
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Nieân khoaù 2005-2006
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Thu thueá taïi caùc nöôùc ñang phaùt trieån
ch. 36 Caûi thieän söï tuaân thuû thueá
R. M. Bird & O. Oldman 1 Bieân dòch: Kim Chi
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh
CẢI THIỆN SỰ TUÂN THỦ THUẾ
Chương 36, cuốn Thuế ở các nước đang phát triển,
do Richard M. Bird và Oliver Oldman biên soạn.
Ấn bản lần 4, Baltimo: Nxb Johns Hopkins phát hành năm 1990
Trốn thuế không chỉ là vấn đề hạn chế trong một số ít quốc gia kém phát triển.
Một khảo sát gần đây của Richupan (1984a) nghiên cứu về vấn đề trốn thuế tại một số
nước đang phát triển cho thấy tình trạng chỉ thu được một nửa hay ít hơn số thuế thu nhập
tiềm năng không phải là tình trạng cá biệt (đọc thêm trong tài liệu của Richupan, 1984;
Acharya và các cộng sự, 1986; Bahl và Murray, 1985; Virmani, 1987. Có thể tìm đọc một
nghiên cứu điều tra trước đó trong tài liệu của Herschel, 1978.). tình trạng đối với thuế
gián thu (Rao và Pradahan, 1985; Viện Chính sách và Tài chính công, 1986; Bird, 1985)
hay thuế tài sản (Bahl và Linn, sắp xuất bản) cũng không khá hơn. Bất kỳ nơi nào có thuế,
nơi ấy có tình trạng trốn thuế.
Phải làm gì trước vấn đề này? Các chương kế tiếp sẽ cho thấy rằng ít nhất về
nguyên tắc, đối với thuế thu nhập có thể có rất nhiều việc phải thực hiện. Trước hết,
những người đóng thuế phải được định vị, hay đăng ký. Tại nhiều nước, người ta đã nghe
nhiều vấn đề vấn đề có vô số những người giàu có – các nhà buôn, các nhà chuyên môn
v.v… - lại hoàn toàn nằm ngoài phạm vi quản lý của thuế thu nhập. Tình trạng này là có
thật, như các điều tra nghiên cứu tại một số quốc gia cho thấy (ví dụ, nghiên cứu của Bahl
và Murrray, 1986). Vì thế, những chiến dịch mở rộng danh sách đóng thuế thường được
đề xướng, như trong chương tiếp theo. Mặt khác, các nghiên cứu còn cho thấy rằng vấn
đề trốn thuế của những người hoàn toàn không được hệ thống thuế biết đến thì ít hơn so
với những người nằm trong hệ thống thuế nhưng lại kê khai thu nhập một cách nhạo báng
(Musgrrave, 1981). Trong trường hợp này, biện pháp chế ngự không phải là tiếp tục bổ
sung thêm tên tuổi vào danh sách đóng thuế, mà đúng hơn là phải ra sức cải thiện sự tuân
thủ thuế của những người hiện đang là người đóng thuế danh nghĩa.
Thứ hai, cơ cấu khấu trừ thuế phải được hoàn thiện và triển khai một cách thích
hợp (Bird, 1983); DeGraw và Oldman, 1985). Thứ ba, cơ cấu xử phạt thích đáng phải
được xây dựng và áp dụng (tìm đọc tài liệu của Oldman, 1965). Thứ tư, đầu tiên nên soạn
thảo luật để có thể áp dụng và cưỡng chế thi hành một cách thỏa đáng (Bird, 1989a). Và
cuối cùng, phải thiết lập, và triển khai các quy trình kiểm toán một cách thích hợp.
Những điều nói trên có thể được áp dụng một cách tương tự đối với bất kỳ loại
thuế nào được tính trên cơ sở kế toán, kể cả thuế giá trị gia tăng. Khác biệt đáng kể nhất
giữa thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập, trên phương diện này, là: thứ nhất, về cơ bản
thuế giá trị gia tăng được thu hoàn toàn bằng cách khấu trừ, và thứ hai, hầu hết những
người đóng thuế giá trị gia tăng đều nghĩ rằng có một người nào khác mới là người đóng
thuế thực sự.
Không có biện pháp nào để có thể nhanh chóng đạt đến việc quản lý thuế tốt. Các
cải tiến về thuế như những ân xá thường không mang lại lợi ích cho các nước đang phát
triển ở mức độ mà lý ra nó có thể. Gần đây người ta trở lại chú trọng đến công cụ cũ rích