ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

----------  ----------

NGUYỄN MINH NGHĨA

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH LỚP 10 TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VIỆT NAM – BA LAN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NĂM 2021

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH Y ĐA KHOA

HÀ NỘI – 2022

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

----------  ----------

Người thực hiện: NGUYỄN MINH NGHĨA

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH LỚP 10 TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VIỆT NAM – BA LAN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI, NĂM 2021

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH Y ĐA KHOA

Khoá: QH.2016.Y

Người hướng dẫn:

THS. BSNT. NGUYỄN VIẾT CHUNG

HÀ NỘI – 2022

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới:

Ban Chủ nhiệm Đại học Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội, thầy cô giảng viên Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu để em có thể hoàn thành khóa luận này.

Em xin bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn chân thành tới ThS. Nguyễn Viết Chung – người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô và các em học sinh khối 10 trường trung học phổ thông Việt Nam – Ba Lan đã tham gia nghiên cứu và hỗ trợ thu thập số liệu cho nghiên cứu này.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giảng viên Đại học Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã dạy dỗ, trang bị kiến thức cho em trong suốt 6 năm theo học tại trường.

Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình, những người bạn thân thiết của em, những người đã cùng chia sẻ khó khăn, dành cho em những lời động viên, chia sẻ quý báu trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 01 tháng 06 năm 2022 Sinh viên

Nguyễn Minh Nghĩa

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trên đây của tôi là trung thực, kết quả này chưa được công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào, các tài liệu liên quan đến đề tài, được trích dẫn đều đã được công bố. Nếu có gì sai trái với những quy định tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày 01 tháng 06 năm 2022 Sinh viên

Nguyễn Minh Nghĩa

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

: Thang đo trầm cảm ở trẻ em : Đại dịch bệnh truyền nhiễm tác nhân virus SARS-CoV-2 : Thang đo mức độ rối loạn lo âu – trầm cảm – stress : Đối tượng nghiên cứu

CDI 2 COVID – 19 DASS 21 ĐTNC ICD – 10 : Phân loại thống kê quốc tế về bệnh tật và vấn đề sức khỏe

tâm thần : Khoảng tin cậy : Thang đo đánh giá trầm cảm ở cộng đồng : Prevalence Odds Ratio : Thang đo cảm nhận mức độ stress : Thang đo lòng tự trọng : Trung học phổ thông : Tổ chức y tế Thế giới

KTC PHQ – 9 POR PSS – 10 RSE THPT WHO

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ........................................................................... 3

1.1. Giới thiệu về trầm cảm ........................................................................... 3

1.1.1. Khái niệm trầm cảm ........................................................................ 3

1.1.2. Dịch tễ ............................................................................................. 3

1.1.3. Nguyên nhân ................................................................................... 4

1.1.4. Đặc điểm lâm sàng của trầm cảm ................................................... 5

1.1.5. Chẩn đoán trầm cảm........................................................................ 6

1.2. Giới thiệu về học sinh THPT ................................................................. 8

1.2.1. Khái niệm học sinh THPT .............................................................. 8

1.2.2. Đặc điểm phát triển thể chất của học sinh THPT ........................... 8

1.2.3. Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh THPT .............................. 9

1.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh THPT ......................... 12

1.3.1. Cấp độ cá nhân .............................................................................. 12

1.3.2. Cấp độ gia đình ............................................................................. 13

1.3.3. Cấp trường học .............................................................................. 13

1.3.4. Cấp cộng đồng ............................................................................... 14

1.3.5. Một số yếu tố khác: ....................................................................... 14

1.4. Các nghiên cứu đã được thực hiện về sức khỏe tâm thần ở học sinh THPT trên thế giới và Việt Nam ................................................................. 15

1.4.1. Trên thế giới .................................................................................. 15

1.4.2. Tại Việt Nam ................................................................................. 16

1.5. Giới thiệu thang đo trầm cảm ở trẻ em và một số thang đo liên quan . 17

1.5.1. Thang đo CDI 2 ............................................................................. 18

1.5.2. Thang đo lòng tự trọng Rosenberg (RSE) .................................... 20

1.5.3. Thang đo cảm nhận mức độ stress PSS – 10 ................................ 21

1.6. Sơ lược về địa điểm nghiên cứu ........................................................... 22

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......... 24

2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 24

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu: ................................. 24

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu: .................................... 24

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................................ 24

2.3. Thiết kế nghiên cứu .............................................................................. 24

2.4. Cỡ mẫu nghiên cứu .............................................................................. 24

2.5. Các chỉ số và biến số nghiên cứu ......................................................... 24

2.6. Công cụ nghiên cứu và kỹ thuật thu thập thông tin ............................. 27

2.6.1. Công cụ nghiên cứu ...................................................................... 27

2.6.2. Kỹ thuật thu thập thông tin ........................................................... 27

2.7. Xử lý và phân tích số liệu .................................................................... 28

2.8. Sai số và cách khắc phục ...................................................................... 28

2.8.1. Sai số thông tin thường gặp: ......................................................... 28

2.8.2. Cách khắc phục sai số thông tin: ................................................... 28

2.9. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................. 29

2.10. Hạn chế của nghiên cứu ..................................................................... 29

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 31

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ......................................... 31

3.2. Đặc điểm trầm cảm ở học sinh lớp 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan ............................................................................................................... 34

3.3. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ trầm cảm ở học sinh lớp 10 tại trường THPT Việt Nam – Ba Lan .......................................................................... 36

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 43

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ......................................... 43

4.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học ............................................................... 43

4.1.2. Đặc điểm yếu tố học tập ................................................................ 44

4.1.3. Đặc điểm yếu tố cá nhân ............................................................... 44

4.1.4. Mức độ stress của học sinh ........................................................... 46

4.1.5. Mức độ lòng tự trọng của học sinh ............................................... 46

4.2. Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh lớp 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan . 47

4.2.1. Tỷ lệ trầm cảm theo mức độ ......................................................... 47

4.2.2. Tỷ lệ trầm cảm theo giới tính ........................................................ 48

4.2.3. Tỷ lệ học sinh có suy nghĩ tự tử .................................................... 49

4.3. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu ....... 50

4.3.1. Các yếu tố nhân khẩu học liên quan đến trầm cảm ...................... 50

4.3.2. Các yếu tố cá nhân liên quan đến trầm cảm .................................. 51

4.3.3. Các yếu tố học tập liên quan đến trầm cảm .................................. 52

4.3.4. Các yếu gia đình liên quan đến trầm cảm ..................................... 53

4.3.5. Yếu tố stress liên quan đến trầm cảm ........................................... 54

4.3.6. Yếu tố lòng tự trọng liên quan đến trầm cảm ............................... 54

KẾT LUẬN .................................................................................................... 56

ĐỀ XUẤT ....................................................................................................... 58

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng các biến số nghiên cứu. ......................................................... 25

Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của học sinh ........................................... 31

Bảng 3.2. Đặc điểm yếu tố học tập của học sinh ............................................ 32

Bảng 3.3. Đặc điểm yếu tố cá nhân của học sinh ........................................... 32

Bảng 3.4. Mức độ stress của học sinh khối 10 trường THPT Việt Nam – Ba

Lan ........................................................................................................... 33

Bảng 3.5. Mức độ lòng tự trọng của học sinh khối 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan .................................................................................................. 34

Bảng 3.6. Tỷ lệ mức độ trầm cảm của học sinh khối 10 trường THPT Việt

Nam – Ba Lan ......................................................................................... 34

Bảng 3.7. Mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố nhân khẩu học ........... 37

Bảng 3.8. Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu tố cá nhân ................. 38

Bảng 3.9. Mối liên quan giữa trầm cảm và yếu tố học tập của học sinh ........ 39

Bảng 3.10. Mối liên quan giữa trầm cảm và yếu tố gia đình .......................... 40

Bảng 3.11. Mối liên quan giữa trầm cảm và stress trên học sinh ................... 41

Bảng 3.12. Mối liên quan giữa trầm cảm và lòng tự trọng của học sinh ........ 42

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm .......................................... 35

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ mức độ trầm cảm theo giới tính ........................................ 35

Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ học sinh có suy nghĩ tự tử ................................................. 36

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rối loạn trầm cảm hay trầm cảm là một rối loạn khí sắc phổ biến và nghiêm trọng [1]. Thuật ngữ major depressive disorder (rối loạn trầm cảm chính) được đưa ra bởi một nhóm bác sĩ lâm sàng Hoa Kỳ vào giữa những năm 1970 [2]. Các triệu chứng bao gồm: tâm trạng buồn bã kéo dài ít nhất hai tuần liên tiếp, lòng tự trọng thấp, mất hứng thú với các hoạt động bệnh nhân từng cảm thấy thú vị, hay các hoạt động bình thường cũng dần trở nên khó khăn, cảm thấy uể oải thiếu năng lượng, đau nhưng không rõ nguyên nhân. Nó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân, cuộc sống công việc hoặc giáo dục cũng như thói quen ngủ, ăn uống và sức khỏe nói chung [1].

Trầm cảm ở trẻ vị thành niên bao gồm: rối loạn mất điều hòa khí sắc kiểu gây rối, bệnh trầm cảm nặng, rối loạn trầm cảm dai dẳng [3]. Trẻ có thể bị bệnh trầm cảm nếu thường có biểu hiện buồn chán dai dẳng, mất quan tâm thích thú với những hoạt động mà trẻ thường thích kèm theo là mệt mỏi, không có khả năng thực hiện các công việc hàng ngày, trong ít nhất hai tuần. Ngoài ra, trẻ có thể khó tập trung chú ý trong học tập, trẻ thu mình tránh tiếp xúc với mọi người hay tuyệt vọng, luôn cho mình là người kém cỏi, bi quan về tương lai có thể đưa đến ý tưởng và hành vi tự sát. Một số khác còn có biểu hiện rối loạn giấc ngủ, ăn kém ngon miệng… Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên từ 0,4 – 8,3%, trong đó trầm cảm nặng chiếm khoảng 15% – 20%. Một số yếu tố ảnh hưởng như: tổn thất tình cảm: người thân qua đời, quan hệ bố mẹ căng thẳng, li thân, li hôn, hay bố mẹ mắc trầm cảm, gia đình ít tham gia hoạt động xã hội; lòng tự trọng bị tổn thương: kết quả học không tốt, tướng mạo không như ý, bị miệt thị hoặc bị bỏ rơi; tính cách cô độc, hướng nội, xa lánh mọi người hoặc yêu quá sớm dễ dẫn tới trầm cảm nghiêm trọng, tự sát hoặc giết người; tính công kích: một trẻ vị thành niên mất đi sự tự tin hoặc bị dày vò về tâm hồn sẽ thể hiện tính công kích nhưng nếu không thể hiện được thì trẻ lại biến những xung đột đó thành trầm cảm, càng muốn công kích trầm cảm càng nặng [4]. Ngoài ra, vấn đề nổi trội lên hiện nay là dịch COVID – 19 kéo dài. Việc đóng cửa trường học do bùng phát COVID – 19 đã ảnh hưởng đến 87% học sinh trên thế giới. Một cuộc khảo sát trực tuyến với

1

học sinh ở Thượng Hải, Trung Quốc đã cho thấy ba triệu chứng phổ biến là: lo lắng (24,9%), trầm cảm (19,7%) và căng thẳng (15,2%) [5].

Trầm cảm ở học sinh nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời sẽ gây ra rất nhiều hậu quả ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của các em. Một số hậu quả như là: thứ nhất, suy giảm chất lượng học tập: trầm cảm kéo dài sẽ khiến trẻ mất tập trung, suy giảm trí nhớ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình học tập của trẻ, từ đó kết quả học tập bị sa sút đáng kể. Thứ hai, trầm cảm khiến cho chất lượng cuộc sống của học sinh bị suy giảm nghiêm trọng; Thứ ba, ảnh hưởng đến các mối quan hệ: biểu hiện đặc trưng của trẻ bị trầm cảm đó chính là sự xa lánh với mọi người xung quanh, trẻ không muốn tiếp xúc hay trò chuyện với bất kỳ ai dẫn đến mất đi các mối quan hệ. Thứ tư, nguy cơ tự sát cao: nếu tình trạng trầm cảm ở học sinh không được can thiệp sớm sẽ khiến cho trẻ dần có những suy nghĩ tiêu cực, nguy cơ tự sát tăng cao [6]. Để hiểu rõ hơn thực trạng trầm cảm ở học sinh THPT nên em thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng trầm cảm ở học sinh lớp 10 tại trường trung học phổ thông Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội” nhằm mục đích cung cấp một cái nhìn tổng thể về vấn đề trầm cảm ở học sinh THPT tại thành phố Hà Nội nói chung và tại trường THPT Việt Nam – Ba Lan nói riêng. Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu chính như sau:

1. Xác định tỷ lệ trầm cảm ở học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông

Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội năm 2021.

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội năm 2021.

2

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN

1.1. Giới thiệu về trầm cảm

1.1.1. Khái niệm trầm cảm

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn rầu, mất sự thích thú hoặc khoái cảm, cảm giác tội lỗi hoặc giá trị bản thân thấp, rối loạn giấc ngủ, ăn uống và kém tập trung” [7].

Theo bảng phân loại tâm thần lần thứ 4 của hiệp hội tâm thần học Mỹ (DSM – IV, 1984): “Trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện bằng giảm khí sắc, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là sự tăng mệt mỏi sau một cố gắng nhỏ, tồn tại trong một khoảng thời gian kéo dài, ít nhất là hai tuần” [8].

Trầm cảm là một rối loạn khí sắc thường gặp trong các rối loạn tâm thần. Nó là một tình trạng buồn chán, giảm hứng thú quá mức và kéo dài, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động trong cuộc sống như công việc/ học tập, gia đình và xã hội. Là rối loạn tâm thần có thể điều trị được [9].

Hội chứng trầm cảm là một hội chứng cấp cứu trong tâm thần học. Đứng trước một hội chứng trầm cảm cần phải đánh giá được mức độ trầm trọng, nguy cơ tự sát cũng như tính đa dạng về mặt lâm sàng. Tính đa dạng này được biểu hiệu trên các mặt: cảm xúc, nhận thức, cơ thể, hành vi [9].

1.1.2. Dịch tễ

Trầm cảm là một rối loạn phổ biến ở cộng đồng, tỷ lệ mắc chung khoảng 3 -5% dân số. Trầm cảm là bệnh phổ biến đứng hàng thứ hai sau bệnh tim mạch. Trầm cảm gặp nhiều ở nữ giới hơn nam giới, tỷ lệ nữ/nam là 2/1. Trầm cảm gặp ở mọi lứa tuổi, gặp nhiều ở lứa tuổi từ 25 – 44. Trầm cảm có khuynh hướng tái diễn [10].

Dịch tễ học trầm cảm được nghiên cứu nhiều trên toàn thế giới. Tỷ lệ lưu hành trọn đời ước tính rất khác nhau giữa các khu vực, từ 3% ở Nhật Bản

3

đến 17% ở Mỹ. Dữ liệu cho thấy trầm cảm cao hơn ở Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á và Mỹ so với các quốc gia khác [11]. Ở Bắc Mỹ, xác suất xuất hiện giai đoạn trầm cảm chính (major depressive; trầm cảm dạng điển hình hay thường gặp) trong bất kỳ khoảng thời gian dài nào trong năm là 3–5% đối với nam giới và 8–10% đối với nữ giới [12,13]. Hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất rằng khoảng 1% đến 2% trẻ em trước tuổi dậy thì và khoảng 5% thanh thiếu niên bị trầm cảm đáng kể về mặt lâm sàng tại bất cứ thời điểm nào [3].

Một số nghiên cứu dịch tễ học trầm cảm tại Việt Nam cho tỷ lệ trầm cảm ở cộng đồng từ 3-8%; báo cáo số liệu người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần trung ương I với tỷ lệ người bệnh được chẩn đoán trầm cảm (F32, F33 theo ICD – 10) từ 3,14%- 6,76% [14]. Tại Việt Nam, theo Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1, tỷ lệ mắc 10 chứng rối loạn tâm thần phổ biến trong năm 2014 là 14,2%, trong đó, riêng rối loạn trầm cảm chiếm 2,45%. Tỷ lệ tự sát trong năm 2015 là 5,87% trên 100.000 dân. Theo nghiên cứu của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), khoảng 8% - 29% trẻ em vị thành niên Việt Nam mắc các bệnh về sức khỏe tâm thần. Theo báo cáo của nhiều nghiên cứu trong nước, 87% số trẻ em trong mẫu nghiên cứu có vấn đề về tâm lý. Nghiên cứu với 202 trẻ em, trong đó có 22,8% số trẻ em trầm cảm; 23,7% số trẻ muốn tự tử; 10,4% tâm thần; 4% tự kỷ và 2,5% lo âu. Như vậy, ước tính tại Việt Nam có ít nhất ba triệu thanh thiếu niên có các vấn đề về sức khỏe tâm lý, tâm thần nhưng chỉ có khoảng 20% trong số đó nhận được hỗ trợ y tế và điều trị cần thiết [15].

1.1.3. Nguyên nhân

Trầm cảm do nhiều nguyên nhân gây ra, nhưng tóm tắt có ba nguyên

nhân chính:

- Trầm cảm nội sinh hay còn gọi là trầm cảm chưa rõ nguyên nhân (trầm cảm trong phân liệt cảm xúc, trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn trầm cảm tái diễn, trầm cảm thoái diễn …).

- Trầm cảm tâm sinh (trầm cảm xuất hiện sau các sang chấn tâm thần

hay hoàn cảnh xung đột, trầm cảm phản ứng …).

4

- Trầm cảm thực tổn (trầm cảm do các bệnh thực tổn ở não hoặc các bệnh toàn thân khác, trầm cảm do nhiễm độc ma túy, rượu…) [10].

1.1.4. Đặc điểm lâm sàng của trầm cảm

Biểu hiện khởi phát: thường bệnh khởi phát từ từ bằng các dấu hiệu bệnh nhân cảm thấy suy nhược, mệt mỏi, khó tập trung khi làm việc, ngại tiếp xúc, chậm chạp trong hoạt động, rút khỏi các hoạt động xã hội thường lệ, trí nhớ nghèo nàn, dễ bị kích thích và rối loạn giấc ngủ (thường thức giấc sớm).

Biểu hiện toàn phát:

* Theo mô tả kinh điển: trạng thái trầm cảm điển hình được biểu hiện bằng sự ức chế các hoạt động tâm thần, nổi bật là cảm xúc bị ức chế, tư duy bị ức chế, hoạt động bị ức chế.

* Theo mô tả của ICD - 10: giai đoạn trầm cảm biểu hiện bằng các triệu

chứng đặc trưng và phổ biến sau:

- Các triệu chứng đặc trưng:

1. Khí sắc trầm.

2. Mất mọi quan tâm và thích thú.

3. Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động.

- Các triệu chứng phổ biến khác hay gặp:

1. Giảm sút sự tập trung và chú ý.

2. Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.

3. Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng.

4. Nhìn vào tương lai thấy ảm đạm.

5. Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.

6. Rối loạn giấc ngủ.

7. Ăn ít ngon miệng.

- Các triệu chứng cơ thể (sinh học, sầu uất) của trầm cảm:

5

1. Mất quan tâm, ham thích trong những hoạt động thường ngày gây

thích thú.

2. Không có phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi trường xung

quanh thường ngày vẫn tạo phản ứng vui thích.

3. Thức giấc sớm ít nhất 2 giờ so với bình thường.

4. Trầm cảm nặng nề hơn về buổi sáng.

5. Chậm chạp tâm lý vận động hoặc kích động.

6. Mất khẩu vị rõ rệt.

7. Sút cân (thường giảm > 5% so với trọng lượng cơ thể tháng trước).

8. Mất dục năng rõ rệt, rối loạn kinh nguyệt ở nữ.

- Các triệu chứng loạn thần: Hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ.

Hoang tưởng, ảo giác có thể phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị tội, bị thiệt hại, bị trừng phạt, nghi bệnh, hoang tưởng mở rộng, nhìn thấy cảnh trừng phạt, ảo thanh bị kết tội hoặc nói xấu, lăng nhục) hoặc không phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị theo dõi, liên hệ...) [16].

1.1.5. Chẩn đoán trầm cảm

1.1.5.1. Chẩn đoán xác định:

- Lần đầu tiên xuất hiện ở bệnh nhân các triệu chứng lâm sàng đặc

trưng, phổ biến và sinh học của trầm cảm.

- Giai đoạn trầm cảm kéo dài ít nhất 2 tuần.

- Không có đủ các triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn của giai đoạn

hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm (F30) ở bất kỳ thời điểm nào trong đời.

- Giai đoạn này không gắn với việc sử dụng chất tác động tâm thần

(F10 – F19) hoặc bất cứ rối loạn thực tổn nào (F00 – F09).

1.1.5.2. Chẩn đoán giai đoạn:

Giai đoạn trầm cảm (F32) biệt định theo các mức độ trầm cảm.

F32.0. Giai đoạn trầm cảm nhẹ.

6

- Phải có 2/3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm.

- Và có 2/7 triệu trứng phổ biến khác hay gặp của trầm cảm.

- Không có triệu chứng cơ thể (sinh học) của trầm cảm.

- Khó tiếp tục công việc và hoạt động xã hội nhưng không dừng hoàn

toàn.

- Kéo dài ít nhất 2 tuần.

F32.1. Giai đoạn trầm cảm vừa:

- Phải có 2/3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm.

- Và có ít nhất 3/7 triệu chứng phổ biến hay gặp của trầm cảm.

- Gây nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, xã hội và nghề nghiệp.

- Có thể có các triệu chứng cơ thể (phải có 4 hoặc nhiều hơn các triệu

chứng cơ thể).

- Kéo dài ít nhất 2 tuần.

F32.2. Giai đoạn trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần.

- Có 3/3 triệu chứng đặc trưng.

- Và có ít nhất 4/7 triệu chứng phổ biến.

- Kèm theo các triệu chứng cơ thể.

- Không còn khả năng tiếp tục công việc xã hội và nghề nghiệp.

- Kéo dài ít nhất 2 tuần, nhưng nếu các dấu hiệu rõ rệt, trầm trọng có

thể chẩn đoán trước 2 tuần.

F32.3. Giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần.

- Thoả mãn các tiêu chuẩn đã nêu trong mục F32.2. ở trên.

- Kèm theo hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ trầm cảm. Nếu cần, hoang tưởng và ảo giác có thể được phân rõ là phù hợp hay không phù hợp với khí sắc.

F32.8. Các giai đoạn trầm cảm khác:

7

Bao gồm trầm cảm không điển hình, trầm cảm ẩn [16].

1.2. Giới thiệu về học sinh THPT

1.2.1. Khái niệm học sinh THPT

“Học sinh trung học phổ thông” là thuật ngữ để chỉ nhóm học sinh từ 15, 16 tuổi đến 17, 18 tuổi. Theo tâm lý lứa tuổi, tuổi thanh niên là “giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn”. Tuổi thanh niên được chia làm 2 giai đoạn (đầu tuổi thanh niên từ 15 – 18 tuổi; tuổi thanh niên 17, 18-25 tuổi). Như vậy định nghĩa này đã giới hạn ở hai mặt sinh lý và xã hội. Tuổi thanh niên với đặc trưng là hoàn thiện cơ thể và giải phẫu sinh lý, đa số thanh niên là từ thời kỳ 15,16 tuổi đến 25 tuổi.

Lứa tuổi từ 15 – 18 tuổi phần là đang học THPT từ lớp 10 đến lớp 12 còn gọi là đầu tuổi thanh niên (thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh, vị thành niên). Do vậy, xét dưới góc độ tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi có thể gọi là học sinh THPT. Do sự phát triển của xã hội nên sự phát triển của trẻ em ngày càng có sự gia tốc, trẻ em lớn nhanh hơn và sự tăng trưởng đầy đủ diễn ra sớm hơn so với các thế hệ trước, nên tuổi dậy thì bắt đầu và kết thúc sớm hơn khoảng 2 năm. Vì vậy, tuổi thanh niên cũng bắt đầu sớm hơn. Nhưng việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới hạn lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội (vị trí của thanh niên trong xã hội; khối lượng tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà họ nắm được và một loạt nhân tố khác…) có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi [17].

Học sinh lớp 10 là những học sinh trung học phổ thông trong nhóm tuổi

15, 16 và có đầy đủ các đặc điểm trên.

1.2.2. Đặc điểm phát triển thể chất của học sinh THPT

Đặc điểm cơ bản của học sinh THPT về thể chất là cơ thể đã trải qua giai đoạn phát triển nhiều biến động như chức năng các tuyến sinh dục, tuyến nội tiết hoạt động mạnh, phát triển về chiều cao, kích cỡ, thể lực. Chức năng vận động phát triển, các em có thêm sức lực, thêm khả năng phối hợp, khả năng chịu đựng. Và phần lớn sự biến đổi đều mang nét đặc thù cho từng giới.

8

Mất cân đối đồng thời bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển bình thường. Cơ thể các em có thể đạt tới mức phát triển của người trưởng thành.

Với sự tăng trưởng nhanh nên nhu cầu năng lượng hàng ngày cao hơn các giai đoạn khác. Các em cần được cung cấp dinh dưỡng và các chất khoáng đầy đủ đối để chống đỡ với bệnh tật và stress…Chế độ ăn không hợp lý có thể sẽ ảnh hưởng bất lợi cho sự phát triển cơ thể, tâm thần và hành vi ứng xử, ở những học sinh gặp tình trạng suy dinh dưỡng hay béo phì.

Thời kỳ trưởng thành về giới tính, đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ khủng hoảng về biến đổi sinh lý để chuyển sang thời kỳ ổn định, cân bằng hơn. Ở trên cả các mặt hoạt động hưng phấn, ức chế của hệ thần kinh cũng như các mặt phát triển của thể chất [18].

Nhìn chung ở tuổi này các em có sức khỏe và sức chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Thể chất của các em đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ rất sung sức, nên người ta hay nói: “Tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của các em [17].

1.2.3. Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh THPT

Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ.

1.2.3.1. Sự phát triển tự ý thức

Sự phát triển của tự ý thức ở lứa tuổi này đã phát triển mức độ cao, có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm lý theo quan điểm, mục đích sống, hoài bão. Chính điều này, làm cho các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất, nhân cách và năng lực của mình. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm khi

9

đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình…

Nếu như học sinh trung học cơ sở thường đặt bản thân mình vào hiện tại thì ngược lại học sinh THPT lại đặt bản thân mình vào tương lai. Vì vậy, các em quan tâm nhiều đến cuộc sống sau này, tình yêu, gia đình, nghề nghiệp và lựa chọn bạn đời tương lai [17,19]

1.2.3.2. Sự hình thành thế giới quan

Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có thái độ coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động…

Nhìn chung, ở tuổi này các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự một cách đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại thiếu tin tưởng vào những hành vi đó.

1.2.3.3. Xu hướng nghề nghiệp

Thanh niên đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh hoạt động của các em. Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em biết gắn những đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp. Tuy vậy, sự

10

hiểu biết về yêu cầu nghề nghiệp của các em còn phiến diện, chưa đầy đủ, vì cậy công tác hướng nghiệp cho học sinh có ý nghĩa quan trọng.

1.2.3.4. Hoạt động giao tiếp

- Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu sống cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị.

- Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và các em cũng cảm thấy mình cần cho tập thể. Khi giao tiếp trong nhóm bạn sẽ xảy ra hiện tượng phân cực – có những người được nhiều người yêu mến và có những người ít được bạn bè yêu mến. Điều đó làm cho các em phải suy nghĩ về nhân cách của mình và tìm cách điều chỉnh bản thân.

- Tình bạn đối với các em ở tuổi này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình bạn thân thiết, chân thành sẽ cho phép các em đối chiếu được những ước mơ, lý tưởng, cho phép các em học được cách nhận xét, đánh giá về mình. Nhưng tình bạn ở các em còn mang màu sắc xúc cảm nhiều nên thường có biểu hiện lý tưởng hóa tình bạn. Có nghĩa là các em thường đòi hỏi ở bạn mình phải có những cái mình muốn chứ không chú ý đến khả năng thực tế của bạn.

- Ở tuổi này cũng đã xuất hiện môt loại tình cảm đặc biệt – tình yêu nam nữ. Tình yêu của lứa tuổi này còn được gọi là “tình yêu bạn bè”, bởi vì các em thường che giấu tình cảm của mình trong tình bạn nên đôi khi cũng không phân biệt được đó là tình bạn hay tình yêu. Do vậy mà các em không nên đặt vấn đề yêu đương quá sớm vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc học tập. Tình yêu của nam nữ thanh niên tạo ra nhiều cảm xúc: căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối, vì vui sướng khi được đáp lại bằng sự yêu thương. Những biểu hiện của loại tình cảm này, nhìn chung rất phức tạp, không đồng đều [11,17]

Trong thời kỳ này thường xảy ra sự mất ổn định trong các chức năng của hệ giao cảm – nội tiết, nên thường thấy những rối loạn chức năng của nhiều cơ quan như hay hồi hộp, tăng huyết áp, những rối loạn về thần kinh:

11

tính tình thay đổi, dễ lạc quan nhưng cũng dễ bi quan hay có những suy nghĩ bồng bột…Giai đoạn này trẻ thường ít bệnh tật hơn cả, tuy nhiên ý định tự tử, hành vi tự tử và các bệnh tâm thần lại xuất hiện nhiều [18].

1.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh THPT

Các yếu tố nguy cơ của trẻ em và thanh thiếu niên được xem xét ở 4 cấp độ: cá nhân, gia đình, nhà trường và cộng đồng. Ngoài ra còn có một số yếu tố nguy cơ khác. Học sinh trung học phổ thông đều có tất cả những yếu tố đó, Học sinh lớp 10 là những em mới chuyển cấp, mới bắt đầu một chương trình học mới, bắt đầu suy nghĩ về tương lai những vấn đề xung quanh xuất hiện nhiều lên vì thế càng tăng thêm các yếu tố nguy cơ dẫn đến trầm cảm nếu các em không được chăm sóc sức khỏe tinh thần một các chu đáo.

1.3.1. Cấp độ cá nhân

Ở cấp độ cá nhân, có ba yếu tố nguy cơ chính đối với thanh thiếu niên,

với một số khác biệt giữa các nhóm tuổi và giới tính.

Thứ nhất, sự cô lập/tự cô lập về cảm xúc là căn nguyên quan trọng đối với thanh thiếu niên lựa chọn không chia sẻ cảm xúc với ai, thường do trẻ muốn bảo vệ cha mẹ khỏi những lo âu. Với trẻ vị thành niên lớn hơn, đặc biệt là các em gái, cảm giác cô lập xã hội là hậu quả của kết hôn sớm. Với những em gái khác trong cùng độ tuổi thì sự cô lập xã hội đến từ việc nghỉ học ngoài ý muốn và/hoặc do gánh nặng công việc gia đình.

Thứ hai dẫn đến những nguy cơ về sức khỏe tâm thần được cho là có liên quan tới việc tiếp cận các công nghệ hiện đại và những nguy cơ của các hành vi trực tuyến gây nghiện đối với những trẻ có xu hướng “sử dụng quá nhiều”. Các em trai có xu hướng chơi trò chơi điện tử nhiều hơn các em gái, nhưng các em gái có nguy cơ bị rình rập và bắt nạt trên mạng nhiều hơn.

Thứ ba liên quan đến những quan niệm tiêu cực về đặc điểm thể chất vị thành niên. Những lo ngại bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn đầu của lứa tuổi vị thành niên, đặc biệt ở những em gái lo lắng về chu kỳ kinh nguyệt hoặc những em bị coi là thừa cân. Những mối lo khác xoay quanh hình thể thấp bé,

12

dẫn đến việc bị chọc ghẹo, bêu tên và phân biệt đối xử trong các hoạt động thể thao tại trường học.

1.3.2. Cấp độ gia đình

Quy tắc quá nghiêm ngặt của gia đình, gia đình nghèo hoặc đang trong tình trạng kinh tế xã hội giảm sút, và những căng thẳng trong hộ gia đình được xác định là các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên. Trẻ đối mặt với những kỳ vọng cao của cha mẹ, trẻ cũng sợ cha mẹ chỉ trích do bị điểm kém ở trường. Đối với những em thuộc giai đoạn giữa của lứa tuổi vị thành niên (trong khoảng từ 15 – 16 tuổi), “sự kiểm soát” của cha mẹ ví dụ như hạn chế trẻ ra ngoài với bạn, không chấp thuận các mối quan hệ tình cảm, kiểm soát việc sử dụng điện thoại di động, bắt trẻ ở nhà làm việc nhà, v.v. được xem là căn nguyên chính dẫn đến tình trạng căng thẳng ở trẻ.

Gia đình nghèo hoặc đang trong tình trạng kinh tế – xã hội giảm sút cũng là yếu tố gây căng thẳng bởi trong những điều kiện như vậy, trẻ không có đủ thời gian học tập cũng như ít có điều kiện tham gia các lớp học thêm, dẫn đến kết quả học tập sa sút, thậm chí buộc phải thôi học.

Ngoài ra, kết hôn sớm, cũng đồng nghĩa với việc phải thôi học ở các em gái, cũng được xem như một trong những nguyên nhân dẫn đến nỗi buồn và trầm cảm cho các em.

Áp lực gia đình muốn trẻ phải thể hiện xuất sắc ở trường, những xung đột trong hôn nhân, cha mẹ ly hôn, bạo lực gia đình từ phía người chồng, và thiếu giao tiếp giữa cha mẹ và con cái làm trầm trọng thêm những căng thẳng trong hộ gia đình và từ đó tác động đến sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên.

1.3.3. Cấp trường học

Căng thẳng do học tập, thiếu sự hỗ trợ và/hoặc môi trường học đường bất ổn, và gặp trở ngại trong các mối quan hệ tình cảm là những yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên. Trẻ tự đặt kỳ vọng rất cao đối với bản thân, phải vượt trội so với

13

bạn bè, và do áp lực của gia đình muốn các em đạt thành tích tốt. Những bất ổn trong môi trường học đường hiện diện thông qua tệ bắt nạt và mâu thuẫn giữa bạn bè đồng trang lứa. Xa gia đình và ở nội trú trong trường cũng là tác nhân gây căng thẳng, tương tự như việc thiếu đi các hoạt động giải trí hoặc sự động viên khích lệ thường xuyên của thầy cô giáo. Các mối quan hệ tình cảm, thường bắt đầu trong môi trường học đường, gây cho trẻ những căng thẳng bởi một mặt trẻ phải giấu diếm cha mẹ và thầy cô giáo – những người sẽ ngăn cấm trẻ, và mặt khác, những đổ vỡ và tình yêu đơn phương mang đến cho trẻ nỗi buồn, trầm cảm và thậm chí đôi khi là ý định và hành vi tự tử.

1.3.4. Cấp cộng đồng

Dễ dàng tiếp cận các độc chất, hạn chế trong tiếp cận các cơ hội kinh tế chủ yếu liên quan đến các cơ hội việc làm, và những chuẩn mực xã hội mang tính tiêu cực được xác định là các yếu tố ở cấp cộng đồng có ảnh hưởng tiềm tàng đến sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên. Các chuẩn mực có hại dường như phổ biến hơn ở khu vực nông thôn, đặc biệt là khu vực miền núi nghèo khó ở phía Bắc, và có ảnh hưởng nhiều hơn đến các em gái. Đó là những chuẩn mực về kết hôn sớm – khiến các em gái buộc phải thôi học khi còn ít tuổi, về những gì em gái nên làm, về cách các em nên cư xử, về trang phục các em nên mặc và về những vai trò trong gia đình mà các em cần phải đảm nhiệm [15].

1.3.5. Một số yếu tố khác

Trong 2 năm gần đây đại dịch COVID – 19 không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe thể chất mà cả sức khỏe tinh thần của người dân. Học sinh, sinh viên là một trong những đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất. Thực tế cho thấy, bên cạnh lo lắng về sự an toàn trong bối cảnh dịch bệnh, việc học tập trực tuyến kéo dài, thiếu sự tương tác với môi trường bên ngoài là những vấn đề mà học sinh, sinh viên cảm thấy áp lực nhất. Các em vừa phải trải qua thời gian biến chuyển tâm sinh lý lại vừa phải làm quen với việc chuyển đổi từ hình thức học trực tiếp sang gián tiếp, nhiều em điều kiện kinh tế gia đình trở nên khó khăn hơn, thậm chí có em còn mất cha mất mẹ do dịch bệnh, những sang chấn tâm lý là điều không thể tránh khỏi. Những tác động

14

tiêu cực của dịch bệnh dễ tạo nên cho các em biểu hiện căng thẳng tâm lý [20,21].

1.4. Các nghiên cứu đã được thực hiện về sức khỏe tâm thần ở học sinh THPT trên thế giới và Việt Nam

Trên thế giới và Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm

thần đặc biệt là tình trạng trầm cảm ở học sinh khối trung học phổ thông.

1.4.1. Trên thế giới

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tác giả Unsal Alaaddin nghiên cứu về tỷ lệ học sinh có triệu chứng trầm cảm ở học sinh trung học có 846 học sinh tham gia cuộc khảo sát. Trong nhóm nghiên cứu cho kết quả tỷ lệ mắc trầm cảm là 30,7% (n = 260), 22,6% ở nam (n = 99) và 39,6% ở nữ (n = 161) [22].

Tại Đài Loan, tác giả Huang – chi Lin và cộng sự nghiên cứu về trầm cảm và mối liên quan của nó với lòng tự trọng, các yếu tố gia đình, bạn bè, trường học ở thanh thiếu niên. Kết quả là trong số 9586 người tham gia, tỷ lệ trầm cảm là 12,3%. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến trầm cảm bao gồm: giới tính nữ, tuổi lớn hơn, cư trú ở khu vực thành thị, lòng tự trọng thấp, hôn nhân cha mẹ đổ vỡ, thu nhập gia đình thấp, xung đột gia đình, chức năng gia đình kém hơn, ít hài lòng với các mối quan hệ đồng đẳng, ít kết nối với trường học và kết quả học tập kém [23].

Tại Chandigarh, tác giả Sandal Raman Kumar nghiên cứu về tỷ lệ trầm cảm, lo âu và căng thẳng ở thanh thiếu niên đi học. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc bệnh DAS (trầm cảm, lo âu, căng thẳng) lần lượt là 65,53%; 80,85% và 47,02%. Nhìn chung, tỷ lệ mắc bệnh đi kèm giữa trầm cảm và lo âu là 57,65%. Rất ít trầm cảm nặng (3%). Tỷ lệ mắc DAS ở nữ cao hơn. Đối với chứng trầm cảm và lo lắng, độ tuổi đỉnh cao là 18 tuổi [24].

Một nghiên cứu về các nam sinh trung học tại Abha, Vùng Aseer, Ả Rập Xê Út. Tác giả Al – gelban nghiên cứu này báo cáo về nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ phổ biến và mức độ nghiêm trọng của chứng trầm cảm, lo lắng và căng thẳng ở trẻ em trai vị thành niên Ả Rập Xê Út. Kết quả chỉ ra rằng trong số 1723 sinh viên nam được tuyển vào nghiên cứu này, 59,4% mắc ít

15

nhất một trong ba rối loạn, 40,7% mắc ít nhất hai và 22,6% mắc cả ba rối loạn. Hơn nữa, hơn một phần ba số người tham gia (38,2%) bị trầm cảm, trong khi 48,9% lo lắng và 35,5% bị căng thẳng. Trầm cảm, lo lắng và căng thẳng có mối tương quan chặt chẽ, tích cực và đáng kể [25]. Tại vùng Qassim, Ả Rập Xê Út tác giả Alharbi Reem nghiên cứu ước tính tỷ lệ trầm cảm và lo lắng của học sinh trung học. Kết quả cho thấy rằng trầm cảm do sử dụng (PHQ-9) trong số 1245 sinh viên, 325 (26,0%) không bị trầm cảm, 423 (34%) trầm cảm nhẹ, 306 (24,6%) trầm cảm vừa phải, trong khi 129 (10,4%) bị trầm cảm mức độ trung bình và 62 (5,0%) bị trầm cảm nặng. Trầm cảm và theo giới tính ( giá trị p < 0,001), cho thấy mối quan hệ đáng kể [26].

1.4.2. Tại Việt Nam

Ở Việt Nam, trong hơn một thập kỷ gần đây vấn đề sức khỏe tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng được đề cập đến nhiều hơn, các nhà nghiên cứu quan tâm hơn, và cũng đã có nhiều nghiên cứu khác nhau về dịch tễ học trầm cảm trong cộng đồng.

Theo Trần Thị Mỵ Lương, Phan Diệu Mai (2019) nghiên cứu về “Thực trạng trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông tại tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội”. Kết quả có khoảng 20% số học sinh có biểu hiện trầm cảm ở mức độ khác nhau [27].

Theo Hồ Thế Nhân & cộng sự (2019) về “Tình hình trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại tỉnh Bến Tre. Kết quả cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở học sinh khối 10 ba trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT chuyên Bến Tre, THPT Trương Vĩnh Ký lần lượt là 32,2%; 30%; 33,3%. Học sinh có nguy cơ cao trầm cảm là những học sinh phải gánh chịu áp lực học tập cao, có sự gắn kết với trường học kém, học sinh mới bước vào ngưỡng cửa cấp ba; học sinh thường tham gia đánh nhau, dành nhiều thời gian tham gia mạng xã hội internet; học sinh có suy nghĩ về việc tự tử hoặc tìm cách tự tử; học sinh sống trong gia đình không hạnh phúc, bị ngược đãi về tình cảm, bị bỏ mặc không được quan tâm [28].

Theo Trần Thị Hương Quỳnh (2020) nghiên cứu về “Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trường trung học phổ thông Hà Huy Tập, thành

16

phố Vinh, tỉnh Nghệ An năm học 2019-2020 và một số yếu tố liên quan”. Kết quả cho thấy tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm là 38,2%, lo âu là 39,2% và stress là 26,2%. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh là: yếu tố nhân khẩu, yếu tố cá nhân và học tập không hài lòng về ngoại hình, có áp lực học tập, không hài lòng với kết quả học tập/điểm thi, yếu tố gia đình: không được gia đình quan tâm yêu mến, gia đình thường xảy ra mâu thuẫn, bị người thân đánh, mắng, yếu tố bạn bè, nhà trường: không có bạn thân, mâu thuẫn với bạn bè, bị bạn bè trêu chọc/bắt nạt/đánh mắng, chứng kiến bạn bè bị trêu chọc/ bắt nạt/ đánh mắng, thầy cô khiển trách thường xuyên, không tham gia hoạt động của nhà trường tổ chức, yếu tố liên quan đến dịch COVID – 19: lo lắng với lượng kiến thức phải học bù, khó theo kịp khi nghỉ dịch, kinh tế gia đình sụt giảm, gặp khó khăn khi học online [29].

Tác giả Hoàng Kim Thành & cộng sự (2020) nghiên cứu về sự gắn kết với trường học và tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của học sinh lớp 10 tại 8 trường trung học phổ thông tại Hà Nội. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định GKTH thực sự là một yếu tố bảo vệ học sinh trước các vấn đề sức khỏe tinh thần bao gồm stress, lo âu và trầm cảm. Đồng thời, gắn kết trường học cũng giúp giảm mức độ trầm trọng của các vấn đề SKTT và giảm khả năng xảy ra đồng thời nhiều vấn đề sức khỏe tinh thần cùng một lúc [30].

Tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự (2021) nghiên cứu về một số yếu tố liên quan đến dấu hiệu trầm cảm của học sinh trường trung học phổ thông Phan Đăng Lưu, Kiến An, Hải Phòng. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố liên quan đến dấu hiệu trầm cảm ở học sinh là tình trạng hôn nhân của bố mẹ học sinh; nội quy của nhà trường khắt khe, sự hoà đồng của bạn bè và sự quan tâm của thầy cô (p < 0,05) [31].

1.5. Giới thiệu thang đo trầm cảm ở trẻ em và một số thang đo liên quan

Các phương pháp đo lường được sử dụng trong mọi lĩnh vực khoa học, kể cả khoa học xã hội và nhân văn. Trong một quần thể, việc đánh giá mức độ trí tuệ, các năng khiếu, sở thích, đặc điểm nhân cách của từng thành viên, giúp họ lựa chọn nghề nghiệp phù hợp khả năng và năng lực. Trong y học, khoa học chẩn đoán tâm lý lâm sàng lấy phương pháp trắc nghiệm tâm lý làm công

17

cụ thực hành để lượng hóa các triệu chứng tâm thần, hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng, phát hiện những lệch lạc về trí tuệ và nhân cách mang tính chất tâm bệnh học, gợi ra phương hướng điều trị và đánh giá kết quả điều trị.

Trong lĩnh vực lâm sàng tâm thần học trên thế giới, các trắc nghiệm tâm lý được sử dụng để đánh giá nhóm các triệu chứng về cảm xúc như thang đánh giá trầm cảm Beck (Beck Depression Inventory) năm 1961, thang đánh giá trầm cảm của Hamilton (HDRS – Hamilton Depression Rating Scale), do M.Hamilton giới thiệu 1960, Thang đánh giá lo âu – trầm cảm – stress DASS (Depression-Anxiety-Stress Scale) năm 1995; Thang GDS được xây dựng để nhận diện các triệu chứng trầm cảm ở bệnh nhân là người già (Brink TL., 1982; Yesavage JA., 1983), Thang đo trầm cảm ở trẻ em CDI (The Children’s Depression Inventory),…

1.5.1. Thang đo CDI 2

1.5.1.1. Khái quát chung

Phiên bản thứ 2 của thang đo trầm cảm trẻ em (CDI 2) là bản sửa đổi hoàn chỉnh của thang đo trầm cảm trẻ em (CDI). CDI 2 có thể được sử dụng trong cả môi trường giáo dục và lâm sàng để đánh giá các triệu chứng trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên. Được sáng tác bởi Tiến sĩ Maria Kovacs, một nhà nghiên cứu được quốc tế công nhận về các rối loạn trầm cảm thời thơ ấu và thanh thiếu niên, CDI 2 vẫn giữ được nhiều đặc điểm thiết yếu của người tiền nhiệm, trong khi giới thiệu một số tinh chỉnh quan trọng [32].

Bộ công cụ đo trầm cảm trẻ em, phiên bản lần thứ 2 (CDI 2) đã nêu ra một loạt các phương pháp trong đó cung cấp những đánh giá toàn diện về nhiều đối tượng trẻ em trong độ tuổi 7 đến 17 tuổi. Khoảng thời gian để xếp hạng cho mỗi công cụ CDI 2 là qua 2 tuần. Khi kết quả từ CDI 2 được kết hợp với các nguồn thông tin được xác minh khác, CDI 2 có thể hỗ trợ xác định sớm các triệu chứng trầm cảm, chẩn đoán trầm cảm và các rối loạn liên quan, cũng như theo dõi hiệu quả điều trị. Cách CDI 2 hoạt động: CDI 2 định lượng triệu chứng trầm cảm bằng cách sử dụng các báo cáo từ trẻ em/thanh thiếu niên (toàn bộ và ngắn), giáo viên và phụ huynh (hoặc người chăm sóc

18

thay thế). CDI 2 bao gồm một số giao thức khác nhau: Tự báo cáo; Giáo viên; Phụ huynh [32].

Tại nghiên cứu này sử dụng Bản CDI 2 Self-Report (tự báo cáo) chứa 28 mục phản ánh các biểu hiện phù hợp với từng thời kỳ. Cụ thể, nó bao gồm các đặc điểm cảm xúc, nhận thức, động lực và thần kinh thực vật của trầm cảm cũng như các ví dụ về suy giảm chức năng thứ phát sau các triệu chứng. CDI 2: Tự báo cáo (CDI 2: SR) là một đánh giá 28 mục mang lại tổng số điểm, hai điểm tỷ lệ và bốn điểm số phụ. Đối với mỗi mục, người trả lời được trình bày với ba lựa chọn tương ứng với ba cấp độ triệu chứng: 0 (không có triệu chứng), 1 (triệu chứng nhẹ hoặc có thể xảy ra) hoặc 2 (triệu chứng xác định). Hình thức đầy đủ là lý tưởng khi các giám định viên yêu cầu một mô tả mạnh mẽ hơn về các triệu chứng trầm cảm của trẻ.

1.5.1.2. Cách sử dụng:

- Mục đích:

+ Đo lường các dấu hiệu nhận thức, tình cảm và hành vi trầm cảm ở trẻ và thanh thiếu niên

+ Đo mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng trầm cảm ở trẻ em.

+ Phân biệt giữa rối loạn trầm cảm chủ yếu, rối loạn cảm xúc buồn rầu ở trẻ em và các tình trạng tâm thần khác.

- Độ tuổi: Từ 07 – 17 tuổi.

- Đối tượng: Thân chủ có dấu hiệu hoặc có nghi vấn trầm cảm.

- Cách tính điểm:

Điểm của thang đo là điểm tổng của 28 nhóm. Khi đánh giá có thể sử

dụng cách phân loại sau:

+ Điểm số:

• 0 – 12: Không trầm cảm

• 13 – 19: Có dấu hiệu trầm cảm

• ≥ 20: Trầm Cảm

- Một số lưu ý khi sử dụng Thang đo trầm cảm trẻ em CDI 2:

19

+ Cần đảm bảo với trẻ rằng không có câu trả lời nào là đúng hay là sai.

+ CDI là bản đánh giá tự báo cáo được viết ở cấp độ đọc cấp một, điều đó có nghĩa là trẻ sẽ được tự đánh giá bằng giấy và bút.

+ Mỗi mục trong CDI 2 có ba câu, và trẻ được yêu cầu chọn một câu trả lời mô tả đúng nhất cảm xúc của trẻ trong hai tuần qua.

+ Nên kiểm tra lại bất kỳ đứa trẻ nào nhận được điểm dương tính trên CDI từ hai đến bốn tuần sau bài kiểm tra ban đầu.

+ Những đứa trẻ không có kỹ năng đọc phù hợp với lứa tuổi có thể nhận được chẩn đoán không chính xác trên cơ sở điểm CDI 2 [33].

1.5.2. Thang đo lòng tự trọng Rosenberg (RSE)

Lòng tự trọng là sự tự tin vào giá trị hoặc khả năng của bản thân. Lòng tự trọng bao gồm niềm tin về bản thân, cũng như các trạng thái cảm xúc, chẳng hạn như chiến thắng, tuyệt vọng, tự hào và xấu hổ. Smith và Mackie (2007) đã định nghĩa nó bằng cách nói "Khái niệm về bản thân là những gì chúng ta nghĩ về bản thân; lòng tự trọng, là những đánh giá tích cực hoặc tiêu cực về bản thân, như cách chúng ta cảm nhận về nó." một cấu trúc tâm lý hấp dẫn vì nó dự đoán các kết quả nhất định, chẳng hạn như thành tích học tập, hạnh phúc, sự hài lòng trong hôn nhân và các mối quan hệ, và hành vi phạm tội. Lòng tự trọng có thể áp dụng cho một thuộc tính cụ thể hoặc trên toàn cầu. Các nhà tâm lý học thường coi lòng tự trọng là một đặc điểm tính cách lâu bền (tính tự trọng đặc điểm), mặc dù các biến thể bình thường, ngắn hạn (lòng tự trọng trạng thái) cũng tồn tại. Các từ đồng nghĩa hoặc gần đồng nghĩa với lòng tự trọng bao gồm: giá trị bản thân, tự coi trọng bản thân, tự tôn và tự trọng [34]

Các Thang đo lòng tự trọng Rosenberg (RSES), được phát triển bởi nhà xã hội học Morris Rosenberg [35], là một thước đo lòng tự trọng được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học - xã hội. Thang đo lòng tự trọng của Rosenberg (RSEs) đã được dịch sang 28 ngôn ngữ và được quản lý cho 16.998 người tham gia trên 53 quốc gia [36]. Nó sử dụng thang điểm 0 – 30 trong đó điểm dưới 15 có thể cho thấy lòng tự trọng có vấn đề [34].

20

Tính điểm: Vì RSE là thang điểm Guttman nên việc tính điểm có thể hơi phức tạp. Cho điểm liên quan đến một phương pháp xếp hạng kết hợp. Các câu trả lời có lòng tự trọng thấp là “không đồng ý” hoặc “đồng ý” ở các mục 1, 3, 4, 7, 10 và “rất đồng ý” hoặc “đồng ý” ở các mục 2, 5, 6, 8, 9. Hai hoặc ba trong số ba câu trả lời đúng cho các mục 3,7 và 9 được cho điểm là một mục. Một hoặc hai trong số hai câu trả lời đúng cho mục 4 và 5 được coi là một mục duy nhất; các mục 1,8 và 10 được tính điểm như các mục riêng lẻ và các câu trả lời đúng kết hợp (một hoặc hai trong số hai) cho mục 2 và 6 được coi là một mục duy nhất.

Thang điểm cũng có thể được cho điểm bằng cách cộng 4 điểm riêng lẻ

cho từng mục sau khi cho điểm ngược lại các mục có từ ngữ phủ định [34].

Độ tin cậy: RSE chứng minh hệ số độ tái lập của thang đo Guttman là 0,92 cho thấy tính nhất quán nội bộ tuyệt vời. Độ tin cậy của thử nghiệm – kiểm tra lại trong khoảng thời gian 2 tuần cho thấy mối tương quan là 0,85 và 0,88, cho thấy độ ổn định tuyệt vời [34].

Tính hợp lệ: Biểu diễn đồng thời, dự báo và xây dựng giá trị pháp lý sử dụng cho các nhóm đã biết. RSE tương quan đáng kể với các thước đo đánh giá lòng tự trọng khác, bao gồm cả Bản kiểm kê về bản thân của Coopersmith. Ngoài ra, RSE tương quan theo hướng dự đoán với các thước đo về trầm cảm và lo lắng [34].

1.5.3. Thang đo cảm nhận mức độ stress PSS – 10

Thang đo cảm nhận mức độ stress (PSS – 10) là một bảng câu hỏi gồm 10 mục được phát triển ban đầu bởi Cohen et al. (1983) được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức độ căng thẳng ở thanh niên và người lớn từ 12 tuổi trở lên [37]. Đây là một bảng câu hỏi tự báo cáo được thiết kế để đo lường mức độ mà các tình huống trong cuộc sống của một người được đánh giá là căng thẳng. PSS-10 xác định cách người trả lời không thể đoán trước, không thể kiểm soát và tìm thấy cuộc sống của họ. Thang đo cũng bao gồm một số truy vấn trực tiếp về mức độ căng thẳng đã trải qua hiện tại. PSS được thiết kế để sử dụng trong các mẫu cộng đồng có ít nhất một số giáo dục trung học. Các

21

mục được đánh giá mang tính chất chung chung thay vì tập trung vào các sự kiện hoặc kinh nghiệm cụ thể [38].

Do mức độ căng thẳng được đánh giá bị ảnh hưởng bởi sự phức tạp hàng ngày, các sự kiện lớn và những thay đổi trong nguồn lực ứng phó, giá trị dự đoán của PSS – 10 giảm nhanh chóng sau 4 đến 8 tuần [38].

Cách tính điểm

Có thể xác định điểm PSS của mình bằng cách làm theo các hướng dẫn sau:

• Đầu tiên, hãy đảo ngược điểm của bạn cho các câu hỏi 4, 5, 7 và 8. Trên 4 câu hỏi này, hãy thay đổi điểm số như thế này: 0 = 4, 1 = 3 , 2 = 2, 3 = 1, 4 = 0.

• Bây giờ thêm điểm của bạn cho mỗi mục để có tổng số.

• Điểm số cá nhân trên PSS có thể dao động từ 0 đến 40 với điểm số cao

hơn cho thấy stress nhận thức cao hơn.

➢ Điểm số từ 0 – 13 sẽ được coi là không stress.

➢ Điểm số từ 14 – 26 sẽ được coi là có dấu hiệu stress.

➢ Điểm số từ 27 – 40 sẽ được coi là stress nặng.

Thang đo PSS là thú vị và quan trọng bởi vì nhận thức của bạn về những gì đang xảy ra trong cuộc sống của bạn là quan trọng nhất. Hãy xem xét ý tưởng rằng hai cá nhân có thể có các sự kiện và kinh nghiệm chính xác trong cuộc sống của họ trong tháng qua. Tùy thuộc vào nhận thức của họ, tổng số điểm có thể đặt một trong những cá nhân đó vào danh mục stress thấp và tổng số điểm có thể đưa người thứ hai vào danh mục stress cao [37].

1.6. Sơ lược về địa điểm nghiên cứu

Hà Nội là thủ đô, thành phố trực thuộc trung ương và là một đô thị loại đặc biệt của Việt Nam. Hà Nội nằm về phía Tây Bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất Việt Nam và là thành phố đông dân thứ hai và mật độ dân số cao thứ hai trong 63 tỉnh của Việt Nam [39]. Dân số trung bình năm 2020 của Hà Nội là 8.246,5 nghìn người, mật độ dân số là 2.454 người/km2 [40]. Tính đến

22

nay, Thành phố Hà Nội có 227 trường trung học phổ thông với 6,3 nghìn lớp học. Toàn Thành phố có 258 nghìn học sinh trung học phổ thông [41].

Quận Hoàng Mai nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội được thành lập và đi vào hoạt động từ 01/01/2004 [42]. Trên địa bàn quận Hoàng Mai có 07 trường trung học phổ thông trong đó có 03 trường công lập là: Trường THPT Hoàng Văn Thụ, Trường THPT Việt Nam – Ba Lan, Trường THPT Trương Định và 04 trường dân lập là: Trường THPT Trần Quang Khải, Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, Trường THPT Phương Nam, Trường THCS – THPT Quốc tế Thăng Long [43].

Trường trung học phổ thông Việt Nam – Ba Lan được thành lập từ năm 1976. Năm 1978, Quốc hội và Chính phủ đã tặng thưởng cho trường Huân chương lao động hạng 3. Trường luôn được công nhận là trường tiên tiến xuất sắc của thủ đô. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT bình quân hàng năm đạt trên 90%. 100% các em được học hướng nghiệp và có tỉ lệ tốt nghiệp đạt 100%, trong đó một nửa là khá giỏi. Năm học 1994 – 1995, Nhà trường được trao tặng thêm Huân chương lao động hạng nhì và hạng ba [44].

Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhà trường và gia đình luôn đòi hỏi sự tiến bộ của thế hệ trẻ trong học tập và phát triển bản thân. Việc chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe tinh thần nói riêng được quan tâm gần đây. Hiện tại nhà trường đã và đang thực hiện theo chăm sóc y tế học đường theo Thông tư liên tịch số 13 của Bộ Y tế và Bộ Giáo dục trong đó có cả vấn đề về chăm sóc sức khỏe tâm thần, tư vấn tâm lý cho các em học sinh [45]. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào liên quan đến vấn đề sức khỏe tâm thần được thực hiện ở trường THPT Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội. Nghiên cứu tìm hiểu về mối liên quan của trầm cảm ở học sinh lớp 10 của trường có thể giúp cho tư vấn cho học sinh, phụ huynh và nhà trường tổ chức hoạt động giáo dục, y tế cho con em mình một cách phù hợp để các em phát triển khỏe mạnh và toàn diện nhất.

23

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu:

- Học sinh khối 10 đang học tại trường THPT Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội

- Học sinh đồng ý tham gia nghiên cứu

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu:

- Học sinh tự nguyện tham gia nhưng không hợp tác trong quá trình nghiên cứu.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu: Trường Trung học phổ thông Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội

- Thời gian nghiên cứu: Tháng 12 năm 2021

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang.

2.4. Cỡ mẫu nghiên cứu

Liên hệ và gửi phiếu tự điền qua đường link Google form cho toàn bộ học sinh khối 10 của trường THPT Việt Nam – Ba Lan. Đã có 238 học sinh khối 10 đồng ý và điền thông tin vào phiếu khảo sát.

2.5. Các chỉ số và biến số nghiên cứu

24

1Bảng 2.1. Bảng các biến số nghiên cứu.

Biến số Định nghĩa

Nhóm biến số Phân loại biến

Tuổi Tuổi dương lịch, lấy 2021 trừ đi năm sinh của ĐTNC Định lượng

Giới tính Là giới nam, nữ Định tính

Địa chỉ Nơi ở hiện tại của ĐTNC Định tính

Tiền sử có mắc bệnh lý mãn tính gì không? Định tính

Tình trạng bệnh lý mãn tính

Tiền sử có mắc bệnh lý tâm thần gì không? Định tính

Tình trạng bệnh lý tâm thần

Đặc điểm chung

Học lực Định tính Học lực trong học kỳ I năm học 2021 - 2022

ngày

Xác định theo Quyết định số 19 59/2015/QĐ-TTg tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Định tính Kinh tế gia đình

Mức độ nghèo/ cận nghèo được UBND nơi cư trú cấp

Mức độ bình thường là những trường hợp còn lại

Định tính Mức độ trầm cảm Mức độ trầm cảm của học sinh theo thang đo CDI 2

Mức độ stress Định tính

Xác định tỉ lệ trầm cảm của học sinh lớp 10 trường Mức độ stress của học sinh theo thang đo cảm nhận mức độ Stress PSS - 10

25

tự

trọng lòng Thang đo Rosenberg Self – Esteem (RSE)

Định tính Mức độ lòng tự trọng

THPT Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội năm 2021

Tuổi Định tính Tuổi dương lịch, lấy 2021 trừ đi năm sinh của ĐTNC

Giới tính Là giới nam, nữ

Học lực Định tính Học lực trong học kỳ I năm học 2021 - 2022

Tiền sử có sử dụng các chất như thuốc lá, rượu, bia không? Định tính

Sử dụng chất hướng thần không?

Khoảng thời gian học Online 1 ngày ≤ 5 giờ hay >5 giờ Định tính

Khoảng thời gian học online 1 ngày?

Định tính

Khoảng thời gian ở trong nhà 1 ngày? Khoảng thời gian ở trong 1 ngày: cả ngày hay có thời gian ra ngoài chơi

Có hoặc không?

Định tính

Cảm thấy khó khăn với việc học online? Xác định một số yếu tố liên quan đến trầm cảm của học sinh lớp 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan, thành phố Hà Nội năm 2021

Không thích hoặc chấp nhận được hoặc thích Định tính

Cảm nhận của bạn về việc học online?

Định tính Khoảng thời gian giải trí với thiết bị điện tử trong 1 ngày ≤ 3 giờ hay >3 giờ

Thời gian giải trí mỗi ngày với thiết bị điện tử?

26

Có hoặc không?

Định tính

Lo lắng về tương lai không

Tồi hoặc bình thường hoặc tốt Định tính Mối quan hệ của bạn và mẹ

Tồi hoặc bình thường hoặc tốt Định tính Mối quan hệ của bạn và bố

2.6. Công cụ nghiên cứu và kỹ thuật thu thập thông tin

2.6.1. Công cụ nghiên cứu

Thông tin được thu thập bằng phương pháp gửi đường link phiếu điều

tra với bộ câu hỏi thiết kế sẵn.

Bộ câu hỏi sử dụng để thu thập số liệu gồm 3 phần:

- Phần 1: Câu hỏi về thông tin chung gồm: nhân khẩu, cá nhân, nhà

trường

- Phần 2: Câu hỏi về 1 số yếu tố liên quan ảnh hưởng đến trầm cảm

- Phần 3: Thang đo đánh giá trầm cảm ở trẻ em (CDI 2), Thang đo lòng

tự trọng Rosenberg (RSES), Thang đo cảm nhận mức độ stress (PSS – 10)

2.6.2. Kỹ thuật thu thập thông tin

Bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các biến số nghiên cứu. Sau khi đã hoàn thành bộ câu hỏi sẽ được tập huấn và điều tra thử nhằm kiểm tra tính logic, phù hợp của bộ câu hỏi.

Sau khi chọn học sinh vào nghiên cứu, liên hệ Ban giám hiệu trường để xem lịch học của học sinh. Trên cơ sở lịch học, chọn thời điểm phù hợp nhất với học sinh để ít ảnh hưởng đến thời gian học tập của các em.

Liên hệ giáo viên chủ nhiệm các lớp, nhờ giáo viên gửi link phiếu điều tra cho học sinh. Những học sinh đồng ý tham gia nghiên cứu được cung cấp phiếu điều tra online và tự đánh giá.

27

Phiếu điều tra không thu thập các thông tin để nhận diện đối tượng

nghiên cứu.

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thu thập số liệu khảo sát trực tuyến thông qua mẫu phiếu điện tử được thiết kế bằng Google form. Khảo sát được thực hiện trực tuyến vào tháng 12/2021.

2.7. Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu được nhập bằng phần mềm SPSS 20, số liệu sau khi nhập được

kiểm tra, làm sạch, loại bỏ những giá trị không phù hợp.

Số liệu sau khi làm sạch được phân tích và xử lý bằng các thuật toán thống kê y học trên phần mềm SPSS 20. So sánh kết quả các biến được mô tả theo test thống kê cơ bản để mô tả số lượng và tỷ lệ (%). Phân tích mối liên quan của trầm cảm và một số yếu tố liên quan.

2.8. Sai số và cách khắc phục

2.8.1. Sai số thông tin thường gặp

Trong quá trình thu thập thông tin qua phiếu khảo sát tự điền được thiết

kế sẵn nên sẽ gặp một vài sai số do các nguyên nhân:

- Sai số do điều tra viên: Điều tra viên chưa giải thích rõ ràng nội dung

trong phiếu câu hỏi cho đối tượng nghiên cứu.

- Sai số do người trả lời phiếu khảo sát: Sai số do người trả lời không hiểu hết ý của các câu hỏi trong phiếu khảo sát; sai số do nhớ lại; sai số do quá trình tự trả lời; sai số do điền hộ phiếu trả lời.

- Sai số do quá trình nhập liệu.

2.8.2. Cách khắc phục sai số thông tin

Đối với sai số do điều tra viên: cần huấn luyện kỹ điều tra viên về hướng dẫn bộ câu hỏi tự điền. Sau khi thu thập lại thông tin, cần phải kiểm tra lại.

Đối với sai số do người trả lời phiếu khảo sát: Giải thích rõ cho đối

tượng trước khi làm khảo sát và giải đáp kịp thời trong khi làm khảo sát

28

Đối với sai số trong quá trình thu thập số liệu: Phối hợp với giáo viên

để giám sát giúp học sinh tự điền một cách nghiêm túc.

Đối với sai số trong quá trình nhập liệu và xử lý số liệu: Đọc phiếu khảo sát và làm sạch trước khi nhập liệu. Tạo các tệp kiểm tra của phần mềm nhập liệu nhằm hạn chế sai số.

2.9. Đạo đức nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm mục đích làm nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của bản thân và là tài liệu tham khảo cho các sinh viên của Trường Đại học Y dược – Đại học Quốc gia Hà Nội trong quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu được sự đồng ý của cơ sở nghiên cứu và sự tham gia tự

nguyện của đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu được cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến

mục tiêu và nội dung nghiên cứu trước khi tham gia.

Đối tượng nghiên cứu có quyền từ chối hoặc rút lui khi tham gia nghiên

cứu

Thông tin của đối tượng nghiên cứu được bảo mật.

Trung thực trong quá trình xử lý số liệu.

Đảm bảo trích dẫn chính xác về các nguồn tài liệu tham khảo.

2.10. Hạn chế của nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thang đo trầm cảm áp dụng trên nghiên cứu cộng đồng nên kết quả chỉ mang tính chất sàng lọc, không mang tính chẩn đoán xác định.

Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi tự điền nên thông tin thu thập phụ thuộc

vào trình độ hiểu biết cũng như sự hợp tác của người trả lời.

Một số biến số nghiên cứu thu thập thông tin phụ thuộc vào tính chủ

quan của người được nghiên cứu.

29

Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang vì vậy mối quan hệ nhân quả là khó xác định, một số yếu tố liên quan đến trầm cảm không được đưa vào nghiên cứu này như: yếu tố di truyền trong gia đình,…

Nghiên cứu viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thu thập và

phân tích kết quả.

30

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

2Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của học sinh

Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

Tuổi 15 129 54,2

16 109 45,8

Giới tính Nam 105 44,1

Nữ 133 55,9

Có 3 1,3

Tiền sử bệnh lý mãn tính Không 235 98,7

Có 2 0,8

Tiền sử bệnh lý tâm thần Không 236 99,2

Có 8 3,4

Tiền sử sử dụng chất hướng thần Không 230 96,6

Nghèo/Cận nghèo 6 2,5

Điều kiện kinh tế gia đình ≥ Bình thường 232 97,5

Nhận xét:

Bảng 3.1 cho thấy, trong 238 học sinh tham gia nghiên cứu thì giới nữ chiếm phần lớn với 55,9%. Tuổi của học sinh khối 10 chiếm lần lượt là 15 tuổi ~ 54,2%, còn lại là 16 tuổi. Kinh tế gia đình chủ yếu ở mức bình thường trở lên chiếm 97,5%. Số học sinh mắc các bệnh lý mãn tính chỉ có 1,3% và mắc các bệnh lý tâm thần 0,8%. Số học sinh sử dụng chất hướng thần chiếm 3,4%.

31

3Bảng 3.2. Đặc điểm yếu tố học tập của học sinh

Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

Kết quả học tập Giỏi 74 31,1

Khá 150 63,0

Trung bình 14 5,9

≤ 5 giờ 159 66,8

Thời gian học online 1 ngày > 5 giờ 79 33,2

Có 102 42,9

Không 136 57,1 Bạn có thấy khó khăn với việc học online không?

Thích 28 11,8

Chấp nhận được 182 76,4 Cảm nhận của bạn về việc học online? Không thích 28 11,8

Nhận xét: Về học tập, học sinh có học lực khá chiếm đa số 63% (n = 152) Thời gian học online 1 ngày của học sinh chủ yếu là ≤ 5 giờ chiếm 66,8% (n = 159). Có 42,9% (n =102) học sinh gặp khó khăn trong việc học online. Phần lớn học sinh đều chấp nhận được việc học online chiếm 76,5%.

4Bảng 3.3. Đặc điểm yếu tố cá nhân của học sinh

Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

190 79,8 Cả ngày

48 20,2 Có thời gian ra ngoài chơi Thời gian ở nhà 1 ngày trong vòng 1 tháng nay

88 37,0 ≤ 3 giờ

150 63,0 > 3 giờ Thời gian giải trí mỗi ngày trên thiết bị điện tử

197 82,8 Có

Bạn có lo lắng về tương lai không? 41 17,2 Không

32

Tồi 12 5,0

Bình thường 84 35,3

Tốt 142 59,7 Bạn tự cảm nhận về mối quan hệ của mình với Mẹ như thế nào?

Tồi 10 4,2

Bình thường 113 47,5

Tốt 115 48,3 Bạn tự cảm nhận về mối quan hệ của mình với Bố như thế nào?

Nhận xét:

Về các yếu tố cá nhân, đa số các học sinh đều có lo lắng về tương lai 82,8%. Trong thời gian cách ly xã hội do dịch COVID – 19, học sinh cần phải học online thì hầu như học sinh đều ở nhà cả ngày (24/24 giờ) chiếm 79,8%. Trong thời gian ở nhà thì ngoài thời gian học online các học sinh sử dụng thiết bị điện tử để giải trí với đa phần là thời gian > 3 giờ/ngày chiếm 63,0%.

Mối quan hệ của học sinh với mẹ ở mức tốt là 59,7% cao hơn so với mối quan hệ với bố là 48,3%. Nhìn chung, mối quan hệ của các em với bố mẹ đều ở mức bình thường và tốt.

5Bảng 3.4. Mức độ stress của học sinh khối 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan

Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

Không stress 20 8,4

Có dấu hiệu stress 201 84,5 Thang đo nhận biết Stress (PSS – 10) Stress nặng 17 7,1

Nhận xét:

Về tình trạng Stress, qua thang đo cảm nhận mức độ Stress (PSS – 10) cho thấy hầu như các học sinh đều có vấn đề về stress, số học sinh có dấu hiệu stress chiếm 84,5% (n = 201)

33

6Bảng 3.5. Mức độ lòng tự trọng của học sinh khối 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan

Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

Lòng tự trọng thấp 111 46,6

Lòng tự trọng trung bình 127 53,4 Thang đo Rosenberg Self – Esteem (RSE) Lòng tự trọng cao 0 0

Nhận xét:

Về nhận biết lòng tự trọng, qua thang đo Rosenberg Self – Esteem (RSE) cho thấy số học sinh có lòng tự trọng thấp (46,6%) và có lòng tự trọng trung bình (53,4%) xấp xỉ nhau. Không có học sinh có lòng tự trọng cao.

3.2. Đặc điểm trầm cảm ở học sinh lớp 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan

3.2.1. Tỷ lệ mức độ trầm cảm của học sinh lớp 10 tại trường THPT Việt Nam – Ba Lan

7Bảng 3.6. Tỷ lệ mức độ trầm cảm của học sinh khối 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan

Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

Không trầm cảm 82 34,5

Có dấu hiệu trầm cảm 75 31,5

Trầm cảm 81 34

Nhận xét:

Sử dụng thang điểm CDI 2 để đánh giá kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm là 31,5%, tỷ lệ học sinh trầm cảm là 34% và tỉ lệ học sinh không trầm cảm là 34,5%.

34

3.2.2. Tỷ lệ số học sinh lớp 10 tại trường THPT Việt Nam – Ba Lan có biểu hiện trầm cảm

34.5% (n = 82)

65.5% (n = 156)

Không trầm cảm Có dấu hiệu trầm cảm

1Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm

Nhận xét:

Qua biểu đồ 3.2 cho thấy trong tổng số học sinh tham gia nghiên cứu

thì số học sinh có dấu hiệu trầm cảm chiếm đa số là 65,5%

3.2.3. Tỷ lệ mức độ trầm cảm của học sinh khối 10 theo giới tính

39.1% 37.6% 37.1% 33.3% 29.5%

23.3%

Không trầm cảm Có dấu hiệu trầm

Trầm cảm

cảm

40.0% 35.0% 30.0% 25.0% 20.0% 15.0% 10.0% 5.0% 0.0%

Nữ Nam

2Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ mức độ trầm cảm theo giới tính

35

Nhận xét:

Qua biểu đồ 3.3 cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở giới tính nữ là 37,6% cao hơn giới tính nam 29,5%. Tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm và trầm cảm ở các giới còn lại đều ở mức cao.

3.2.4. Tỷ lệ học sinh khối 10 có suy nghĩ tự tử

0.9% (n= 2)

29.4% (n = 70)

69.7% (n = 166)

Không có ý nghĩ tự tử

Có ý nghĩ tự tử nhưng sẽ không thực hiện

Muốn tự tử

3Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ học sinh có suy nghĩ tự tử

Nhận xét:

Qua biểu đồ 3.4 cho thấy trong tổng số học sinh tham gia nghiên cứu đa số học sinh đều không có ý nghĩ tự giết mình chiếm 69,7%. Có rất ít học sinh có ý định muốn tự tử chiếm 0,9%.

3.3. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ trầm cảm ở học sinh lớp 10 tại trường THPT Việt Nam – Ba Lan

36

8Bảng 3.7. Mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố nhân khẩu học

Đặc điểm Trầm cảm Không trầm cảm POR p

KTC 95% n % n %

Tuổi

15 89 69,0 40 31,0 1,4 0,22

(0,82 – 2,39) 16 67 61,5 42 38,5

Giới tính

Nữ 102 76,7 31 23,3 1,94 0,02

(1,11 – 3,42) Nam 66 62,9 39 37,1

Tiền sử bệnh lý mãn tính

Có 2 66,7 1 33,3 1 1,05

(0,09 – 11,78) Không 154 65,5 81 34,5

Tiền sử bệnh lý tâm thần

Có 2 66,7 1 33,3 1 1,05

(0,09 – 11,78) Không 154 65,5 81 34,5

Tiền sử sử dụng chất hướng thần

Có 5 71,4 2 28,6 1 1.33

(0,25 – 6,98) Không 151 65,4 80 34,6

Điều kiện kinh tế gia đình

5 83,3 1 16,7 2,68 0,67

Nghèo/ Cận nghèo (0,31 – 23,35)

≥Bình thường 151 65,1 81 34,9

Nhận xét: So với giới tính nam thì giới tính nữ có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,94 lần (KTC 95%: 1,11 – 3,42) và mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

37

9Bảng 3.8. Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu tố cá nhân

Đặc điểm Trầm cảm Không trầm cảm POR p

KTC 95% n % n %

Thời gian học Online 1 ngày

> 5 49 62,0 0,79 0,42 38,0 30

(0,45 – 1,39) ≤ 5 107 67,3 32,7 52

Khoảng thời gian ở trong nhà 1 ngày

24/24 giờ 129 67,9 1,65 0,13 32,1 61

(0,86 – 3,14) 27 56,2 43,8 21

Có thời gian ra ngoài

Bạn có thấy khó khăn trong việc học Online

3,77 < 0,01 Có 83 81,4 18,6 19

(2,07 – 6,88) Không 73 53,7 46,3 63

Khoảng thời gian giải trí mỗi ngày trên thiết bị điện tử

2,14 0,01 108 72,0 > 3 28,0 42

(1,24 – 3,72) 48 54,5 ≤ 3 45,5 40

Bạn có lo lắng về tương lai không?

Có 138 70,1 2,99 < 0,01 29,9 59

(1,5 – 5,95) Không 18 43,9 56,1 23

Nhận xét:

Đối với tình trạng lo lắng về tương lai, kết quả chỉ ra rằng số học sinh có lo lắng về tương lai có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,99 lần (KTC 95%: 1,5 – 5,95) so với số học sinh không có lo lắng về tương lai và mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)

Có sự chênh lệch tỉ lệ trầm cảm trong nhóm học sinh có khoảng thời gian giải trí trên thiết bị điện tử, những học sinh sử dụng thiết bị điện tử >3

38

giờ/ ngày có nguy cơ trầm cảm cao hơn 2.14 lần (KTC 95%: 1,24 – 3,72) so với nhóm học sinh sử dụng thiết bị điện tử để giải trí ≤ 3 giờ/ ngày và mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Đối với tình trạng khó khăn trong việc học online, số học sinh có khó khăn trong việc học online có nguy cơ trầm cảm cao gấp 3,77 lần (KTC 95%: 2,07 – 6,88) so với những học sinh không có khó khăn trong việc học online và mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

10Bảng 3.9. Mối liên quan giữa trầm cảm và yếu tố học tập của học sinh

Đặc điểm Trầm cảm Không trầm cảm POR p

KTC 95% n % n %

Kết quả học tập

Trung bình 13 92,9 1 7,1 6,9 0,04

(0,88 – 54,21) Khá 98 65,3 52 34,7

Khá 98 65,3 52 34,7 1,22 0,51

(0,68 – 2,16) Giỏi 45 60,8 29 39,2

Trung bình 13 92,9 1 7,1 8,38 0,03

(1,04 – 67,52) Giỏi 45 60,8 29 39,2

Bạn có thích học online không?

7 25,0 Không thích 21 75,0 1,48 0,4

(0,59 – 3,66) 60 33,0 122 67,0

Chấp nhận được

Không thích 21 75,0 7 25,0 3,46 0,03

(1,12 – 10,75) Có thích 13 46,4 15 53,6

122 67,0 60 33,0 2,35 0,03

Chấp nhận được (1,05 – 5,25)

Có thích 13 46,4 15 53,6

Nhận xét:

39

Về kết quả học tập số học sinh có học lực trung bình có nguy cơ trầm cảm cao hơn lần lượt là 6,9 lần (KTC 95%: 0,88 – 54,2) và hơn 8,38 lần (KTC 95%: 1,04 – 67,52) so với học sinh có học lực khá và học sinh có học lực giỏi, các mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Đối với việc học online không thì số học sinh không thích học online có nguy cơ mắc trầm cảm cao hơn 3,46 lần (KTC 95%: 1,12 – 10,75) so với học sinh có thích học online. Số học sinh chấp nhận được việc học online thì nguy cơ trầm cảm cao hơn 2,35 lần (KTC 95%: 1,05 – 5,25) so với học sinh thích học online, các mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

11Bảng 3.10. Mối liên quan giữa trầm cảm và yếu tố gia đình

Đặc điểm Trầm cảm Không trầm cảm POR p

KTC 95% n % n %

Mối quan hệ của bạn với mẹ?

Tồi 11 91,7 8,3 1 2,2 0,68

(0,26 – 18,44) Bình thường 70 83,3 16,7 14

Tồi 11 91,7 8,3 1 9,83 0,01

(1,24 – 78,15) Tốt 75 52,8 47,2 67

Bình thường 70 83,3 16,7 14 4,47 < 0,01

(2,31 – 8,66) Tốt 75 52,8 47,2 67

Mối quan hệ của bạn với bố?

Tồi 9 90,0 10,0 1 2,69 0,69

(0,33 – 22,23) Bình thường 87 77,0 23,0 26

Tồi 9 90,0 10,0 1 8,25 0,02

(1,01 – 67,25) Tốt 60 52,2 47,8 55

87 77,0 23,0 26 Bình thường 3,07 < 0,01

(1,73 – 5,43) Tốt 60 52,2 47,8 55

Nhận xét:

40

Về mối quan hệ với mẹ, số học sinh có mối quan hệ với mẹ tồi có nguy cơ trầm cảm cao hơn 9,83 lần (KTC 95%: 1,24 – 78,15) so với học sinh có mối quan hệ tốt với mẹ, mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). So với học sinh có mối quan hệ với mẹ tốt thì học sinh có mối quan hệ bình thường với mẹ có nguy cơ trầm cảm cao hơn 4,47 lần (KTC 95%: 2,31 – 8,66), mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Về mối quan hệ với bố số học sinh có mối quan hệ với bố tồi có nguy cơ trầm cảm cao hơn 8,25 lần (KTC 95%: 1,01 – 67,25) so với học sinh có mối quan hệ tốt với bố, mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). So với học sinh có mối quan hệ với bố tốt thì học sinh có mối quan hệ bình thường với bố có nguy cơ trầm cảm cao hơn 3,07 lần (KTC 95%: 1,73 – 5,43), mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

12Bảng 3.11. Mối liên quan giữa trầm cảm và stress trên học sinh

Đặc điểm Trầm cảm Không trầm cảm POR p

KTC 95% n % n %

PSS – 10

Có Stress 155 71,1 46,75 < 0,01 63 28,9

(6,13 – 356,67) 1 5,0 19 95,0

Không Stress

Nhận xét:

Đối với tình trạng stress, từ kết quả ở bảng 3.9 chỉ ra rằng những học sinh có dấu hiệu stress có nguy cơ trầm cảm cao gấp 46,75 lần KTC (6,13 – 356,67) so với những học sinh không stress, mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

41

13Bảng 3.12. Mối liên quan giữa trầm cảm và lòng tự trọng của học sinh

Đặc điểm Trầm cảm Không trầm cảm POR p

KTC 95% n % n %

RSE

111 87,4 16 12,6 10,16 < 0,01

Lòng tự trọng thấp (5,33 – 19,43)

45 40,5 66 59,5

Lòng tự trọng trung bình

Nhận xét:

Có sự chênh lệch tỉ lệ trầm cảm trong nhóm học sinh có lòng tự trọng thấp và lòng tự trọng trung bình, kết quả ở bảng 3.10 cho ta thấy học sinh có lòng tự trọng thấp có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn 10,16 lần (KTC 95%: 5,33 – 19,43) so với những học sinh có lòng tự trọng trung bình, mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

42

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

4.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học

Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 238 học sinh lớp 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng học sinh nữ 55,9% nhiều hơn học sinh nam 44,1% (bảng 3.1). Kết quả này khá giống với nghiên cứu của một số tác giả khác như: Huang-Chi Lin & cộng sự (nữ 51,3%; nam 48,7%); Trần Thị Mỵ Lương & cộng sự (nữ 58,9%, nam 41,1%); Nguyễn Bá Đạt (nữ 51,6%%, nam 48,4%) [23,27,46]. Về độ tuổi của học sinh khối 10 gần như tương đương nhau với tuổi 15 (54,2%) và tuổi 16 (45,8%) cho thấy rằng số lượng học sinh đi học đúng tuổi mỗi năm là rất đều.

Về tình trạng sức khỏe của học sinh đa số học sinh đều không có tiền sử bệnh lý mãn tính (98,7%) chỉ có số ít có mắc bệnh lý mãn tính (1,3%) điều này cho thấy sức khỏe của các em đều ở mức tốt, việc chăm sóc sức khỏe của gia đình và nhà trường đã thực hiện tốt. Tình trạng sức khỏe tâm thần cũng đa số là học sinh không có bệnh lý tâm thần (99,2%) số học sinh có tiền sử bệnh lý tâm thần (0,8%) cho thấy ngoài việc chăm sóc sức khỏe thể chất tốt thì việc chăm sóc sức khỏe tâm thần hiện nay cũng được quan tâm chu đáo từ gia đình và nhà trường giúp các em luôn có một thể trạng tốt.

Đa số học sinh không sử dụng các chất hướng thần như: rượu, bia, thuốc lá,… (96,6%) xong bên cạnh đó vẫn có một số em sử dụng rượu, bia, đặc biệt là thuốc lá (3,4%) điều này có thể phù hợp với lứa tuổi các em, các em mới lớn nên sẽ có những tìm hiểu, tò mò dẫn đến sử dụng những chất hướng thần đó xong tỉ lệ là khá thấp cho thấy sự hiểu biết của học sinh về tác hại của các chất đó là đầy đủ.

Điều kiện kinh tế gia đình đa số từ mức bình thường trở lên (97,5%) kết quả này hoàn toàn hợp lý với địa bàn nghiên cứu trực thuộc thành phố, mức sống ở thành phố là ổn định tạo điều kiện cho các em có một cuộc sống tốt.

43

4.1.2. Đặc điểm yếu tố học tập

Nghiên cứu các đặc điểm yếu tố học tập của học sinh cho thấy kết quả học tập học kỳ I năm học 2021 – 2022 hầu hết là học lực giỏi và khá chiếm tỷ lệ rất cao (94,1%). Kết quả này gần giống với nghiên cứu ở trường THPT Hà Huy Tập, Nghệ An phần lớn là học lực khá và giỏi (97,6%) [29].

Kết quả đạt được như trên có thể là do: Trường THPT Việt Nam – Ba Lan là trường công lập được thành lập từ năm 1976, điểm xét tuyển đầu vào thường đứng thứ hạng cao trong các trường công lập không chuyên của thành phố, vốn có truyền thống hiếu học, phụ huynh quan tâm và chăm lo việc học của con em, đa số học sinh có ý thức trong học tập và rèn luyện, giáo viên nhà trường thường xuyên đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học, có thể thấy các em dành phần lớn thời gian sau khi đến trường cho việc học tập. Tuy nhiên, việc tập trung hầu hết thời gian vào việc học chính, học thêm để đạt được kỳ vọng của phụ huynh và bản thân cũng gây áp lực lớn, mệt mỏi đối với các em, dễ dẫn đến những rối loạn về tâm lý.

Đại dịch COVID – 19 không những ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh và còn làm thay đổi đến cách thức học tập. Các em phải chuyển qua hình thức học online trong một thời gian dài. Số thời gian học online 1 ngày của các em đa số ≤ 5 giờ (66,8%) và một phần không nhỏ các em học online > 5 giờ/ngày (33,2%). Việc học online nhiều dẫn đến việc các em dễ có những vấn đề về sức khỏe đặc biệt là tình trạng mắt. Trong thời gian học online kéo dài thì các em dần thấy những khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức, các em không được giao lưu, chơi đùa với các bạn do đó việc có 42,9% học sinh gặp khó khăn trong việc học online là tỉ lệ khá cao, bên cạnh đó có nhiều em thích nghi rất tốt trong điều kiện hoàn cảnh dịch bệnh và không có khó khăn trong việc học online (57,1%). Việc học online phần lớn các em đều chấp nhận được (76,4%) số lượng học sinh thích và không thích việc học online là bằng nhau (11,8%).

4.1.3. Đặc điểm yếu tố cá nhân

Trong đại dịch COVID – 19 không những ảnh hưởng đến tâm lý, cách thức học tập của học sinh mà còn làm thay đổi thói quen và lối sống của các

44

em. Tình trạng trong các đợt giãn cách xã hội các em không được đi học cũng không được ra ngoài chơi thì ngoài thời gian học tỷ lệ các em ở trong nhà cả ngày là rất cao (79,8%) chỉ có số ít có thể ra ngoài để chơi hay tham gia các hoạt động thể thao, gặp gỡ bạn bè (20,2%). Việc ở trong nhà cả ngày thì các em sẽ không có gì để giải trí và dẫn đến việc sử dụng các thiết bị điện tử như: máy tính, điện thoại, ti vi … để giải trí tăng cao. Bình thường chúng ta chỉ nên chơi các trò chơi điện tử hoặc tiếp xúc với thiết bị điện tử ≤ 3 giờ/ ngày nhưng đa số các em sử dụng các thiết bị điện tử >3 giờ/ ngày (63%), một số ít sử dụng chúng để giải trí ≤ 3 giờ/ ngày (37%). Điều này phù hợp với hoàn cảnh của các em nhưng sẽ có nhiều tác hại và hậu quả đến sức khỏe về cả thể chất và tinh thần của các em.

Học sinh lớp 10 những em vừa mới chuyển cấp từ trung học cơ sở sang trung học phổ thông các em dần lo lắng về tương lai của bản thân có 82,8% có lo lắng cho tương lai. Các em dần hoàn thành trí tuệ, sự tự ý thức, hình thành thế giới quan và giao tiếp, đời sống tình cảm nên việc lo lắng cho tương lai là hoàn toàn hợp lý.

Về mối quan hệ giữa học sinh và bố mẹ của các em ở nghiên cứu này đa số các em đều có mối quan hệ bình thường hoặc tốt đối với bố (95,8%) và mẹ (95%). Trong đó mối quan hệ tốt với mẹ (59,7%) cao hơn so với bố (48,3%). Điều này là hợp lý vì mẹ là người gần gũi chăm sóc các em hơn. Mối quan hệ giữa học sinh với bố mẹ các em sẽ có ảnh hưởng đến tâm sinh lý các em. Ở lứa tuổi THPT, học sinh đã có sự độc lập nhất định trong tư duy và trong hành vi ứng xử, nếu học sinh được cha mẹ thương yêu, tôn trọng và lắng nghe sẽ giúp các em có tâm lý thoải mái, tích cực học tập và rèn luyện để đạt được kết quả cao nhất. Ngược lại, bố mẹ không quan tâm chăm sóc, yêu thương các em đúng cách, hoặc quá khắt khe, thường ra lệnh, áp đặt, ép buộc con, không tin tưởng vào con… dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái, dẫn đến tâm lý buồn bực, lo sợ, căng thẳng ở các em. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thị Hương Quỳnh cho rằng gia đình có tác động đến tâm sinh lý của trẻ [29].

45

4.1.4. Mức độ stress của học sinh

Tình trạng stress được đo qua thang đo cảm nhận mức độ stress (PSS – 10) tỷ lệ học sinh có dấu hiệu stress trở lên chiếm đa số (91,6%) trong đó stress nặng là 7,1%. Áp lực học tập, môi trường học tập thay đổi từ trung học cơ sở sang trung học phổ thông, từ việc học trực tiếp sang học online do đại dịch COVID – 19, sự kỳ vọng của gia đình, sự lo lắng về tương lai, … điều này có thể dẫn đến tình trạng stress cao ở học sinh.

Trong một số nghiên cứu của tác giả khác như tác giả Trần Thị Mỵ Lương & cộng sự sử dụng thang đo Beck có tỷ lệ là 23,4%; tác giả Trần Thị Hương Quỳnh đánh giá qua thang đo DASS – 21 tỉ lệ stress là 26,2% [27,29]. Với tỷ lệ stress nặng và có dấu hiệu stress khác so với nghiên cứu này, sự khác nhau giữa các nghiên cứu về tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress là do sự khác nhau về thang đo, cỡ mẫu, loại hình nghiên cứu, thời điểm nghiên cứu, phương pháp chọn điểm cắt và một số đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của từng khu vực khác nhau.

Theo nghiên cứu của tác giả Christoph Pieh và cộng sự về mức độ căng thẳng ở học sinh trung học sau một kỳ học ở nhà cho thấy mức độ căng thẳng trên thang điểm tổng PSS – 10 là 36,5% đạt trên điểm giới hạn cho mức độ stress nặng; 52,5% là có dấu hiệu stress và 11% cho mức độ không stress [47]. Tỷ lệ không stress khá tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi. Sự tương đồng này có thể là do thang đo giống nhau PSS – 10, thời điểm cắt gần nhau (năm 2021), đối tượng nghiên cứu là vị thành niên có độ tuổi trung bình gần như nhau.

4.1.5. Mức độ lòng tự trọng của học sinh

Kết quả về lòng tự trọng theo thang đo Rosenberg Self – Esteem (RSE) cho thấy học sinh có lòng tự trọng trung bình chiếm đa số 53,4%, còn lại là học sinh lòng tự trọng thấp (46,6%) đặc biệt là không có học sinh có lòng tự trọng cao. Lòng tự trọng là sự coi trọng phẩm chất, danh dự và tư cách của bản thân mỗi người. Ở học sinh các em chưa hiểu hết giá trị của bản thân, các em mới bắt đầu trưởng thành điều đó có thể giải thích cho việc lòng tự trọng thấp còn chiếm tỉ lệ cao. Điều đó có thể thay đổi khi các em nhìn nhận ra giá

46

trị của bản thân, tự tin dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào. Bên cạnh đó lòng tự trọng trung bình chiếm đa số khá giống so với nghiên cứu của tác giả Huang- Chi Lin & cộng sự tỷ lệ lòng tự trọng là 28,3 ± 5,4 biểu hiện ở mức độ lòng tự trọng trung bình [26] và nghiên cứu của tác giả Shanshan Zhang & cộng sự cũng cho tỷ lệ lòng tự trọng là 28,5 ± 5,3 và cũng biểu hiện ở mức độ lòng tự trọng trung bình trong đó điểm số về lòng tự trọng của nam thấp hơn nữ ((27,4 ± 5,1) so với (28,2 ± 4,8)) [48]. Sự giống nhau giữa các nghiên cứu về lòng tự trọng là do sử dụng cùng về thang đo, đối tượng nghiên cứu gần như nhau, đặc điểm kinh tế, kết quả học tập,… Điều này cho thấy sự biểu hiện lòng tự trọng ở thanh thiếu niên ở nhiều nơi trên thế giới có sự tương đồng nhau.

4.2. Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh lớp 10 trường THPT Việt Nam – Ba Lan

4.2.1. Tỷ lệ trầm cảm theo mức độ

Trong tổng số 238 đối tượng nghiên cứu là học sinh trường THPT Việt Nam – Ba Lan có tỷ lệ không trầm cảm, có dấu hiệu trầm cảm và trầm cảm theo thang đo CDI 2 lần lượt là 34,5%, 31,5%, 34%

Với tỷ lệ trầm cảm này kết quả tăng cao so với nghiên cứu Nguyễn Bá Đạt về tỉ lệ trầm cảm ở các trường THPT tại Hà Nội: khối 10 ở trường THPT Việt Nam – Ba Lan có tỷ lệ trầm cảm là 9,3%, ở trường THPT Phan Đình Phùng là 7,2%, ở trường THPT Yên Hòa 7,5%. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Bá Đạt được thực hiện năm 2002 [46]. Có sự khác nhau về tỉ lệ trầm cảm này là do sự khác nhau về thang đo, đặc biệt là do thời điểm khác nhau, đối tượng nghiên cứu, tại thời điểm năm 2003 khi mà học sinh vẫn còn có nhiều thời gian chơi đùa sau những giờ học căng thẳng, áp lực học tập ít nặng nề hơn hiện nay, tại năm 2003 thời điểm không có đại dịch COVID – 19 học sinh không hề phải học online, không phải ở trong nhà cả ngày điều đó ảnh hưởng đến tỷ lệ trầm cảm. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự phát triển của công nghệ 4.0 các thiết bị điện tử phổ biến, các em học sinh tiếp xúc với chúng ngày càng nhiều và càng nhiều hơn trong thời gian đại dịch COVID – 19 diễn ra. Điều này có thể giải thích cho việc có sự chênh lệch như thế về tỉ lệ trầm cảm ở học sinh.

47

Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew phân tích dữ liệu từ điều tra quốc gia về sử dụng thuốc và sức khỏe năm 2017. Năm 2017, 13% thanh thiếu niên Hòa Kỳ từ 12 đến 17 tuổi (hoặc 3,2 triệu người) cho biết đã trải qua ít nhất một giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng trong năm qua tăng từ 8% (hoặc 2 triệu người) vào năm 2007) [49]. Tỷ lệ này cho thấy tỷ lệ trầm cảm qua các năm tăng khá nhanh. Theo cuộc điều tra thì tỷ lệ trầm cảm tại năm 2017 chưa cao bằng nghiên cứu hiện tại của chúng em. Điều này có thể được giải thích là vì thời điểm cắt của nghiên cứu khác nhau, thang điểm trong cuộc điều tra được sử dụng khác, địa điểm điều tra khác nhau và đối tượng trong cuộc điều tra rộng hơn. Bên cạnh đó năm 2017 là thời điểm mà tình hình xã hội không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID – 19, các trường học đều hoạt động một cách bình thường, thanh thiếu niên được vui chơi thoải mái, bớt đi một yếu tố nguy cơ nên là tỉ lệ thấp hơn hiện tại có thể được lý giải như thế.

So sánh với một nghiên cứu gần đây năm 2019 của tác giả Hồ Thế Nhân & cộng sự về tình hình trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại tỉnh Bến Tre kết quả tỉ lệ trầm cảm ở học sinh khối 10 ba trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT chuyên Bến Tre, THPT Trương Vĩnh Ký lần lượt là 32,2%; 30%; 33,3%. Tỷ lệ gần tương đương với nghiên cứu này. Sự tương đương này là do sự giống nhau về đối tượng nghiên cứu, thời điểm cắt gần như nhau, hoàn cảnh kinh tế tại thời điểm cắt cũng tương đồng,…

4.2.2. Tỷ lệ trầm cảm theo giới tính

Tỷ lệ trầm cảm theo giới tính ở học sinh cho thấy ở giới nam có tỉ lệ trầm cảm thấp hơn so với những giới tính nữ. Điều này giống với các nghiên cứu đã được thực hiện như tác giả Trần Thị Hương Quỳnh cho thấy giới tính nữ mắc trầm cảm cao hơn, tác giả Huang-Chi Lin cũng cho thấy [23,29] giới tính nam có tỉ lệ trầm cảm (10,7%) thấp hơn giới tính nữ (13,9%) . Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew phân tích dữ liệu từ điều tra quốc gia về sử dụng thuốc và sức khỏe năm 2017 cho thấy 20% trẻ vị thành niên là nữ tương đương 2,4 triệu trẻ nữ đã trải qua ít nhất một giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng trong năm qua. Cao hơn so với 7% ở nam thanh thiếu niên tương đương 845000 trẻ nam đã có ít nhất một giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng trong 12

48

tháng qua. Tỷ lệ gia tăng nhanh ở trẻ em vị thành niên là nữ (66%) nhanh hơn so với các em trai (44%) [49]. Theo Khảo sát Hành vi và Trải nghiệm Vị thành niên của CDC Hoa Kỳ, được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2021: khoảng một nửa số nữ học sinh trung học (49%) cho biết sức khỏe tinh thần (trầm cảm, căng thẳng) của họ hầu như không tốt hoặc luôn trong thời gian bùng dịch COVID – 19 gần gấp đôi tỷ lệ nam sinh nói điều trên (24%) [50]. Điều này có thể có liên quan đến những thay đổi mức độ hormone xảy ra trong suốt cuộc đời của nữ giới; giới nữ có nhiều khả năng trải nghiệm cảm giác tội lỗi và tự tử lớn hơn. Đến tuổi dậy thì thì nguy cơ trầm cảm tăng đáng kể ở học sinh nữ. Sự giống nhau này là do đối tượng nghiên cứu gần như tương đương nhau, số lượng nữ chiếm cao hơn, thời điểm cắt của nghiên cứu cũng gần nhau, điều kiện kinh tế xã hội,…

4.2.3. Tỷ lệ học sinh có suy nghĩ tự tử

Tỷ lệ có suy nghĩ tự tử và muốn tự tử lần lượt là 29,4% và 0,9% ở các em học sinh. Nghiên cứu của tác giả Ji Won Lee vào cho thấy tỷ lệ có suy nghĩ tự tử ở thanh thiếu niên tại Hàn Quốc năm 2018 và 2019 lần lượt là 13,3% và 13,1% thấp hơn so với thời điểm hiện tại [51]. Sự khác nhau này là do thời điểm cắt của nghiên cứu khác nhau, các yếu tố ảnh hưởng ở thời điểm hiện tại nhiều hơn ví dụ như tình trạng áp lực học tập tăng lên trong thời điểm dịch COVID – 19 kéo dài trên khắp thế giới, học sinh học tập ở nhà, cách ly ở nhà chiếm phần lớn thời gian, thời gian tiếp xúc với thiết bị điện tử tăng lên,… Ngoài ra thì có sự tương đồng với nghiên cứu của tác giả Hồ Thế Nhân tỷ lệ suy nghĩ đến tự tử là 22,3% [28]. Sự tương đồng này là do đối tượng nghiên cứu giống nhau, tình trạng học tập, giới tính, thời gian cắt của nghiên cứu, giới tính,… Điều này đáng báo động nguyên nhân có thể do tỉ lệ trầm cảm cao tại nhiều nơi trong xã hội hiện đại ngày nay, trầm cảm ảnh hưởng rất nhiều đến tâm sinh lý của học sinh, những đứa trẻ mới lớn khi bế tắc sẽ dễ nghĩ đến những việc làm có hại cho bản thân đặc biệt như hành vi tự tử. Những yếu tố ảnh hưởng đến trầm cảm như là áp lực học tập, áp lực từ cha mẹ tạo ra, các mâu thuẫn trong quá trình đi học, vui chơi cũng gián tiếp ảnh hưởng đến suy nghĩ tự tử ở học sinh. Giai đoạn vị thành niên là thời kỳ rất nhạy cảm với những tổn thương. Thời kỳ rất manh động. Thời kỳ rất hay cảm

49

thấy "thế này thì mình không thể chịu đựng nổi". Và tìm cách trốn thoát khỏi hiện thực khắc nghiệt đó bằng những phản ứng bốc đồng, thiếu cân nhắc như tự gây hại hoặc tự tử.

4.3. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu

4.3.1. Các yếu tố nhân khẩu học liên quan đến trầm cảm

Về các đặc điểm nhân khẩu học liên quan đến trầm cảm ở học sinh, kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy. So với giới tính nam thì giới tính nữ có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,94 lần (KTC 95%: 1,11 – 3.42) và mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy sự tương đồng về mối liên quan giữa trầm cảm và giới tính của đối tượng nghiên cứu.

Về độ tuổi học sinh có tuổi 15 có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,4 lần so với độ tuổi 16 tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này của chúng tôi khác với nghiên cứu khác như: tác giả Hồ Thế Nhân & cộng sự, tác giả Trần Thị Hương Quỳnh cho kết quả độ tuổi thấp hơn có nguy cơ trầm cảm cao hơn và có ý nghĩa thống kê [28,29]. Hay như nghiên cứu của tác giả Huang-Chi Liu & cộng sự cũng cho kết quả tương tự và có ý nghĩa thống kê [23]. Điều này có thể giải thích do cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ hơn so với các nghiên cứu khác do đó chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên điều này có thể gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo rộng hơn trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Về kinh tế gia đình, học sinh ở những gia đình kinh tế nghèo, cận nghèo có nguy cơ mức trầm cảm cao gấp 2,68 lần học sinh ở gia đình có kinh tế từ bình thường trở lên, tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả của chúng tôi khác với một số nghiên cứu như: Huang-Chi Liu cho thấy học sinh ở những gia đình gặp khó khăn về kinh tế có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,465 lần (KTC 95%: 0,764 – 1,03) so với học sinh ở những gia đình không gặp khó khăn về kinh tế và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê [23]. Magklara cho thấy học sinh ở những gia đình gặp khó khăn về kinh tế có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,23 lần (KTC 95%: 1,4-3,55) so với học sinh ở những gia đình không gặp khó khăn về kinh tế và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê [52]. Lý giải cho sự khác nhau này có thể do địa bàn nghiên

50

cứu khác nhau, nghiên cứu của chúng tôi ở địa bàn thành phố trực thuộc trung ương do đó hộ nghèo/cận nghèo chiếm tỷ lệ rất thấp.

Về yếu tố tiền sử bị bệnh lý mãn tính/ bệnh lý tâm thần những em có tiền sử bệnh lý mãn tính/ bệnh lý tâm thần có nguy cơ bị mắc trầm cảm cao hơn 1,05 lần so với những học sinh không bị, tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Tiền sử sử dụng chất hướng thần của những học sinh có sử dụng chất hướng thần có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1,33 lần số học sinh không sử dụng, tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê.

4.3.2. Các yếu tố cá nhân liên quan đến trầm cảm

Về yếu tố suy nghĩ lo lắng về tương lai, những học sinh có lo lắng về tương lai có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 2,99 lần (KTC 95%: 1,5 – 5,95) so với những em không lo lắng về tương lai và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Học sinh trung học phổ thông bắt đầu có nhiều suy nghĩ lo lắng hơn, độ tuổi bắt đầu hoàn thiện bản thân, ngoài những áp lực việc học tập, việc gia đình kỳ vọng, việc chăm chút bản thân thì các em có những suy nghĩ định hướng bản thân về công việc trong tương lai, về tình cảm của bản thân. Nhiều những suy nghĩ cùng đến một lúc nên những em có lo lắng về tương lai sẽ có nhiều nguy cơ bị trầm cảm hơn.

Xã hội hiện đại, công nghệ 4.0 phát triển có rất nhiều các thiết bị điện tử được phổ biến một cách rộng rãi, đối tượng nào cũng có thể tiếp cận và học sinh cũng không ngoại lệ. Cuộc sống thành phố khiến các em càng dành nhiều thời gian vào các thiết bị điện tử để giải trí và trong 2 năm gần đây đại dịch COVID – 19 xảy ra thì việc dùng các thiết bị đó càng nhiều. Những học sinh sử dụng thiết bị điện tử >3 giờ/ ngày có nguy cơ trầm cảm cao hơn 2,14 lần (KTC 95%: 1,24 – 3,72) so với nhóm học sinh sử dụng thiết bị điện tử để giải trí ≤ 3 giờ/ ngày và mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Tương tự với nghiên cứu của một số tác giả như: Hồ Thế Nhân & cộng sự cho kết quả là những học sinh thường xuyên tham gia mạng xã hội – internet có nguy cơ trầm cảm cao hơn 2,21 lần (KTC 95%: 1,43 – 3,41) lần so với những học sinh không thường xuyên dùng internet, mối liên quan có ý nghĩa thống kê; Cái Thị Thủy Nguyên & cộng sự cũng cho kết quả những học sinh sử dụng internet quá

51

nhiều (> 4 giờ/ ngày) có 19,6% các triệu chứng trầm cảm và có nguy cơ trầm cảm cao hơn nhóm học sinh ít sử dụng internet, mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,001) [28,53].

Trong đại dịch COVID – 19 hoành hành thì vấn đề học tập cũng được chuyển từ học trực tiếp sang học online. Những học sinh có khó khăn trong việc học online có nguy cơ trầm cảm cao gấp 3,77 lần (KTC 95%: 2,07 – 6,88) so với những học sinh không có khó khăn trong việc học online và mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Sau khi chuyển từ hình thức học trực tiếp sang học online nhiều em gặp khó khăn trong việc học với những việc như: không tập trung được vào bài giảng, vấn đề kết nối với lớp học gặp trục trặc do internet, thời gian ngồi trước máy tính/ điện thoại kéo dài dễ gây đau mắt, đau đầu,… Với những vấn đề đó nhiều em không tiếp thu được kiến thức dẫn đến việc bị hổng kiến thức làm các em lo lắng, điều đó gián tiếp tăng thêm nguy cơ bị trầm cảm.

Ngoài những yếu tố trên trong thời gian dịch COVID – 19 thì các em học sinh còn phải ở trong nhà phần lớn thời gian. Những học sinh ở trong nhà cả ngày có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1,65 lần so với những học sinh có khoảng thời gian ra ngoài chơi, tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê.

4.3.3. Các yếu tố học tập liên quan đến trầm cảm

Học tập là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, thành tích học tập đôi khi là niềm tự hào của gia đình, không đạt được kết quả cao trong học tập là áp lực lớn, chưa kể đến những lo lắng về kết quả thi cử trong tương lai. Điều đó cho thấy, sự kỳ vọng của gia đình, nhà trường, áp lực thi cử... đôi khi tạo ra cho các em những lo lắng, căng thẳng thái quá. Việc khuyến khích, động viên các em tự tin phát triển chính mình, chấp nhận năng lực của bản thân và tìm những công việc, ngành nghề, hướng đi phù hợp là việc cần thiết nhằm tránh cho các em những hậu quả đáng tiếc về mặt tâm lý, sức khỏe. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy học sinh có học lực trung bình có nguy cơ mắc trầm cảm lần lượt gấp 6,9 lần (KTC 95%: 0,88 – 54,21); gấp 8,38 lần (KTC 95%: 1,04 – 67,52) so với học sinh có học lực khá và học sinh có học lực giỏi, mối liên

52

quan này có ý nghĩa thống kê. Tương tự như nghiên cứu của một số tác giả: Trần Thị Mỵ Lương cho thấy mức độ trầm cảm ở học sinh có học lực trung bình/ yếu cao hơn nhóm học sinh có mức độ học lực khá giỏi [27].

Ngoài ảnh hưởng của kết quả học tập đến tỷ lệ trầm cảm thì việc chuyển sang hình thức học online các em học sinh không thích học online và chấp nhận học online được có nguy cơ trầm cảm cao hơn lần lượt là 3,46 lần (KTC 95%: 1,12 – 10,75) và gấp 2,35 lần (KTC 95%: 1,05 – 5,25) so với học sinh thích học online và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Việc thích thú với học online giúp các em tiếp thu được kiến thức, hiểu bài, từ đó giảm áp lực học tập, kết quả học tập tốt thì những kỳ vọng của gia đình được đáp ứng vì thế giảm các áp lực vào các em. Với việc có thích thì các em càng thêm hăng say trong quá trình học từ đó giảm được nguy cơ bị trầm cảm ở nhóm học sinh này.

4.3.4. Các yếu gia đình liên quan đến trầm cảm

Về các mối quan hệ trong gia đình, những học sinh có mối quan hệ tồi với mẹ có nguy cơ trầm cảm cao gấp 9,83 lần (KTC 95%: 1,24 – 78,15) so với những học sinh có mối quan hệ tốt với mẹ và những học sinh có mối quan hệ bình thường với mẹ có nguy cơ trầm cảm cao gấp 4,47 lần (KTC 95%: 2,31 – 8,66) so với những học sinh có mối quan hệ tốt với mẹ, các mối liên quan này có ý nghĩa thống kê.

Những học sinh có mối quan hệ tồi với bố có nguy cơ trầm cảm cao gấp 8,25 lần (KTC 95%: 1,01 – 67,25) so với những học sinh có mối quan hệ tốt với bố và những học sinh có mối quan hệ bình thường với bố có nguy cơ trầm cảm cao gấp 3,07 lần (KTC 95%: 1,73 – 5,43) so với những học sinh có mối quan hệ tốt với bố, các mối liên quan này có ý nghĩa thống kê.

Tương tự như nghiên cứu của một số tác giả: Huang – Chi Lin & cộng sự cũng cho kết quả những học sinh có chức năng gia đình thấp có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,058 lần (KTC 95%: 1,036 – 1,082) so với những học sinh có chức năng gia đình cao, mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Hồ Thế Nhân & cộng sự cho thấy những học sinh không có gia đình hạnh phúc thì có nguy

53

cơ trầm cảm cao gấp 5,25 lần (KTC 95%: 3,33 – 8,28) so với những em có gia đình hạnh phúc, mối liên quan có ý nghĩa thống kê [23,28].

Trong xã hội hiện nay, phụ huynh thường dành khá nhiều thời gian cho công việc và không có thời gian tâm sự, lắng nghe chia sẻ những tâm tư của con mình, lâu dần các em trở nên sống khép kín, cô lập bản thân, cũng là một trong những yếu tố dẫn đến nguy cơ trầm cảm ở học sinh. Vì thế mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái rất quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe tâm sinh lý của học sinh.

4.3.5. Yếu tố stress liên quan đến trầm cảm

Tình trạng stress hiện nay đối với học sinh là khá phổ biến vì áp lực từ các kỳ kiểm tra/kỳ thi, khối lượng kiến thức cần tiếp thu lớn, khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức, lịch học dày đặc, nhiệm vụ học tập quá nhiều, không có đủ thời gian để ôn tập và củng cố kiến thức đã học, phương pháp học tập của cá nhân không hiệu quả trong khi kỹ năng quản lý thời gian thì chưa đủ để sắp xếp những việc đó. Sau khi đánh giá tỷ lệ stress của học sinh qua thang đo cảm nhận mức độ stress (PSS – 10) thì thấy rất ít học sinh không bị stress. Đối với nhóm học sinh có stress thì sẽ có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp 46,75 lần KTC (6,13 – 356,67) so với những học sinh không stress, mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Trầm cảm và stress luôn liên quan đến nhau nó đều được sinh ra trong cuộc sống học tập, sinh hoạt của các em với những áp lực vô hình từ bản thân, gia đình, nhà trường.

4.3.6. Yếu tố lòng tự trọng liên quan đến trầm cảm

Lòng tự trọng là một phẩm chất đáng quý. Lòng tự trọng giúp các em vượt qua những khó khăn. Theo nghiên cứu của chúng tôi những học sinh có lòng tự trọng thấp có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 10,16 lần (KTC 95%: 5,33 – 19,43) so với những học sinh có lòng tự trọng trung bình, mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Tương tự như nghiên cứu của Huang-Chi Lin những học sinh có lòng tự trọng thấp có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,232 lần (KTC 95%: 1,211 – 1,253) so với những học sinh có lòng tự trọng trung bình/ cao, mối liên quan có ý nghĩa thống kê [23]. Lòng tự trọng thấp có thể vẫn còn tồn tại ngay cả khi chứng rối loạn khí sắc giảm. Nghiên cứu của tác

54

giả Deepa Bhattarai về tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở thanh thiếu niên trung học phổ thông của Thủ đô Pokhara, Nepal cũng cho kết quả tương tự những học sinh có lòng tự trọng thấp có nguy cơ trầm cảm cao gấp 5,282 lần (KTC 95%: 2,994 – 9,319) so với những học sinh có lòng tự trọng cao, mối liên hệ có ý nghĩa thống kê [54]. Sự giống nhau của những nghiên cứu trên và nghiên cứu của chúng tôi có thể được giải thích là vì những người có lòng tự trọng thấp thường tự ti, có nhiều suy nghĩ tiêu cực hơn, thường xuyên bị lo lắng và rối loạn cảm xúc và những yếu tố đó có thể phát triển và duy trì sự trầm cảm. Nghiên cứu để hỗ trợ cho quan điểm thanh thiếu niên bị trầm cảm có lòng tự trọng thấp.

55

KẾT LUẬN

Nghiên cứu được thực hiện trên 238 học sinh Trung học phổ thông Việt Nam, Thành phố Hà Nội bằng thang đo trầm cảm trẻ em (CDI 2) chúng tôi đưa ra các kết luận sau:

1. Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh

- Tỷ lệ học sinh có biểu hiện trầm cảm là 34%

- Tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm là 31,5%

- Tỷ lệ học sinh không bị trầm cảm là 34,5%

- Tỷ lệ học sinh có ý định tự tử: không có ý định tự tử 69,7%, có ý định

tự tử nhưng sẽ không thực hiện 29,4%, có ý định tự tử 0,9%

2. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh

Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh là:

- Yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là mức độ stress: với nguy cơ

trầm cảm cao gấp 46,75 lần khi có stress so với không có stress

- Thứ hai là yếu tố mức độ lòng tự trọng: với mức độ lòng tự trọng thấp

sẽ có nguy cơ trầm cảm cao 10,16 lần so với lòng tự trọng trung bình.

- Thứ ba là mối quan hệ giữa học sinh với gia đình: những học sinh có mối quan hệ tồi với bố/ mẹ có nguy cơ trầm cảm cao hơn so với những học sinh có mối quan hệ tốt với bố mẹ lần lượt là 8,25 và 9,83 lần.

- Thứ tư là yếu tố về học lực: những học sinh có học lực trung bình có nguy cơ trầm cảm cao hơn học sinh có học lực khá và giỏi lần lượt là 6,9 và 8,38 lần

- Ngoài ra còn một số yếu tố gây ảnh hưởng ít hơn đến nguy cơ trầm

cảm như là:

+ Giới tính nữ có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1,94 lần so với giới nam.

+ Yếu tố cá nhân: những học sinh có lo lắng về tương lai sẽ có nguy cơ trầm cảm cao hơn 2,99 lần; có khó khăn trong việc học online sẽ có nguy cơ trầm cảm cao hơn 3,77 lần; những học sinh có thời gian giải trí mỗi ngày trên

56

thiết bị điện tử > 3 giờ/ ngày có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2.14 lần so với nhóm sử dụng ≤ 3 giờ/ ngày; những học sinh không thích học online và chấp nhận được việc học online có nguy cơ trầm cảm cao hơn học sinh thích học online lần lượt là 3,46 và 2,35 lần.

57

ĐỀ XUẤT

1. Về phía nhà trường

Nhà trường, thầy cô cần quan tâm tới học sinh nhiều hơn, đặc biệt không để xảy ra vấn nạn bạo lực học đường, cũng như đưa ra cách giải quyết khi gặp phải các vấn đề bạo lực học đường. Cần thiết lập các kênh thông tin, cung cấp tài liệu, thường xuyên trao đổi với phụ huynh về diễn biến tâm lý và các vấn đề cần tư vấn, hỗ trợ cho học sinh…, tổ chức tham vấn tâm lý đối với học sinh gặp khó khăn cần hỗ trợ, can thiệp và giải quyết kịp thời. Nhà trường nên giới thiệu, hỗ trợ đưa học sinh đến các cơ sở, chuyên gia điều trị tâm lý đối với các trường hợp học sinh bị rối loạn tâm lý, nằm ngoài khả năng tư vấn của nhà trường.

Định kỳ tổ chức các chương trình trao đổi kinh nghiệm học tập giữa các học sinh, giúp học sinh giải đáp thắc mắc và tìm kiếm cho mình một phương pháp học tập hiệu quả và tránh tạo quá nhiều áp lực trong học tập, thi cử.

2. Về phía gia đình và phụ huynh học sinh

Về phía gia đình không nên tạo áp lực học tập quá lớn cho các em, nên

tạo cho các em tinh thần thoải mái, hứng thú khi học tập. Gia đình cần dành thời gian để lắng nghe, chia sẻ các vấn đề khó khăn của các con trong học tập, các mối quan hệ, quan tâm đến sinh hoạt, sức khỏe của các con, hướng dẫn các con thoát khỏi rắc rối gặp phải. 3. Về phía bản thân học sinh

Học sinh nên biết cách sắp xếp thời gian hợp lý sau giờ học căng thẳng dành thời gian cho các hoạt động tập thể, giải trí, củng cố niềm tin và tự tin vào bản thân, duy trì tốt các mối quan hệ xã hội với người thân, bạn bè, thầy cô…., biết trải lòng mình khi gặp các khó khăn trong cuộc sống bằng cách tâm sự với gia đình, bạn bè và thầy cô. Nếu cảm thấy khó khăn về mặt tâm lý nên đến gặp các chuyên gia tâm lý để được tư vấn giải quyết, nhất là các vấn liên quan đến học tập, các mối quan hệ trong xã hội.

58

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Depression. National Institute of Mental Health (NIMH),

, accessed: 06/05/2022.

2. American Psychiatric Association and American Psychiatric Association, eds. (2013), Diagnostic and statistical manual of mental disorders: DSM- V, American Psychiatric Association, Washington, D.C.

3. Rey J.M., Bella-Awusah T.T., and Liu J. Rối loạn trầm cảm ở trẻ em và

thanh thiếu niên. 38.

4. BS Đào Thị Nhung (2019). Cách dự phòng và phát hiện bệnh trầm cảm ở

lứa tuổi vị thành niên. Bệnh Viện Tâm Thần Quảng Nam, , accessed: 06/05/2022.

5. Tang S., Xiang M., Cheung T., et al. (2021). Mental health and its

correlates among children and adolescents during COVID-19 school closure: The importance of parent-child discussion. J Affect Disord, 279, 353–360.

6. Trương Oanh (2022). Trầm Cảm Ở Học Sinh: Nguyên Nhân, Hậu Quả Và

Cách Phòng Ngừa. Tạp chí Tâm lý học Việt Nam, , accessed: 06/05/2022.

7. Gater R. and Saeed K. (2015). Scaling up action for mental health in the

Eastern Mediterranean Region:an overview. EMHJ-East Mediterr Health J, 21(7), 535–545.

8. American Psychiatric Association, ed. (2000), Diagnostic and Statistical

Manual of Mental Disorders (DSM) - IV, American Psychiatric Association, Washington, D.C.

9. World Health Organization, ed. (1992), The ICD-10 classification of

mental and behavioural disorders: clinical descriptions and diagnostic guidelines, World Health Organization, Geneva.

10. PGS.TS. Nguyễn Kim Việt TS. Nguyễn Văn Tuấn (2016), Giáo trình

bệnh học Tâm thần, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

11. Ferrari A.J., Charlson F.J., Norman R.E., et al. (2013). Burden of

Depressive Disorders by Country, Sex, Age, and Year: Findings from the Global Burden of Disease Study 2010. PLOS Med, 10(11), e1001547.

12. Murphy J.M., Laird N.M., Monson R.R., et al. (2000). A 40-Year

Perspective on the Prevalence of Depression: The Stirling County Study. Arch Gen Psychiatry, 57(3), 209–215.

13. Kessler R.C., Berglund P., Demler O., et al. (2005). Lifetime Prevalence and Age-of-Onset Distributions of DSM-IV Disorders in the National Comorbidity Survey Replication. Arch Gen Psychiatry, 62(6), 593–602.

14. Trần Thị Quyên (2020), Trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở người

bệnh tại bệnh viện tâm thần ban ngày Mai Hương, Trường Đại học Y Hà Nội.

15. Vũ Thị Hải Hà và UNICEF Việt Nam (2011). Sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh niên tại một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam. .

16. BS.CKII. Bùi Đức Trình (2010), Giáo trình Tâm thần học, Đại học Quốc

gia Hà Nội, Đại học Thái Nguyên.

17. Trần Thị Dung (2013). Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Trung học

phổ thông. Trường THPT Tây Tiền Hải - Thái Bình, , accessed: 05/28/2022.

18. Costello E.J., Mustillo S., Erkanli A., et al. (2003). Prevalence and

Development of Psychiatric Disorders in Childhood and Adolescence. Arch Gen Psychiatry, 60(8), 837–844.

19. Amstadter A.B., Richardson L., Meyer A., et al. (2011). Prevalence and correlates of probable adolescent mental health problems reported by parents in Vietnam. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol, 46(2), 95–100.

20. Nguyễn Thị Thu Hoài (2021). Quan tâm tới sức khỏe tinh thần học sinh, sinh viên khi học trực tuyến kéo dài. Thông tin về dịch COVID - 19; Thông tấn xã Việt Nam, , accessed: 05/29/2022.

21. Ngô Thị Minh (2021). Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý học sinh khi không thể đến trường. vov.vn, , accessed: 05/29/2022.

22. Unsal A. and Ayranci U. (2008). Prevalence of students with symptoms of depression among high school students in a district of western Turkey: an epidemiological study. J Sch Health, 78(5), 287–293.

23. Huang-Chi Lin, Tang T.-C., Yen J.-Y., et al. (2008). Depression and its

association with self-esteem, family, peer and school factors in a population of 9586 adolescents in southern Taiwan. Psychiatry Clin Neurosci, 62(4), 412–420.

24. Sandal R.K., Goel N.K., Sharma M.K., et al. (2017). Prevalence of Depression, Anxiety and Stress among school going adolescent in Chandigarh. J Fam Med Prim Care, 6(2), 405–410.

25. Al-Gelban K.S. (2007). Depression, anxiety and stress among Saudi adolescent school boys. J R Soc Promot Health, 127(1), 33–37.

26. Alharbi R., Alsuhaibani K., Almarshad A., et al. (2019). Depression and anxiety among high school student at Qassim Region. J Fam Med Prim Care, 8(2), 504–510.

27. Trần Thị Mỵ Lương and Phan Diệu Mai (2019). Thực trạng trầm cảm ở

học sinh trung học phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội. Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, 146–150; 166.

28. Hồ Thế Nhân và Phạm Thị Tâm (2019). Tình hình trầm cảm và một số

yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại tỉnh Bến Tre. Tạp chí Y dược học Cần Thơ, 7.

29. Trần Thị Hương Quỳnh (2020), Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trường trung học phổ thông Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An năm học 2019 - 2020 và một số yếu tố liên quan, Trường Đại học Y Hà Nội.

30. Hoàng Kim Thành và cộng sự (2021). Sự gắn kết với trường học và tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của học sinh lớp 10 tại 8 trường trung học phổ thông tại Hà Nội năm 2020. Tạp chí Y học dự phòng, Tập 31, 72.

31. Nguyễn Thị Thùy Linh và cộng sự (2022). Một số yếu tố liên quan đến dấu hiệu trầm cảm của hoc sinh trường trung học phổ thông Phan Đăng Lưu, Kiến An, Hải Phòng năm 2021. Tạp chí Y học dự phòng, 32, 278.

32. Maria Kovacs, Ph.D. & MHS Staff Children’s Depression Inventory 2nd

Edition. , accessed: 06/05/2022.

33. DiMaria (2021). Test đánh giá trầm cảm học đường. Trung tâm chăm sóc sức khoẻ tinh thần - BrainCare, , accessed: 05/28/2022.

34. Rosenberg Morris (1979). Conceiving the Self. New York. .

35. Morris Rosenberg (1965). Society and the Adolescent Self-Image.

, accessed: 06/05/2022.

36. Schmitt D.P. and Allik J. (2005). Simultaneous Administration of the

Rosenberg Self-Esteem Scale in 53 Nations: Exploring the Universal and

Culture-Specific Features of Global Self-Esteem. J Pers Soc Psychol, 89(4), 623–642.

37. Cohen & el Perceived Stress Scale (PSS-10).

, accessed: 05/28/2022.

38. Cohen & el (2022). Perceived Stress Scale (PSS-10). NovoPsych,

, accessed: 05/28/2022.

39. Phương Anh (2014). Hà Nội. Giới thiệu tổng quan và khái quát về địa lí

thành phố Hà Nội, , accessed: 05/23/2022.

40. Tổng cục thống kê (2020). Niên giám thống kê dân số và lao động, năm

2020. .

41. Tổng cục thống kê (2020). Niên giam thống kê Giáo dục năm 2020. .

42. Quá trình hình thành, phát triển - Cổng thông tin điện tử Quận Hoàng Mai.

, accessed: 05/23/2022.

43. Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội Các Trường THPT trên địa bàn Hà Nội.

, accessed: 05/23/2022.

44. Giới thiệu về trường - Trường THPT Việt Nam - Ba Lan.

, accessed: 05/27/2022.

45. Bộ Y tế&Bộ Giáo dục-Đào tạo (2016). Quy định về công tác Y tế trường

học. .

46. Nguyễn Bá Đạt D. (2003). Kết quả chẩn đoán trầm cảm ở học sinh trung

học phổ thông Hà Nội. Tạp chí Tâm lý học, số 7, 57.

47. Pieh C., Dale R., Plener P.L., et al. (2021). Stress levels in high-school

students after a semester of home-schooling. Eur Child Adolesc Psychiatry, 1–3.

48. Zhang S., Zhang Y., and Yuan B. (2019). [Mediating effect of self-esteem and empathy on the relationship between loneliness and cyber-bulling in middle and high school students in Liaoning Province]. Wei Sheng Yan Jiu, 48(3), 446–457.

49. A growing number of American teenagers – particularly girls – are facing depression. Pew Research Center, , accessed: 06/10/2022.

50. In CDC survey, 37% of U.S. high school students report regular mental

health struggles during COVID-19. Pew Research Center, , accessed: 06/10/2022.

51. Lee J.W., Kim B.-J., Lee C.-S., et al. (2021). Association Between Suicide

and Drinking Habits in Adolescents. J Korean Acad Child Adolesc Psychiatry, 32(4), 161–169.

52. Magklara K., Bellos S., Niakas D., et al. (2015). Depression in late

adolescence: a cross-sectional study in senior high schools in Greece. BMC Psychiatry, 15, 199.

53. Nguyen Cai Thi Thuy, Yang H.-J., Lee G.T., et al. (2022). Relationships of excessive internet use with depression, anxiety, and sleep quality among high school students in northern Vietnam. J Pediatr Nurs Nurs Care Child Fam, 62, e91–e97.

54. Bhattarai D., Shrestha N., and Paudel S. (2020). Original research: Prevalence and factors associated with depression among higher secondary school adolescents of Pokhara Metropolitan, Nepal: a cross- sectional study. BMJ Open, 10(12).

PHỤ LỤC

BỘ CÂU HỎI

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH LỚP 10 TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VIỆT NAM – BA LAN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Xin chào em, nhằm phục vụ cho mục tiêu chăm sóc, nâng cao sức khỏe cho lứa tuổi học đường đặc biệt học sinh trung học phổ thông. Từ đó có biện pháp can thiệp phù hợp, góp phần bảo vệ sức khỏe học sinh đặc biệt học sinh trung học phổ thông ngày một tốt hơn. Chúng tôi cam đoan rằng tất cả những thông tin mà em cung cấp cho chúng tôi hoàn toàn phục vụ mục đích nghiên cứu và sẽ được giữ bí mật.

Em có đồng ý tham gia nghiên cứu này không?

1. Có

□ (Tiếp tục trả lời bộ câu hỏi dưới đây)

2. Không □ (Kết thúc bộ câu hỏi)

NỘI DUNG PHIẾU PHỎNG VẤN

Để đạt được ý nghĩa trong cuộc khảo sát, chúng tôi hy vọng em tham gia trả lời đầy đủ câu hỏi một cách trung thực nhất. (Điền thông tin vào ô trống hoặc tích vào lựa chọn trước câu trả lời)

Phần 1: Thông tin chung

STT Câu hỏi Nội dung trả lời

1. Thông tin cá nhân

A1 Họ và tên ……………………..

A2 Tuổi ……………………..

1. Nam

2. Nữ

A3 Giới tính 3. Lesbian

4. Bisexual

5. Gay

A4 Số điện thoại ……………………..

A5 Địa chỉ ……………………..

A6 Lớp ……………………..

2. Nội dung thu thập

1. Có (………….) B1 Tiền sử bệnh lý mãn tính? 2. Không

1. Có (………….) B2 Tiền sử bệnh lý tâm thần? 2. Không

1. Có (rượu, bia, thuốc lá...) B3 Tiền sử sử dụng chất hướng thần? 2. Không

1. Nghèo/ Cận nghèo B4 Điều kiện kinh tế gia đình em thuộc

loại nào? 2. ≥ Bình thường

1. Giỏi

2. Khá B5 Kết quả học tập kỳ I năm 2021 – 2022 của e thuộc loại gì? 3. Trung bình

4. Yếu

1. >5 giờ/ngày B6 Thời gian em học online 1 ngày là bao nhiêu? 2. ≤5 giờ/ngày

0. Không thích

B7 1. Chấp nhận được Cảm nhận của em về việc học online như thế nào?

2. Thích

1. 24/24 giờ

B8

Trong học kỳ I bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID – 19 vừa qua thời gian em ở trong nhà 1 ngày là bao nhiêu? 2. Có thời gian ra ngoài chơi

1. Có B9 Em có lo lắng về tương lai của bản thân không? 2. Không

1. >3 giờ/ngày B10 Khoảng thời gian em sử dụng thiết bị điện tử để giải trí là bao lâu? 2. ≤3 giờ/ngày

0. Tồi

B11 1. Bình thường Em tự cảm nhận về mối quan hệ của mình với bố như thế nào?

2. Tốt

0. Tồi

B12 1. Bình thường Em tự cảm nhận về mối quan hệ của mình với mẹ như thế nào?

2. Tốt

Phần 2: Thang đo trầm cảm ở trẻ em CDI 2

Bộ trắc nghiệm này liệt kê những cảm xúc và suy nghĩ theo các nhóm. Mỗi nhóm có 03 câu, em hãy chọn 1 câu miêu tả phù hợp nhất đối với mình trong 02 tuần vừa qua. Sau khi đã chọn xong 01 câu ở nhóm này thì mới sang nhóm khác. Không có câu trả lời đúng hay sai, chỉ chọn câu mô tả phù hợp với em nhất. Đánh dấu ● trước câu trả lời em chọn.

STT Câu hỏi

 Thỉnh thoảng tôi cảm thấy buồn.

1  Tôi thường xuyên cảm thấy buồn.

 Lúc nào tôi cũng cảm thấy buồn.

 Đối với tôi, mọi thứ sẽ chẳng đi đến đâu.

2  Tôi không chắc là mọi thứ sẽ đi đến đâu

 Đối với tôi, mọi thứ sẽ tốt

 Hầu hết mọi việc tôi làm đều ổn

3  Tôi làm sai nhiều việc

 Mọi việc tôi làm đều sai.

 Tôi cảm thấy vui với nhiều điều

4  Tôi cảm thấy vui với vài điều

 Đối với tôi chẳng có điều gì vui

 Tôi quan trọng với gia đình mình

 Tôi không chắc rằng mình có quan trọng với gia đình mình hay 5 không

 Gia đình tôi sẽ tốt hơn nếu không có tôi.

 Tôi ghét bản thân mình

6  Tôi không thích bản thân mình

 Tôi thích bản thân mình

 Mọi điều tồi tệ là lỗi của tôi 7  Nhiều điều tồi tệ là lỗi của tôi

 Những điều tồi tệ thường không phải là lỗi của tôi

 Tôi không nghĩ đến chuyện tự giết mình

 Tôi nghĩ đến chuyện tự giết mình nhưng tôi sẽ không làm điều 8 đó.

 Tôi muốn tự giết mình.

 Tôi cảm giác như ngày nào cũng khóc

9  Tôi cảm giác như thường xuyên khóc

 Có lúc nào đấy tôi cảm thấy mình khóc

 Lúc nào tôi cũng cảm thấy mình khó chịu

10  Tôi thường xuyên cảm thấy mình khó chịu

 Tôi không bao giờ cảm thấy mình khó chịu

 Tôi thích ở với mọi người

11  Nhiều khi tôi không thích ở với mọi người.

 Tôi không muốn ở với mọi người chút nào cả.

 Tôi không thể điều chỉnh/sắp xếp suy nghĩ của mình

12  Tôi thấy khó điều chỉnh/sắp xếp suy nghĩ của mình

 Tôi dễ dàng điều chỉnh/sắp xếp suy nghĩ của mình

 Ngoại hình của tôi ổn.

13  Ngoại hình của tôi có vài khuyết điểm

 Tôi trông xấu xí.

 Tôi luôn luôn phải tự động viên bản thân mình trong việc học

tập.

14  Tôi thường xuyên phải tự động viên bản thân mình trong việc

học tập.

 Đối với tôi học tập không phải là vấn đề lớn

 Đêm nào tôi cũng khó ngủ / mất ngủ

15  Nhiều đêm tôi khó ngủ / mất ngủ

 Tôi ngủ ngon.

 Thỉnh thoảng, tôi mệt mỏi.

16  Tôi thường xuyên mệt mỏi

 Tôi luôn luôn mệt mỏi

 Gần như ngày nào tôi không thấy muốn ăn

17  Nhiều khi tôi cảm thấy không muốn ăn

 Tôi ăn rất ngon miệng

 Tôi không lo lắng về những đau đớn (thể chất và tinh thần).

 Tôi thường xuyên lo lắng về những đau đớn (thể chất và tinh 18 thần).

 Tôi luôn luôn lo lắng về những đau đớn (thể chất và tinh thần).

 Tôi không cảm thấy cô đơn

19  Tôi thường xuyên cảm thấy cô đơn

 Tôi lúc nào cũng cảm thấy cô đơn

 Tôi chả bao giờ vui khi ở trường

20  Thỉnh thoảng tôi thấy vui khi ở trường

 Tôi thường xuyên thấy vui khi ở trường

 Tôi có rất nhiều bạn.

21  Tôi có một vài người bạn nhưng tôi ước rằng mình có nhiều hơn

 Tôi không có người bạn nào cả.

 Việc học của đều ổn

22  Việc học của tôi không tốt như trước.

 Tôi học kém những môn mà trước đây tôi từng học tốt

 Tôi không bao giờ có thể giỏi như những bạn khác

23  Tôi có thể giỏi như những bạn khác nếu tôi muốn.

 Tôi chỉ giỏi như những bạn khác

 Không ai thực sự yêu thương tôi

24  Tôi không chắc rằng có ai yêu thương tôi hay không

 Tôi chắc rằng có ai đó yêu thương mình

 Tôi dễ dàng hòa đồng với bạn bè

25  Thỉnh thoảng tôi bất đồng với bạn bè

 Tôi luôn luôn bất đồng với bạn bè

 Tôi buồn ngủ suốt cả ngày

26  Tôi thường xuyên buồn ngủ trong ngày

 Tôi hầu như không buồn ngủ trong ngày

 Gần như ngày nào tôi cũng cảm thấy mình không thể ngừng ăn

(thèm ăn) 27  Tôi thường xuyên cảm thấy không thể ngừng ăn (thèm ăn)

 Việc ăn uống của tôi ổn

 Tôi dễ dàng nhớ nhiều thứ

28  Tôi thấy hơi khó để nhớ nhiều thứ

 Tôi thấy rất khó để nhớ nhiều thứ.

Phần 3: Thang đo lòng tự trọng Rosenberg Self – Esteem (RSE)

Xin vui lòng đọc kỹ từng câu và chọn số 1, 2, 3 hay 4 tùy thuộc vào

việc bạn “Hoàn toàn đồng ý, Đồng ý, Không đồng ý hoặc Rất không đồng ý” với mục đó. Thang điểm trả lời: 1: Hoàn toàn đồng ý 3: Không đồng ý 2: Đồng ý 4: Hoàn toàn không đồng ý

Đồng ý Không đồng ý STT Câu hỏi

Hoàn toàn đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

1 Nhìn chung, tôi hài lòng 1 2 3 4 về bản thân.

2 Có lúc tôi nghĩ mình 1 2 3 4 chẳng giỏi gì cả.

1 2 3 4 3 Tôi cảm thấy rằng tôi có một số phẩm chất tốt.

1 2 3 4

4 Tôi có thể làm mọi việc tốt như hầu hết những người khác.

1 2 3 4 5 Tôi cảm thấy không có nhiều điều để tự hào.

1 2 3 4 6 Tôi chắc chắn đôi khi cảm thấy mình vô dụng.

1 2 3 4 7 Tôi cảm thấy rằng tôi là một người có giá trị.

1 2 3 4 8 Tôi ước mình có thể tôn trọng bản thân hơn.

1 2 3 4

9 Tóm lại, tôi có khuynh hướng nghĩ rằng mình là một kẻ thất bại.

10 Tôi có thái độ tích cực đối 1 2 3 4 với bản thân.

Phần 4: Thang đo cảm nhận mức độ stress (PSS – 10)

Xin vui lòng đọc kỹ từng câu và chọn số 0, 1, 2, 3 hay 4 để chỉ ra mức độ phù hợp với những gì xảy ra cho em trong 1 tháng qua. Thang điểm trả lời:

0: Không bao giờ

1: Gần như không bao giờ (hiếm khi <1 ngày)

2: Đôi khi (Từ 1-2 ngày)

3: Khá thường xuyên (trung bình 3-4 ngày)

4: Rất thường xuyên (hầu hết thời gian từ 5-7 ngày)

STT Trong tháng trước Đôi khi Không bao giờ Khá thường xuyên Rất thường xuyên Gần như không bao giờ

1 0 1 2 3 4

Bạn thường cảm thấy lo lắng, bối rối về thứ gì đó đã diễn ra không như mong đợi?

2 0 1 2 3 4

Bạn thường cảm thấy không đủ khả năng kiểm thứ quan soát những trọng trong cuộc sống của bạn?

3 1 2 3 4 0 Bạn thường cảm thấy lo sợ, bất an và căng thẳng?

4 1 2 3 4 0

Bạn thường cảm thấy tự tin về năng lực giải quyết các vấn đề cá nhân mình?

5 0 1 2 3 4

Bạn thường cảm thấy mọi thứ đang đi theo cách của bạn?

6 0 1 2 3 4

Bạn thường thấy rằng bạn không thể ứng phó được với tất cả những thứ mà bạn phải làm?

7 0 1 2 3 4

Bạn thường có khả năng kiểm soát những sự cáu kỉnh, khó chịu trong cuộc sống?

8 0 1 2 3 4

Bạn thường cảm thấy mình đang ở trên đỉnh cao?

9 0 1 2 3 4

Bạn thường bị chọc giận bởi những thứ diễn ra nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn?

10 0 1 2 3 4

Bạn thường cảm thấy những khó khăn chồng cao đến mức bạn không thể vượt qua chúng?

Xin chân thành cảm ơn em! Chúc em thành công với những dự định sắp tới.