KỸ THUẬT TRỒNG CÂY SỞ

I. Yêu cầu đất đai, khí hậu

1. Yêu cầu đất đai:

Sở là cây thuộc họ chè, cao 4-6m, sống lâu, có thể hàng trăm năm. Cây lớn,

ưa sáng, tái sinh chồi mạnh. ở nước ta sở mọc nhiều ở các tỉnh trung du, miền núi

phía Bắc. Sở tái sinh bằng hạt và tái sinh bằng chồi rất tốt. Những cây sở già cỗi

người ta có thể chặt sát gốc, cây lại nảy chồi, chăm sóc tốt vẫn cho ra quả.

- Độ dốc: dưới 200.

- Độ cao: dưới 800m là thích hợp nhất.

- Vĩ độ: từ 170 Bắc trở ra.

- Loại đất: Yêu cầu về đất đai không cao lắm, vì nó là loài cây có tính thích

ứng lớn. Nhưng để sở có sản lượng hoa quả nhiều thì cần chọn nơi đất tốt, tầng đất

dày 50cm trở lên. Sở được trồng trên các loại đất feralit, trên các vùng đồi núi thấp

trung du và duyên hải, đất đỏ bazan, vùng đất cát cố định không đọng nước, song

tốt nhất là trên đất rừng mới khai phá có tầng đất sâu, tương đối giàu dinh dưỡng,

tơi xốp, thoát nước hoặc trên sườn núi thoải hoặc trên đất cát pha.

- Độ PH đất: Ưa đất hơi chua (pH: 4,5-5,0). Nơi đất kiềm sở không mọc

được.

2. Khí hậu thời tiết:

Cây Sở phù hợp với hầu hết các vùng khí hậu của miền Bắc Việt Nam, có

thể chịu đựng được sương giá ở các tỉnh biên giới phía Bắc hoặc khí hậu nắng nóng

ở các tỉnh miền Trung.

+ Nhiệt độ bình quân năm: 20-230C.

+ Nhiệt độ tối đa: 37-380C.

+ Nhiệt độ tối đa thấp: 10C.

+ Độ ẩm bình quân: 74-85%.

+ Lượng mưa bình quân năm: 1.500-2.000mm.

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -1

2. Kỹ thuật gây trồng

a. Chọn giống:

Sở có rất nhiều chủng khác nhau cho nên trước khi trồng cần chọn chủng sai

quả. Có 2 loại sở là sở chè và sở vả (sở lã). Sở chè lá nhỏ, cành lá rậm rạp, sai quả

nhưng quả nhỏ, tỷ lệ dầu ít nhưng sai quả nên sản lượng lại cao. Còn sở vả lá to,

cành lá thưa hơn, quả to nhưng ít, tỷ lệ dầu cao song ít quả nên sản lượng thường

thấp. ở Nghĩa Đàn (Nghệ An) đã trồng sở được gần 20 năm. Kinh nghiệm cho thấy

khoảng 8kg hạt khô đem ép cho 1 lít dầu.

Sau khi trồng được 7-8 năm thì sở ra hoa, kết quả. Lấy quả làm giống nên

chọn những cây mẹ khỏe mạnh, từ 15 tuổi trở lên, cây sai quả để lấy giống. Sở ra

hoa tháng 10-11, quả chín vào tháng 9-10 năm sau. Khi quả chín vỏ quả từ màu

xanh chuyển sang màu vàng hoặc vàng xám là thu hái được. Quả lấy về đem hong

ở nơi thoáng gió 4-5 ngày quả sẽ tự tách để hạt rơi ra ngoài rồi thu lấy hạt. Cũng có

thể phơi quả dưới nắng nhẹ vào sáng sớm để quả chóng tách hạt, thu hoạch xong có

thể đem gieo ngay hoặc cất trữ.

Hạt sở được cất ẩm bằng cách trộn hạt với cát ẩm cất trong hàm ếch đào vào

sườn đồi khuất nắng; hoặc có thể trộn hạt + cát để dưới mái che nơi thoáng gió.

Hàng tuần cần kiểm tra giữ cho đống hạt không tăng nhiệt độ, cần đảo hạt thay cát,

phun nước giữ ẩm. Loại bỏ những hạt bị mốc, bị thối.

b. Thời vụ trồng:

+ Nếu gieo hạt thẳng thì có thể gieo vào vụ Đông tháng 11-12 hoặc vụ đầu

Xuân tháng 1-2.

+ Nếu trồng bằng cây con thì nên trồng vào đầu xuân.

+ Nếu trồng sở bằng cây con thì phải làm vườn ươm. Có thể gieo vào bầu,

thành phần ruột bầu gồm 90% đất đồi, 10% phân chuồng hoai, mỗi bầu gieo 1 hạt.

Cần bón thúc vào tháng 5 và tháng 7.

+ Nếu không gieo vào bầu thì cần chọn vườn ươm nơi đất thịt hoặc thịt nhẹ,

đất tốt, làm đất kỹ, bón lót đầy đủ 5kg phân chuồng cho 1m2, gieo hạt theo hàng

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -2

với cự ly 25-30cm, gieo xong lấp đất dày 2-3cm, trên rạch gieo phủ rơm rạ để giữ

ẩm.

Chăm sóc ở vườn ươm tương tự như những cây khác, cây ở vườn ươm

thường được nuôi một năm.

c. Khoảng cách:

Sở có thể trồng bằng cách gieo thẳng hạt ngoài đồi. Hố đào 40 x 40 x 40cm,

mỗi hố gieo 3-4 hạt, lấp đất nhỏ dày khoảng 3cm-4cm. Sau khoảng 2 tháng hạt mới

nảy mầm.

d. Mật độ trồng:

Mật độ có thể thay đổi từ 500 cây-1100 cây/ha tùy theo có canh tác nông lâm

kết hợp hay không.

II. Chọn cây mẹ, thu hạt, gieo ươm tạo cây con

1. Chọn cây mẹ lấy giống

Cây mẹ lấy giống (hạt và hom cành) phải ở độ tuổi từ 15 tuổi trở lên khi cây

đã cho sản lượng quả ổn định. Cây khoẻ mạnh, tán lá phát triển cân đối, không bị

sâu bệnh, sai quả, sản lượng dầu ép từ hạt cao và ổn định trong nhiều năm. Khi có

điều kiện tính tổng trọng lượng quả và hạt và phân tích hàm lượng dầu, cây mẹ

được chọn lấyn giống phải đạt sản lượng tối thiểu là 0,5kg dầu.

Khi chọn cây trội để lấy giống và rừng giống, cần tuân thủ nghiêm ngặt các

quy định đã được ban hành trong Quy phạm kỹ thuật xây dựng rừng giống và vườn

giống (QPN 15-93) và Quy phạm kỹ thuật xây dựng rừng giống chuyển hoá (QPN

16-93).

Giống vùng nào nên ưu tiên thu hái và gây trồng tại vùng đó. Cần khảo

nghiệm giống mới trước khi đưa vào trồng đại trà.

2. Thu hái hạt giống

Quả gần chín vào tháng 10-11 nên cần thu hái vào dịp sương giá khi hạt chín

rộ, bóc vỏ quả thấy vỏ hạt có màu đen. Đem ủ quả vào chỗ râm mát cho hạt tách

khỏi quả. Tránh phơi quả và hạt trức tiếp dưới ánh nắng mặt tròi vì hạt chứa dầu

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -3

làm mất sức nảy mầm.

Hạt có thể được gieo ngaysau khia thu hái. Trước khi gieo cần chọn các hạt

chắc, mẩy và ngâm vào nước lạnh, vớt những hạt chìm dưới nước để đen gieo. Mỗi

kg hạt trung bình có 500 hạt và thông thường số hạt biến động từ 330 hạt đến 1000

hạt/kg.

Trong trường hợp chưa có điều kiện gieo ngay sau khi thu hái, hạt Sở cũng

có thể được trộn với tỷ lệ cát ẩm (tỷ lệ 1:1) để bảo quản tạm thời sang tháng 1 năm

sau (mùa xuân), khi hạt bắt đầu nứt nanh trằng thì đem gieo.

3. Gieo ươm, tạo cây con:

Để tạo cây con trong túi bầu tại vườn ươm cần thực hiện các công việc sau:

– Chọn nơi đất bằng phẳng, gần nguồn nước tưới làm vườn ươm.

– Luống gieo hạt thường rộng 1m, dài 5-10m; được che bóng nhẹ (độ tàn che

khoảng 0,3-0,4) vào mùa hè.

– Bầu có kích thước 6 x 12 hoặc 8 x 18cm. Thành phần ruột bầu gồm:

* 90% đất đã được làm tơi nhỏ.

* 8-9% phân chuồng hoai.

* 1-2% super lân.

– Hạt được giải đều trên luống, được phủ một lớp đất mặt dày 0,5-1cm và

một lớp rơm rạ mỏng. Hạt được tưới ẩm thường xuyên, 2 lần/ngày vào sáng sớm và

chiều tối. Sau 1-2 tháng, hạt nảy mầm được cấy vào bầu. Cứ 2 hàng bầu cần dùng 1

hàng ràng ràng để che bóng.

– Cây con 1 năm tuổi là có thể đem trồng. Cây tiêu chuẩn đạt chiều cao 30-

40cm. Loại bỏ những cây cụt ngọn, cây cong queo sâu bệnh.

Nhân giống Sở bằng hom cành

4. Thời vụ giâm hom, tiêu chuẩn cành hom

Sở có thể trồng được bằng cây hom và hom cành Sở cho tỷ lệ ra rễ cao. Chỉ

thực hiện giâm hom trong những tháng từ cuối xuân tới đầu thu, tức là từ tháng 4

đến tháng 9 và tốt nhất là vào các tháng 4,5,6,7 đối với các tỉnh vùng núi phía Bắc.

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -4

Hom cành phải được lấy từ cây mẹ đủ tiêu chuẩn, lấy vào cuối giai đoạn sinh

trưởng khi lá đã có màu xanh thẫm, song không quá già. Sử dụng cả hom đầu cành

và hom chồi vượt.

Dùng dao sắc hay kéo cắt phần cành có sức sống tốt, vươn ra phía ánh sáng,

cắt vào sáng sớm và sử dụng ngay trong ngày. Hom được cắt với chiều di 7-12cm,

mỗi hom giữ lại 2-3 lá. Nếu lá to thì cắt từ 1/3 đến 1/2 mặt lá để giảm thoát hơi

nước. Loại bỏ các hom quá non, quá to ruột rỗng xốp. Cành được tưới nước khi vạn

chuyển, hom được tưới nước và để vào nơi râm mát trưoiức khi xử lý và giâm.

5. Xử lý thuốc

* Pha thuốc

Các chất kích thích ra rễ phải được hoà tan vào trong cồn (10mg thuốc cần 5-

10 giọt cồn 960) hoặc bằng rượu trắng 400 (10mg thuốc cần 20-25 giọt rượu). Sau

khi thuốc tan, đo một lượng nước cần thiết đổ vào cốc thuỷ tinh có chứa thuốc hoà

tan, khuấy đều để có đúng nồng độ cần thiết.

Đối với ANA, 150mg thuốc được pha trong 1 lít nước cất, thời gian xử lý

hom 4 giờ vào các tháng 5-6, hoặc 150mg pha trong 1 lít nước, xử lý 4-8 giờ vào

các tháng 7-8.

Đối với AIA, 50mg thuốc pha trong 1 lít nước, thời gian xử lý 4 giờ.

Không nên sử dụng 2,4-D để xử lý ra rễ cho hom cành.

* Xử lý hom

Dung dịch thuốc đã pha đúng nồng độ được đựng vào các cốc thuỷ tinh hoặc

chậu sành. Phần gốc của hom được cắm sâu 1-1,5cm vào dung dịch thuốc đã pha

sẵn. Hom cành được ngâm trong thuốc ở nơi râm mát theo đúng thời gian quy định.

6. Giâm hom

Sau thời gian ngâm xử lý, hom được cắm vào giá thể cát hoặc túi bầu đất.

Hom cắm ngập vào giá thể từ 1/4 đến 1/3 chiều dài. Giá thể có thể là cát mịn trải

thành luống giâm hom hoặc đất đỏ tầng B, đất rừng tơi xốp thoát nước tốt, đất phù

sa v.v. được đóng vào túi bầu PE. Các túi bầu được xếp thành hàng trong nhà giâm

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -5

hom, hàng cách hàng 5-6cm.

Cần phun mù nhiều lần trong ngày với thời gian ngắn. Ngày nắng thường 30-

60 phút phun một lần. Không để cho hom và giá thể bị khô hoặc bị úng nước, hom

bị thối. Nước tưới phải là nước giếng trong và sạch. Bảo đảm đủ ánh sáng và

thoáng khí cho nhà giâm hom.

Nếu giâm vào mùa hè, sau 2 tháng hom đã ra rễ và có thể cấy vào bầu mới

hoặc để nguyên bầu cho luyện hom. Nếu vào mùa thu, phải sau 3 tháng hom mới ra

rễ.

* Luyện hom

Nếu cây hom được cấy vào bầu mới, cần tưới giảm dần trong thời gian 20

ngày, sau đó đưa cây ra vườn ươm có giàn che. Nếu cây hom được giữ nguyên

trong bầu giâm hom, chỉ cần giảm tưới trong 2 tuần rồi đưa ra vườn ươm có giàn

che.

Giảm dần lượt tưới và giảm dàn che cho cây hom trong vòng 10-20 ngày cho

tới khi chỉ cần tưới 1 lần 1 ngày, Gặp thời vụ, cây hom có thể đem trồng.

III. Trồng rừng

1. Phương thức trồng rừng

Cây Sở có thể được trồng theo các phương thức sau đây:

– Trồng thuần loại.

– Trồng theo băng kết hợp với cây lâm nghiệp khác theo đường đồng mức:

băng Sở gồm 15-20 hàng Sở, băng cây lâm nghiệp gồm 2-3 hàng cây.

– Trên các dạng đất và địa hình cho phép, có thể trồng xen cây nông nghiệp

trong 2-3 năm đầu. Trên đất xấu có thể gieo cốt khí (10kg hạt/ha) để che phủ đất.

– Đỉnh đồi cao có thể trồng xen cây lâm nghiệp; phần sườn đồi và chân đồi

trồng Sở.

2. Xử lý thực bì, làm đất cuốc hố

Sở có thể được trồng bằng phương thức gieo hạt thẳng, trồng bằng cây con

và cây hom. Các nguyên tắc cơ bản về xử lý thực bì, làm đất vuốc hố là:

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -6

– Tuỳ theo dạng thực bì mà áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp: với dạng

thực bì thưa, cây bụi thấp không có khả năng chèn ép cây con thì để nguyên không

cần xử lý; Thực bì cao, dày thì nên phát dọn rồi đốt.

– Cuốc hố dọc đường đồng mức, theo hình nanh sấu.

– Kích thước hốc: 30 x 30 x 30cm.

– Lấp hố trước khi trồng 20-30 ngày bằng lớp đất mặt.

– Nếu làm đất bằng cơ giới thì có thể áp dụng cày toàn diện, cày theo băng,

san bậc thang hoặc cày ngầm tuỳ theo điều kiện.

– Nên thực hiện bón lót 2-3kg phân chuồng hoặc 100g NPK hoặc 500g phân

vi sinh cho mỗi hố.

– Mật độ trồng: 1100 cây (hoặc hố gieo)/ha (cự ly 3x3m).

4. Trồng bằng phương pháp gieo hạt thẳng

– Mỗi hố gieo từ 2 đến 3 hạt, đặt hạt vào giữa hố, hạt nọ cách hạt kia từ 3-

5cm, sau đó lấp một đất mịn phủ lên hạt với chiều dày 2-3cm.

– Sau một tháng phải kiểm tra hạt nảy mầm và dặm thêm nếu cần thiết.

– Sau 2-3 năm, cần tiến hành tỉa bỏ các cây xấu, cây sinh trưởng kém.

5. Trồng bằng cây con và cây hom

– Tiêu chuẩn cây con: cao 30-40cm, không cong queo sâu bệnh, không cụt

ngọn.

– Tiêu chuẩn cây hom: đã ra rễ và qua giai đoạn luyện hom ở vườn ươm.

– Cây được trồng vào những ngày trời mưa phùn (mùa xuân) hoặc đủ mưa

(mùa hè) ở các tỉnh phía Bắc hoặc mùa thu ở các tỉnh phía Bắc Trung bộ.

6. Chăm sóc bảo vệ

Thực hiện chăm sóc trong 4 năm đầu như sau:

– Năm thứ nhất: Cần tra dặm hạt (nếu là gieo hạt thẳng) hoặc cây con cho

các hố đã trồng. Tiền hành làm cỏ, vun gốc rộng 0,5m.

– Năm thứ 2,3 và 4: dọn thực bì, vun gốc cho cây, đường kính vun 0,5-0,6m

cho năm thứ và 3, và 1m cho năm thứ 4.

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -7

– Bón thúc 3-5kg phân chuồng hoặc 100-200g NPK vào trước mùa mưa năm

thứ 3 cho mỗi hố trồng.

Bón thúc định kỳ, tỉa cành, tạo tán tròn đều cho cây trong những năm tiếp

theo.

Bảo vệ chống trâu bò phá hoại, đặc biệt là trong những năm đầu khi cây còn

nhỏ và sinh trưởng chậm. Chú ý phòng chống cháy rừng và sâu bệnh hại.

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam -8