đến 8 giờ đồng hồ, có nhiều người mang cả ghế, báo, chiếu thậm chí cả

đồ ăn thức uống để ngủ nghỉ chuẩn bị trước giờ làm lễ. Vì số lượng người tín

và tin vào chùa để về dự khóa lễ cầu an của chùa Phúc Khánh là không hề

nhỏ, năm nào cũng tới hàng nghìn người tham dự mà diện tích chùa không đủ

sức chứa nên tình trạng người dân đến từ rất sớm nhưng vẫn không thể vào

được chùa, hay đoạn đường một chiều cùng phía với nhà chùa. Người dân

phải ngồi tràn ra ngoài sân, ngoài cổng chùa thậm chí trên vỉa hè ngoài chùa

hay dưới lòng đường,… Bên trong chùa không còn một chỗ trống nào, phải

làm hàng dây chắn ngăn cách để lấy lối đi, nói là lối đi nhưng cũng chỉ vừa đủ

1 người đi lại, nếu 2 người đi thì phải hơi nghiêng người để nhường lối, bên

39

ngoài chùa người dân đứng, ngồi tắc kín chiếm gần hết một nửa làn đường

phía bên chùa. Khách thập phương đến tham dự thì có thể gửi xe tại điểm

trông giữ phương tiện của phường Ngã Tư Sở hoặc một số điểm trông xe tự

phát gần chùa với chi phí từ 10.000 VNĐ đến 20.000 VNĐ, tuy nhiên những

người đến sau không có chỗ gửi xe đành đỗ xe ngay tại chỗ, đứng vái vọng

vào chùa để tham dự khóa lễ thậm chí có người đỗ trên cầu vượt vái vọng vào

chùa.

Không chỉ có người dân có mặt từ sớm mà hàng trăm cán bộ chiến sĩ

công an cũng đã có mặt từ sớm để đảm bảo an ninh trật tự và An toàn giao

thông cho người dự lễ cầu an tại chùa Phúc Khánh. Công an quận Đống Đa đã

huy động 13 đội nghiệp vụ, công an 16 phường với hơn 300 chiến sĩ, 100 bảo

vệ dân phố được bố trí làm 3 vòng khép kín chốt chặn tại các điểm, lực lượng

chức năng được huy động từ ngoài cổng vào tận trong chùa để đảm bảo an

ninh trật tự. Để đảm bảo an toàn giao thông, giúp các phương tiện đi lại thuận

lợi, lực lượng cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông đã được phân bố chốt

chặn tại các tuyến đường, ngã tư như Tây Sơn – Chùa Bộc, Tây Sơn – Láng -

Ngã Tư Sở, cảnh sát lập hàng rào barie ngăn và đứng thành hàng bên ngoài

hướng dẫn phân luồng, đảm bảo an ninh trật tự cho người dân dự lễ. Càng sát

giờ lễ, người dân đổ về chùa ngày càng đông, cảnh sát phải liên tục kéo lùi

hàng barie cho khách tham dự, nhiều người lưu thông qua khu vực đỗ xe lại

xem và chụp ảnh khiến giao thông bắt đầu ùn ứ. Dù khóa lễ kết thúc đã hơn

một tiếng nhưng đến 21 giờ các phương tiện lưu thông qua đoạn đường này

vẫn gặp phải nhiều khó khăn.

Để buổi lễ có thể diễn ra thuận lợi có một phần công không hề nhỏ của

đội tình nguyện viên của chùa. Họ đã phải liên tục chuẩn bị cho khóa lễ, từ đồ

lễ, lộc chùa cho khách sau khi khóa lễ kết thúc đến chỗ ngồi của từng người

dân về lễ chùa. Dù đã được nhắc từ trước là “Không vứt rác ra chùa” nhưng

40

sau khi khóa lễ kết thúc, những tình nguyện viên vẫn dọn được cả đống rác

trong sân chùa đến ngoài cổng chùa như báo chải đất, vỏ chai nước, vỏ

bánh,…

Sau cùng mỗi buổi lễ, sớ cầu an mỗi gia đình sẽ được nhà chùa giúp hóa

tại chùa, mỗi người sẽ được nhà chùa phát một chút lộc sau khi buổi lễ kết

thúc. Nói là phát nhưng thực tâm là nhà chùa đã chuẩn bị sẵn những rổ, sọt,

thùng lộc to để xếp thành một hàng ở cạnh cổng chùa, sau khi kết thúc buổi lễ

mỗi người sẽ xin một chút lộc chùa mang về, lộc chùa có thể là oản,

chuối,…với đội ngũ con nhang đệ tử đông đảo, mỗi thùng lộc sẽ có một

người đứng phát lộc, điều này để chắc chắn một điều là ai cũng sẽ có lộc chùa

mang về sau khóa lễ. Xin lộc để tạo niềm tin trong cách sinh hoạt và đó là

biểu tượng của sự may mắn, tốt đẹp. Tuy nhiên, do số lượng người tham dự

khá là đông nên sau khi kết thúc khóa lễ, tình trạng chen lấn xô đẩy xin lộc

chùa vẫn thường xuyên xảy ra.

Có thể thấy mọi người tin rằng cầu an chính là thiết lễ, tụng kinh, cầu

nguyện cho người sống thoát khỏi bệnh tật, tai qua nạn khỏi, cho gia đình

được hạnh phúc, mong cho con cái được nên người, lên lương,… (Phụ lục 1)

Sau buổi lễ, ai cũng cảm thấy bình tâm, mọi chuyện trong cuộc sống sẽ thoải

mái hơn, bình an tai qua nạn khỏi. (Phụ lục 1)

2.2.2. Thực trạng thực hành nghi lễ cầu an tại chùa Quán Sứ

Chùa Quán Sứ từ xưa đến nay luôn chiếm được lòng rất đông tín đồ đại

chúng, đây cũng chính là nơi mà nhiều du khách thập phương chọn làm điểm

đến trong đầu năm mới, đầu năm ở chùa nổi bật với lễ “Kỳ Yên”, “Kỳ

An”,…mong cầu sự bình an, may mắn, sức khỏe, cầu phúc, lộc, thọ,…

Với không gian rất rộng rãi, sáng sủa, uy nghiêm cũng không kém phần

thanh tịnh, chùa bắt đầu những khóa lễ giải hạn, cầu siêu,… đầu năm từ ngày

mồng 4 tháng riêng đến hết tháng riêng. Khóa lễ cầu an cũng không phải một

41

ngoại lệ, tùy vào điều kiện và nhu cầu của đại chúng, số lượng tín đồ thành

tâm đăng ký mà lịch làm lễ cầu an đầu năm sẽ được diễn ra trong các ngày từ

mùng 4 tháng riêng đến hết tháng riêng, có thể là mùng 9 hoặc ngày

14,….ngoài ra để đáp ứng nhu cầu của tín đồ, nhà chùa còn tổ chức các buổi

lễ cầu an vào ngày 30 âm lịch hàng tháng, và đôi khi còn có tổ chức những

buổi lễ cầu an cho gia chủ nào có nhu cầu. Tuy nhiên, khóa lễ cầu an đầu năm

vẫn có số lượng người đăng ký đông nhất và đối với các buổi lễ cầu an theo

nhu cầu gia chủ nằm ngoài lịch cầu an trên chùa thì sẽ được sắp xếp tùy theo

lịch của các thầy chủ lễ. Khóa lễ được diễn ra trong khoảng 1 tiếng đến 1

tiếng rưỡi xuyên suốt là sự trang nghiêm và linh thiêng nơi cửa chùa.

Muốn được ghi danh làm khóa lễ cầu an đầu năm hay bất kỳ khóa lễ cầu

an nào trên chùa đều phải đăng ký trước, đối với khóa lễ cầu an đầu năm thì

sẽ phải đăng ký vào tầm 15 tháng chạp năm trước, đối với các khóa lễ cầu an

khác thì tín đồ có thể đăng ký tại chùa bất kỳ lúc nào có nhu cầu, nhà chùa sẽ

sắp xếp làm lễ cho gia chủ. Tại chùa luôn có một phòng đón tiếp hay còn gọi

là tiếp lễ, sẽ có một thầy sư với ba bà vãi – con nhang đệ tử nhà Phật chuyên

lo những việc tiếp đón, nhận đăng ký các khóa lễ tại chùa, giải đáp những

khúc mắc cho tín đồ, Phật tử đến chùa, bất kỳ điều gì còn đang lăn tăn, khúc

mắc trong cuộc sống cần có sự che trở của cửa Phật, bảo ban của nhà chùa

đều có thể đến đây xin giải đáp, giúp đỡ. Có thể như những việc muốn xin

đăng ký cầu siêu cho người thân, muốn xin đăng ký làm lễ hằng thuận tại

chùa, muốn xem ngày cưới hay tới những việc liên quan đến sự thờ cúng tại

gia đình như muốn xin bốc bát hương mới, xin rước ảnh Phật về thờ,… tất cả

đều được chùa giải đáp, hướng dẫn cụ thể, chỉ cần thành tâm hướng về Phật,

người ta thường hay nói những phép lạ sẽ xảy ra khi các Phật tử thành tâm,

bởi sự thành tâm chính là cách tiếp xúc trực tiếp với Đức Phật trong đạo Phật

Đại Thừa, chính vì vậy chỉ cần thành tâm hướng Phật, Phật sẽ đưa đường dẫn

42

lối ta đi ra khỏi tăm tối, hướng ta làm những điều thiện.

Sau khi ghi tên, tuổi, địa chỉ bản thân, người thân vào danh sách đăng ký

cầu an, ban tiếp lễ sẽ ghi thông, cùng sự mong của gia đình vào sớ, sẽ báo lịch

lễ cầu an luôn để mình có thể sắp xếp tham dự. Trong nghi lễ cầu an, đại

chúng không cần chuẩn bị bất kỳ hương, hoa, lễ, quả,… gì, tất cả đều được

các thầy chủ lễ cùng các tổ kinh chuẩn bị. Tổ kinh hay còn gọi là các bà vãi

thường phụ giúp các thầy, tham dự cùng buổi lễ bởi họ coi đó là việc làm

công quả phụ giúp các thầy và đại chúng. Trong buổi lễ, thường ngồi xung

quanh đại chúng, họ tự chuẩn bị sớ, kinh để đọc và mặc quần áo lam, tụng

niệm theo thầy.

Các thầy có chuẩn bị mic và loa để đại chúng có thể nghe rõ hơn chính vì

vậy việc tụng niệm cũng không gặp khó khăn trở ngại nhiều, nếu thuộc kinh

có thể tụng theo thầy còn nếu không thì quỳ chắp tay, nhất tâm hướng về Tam

Bảo. Những cá nhân hay gia đình nào đã đăng ký làm lễ cầu an với chùa thì

thầy sẽ đọc sớ cầu an của từng gia đình, còn ai chưa đăng ký hay không có sớ

thì có thể tự cầu nguyện thỉnh cầu tới Phật, xuất tâm thì Phật chứng, một lòng

thành tâm hướng xin cầu Phật.

Khi kết thúc khóa lễ, Phật tử ai ai cũng nhận được lộc chùa, có thể là

oản, xôi hay hoa quả tùy theo ban phát của các thầy, sớ cầu an của mỗi gia

đình cũng sẽ được nhà chùa hỗ trợ hóa giúp. Đặc biệt, chi phí mỗi khóa lễ cầu

an đều không có, tín đồ có nhu cầu thì nhà chùa thực hiện giải quyết những

vấn đề xuất phát từ những nhu cầu thực tế của con người bởi lẽ Phật giáo

không phải từ hư không hay từ trên trời rơi xuống mà nó được thai nghén từ

trong các vấn đề của cuộc sống và được sinh ra để giải quyết những vấn đề

đó. Ngoài ra, tín đồ nào phát tâm có thể cúng dường Tam Bảo tùy tâm.

Theo quan niệm của Phật, cầu an đầu năm không nằm ngoài mục đích để

mình và gia đình thành tâm sám hối tội lỗi, tiêu trừ nghiệp chướng, bỏ ác làm

43

thiện, phát nguyện hồi hướng công đức của những thiện sự đó để cho bản thân

và gia đình tai qua nạn khỏi, tăng khả năng tiêu tai, giảm tội, tăng phúc bình

an, thân tâm an lạc.

Tham gia lễ chùa như vậy, chính là được sống trong những phút giây

chính niệm, tịnh tâm. Phật luôn dạy rằng, mọi phước đức ở đời đều được vun

trồng và chăm chút từ nhiều đời trước, khi biết nói lời ái ngữ, làm việc thiện

lành, giàu lòng nhân ái giúp mọi người thì cuộc sống sẽ được phúc, được an

lành ở những phút giây hiện tại.

Hàng trắm người từ thập phương đều quy tụ về đây mỗi dịp đầu xuân để

lễ tết cũng như cầu an với mong cầu một năm mới bình an, không lo lắng. Sauk

hi khóa lễ cầu an kết thúc, mỗi người thường cảm thấy tâm bình an hơn, yên

tâm về những kế hoạch trong năm mới với một tâm niệm khi đã cầu an trên

chùa như vậy những thành viên trong nhà đều được bình an, tai qua nạn khỏi.

2.2.3. Thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Bằng

Mỗi năm tết đến, xuân về, chùa Bằng đều tổ chức tụng kinh Dược Sư cầu

cho quốc thái dân an bắt đầu vào 14 giờ hàng ngày từ mồng 1 đến mùng 7

tháng riêng. Chùa cho phát tâm đăng ký từ 15 tháng chạp năm trước.

Khi đến sẽ được những người tình nguyện viên tại chùa – những người

phát tâm phụ giúp các thầy ở chùa, họ coi đấy là công quả phụ giúp các thầy

và đại chúng, giúp đỡ ghi danh, đăng ký cho mình làm khóa lễ, sau khi đăng

ký các tình nguyện viên sẽ viết sớ và báo cho mình ngày tham gia khóa lễ của

mình cùng gia đình, đến ngày mình đến tham gia tụng niệm cùng thầy, cầu

cho gia đình mạnh khỏe, yên ấm cửa nhà,… (Phụ Lục 1), ngoài ra mình có

thể đến chùa tham dự khóa lễ bất kỳ ngày nào chỉ cần có tâm hướng đến Phật,

bất kỳ ngày nào cũng có thể đến chùa cầu nguyện, nghe tụng kinh pháp.

Trong nghi lễ cầu an, đại chúng không cần chuẩn bị bất kỳ hương, hoa, lễ,

44

quả,… gì, tất cả đều được các thầy chủ lễ cùng các tình nguyện viên của chùa

chuẩn bị, sau khi khóa lễ kết thúc, tín đồ có thể tùy tâm hồi hướng cho nhà

chùa.

Thành phần tổ chức thường có chủ lễ là trụ trì Thích Bảo Nghiêm cùng

chư tôn đức Tăng làm nhiệm phụ vụ giúp các công việc trì, niệm cho chủ lễ,

bên cạnh còn có những tình nguyện viện hay còn được gọi là bà vãi ngồi xung

quanh trong ban Tam Bảo cũng tham gia tụng niệm giúp các thầy. Thành

phần tham dự có thể là bất kỳ ai, già trẻ lớn bé, không kể sang nghèo hay đã

quy y hay chưa quy y, chỉ cần hoan hỉ có tâm hướng về Phật đều có thể đăng

ký tham dự.

Nghi thức đàn Dược Sư được bày biện trang nghiêm, cung thỉnh tôn

tượng của 7 Đức Phật Dược Sư tại 7 bàn thờ và bày biện hương, hoa, đèn, nến

trang nghiêm, treo phan, treo phướn mà lá phướn lớn nhất là 10 gang tay như

trong kinh Dược Sư đã dạy. Đồ lễ dâng lên Phật thường gồm : hương, hoa, trà

quả,.. đôi khi có thêm một mâm đồ chay tất cả đều được những tình nguyện

viên trong chùa chuẩn bị một cách kỹ lưỡng từ nhiều ngày trước để buổi lễ

được diễn ra suôn sẻ.

Trước khi bắt đầu, Hòa thượng trụ trì Thích Bảo Nghiêm cùng chư tôn

đức Tăng và toàn thể đại chúng đã làm lễ niêm hương bạch Phật, yết Tổ và

thực hiện nghi thức sái tịnh đàn để khai mạc đàn Dược Sư đầu năm cầu

nguyện thế giới hòa bình, nhân dân an lạc ấm no. Sau đó, là thời khai kinh

Dược Sư được đặt dưới sự chủ lễ của Hòa thượng trụ trì cùng chư tôn đức

Tăng Ni đến từ các chùa trong địa bàn thành phố Hà Nội. Xuyên suốt những

ngày này nhà chùa và Phật tử chỉ nghiêm trì đọc bản kinh Dược Sư Lưu Ly

Quang Vương Như Lai Bản Nguyện Công Đức và xướng niệm hồng danh của

Đức Phật Dược Sư. Đến phần văn sớ, các thầy sẽ đọc sớ cầu an của từng gia

đình cùng với nguyện ước của riêng từng nhà. Chư tôn đức Tăng, Ni Phật tử

và người dân thập phương lúc đến, lúc đi nhưng cũng cố gắng ngồi xuống

45

tụng 1 biến kinh hoặc đơn giản là vào chỉ niệm hoặc chỉ là vào đỉnh lễ nhưng

đều là đọc tụng bản kinh lưu truyền bằng chữ Hán. Bên cạnh trì tụng kinh

văn, phụng thờ 7 Phật Dược Sư thì còn làm những việc như phóng sinh, tu

phúc hay làm những việc từ thiện, bố thí cho những người khốn khó bần

cùng, giúp đỡ những người gặp hoạn nạn, khó khăn rồi cho tới cúng dường

Tam Bảo, cúng dường cho việc trùng tu chùa cảnh, in ấn kinh sách và cúng

hiện tiền chư Tăng.

Mọi người đến chùa cầu an lễ Phật để khép lại một năm mới với tất bật

những muộn phiền, lo toan vất vả, cầu mong một năm mới bình an. ( Phụ Lục

1)

Sau khi khóa lễ kết thúc, nhà chùa sẽ hỗ trợ hóa giúp sớ cho các gia đình,

thầy chủ lễ hạ lễ và phát lộc mọi người tham dự. Đồ lễ cúng xong, thường

người ta không thường hưởng lộc một mình. Lộc chùa thường được chia làm

nhiều phần. Một phần được chính người dâng cúng đem về thụ lộc, một phần

để cho sư và những người coi sóc chùa, một phần thì để dành cho những

người lang thang cơ nhỡ, đói khát, nhưng trẻ không có nơi nương tựa...

Nhưng ở đây người chuẩn bị lễ là con nhang đệ tử của chùa, thì những người

không phải chuẩn bị kia có được nhận lộc không? Ai cũng được nhận lộc hết,

các thầy sư tại chùa thường phát hết lộc cho tất cả mọi người bởi lẽ Phật

thương dân như thương con, từ bi độ lượng, không so đo, nề hà, đầu năm

nhận một chút lộc chùa để một năm có sự may mắn đồng thời cũng nhắc nhở

bản thân tinh tiến tu tập, nuôi dưỡng và phát triển Phật tính, hạt giống bồ đề

trong con người, làm những việc thiện lành, ứng dụng lời Phật dạy để chuyển

hóa thân tâm,đặc biệt phải có niềm tin sâu vào nhân quả. Chỉ có như vậy, bản

thân mới được an từ tận bên trong.

NHẬN XÉT

Theo như khảo sát của chúng tôi về tiến hành nghi lễ cầu an đầu năm của

46

Phật giáo Đại Thừa ở các chùa tại thủ đô Hà Nội hiện nay như chùa Phúc

Khánh, chùa Quán Sứ và chùa Bằng, tôi rút ra một số nhận xét. Thứ nhất là

trong việc thực hiện nghi lễ thực tế tại các chùa vẫn giữ được những nghi quy

chung trong cách thực hiện tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm nổi bật khác biệt so

với kinh điển.

*Giống nhau

Có thể dễ dàng nhận thấy trong thực tế thực hành nghi lễ cầu an tại các

chùa thì tất cả nghi thức và quy định của một khóa lễ vẫn luôn được các thầy

chủ lễ truyền thừa từ nhiều đời, cốt là để hiểu rõ các điều căn bản các nghi

quy, những điều răn dạy của Phật gửi gắm qua các khóa lễ. Với những điều

căn bản này, các thầy chủ lễ vẫn giữ nguyên như thuở ban đầu không pha trộn

gì thêm, tuy nhiên mỗi nơi mỗi khác, tùy “mỗi thầy mỗi phép” mà thực hiện

khóa lễ một cách đơn giản hay cầu kỳ hơn sao cho phù hợp hoàn cảnh,

nguyện vọng đại chúng.

*Khác nhau

Qua nghiên cứu, khảo sát của chúng tôi, nghi lễ cầu an đầu năm của Phật

giáo Đại Thừa đã có đôi phần thay đổi so với kinh điển, tuy nhiên không phải

thay đổi trong nội dung của nghi lễ mà là thay đổi trong thứ tự thực hiện, nghi

thức thực hiện mỗi nơi mỗi khác, điều này căn bản do điều kiện mỗi chùa

khác nhau, duyên số giữa Phật tử và nhà chùa khác nhau, số lượng tín đồ

tham dự khác nhau mà có một chút biến tấu trong nghi thức thực hiện khóa lễ.

Một vài tiết trong khóa lễ đã được cắt giảm ví dụ như với mỗi lần đỉnh lễ,

nhất tâm đỉnh lễ ở đầu khóa lễ cầu an, toàn bộ đại chúng cũng như chủ lễ phải

đứng dậy lạy một lạy tuy nhiên do số lượng tín đồ về dự lễ đông và điều kiện

không gian thời gian không cho phép thì chủ lễ đứng dậy lạy một lạy và đỉnh

một hồi chuông thôi hay như khi tụng niệm kinh và đến phần đọc văn sớ cầu

an bản mệnh hay văn sớ cầu an đảo bệnh,.. chủ lễ phải đọc tên, tuổi, địa chỉ

47

cũng như mong cầu của từng tín đồ gia chủ nhưng do điều kiện thời gian

không cho phép đọc hết tên mọi gia chủ mà tùy nơi các chủ lễ sẽ bỏ cách

phần này để cho đại chúng tự tụng niệm tên của mình,… Mỗi nơi mỗi lễ lại

có một thứ tự thời kinh khác nhau ví như trong kinh điển thì là đỉnh lễ Tam

Bảo đầu tiên “Tất thảy cung kính, dốc lòng kính lạy Phật – Pháp – Tăng

thường ở khắp mười phương” rồi sau đến nguyện hương, ca ngợi Đức Phật,…

tuy nhiên có nhiều nơi bắt đầu một thời kinh với nguyện hương đầu tiên,…

Do chưa thống nhất được về nghi lễ và Việt hóa hoàn toàn các thời khóa lễ,

sám, tụng, niệm,… dẫn đến tình trạng mỗi nơi một cách lễ, mỗi nơi một cách

48

tụng, thậm chí 3 ngôi chùa lại với ba trình tự khác nhau.

TIỂU KẾT CHƯƠNG II

Có thể thấy nhu cầu tín ngưỡng, học tập pháp điều Phật giáo của các tín

đồ Phật tử và quần chúng nhân dân ngày một tăng lên, đặc biệt là của giới trẻ

trong những năm qua đã và đang không ngừng gia tăng, nhưng đội ngũ sư có

kinh nghiệm và nhiệt huyết có thể giảng dạy, chỉ rõ bản chất của từng vấn đề

nghi lễ còn quá mỏng. Thêm vào đó nhiều vị sư, tăng chưa thực sự quan tâm

đến sự nghiệp giảng dạy Phật pháp mà nặng về tín ngưỡng, lễ bái nhiều.

Tuy nhiên ở một số nơi, nghi thức thực hiện nghi lễ cầu an không được

đi theo đúng chính pháp, quy định của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, làm ảnh

hưởng không nhỏ đến hình ảnh của Phật giáo trong mắt đại chúng, không

những thế cầu an quá mức nhưng lại không hiểu rõ gốc của khóa lễ cầu an thì

49

vô tình lại đi sai lại với những điều răn dạy của Phật.

KẾT LUẬN

Tóm lại, từ những mưu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người hàng

ngày đã nảy sinh ra những điều bất an, lo sợ vô hình hiện hữu trong tâm thức

con người. Chính vì thế nên tín đồ Phật tử đến chùa ngoài mong cầu về tri

thức, giáo lý mà còn thực hiện. Đa phần họ đến chùa với niềm tin sâu sắc rằng

chỉ có nơi đây mới có thể giúp cho thân tâm họ được thanh thản, được giải

thoát khỏi những khổ ải, trầm luân của trần tục hướng tới cảnh giới siêu thoát.

Để làm được những việc đó, để xoa dịu những lo sợ của tín đồ, Phật giáo đã

đưa ra một nghi lễ được gọi là cầu an. Theo quan niệm của nhà Phật, việc tổ

chức lễ cầu an đầu năm không nằm ngoài mục đích để mình và gia quyến

thành tâm sám hối tội lỗi, tiêu trừ nghiệp chướng, bỏ ác làm lành và thực hiện

những thiện sự thì phát nguyện hồi hướng của những việc thiện đó sẽ là sự

bình yên cho bản thân và gia đình, tăng khả năng giảm trừ tiêu tai, giảm tội,

tăng phúc, bình an, thân tâm an lạc. Xét đến mối quan hệ rộng hơn đối với

dân tộc, đại lễ cầu an tổ chức vào đấu năm tại các chùa mang ý nghĩa cầu cho

quốc thái dân an, người dân được sống trong cảnh thanh bình.

Đề cao quan niệm nhân quả, Phật giáo luôn dạy ta rằng tất cả những gì

trong hiện tại tạo nên, đó là thái độ sống, quan niệm, những suy nghĩ, hành vi

tiêu cực hoặc tích cực trong hiện tại của chúng ta. Cho nên không tạo nghiệp

nhân xấu, tạo nhiều nghiệp thiện trong hiện taị là thái độ sáng suốt để cải

thiện đời sống như ý và xây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho mình, ta có

thể chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những

nghiệp đã tạo ra và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự

hình thành nghiệp quả.

Bằng sự thực hành các thiện pháp, bằng sự tu tập giới, định, tuệ, chúng ta

có thể vô hiệu hoá các nghiệp nhẹ mà đáng lẽ chúng ta phải nhận lãnh quả

báo. Nếu chúng ta sống đời sống bất thiện (trộm cắp, cướp giật, lừa đảo,

50

chiếm đoạt, mua gian bán lận, giả dối lọc lừa, làm giàu bằng xương máu kẻ

khác…), nếu chúng ta sống buông thả không có trách nhiệm đối với bản thân,

đối với gia đình, xã hội (rượu chè, cờ bạc, sa đọa, truỵ lạc, làm khổ cho mình

và người khác…) thì dù có cầu cho nhiều cũng không an, cầu đến đâu cũng

không ai cứu độ được.

Lễ cầu an vào những ngày đầu năm là một sinh hoạt chính đáng và phù hợp với nhu cầu tâm linh trong cuộc sống đời thường của người Phật tử, đồng thời là nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt mỗi dịp xuân về. Một điều cần nhớ là lễ cầu an như một hình thức cầu nguyện cao thượng, có hiệu quả giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp nhân xấu khi và chỉ khi bản thân chúng ta biết sống chân chính, biết làm điều thiện và tạo được nghiệp lành.

Thế nhưng cái gì cũng có hai mặt, nghi lễ cầu an cũng có mặt tốt và hại,

mặt tốt chính là dẫn con người sống thanh tịnh, xóa bỏ âu lo trong cuộc sống,

làm việc thiện nói lời hay, không phạm những điều sai trái xuất phát từ thân,

khẩu, ý,… nhưng điều đấy có thực hiện được hay không phải phụ thuộc vào

cách thức tổ chức, phương pháp truyền đạt,.. mỗi địa điểm mỗi chùa lại có

cách truyền đạt, thực hiện, điều kiện khác nhau mà có những tác động lớn bé

đến với tín đồ Phật tử. Nhưng sức ảnh hưởng của nghi lễ cầu an đến đại

chúng nhân dân là không thể phủ nhận.

Khi tham gia lễ cầu an, mọi người sẽ được sống trong những giây phút

chính niệm, quán tưởng và làm theo những lời răn dạy của đức Phật. Mọi

phước đức đời này đều đã được vun trồng và chăm chút từ nhiều đời trước,

khi biết nói lời ái ngữ, làm việc thiện lành, giàu lòng nhân ái giúp mọi người

thì cuộc sống sẽ được phúc, được an lành ở những giây phút hiện tại. Một

điều đặc biệt nữa là, trong giờ phút ấy, tự bản thân của mỗi người, từ suy nghĩ

đến hành động đều một mực giữ gìn, không tạo ra những điều xấu, ác trong

những ngày thiêng liêng ấy để có được một năm mới suôn sẻ mọi điều.

Với lợi ích thiết thực như vậy, lễ cầu an vào những ngày đầu xuân năm

51

mới đã giúp người Phật tử hiểu và thực hiện một cách rất tự nhiên về đạo lý

nhân quả, nghiệp báo; tránh suy nghĩ và hành động những điều xấu, ác để một

năm mới gặp được những quả ngọt, điều lành.

Cùng với ý nghĩa ấy, trong những ngày này, mỗi người con Phật sẽ lắng

lòng nhìn nhận lỗi lầm từ Tham - Sân - Si của tâm và nguyện sẽ sám hối, chừa

bỏ để cầu cho một năm mới hạnh phúc, an vui.

Mặt khác, việc cầu nguyện dễ làm cho người ta ỷ lại, rằng không cần làm

lành kiêng ác, cứ sống buông lung phóng túng để rồi người thân sẽ tổ chức

cầu nguyện cho mình được siêu thoát khi mình mất. Việc cầu nguyện, dù có

tác dụng đi nữa, nhưng nếu ỷ lại thì cái lợi quá ít mà cái hại thì vô cùng to lớn

chẳng những cho cá nhân mà còn cho xã hội nữa. Với những lý do đó nên

Đức Phật đã quyết định không chủ trương cầu nguyện. Chỉ cần gieo nhân tốt

thì kết quả sẽ tự nhiên tốt mà thôi.

Nhìn chung, các chùa, các nơi thờ tự đều đang cố gắng hướng con người

sống và làm theo chích pháp mà Phật dạy, tổ chức những buổi lễ cầu tự theo

đúng nghi quy của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tuy nhiên còn có những vấn

đề tiêu cực đang xảy ra trong cơ chế thị trường hiện nay tại một số chùa chiền

và những nơi thờ tự tâm linh Phật giáo như vấn nạn kinh doanh Phật giáo với

nhiều hình thức như “làm kinh tế” mạo danh Phật giáo làm suy giảm chính tín

và lòng tin của tín đồ Phật tử vào chính pháp và làm ảnh hưởng đến hình ảnh

tốt đẹp và mục đích cao thượng của đạo Phật. Hoặc tổ chức những buổi lễ

mang nặng về kinh tế, làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh, an toàn giao

thông,…

Từ những bất cập, hạn chế trên, tôi xin phép được nêu ra một số kiến

nghị và giải pháp sau:

1. Cần có bộ giáo trình giảng dạy và hướng dẫn chung để thống nhất về

nghi lễ và Việt hóa các khóa thời tụng niệm, lễ, sám,… Chính vì thế, Ban

Nghi lễ và Ban Văn hóa trung ương Giáo hội Phật Giáo Việt Nam cần phối

hợp tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo về vấn đề này và sớm đưa ra một nghi

52

lễ thống nhất và Việt hóa tối đa được các thời khóa, tụng niệm, lễ sám,…

2. Thường xuyên vận động các vị trụ trì, đặc biệt là các tăng, ni trẻ nêu

cao tinh thần và trách nghiệm trong công cuộc học tập Chính pháp, không lơ

là học tập và sống theo đạo lý Phật đề ra để có thể đáp ứng những nhu cầu tôn

giáo của tín đồ cũng như giải đáp những khó khăn khúc mắc của Phật tử trong

thời đại mới.

Qua ảnh hưởng của các khóa lễ cầu an tại các chùa đến đại chúng, tôi

cho rằng Phật giáo đã và đang có những vai trò nhất định trong việc kiến tạo

một xã hội ổn định, góp phần giúp mỗi cá nhân có đời sống tinh thần phong

phú, lối sống đẹp. Vì chúng sinh mà tồn tại, đó chính là mục tiêu, tôn chỉ của

53

Phật giáo và cũng là tinh thần nhập thế của Phật giáo suốt hơn 2500 năm qua.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Sabrino Acquaviva, Enzo Pace (1998), Xã hội học tôn giáo, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa,

Huế.

3. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

4. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

5. Thích Minh Châu và Minh Chi (1991), Từ điển phật học Việt Nam, Nhà

xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Phan Huy Chú (1997), Hoàng Việt địa dư chí, tập 1, Nxb Thuận Hóa,

Huế.

7. Nguyễn Đại Đồng (2011), Chùa Quán Sứ, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.

8. Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh hội Quảng Nam Đà Nẵng (1993),Nghi

lễ phật giáo, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, thể thao Quảng Ngãi – Đà

Nẵng, Đà Nẵng.

9. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phân viện Nghiên cứu Phật học (1998), Từ

điển Phật học Hán Việt,Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội.

10. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thích Nguyên Toàn (2013), Tiến trình lịch

sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

11. Thích Nhật Hạnh (1965), Đạo Phật hiện đại hóa, Nxb Lá bối, ebook.

12. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo và

Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

13. Hội văn hóa giáo dục Linh Sơn Đài Bắc (2000), Phật quang đại từ điển.

14. Kinh Trung bộ, kinh Điều ngự địa, số 125

15. Trần Bá Lãm (1787), La Thành cổ tích vịnh, Thư viện Viện Hán Nôm.

16. Thịnh Lê (2001),Từ điển Nho Phật Đạo, Nhà xuất bản văn học, Thành

54

phố Hồ Chí Minh.

17. Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hưng (1997), Chùa Hà Nội, Nxb Văn hóa

- Thông tin, Hà Nội.

18. Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật học, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

19. Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2008), Kinh chú thường tụng,

Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

20. Trương Bội Phong (2012), Nghi lễ Phật giáo, Nhà xuất bản Lao Động,

Hà Nội.

21. Richard T.Schaefer, Chương 15: Tôn giáo, Xã hội học, Biên dịch Huỳnh

Văn Thanh, Nhà xuát bản Thống kê

22. Lưu Minh Trị (2010),Hà Nội - Danh thắng và Di tích, Nxb Hà Nội.

23. Đạo Uyển (2006),Từ điển phật học, Nhà xuất bản tôn giáo, Hà Nội.

24. Đặng Nghiêm Vại (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Tạp chí Nghiên cứu Phật học – số 6 năm 2017

26. Ấn Tượng chùa Bằng - https://baotintuc.vn/xa-hoi/an-tuong-chua-bang-

20140730084113099.htm

27. Chùa Quán Sứ - Ngôi chùa cổ linh thiêng bậc nhất thủ đô -

https://travel360.vn/vi/cam-nang/du-lich-ha-noi/chua-quan-su-ngoi-

chua-co-linh-thieng-bac-nhat-thu-do-33.html

28. Chùa Phúc Khánh nơi linh thiêng giữa lòng Hà Nội -

https://huyenbi.net/Chua-Phuc-Khanh-noi-linh-thieng-giua-long-Ha-Noi-

689.html

29. Lịch sử chùa Bằng

30. Sư thầy chùa Phúc Khánh : 150.000 đồng dâng sao giải hạn là rất “hạ”

rồi - https://vtc.vn/su-thay-chua-phuc-khanh-150000-dong-dang-sao-

55

giai-han-la-rat-ha-roi-d458448.html

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

* Câu hỏi phỏng vấn: Theo anh chị mục đích tham gia khóa lễ cầu an đầu

năm là gì? Việc tham dự khóa lễ cầu an đầu năm đem lại lợi ích gì?

* Trả lời

“Ai cũng biết là đông, chùa Phúc Khánh lễ cầu an đầu năm lúc nào cũng

đông, nhưng nhà tôi đã xin cầu an ở đây mấy năm nay rồi, không làm gia

đình tôi thấy an tâm, bình an hơn cho một năm mới, làm bất kỳ điều gì

cũng thấy an tâm tự tin làm hơn mà nó còn vô tình thành thói quen rồi,

bây giờ mà không được làm lễ cầu an ở đây nữa cảm thấy không yên. Vì

thế nên năm nào tôi cũng đăng ký cho gia đình mình làm lễ cầu an ở chùa

Phúc Khánh dù đông đến đâu”

(N.V.M – 46 tuổi – Nam)

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Phúc Khánh)

“Tôi thường tham dự khóa lễ cầu an đầu năm trên chùa Quán Sứ để mong

cầu một năm mới bình an, mạnh khỏe cho cả gia đình, cho con cho cháu

đồng thời cũng là để sám hối những lỗi lầm mà mình đã mắc, những điều sai

trái mình đã làm trong năm cũ với mong cầu sang năm mới mình sẽ không

mắc những lỗi này nữa, sống an tâm, tự tại hơn”

56

(Đ.Q.T – 75 tuổi – Nam)

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Quán Sứ )

“Đầu năm chùa Bằng thường tổ chức đàn Dược Sư cầu cho quốc thái dân an, tôi

cũng thường đến để lễ Phật để khép lại một năm mới với tất bật những muộn

phiền, lo toan vất vả, mong cầu sự bình an cho gia đình, tai qua nạn khỏi, gặp dữ

hóa lành, làm ăn thuận lợi, cầu sức khỏe, cầu may mắn cho toàn gia đình trong

năm mới”

(N.T.T – 23 tuổi – Nữ)

57

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Bằng )

PHỤ LỤC 2

* Câu hỏi phỏng vấn: Theo anh chị khóa lễ cầu an đầu với lễ dâng sao

giải hạn có phải là một không? Vì sao?

“Theo tôi thì hai nghi lễ này khác nhau hoàn toàn vì chúng tụng những bộ kinh khác nhau. Lễ dâng sao giải hạn mang tính tâm linh nhiều và nặng về nghi thức hơn vì lễ cầu an đầu năm chỉ đôi khi là muốn tâm an lạc, muốn đất nước bình an thôi. Nhiều người vì tin rằng mỗi năm có một ngôi sao chiếu nên chỉ khi nào sao xấu người ta mới lên chùa xin giải hạn. Hiện nay, có nhiều chùa không tổ chức lễ dâng sao giải hạn nhưng lễ cầu an đầu năm thì hầu như chùa nào cùng có.”

(T.T.A – 50 tuổi – Nữ)

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Bằng )

(Gỡ băng ngày 05/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Quán Sứ )

“Cúng sao và cầu an là những nghi lễ khác nhau, cúng sao là một nghi lễ tập tục có từ lâu đời của người dân Việt Nam, tục Sa-man, còn cầu an là một nghi lễ của Phật giáo cầu cho tâm yên bình cho cuộc sống dễ thở hơn. Theo Phật thì không có sao nào chiếu hết chỉ có họa do con người gây ra mà thôi, tất cả những điều xảy ra hiện tại đều do con người tự tạo ra từ trước”

58

(L.M.T – 28 tuổi - Nam)

PHỤ LỤC 3

* Câu hỏi phỏng vấn: Theo anh chị khóa lễ cầu an là xấu hay tốt?

“Nhiều người cho rằng cầu an là mê tín dị đoan, nhưng thực chất là không hề phài. Cầu an là cực kỳ tốt, cầu an giúp con người thoải mái hơn, sau khi làm lễ cầu an trên chùa về chưa biết là Phật có cho những gì mình xin, mong cầu không nhưng tâm mình cực kỳ yên, cực kỳ thoải mái, chẳng may trong năm mà có gặp điều gì khó khăn thì tự nhiên mình cũng thấy đỡ hơn, cảm thấy là may mắn vì có lễ cầu an đầu năm mình xin thì hạn mình chỉ thế này thôi, nếu không làm lễ thì nó còn nặng đến như thế nào nữa, cách mình đón nhận những khó khăn ấy cũng nhẹ nhàng hơn.”

(N.T.H.L – 50 tuổi – Nữ)

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Phúc Khánh )

“Cầu an thực chất chính là sự sám hối của mình với Phật, sám hối những lỗi lầm của mình, lời hứa thực hiện những điều răn của Phật, sống theo Phật, tu theo Phật, nói điều hay làm việc thiện, không làm điều ác,… Khi mình đã sống được theo những điều này thì không còn lo âu muộn phiền chuyện gì vì thực sự mình đã sống không thẹn với lòng, không sai với Phật. Những điều này chỉ giúp mình đi đúng hướng, sống đúng cách thì không có gì là sai cả. Năm nào nhà tôi cũng đi lễ chùa cầu an đầu năm để một năm được an lành, dù bận mấy cũng đi.”

(N.T.Đ – 68 tuổi – Nữ)

59

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa Phúc Khánh)