intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kỹ thuật canh tác gừng cây gừng

Chia sẻ: Nguyen Minh Anh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

177
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Gừng cùng với các loài cây lương thực, thực phẩm, dược liệu khác được trồng xen dưới tán rừng, đảm bảo cuộc sống để trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng gỗ lớn, gỗ quí có thời gian kinh doanh dài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kỹ thuật canh tác gừng cây gừng

  1. Kỹ thuật trồng cây gừng Tên khoa học: Zingiber officinale Rose. Họ: Gừng (Zingiberaceae) Gừng cùng với các loài cây lương thực, thực phẩm, dược liệu khác được trồng xen dưới tán rừng, đảm bảo cuộc sống để trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng gỗ lớn, gỗ quí có thời gian kinh doanh dài. Trồng gừng và các loài cây khác xen với cây rừng tạo thành một tầng thảm tuơi duới tán rừng có tác dụng chống xói mòn bảo vệ đất và giữ độ ẩm cho đất. Trồng cây rừng xen với gừng, hạn chế cỏ dại, kết hợp chăm sóc cay gừng hàng năm chăm sóc luôn cây rừng đã giảm bớt công chăm sóc rừng trồn hàng năm 50 – 80 công/ha. Cây gừng ít bị thú rừng và trâu bò phá hại, cho thu hoạch tương đối ổn định, ít phụ thuộc vào thời tiết. CÁC LOẠI GỪNG Trong sản xuất và trong tự nhiên ở nước ta phổ biến có 3 loài: * Gừng dại (Zingiber cassumuar) củ khá to, nhiều xơ, vị cay, nhiều mùi hăng, thịt củ màu vàng xanh được dùng làm thuốc, gia vị, thường mọc hoang dại trong tự nhiên. * Gừng gió (Zingiber Zerumbet) ít được gây trồng, củ chỉ dùng làm dược liệu. * Loài gừng trồng phổ biến (Zingiber officinale) trong sản xuất có hai giống khác nhau: * Gừng trâu, củ to, ít xơ, ít cay, thích hợp cho xuất khẩu. * Gừng dé được gây trồng phổ biến, cho củ nhỏ hơn, vị cay và nhiều xơ hơn, hiện nay đang được bán nhiều ở thị trường trong nước. ĐẶC ĐIỂM Hình thái:
  2. Gừng là cây thân thảo, sống lâu nưm, cao 0,6 – 1m. Lá màu xanh đậm dài 15 – 20cm, rộng khoange 2cm, mặt nhẵn bong, gân ở lá hơi nhạt, lá mọc so le, thẳng đứng, có bẹ lá, không có cuống. Độ che phủ mặt đất của tán lá không cao lắm. Thân ngầm phìng to chứa các chất dinh dưỡng gọi là củ xung quanh củ có các rễ tơ. Rễ và củ chỉ phát triển tập trung ở lớp đất mặt, sâu 0 – 15cm. Cây gừng ít khi ra hoa, trục hoa mọc từ gốc dài tới 15 – 20cm. Hoa dài tới 5cm, rộng 2 – 3cm, màu vàng xanh, có 3 cánh hoa dài khoảng 2cm, mép cánh hoa và nhị hoa mùa tóm. Số luợng chồi nằm ở củ gừng không nhiều, là nguồn giống duy nhất hiện nay để trồng rừng. Phân bố: Ở Việt Nam cây gừng (Zingiber officinale) được trồng khá phổ biến từ Bắc (tỉnh Lạng Sơn) vào Nam (Cà Mau tỉnh Minh Hải). Nhưng chủ yếu được trồng với quy mô nhỏ, trong các hộ gia đình với sản lượng chưa nhiều, cung cấp cho thị trường địa phương và trong nước là chính. Sinh thái, sinh lý: Cây gừng được trồng phổ biến ở các vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, nhiệt độ trung bình hàng năm 21 – 270C, lượng mưa hàng năm 1.500 – 2.500mm. Cây gừng được trồng ở nơi có độ cao trên mặt nước biển từ vài mét tới 1.500m. Tại các vùng núi cao hơn 1.500, khí hậu lạnh, nhiều sương giá thì không nên trồng gừng. Cây gừng thích hợp ở vùng có một mùa khô ngắn, có nhiệt độ không khí tương đối cao trong thời kỳ củ gừng thành thục. Vì vậy, khí hậu ở nhiều địa phương miền Nam nước ta thích hợp cho trồng gừng. Cây gừng cần đất tương đối tốt, tầng đất dày, tơi xốp, ít đá lẫn, khả năng giữ nước lớn nhưng thoát nước tốt, có độ ẩm đầy đủ trong suốt thời gian cây sinh trưởng, tốt nhất là đất thịt, không ưa đất cát và đất sét. Đất có hàm lượng mùn cao rất thích hợp cho trồng
  3. gừng. Đất trồng gừng có pH = 4 – 5,5 nhưng thích hợp nhất là 5,5 – 7. Ở nước ta có 2 loại đất vùng đồi, núi trồng gừng có năng suất cao và chất lượng tốt là đất đỏ trên sản phẩm phong hoá từ đá vôi nừm ở chân núi đá vôi cà đất nung đỏ trên badan, poocphia và các loại đá mác ma trung tính và kiềm. Gừng là loài cây ưa sáng nhưng có khả năng chịu bóng. Cây gừng cũng sinh trưởng tương đối tốt dưới tán che của các vườn cây ăn quả và một số loại rừng trồng. Tuy nhiên, dưới độ tán che 0,7 – 0,8 của các rừng gỗ tự nhiên, cây gừng trồng cho năng suất củ chỉ bằng ½ năng suất trồng ở nơi ánh sáng hoàn toàn trên cùng một loại đất. Vì cây gừng có biên độ rộng về nhu cầu ánh sáng nên nó có vị trí quan trọng trong phương thức lâm nông kết hợp. Gừng là loài cây ưa ẩm nhưng không chịu úng nước. Gừng có nhu cầu N, P, K tương đối cao, trong đó, nhu cầu về N nhiều nhất, sau đó K và P. Vì vậy, muốn đạt năng suất cao phải trồng gừng trên đất tốt, nếu trồng trên đất xấu phải bón phân. Ngoài các phương thức trồng gừng dưới tán các loài cây ăn quả đang được áp dụng phổ biến như mơ + gừng, mận tam hoa + gừng…, cần phát triển trồng gừng xen các cây lâm nghiệp (lát hoa, tếch, trẩu, xoan…) kể cả trong giai đoạn rừng trồng đã khép tán (độ tán che 0,6-0,7). KỸ THUẬT CANH TÁC: Quy trình này được xây dựng phù hợp cho phương pháp trồng chuyên trên ruộng/rẫy có nắng trảng. 2.1.Thời vụ: Ở miền Nam, vụ chính trồng gừng là vào đầu mùa mưa (tháng 4 -5 hàng năm); trong khi, ở miền Bắc là vào mùa Xuân (có mưa phùn và ẩm độ không khí khá cao).
  4. 2.2.Chuẩn bị giống: Chọn giống: các giống được trồng nhiều hiện nay là gừng Trâu hay gừng Dé (giống địa phương), gừng Lai (Tiền Giang), gừng Tàu (nhập nội) và đặc biệt là giống gừng Nồi (trồng nhiều ở Long An) được đánh giá là có triển vọng (giống đã được Trung tâm ƯDTB KH&CN An Giang trồng khảo nghiệm tại xã Hội An -huyện Chợ Mới năm 2005; năng suất cao gấp đôi giống gừng Lai ở thời điểm sau 4 tháng trồng, ít nhiễm bệnh thối củ và cháy lá). Chuẩn bị giống: gừng giống có thể lấy ngay sau khi thu hoạch hoặc sau khi được bảo quản trong một thời gian ngắn, với lượng cần chuẩn bị là 300 kg/1.000 m2 đất trảng nắng. Chọn củ gừng già (gừng cựu, phần thân chính của dánh gừng hoặc gừng từ đủ 9 tháng tuổi trở lên), bẻ hoặc cắt các đoạn củ (ánh) dài 2,5 -5 cm, trên mỗi ánh phải có ít nhất 1 mắt mầm (chồi ngủ). Giống cần được xử lí với các loại thuốc gốc đồng, Score, Phatox, Validacine,..để phòng và diệt nấm bệnh. Sau đó tiến hành trồng ngay để đảm bảo khả năng nảy mầm; hoặc có thể ủ giống cho lên chồi rồi mới trồng, cách này sẽ tiết kiệm công trồng dặm về sau. 2.3.Chuẩn bị đất: Đất trồng nên được vệ sinh, dọn sạch tàn dư, cày sâu ít nhất là 20 cm và bừa cẩn thận cho tơi xốp; sau đó tiến hành bón lót phân, chế phẩm sinh học,.. rồi lên luống cao 10 -20 cm, mặt luống rộng 40 -50 cm (trồng 2 hàng/luống), sang phẳng mặt luống và đào rãnh thoát nước. Đối với phương pháp trồng trong túi/bầu thì công đoạn chuẩn bị đất cũng được tiến hành tương tự, nhưng đất sẽ được cho vào túi/bầu với lượng thích hợp (thông thường, túi/bầu có đường kính 40 -50 cm). 2.4.Mật độ và kỹ thuật trồng: Trên mỗi luống trồng thành 2 hàng so le nhau (kiểu nanh sấu), với hàng cách hàng 40 -50 cm và cây cách cây 30 -40 cm (đất xấu trồng dày, đất tốt trồng thưa). Đặt giống (đã chuẩn bị trước) sâu 5 -7 cm, mắt mầm/chồi hướng lên hoặc hướng ngang (có nhiều mắt
  5. mầm/chồi), lấy đất mịn phủ lên rồi ấn chặt tay để đất tiếp xúc tốt với củ, sau đó phủ đất mịn cho bằng mặt luống. Đối với phương pháp trồng trong túi/bầu thì trồng với mật độ thưa hơn vì cây được chăm sóc dễ dàng hơn. 2.5.Chăm sóc: Nếu trồng bằng ánh chưa nảy mầm thì sau 15 -20 ngày, củ sẽ bắt đầu đâm chồi và xuất hiện lá non. 2.5.1.Tưới nước: Cần cung cấp đủ nước trong suốt quá trình sống cho cây theo nguyên tắc chung: gừng là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng nước. Tuy nhiên, trong quá trình trị bệnh (đặc biệt là bệnh thối củ) ở một số thời điểm nhất định thì việc cắt giảm nước tưới để hạn chế sự lây lan của dịch hại là cần thiết. 2.5.2.Làm cỏ, vun gốc: Tiến hành phun trừ hoặc làm cỏ dại bằng tay vào giai đoạn 25 -30 ngày sau khi trồng (NST), kết hợp với bón thúc đợt 1 và xới xáo, vun gốc cho cây. Trong các thngs sau, khi thấy cỏ dại mọc lấn át cây gừng thì phải làm sạch và tủ lại quanh gốc. Mặt khác, cần bảo quản tốt diện tích canh tác, không để các con vật cắn phá, dẫm đạp lên cây. Không để củ lộ khỏi mặt đất để đảm bảo phẩm chất và giá trị thương phẩm của gừng. 2.6.Bón phân: Tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng, thực trạng của cây và mục đích sử dụng, lưọng phân cần cho 1 ha: Bón lót 3 -5 tấn phân chuồng (nên kết hợp phân trùn và các loại phân khác) và các chế phẩm sinh học với lượng thích hợp;
  6. Bón thúc 100 -120 kg Urea + 150 -170 kg Super lân + 200 -220 kg Kali vào các thời điểm 25 -30, 90 -100 và 150 -160 NST. *Chú ý: ngoài các thời điểm bón phân nêu trên, nếu thấy lá gừng bị vàng do thiếu đạm thì có thể tiến hành bón qua lá bằng cách phun với lượng 10g Urea/bình 10 lít nước. 2.7.Phòng trừ sâu bệnh: Một số sâu bệnh phổ biến thường gặp trên gừng 2.7.1.Sâu hại: Sâu đục thân thường xuất hiện vào đầu mùa mưa. Sâu đục vào bên trong và ăn phần non, nếu bộc phát mạnh sẽ làm giảm đáng kể năng suất gừng. Phòng trị: Sử dụng các loại thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn như: Basudin, Regent, Furadan, Kinalux,… *Chú ý: Khi thấy bướm sâu đục thân xuất hiện hoặc sâu ở tuổi 1 -2 thì tiến hành phun thuốc diệt ngay, nếu chậm trễ, khó phòng trị kịp thời. 2.7.2.Bệnh hại: 2.7.2.1.Bệnh cháy lá: Bệnh do nấm Fusarium gây nên, thường vết bệnh xuất hiện trên chóp lá và cháy từ chóp vào hoặc có những vết cháy hình tròn hoặc bầu dục trên lá. Nếu bệnh phát triển mạnh, nấm tấn công vào nách lá, xuống củ làm chết cả cây. Phòng trị: Sử dụng các loại thuốc Appencard, Bavistin, Carbenzim, Score,.. 2.7.2.2.Bệnh thối củ: Thối xanh: Bệnh do vi khuẩn lưu tồn trong đất, nước, củ và thân cây gừng bị bệnh gây và lây lan rất nhanh qua vết thương do cơ học hoặc côn trùng gây ra. Gừng đang xanh bỗng héo đột ngột vào giữa trưa, có tươi lại vào lúc chiều mát và chết rất nhanh; thân bị nhũn nước,
  7. tách rời củ và có màu sậm; khi nhổ lên, đỉnh sinh trưởng có nước màu đục và có mùi hôi đặc trưng. Phòng trừ: do đặc điểm bệnh rất khó trị, lây lan nhanh nên và gây tổn thất lớn nên phòng bệnh là vấn đề cần thiết và bắt buộc. Cần tiến hành thực hiện các biện pháp sau: Ngay sau thu hoạch vụ trước (đối với đất trồng chuyên) hoặc trước khi tiến hành xuống giống, cần vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy thân cây dư thừa (nguồn lưu tồn bệnh); Tránh để cây bệnh gần hoặc vứt xuống nguồn nưới tưới để tránh lây lan, bố trí canh tác ở chân đất không bị ngập úng; Bón lót phân hữu cơ, chế phẩm sinh học Tricô (trong thuốc vi sinh Tricô có chứa nấm Trichoderma, khi xử lý thuốc để phòng bệnh cho cây trồng thì nấm này cần thời gian để thích hợp với môi trường trong đất và nhân mật số lên nhiều hơn thì sau đó mới có tác dụng đối kháng với mầm bệnh trong đất); Bón lót vôi với liều lượng 50 -100 kg/1.000 m2 để xử lí đất; Xử lí giống bằng các loại thuốc gốc đồng, Score, Phatox với liều lượng thích hợp để diệt mầm bệnh; Khi thấy gừng có triệu chứng xoắn lá thì tiến hành phun các loại thuốc Kasuran, Kasumin, Starner,..kết hợp với một số thuốc đặc trị các loại rầy mềm, rệp sáp tấn công như Diazan, Supracide,.. Luân cây trồng hợp lý để cắt nguồn bệnh lưu tồn. Thối vàng: Bệnh do nấm Fusarium tấn công vào củ, xuất hiện trong điều kiện ẩm ướt kéo dài. Bệnh có triệu chứng vàng lá, sau đó rụng và chết tương đối chậm; trên củ có vết màu nâu, phần củ nhăn nheo và tốp lại có phủ lớp tơ màu trắng. Phòng trị: Xử lí đất và giống trước khi trồng, sử dụng các loại thuốc Appencard, Carban, Carbenzim, Ridomyl, Score,.. 2.8.Thu hoạch và tồn trữ:
  8. Tuỳ vào mục đích sử dụng, có thể thu hoạch gừng từ 4 tháng trồng trở đi. Gừng để làm giống thì phải thu hoạch sau 9 tháng. Cẩn thận dùng cuốc để thu hoạch gừng để tránh làm xây xác củ (làm giảm giá trị thương phẩm và khó bảo quản); sau đó nhổ cả bụi, rũ sạch đất, chất thành khóm và tiến hành cắt lấy củ. Gừng cần được bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát (tương tự như bảo quản các loại cây thân củ và rễ củ khác). Các củ giống được đặt vào thùng, chậu hoặc trải đều trên sàn nhà, ở dưới và trên mỗi lớp củ được phủ bằng một lớp đất mịn, khô, dày 1 -2 cm. Trong qúa trình tồn trữ và bảo quản, có thể sử dụng một số hoá chất đặc hiệu để phòng ngừa côn trùng cắn phá.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2